

Đỗ Phủ tự Tử Mĩ, hiệu Thảo Đường, đời sau gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ Lăng Tẩu, Đỗ Công Bộ. Sống vào thời Thịnh Đường (713 – 766). Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại đã sa sút, bảy tuổi đã biết làm thơ, mười bốn tuổi đã thành nhà thơ trẻ nổi tiếng. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông được đánh giá ngang với Horace, Shakespeare, Hugo, Baudelaire..
1. Nguyệt Dạ
Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An
Hương vụ vân hoàn thấp
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thời ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?
*Hoàng Nguyên Chương dịch
+Chú thích: Theo tư liệu văn học, bài thơ trên được Đỗ Phủ sáng tác vào năm 756. Trong loạn An Lộc Sơn, ông bị bọn giặc này bắt giam ở Trường An trong khi vợ con còn ở Phu Châu.
*Dịch thơ: Đêm trăng
Đêm Phu Châu trăng sáng
Phòng khuê lẻ bóng nhìn
Cảm thương con gái nhỏ
Chưa biết nhớ Trường An
Sương hương chừng thấm tóc
Tay ngọc lạnh trăng tàn
Bao giờ chung rèm tựa
Trăng chiếu mừng lệ tan.
* Bản dịch khác của Tản Đà: Đêm Trăng
Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.
2. Khúc Giang:
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phỉ thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân.
*Dịch nghĩa: Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa rơi bay làm giảm bớt vẻ đẹp của xuân
Lúc gió thổi tung vạn cánh hoa đến mọi nơi cũng chính
Là lúc làm cho người buồn.
Hãy nhìn và cảm nhận hết hoa bay qua trong mắt.
Đừng nên chán vì xót thương nhiều, cứ để rượu thấm môi
Chim phỉ thúy còn làm tổ ở ngôi nhà trên sông.
Trong khi con kỳ lân lại nằm im nơi ngôi mộ bên vườn.
Suy cho cùng về lý lẽ của sự vật, ta nên hưởng thú vui.
Tại sao còn để phù danh trói buộc tấm thân này?
•Chú thích:
- Bài thơ này Đỗ Phủ sáng tác vào năm 758.
- Phỉ thúy: Chim trả, chim bói cá. Loại chim có lông rất đẹp, dùng làm đồ trang sức ở trên đầu.
- Kì lân: Là loại thú tưởng tượng, một trong bốn loại tứ linh. Người xưa gọi kì lân là giống thú nhân đức. Con đực gọi là kì, con cái gọi là lân. Khi có bậc vương giả, thánh minh ra đời là có lân xuất hiện.
- Phù danh: Danh nổi. Người xưa quan niệm công danh như mây nổi.
*Dịch thơ: Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa bay xuân kém tươi
Gió tung ngàn cánh để sầu người
Hãy nhìn cảm tận hoa trong mắt
Đừng xót thương nhiều rượu thấm môi
Chim thúy ven sông còn kết tổ
Kì lân bên mộ lặng im hơi
Suy cùng trời đất nên vui sống
Sao để phù danh buộc trói đời?
*Hoàng Nguyên Chương dịch
* Dịch âm: Lữ Dạ Thư Hoài
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu,
Tinh thùy bình dã khoát,
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ,
Quan ưng lão bệnh hưu.
Phiêu phiêu hà sở tự,
Thiên địa nhất sa âu.
*Dịch thơ: Nỗi lòng đêm tha hương.
Gió thổi nhẹ trên bờ cỏ nhỏ
Thuyền xuôi đêm qua vách núi đá cao
Sao rủ xuống đồng bằng rộng
Trăng chập chờn trong dòng chảy sông lớn
Danh hảo gì ở văn chương?
Ta thôi việc quan vì già yếu
Nơi ở còn trôi nổi, chưa biết chốn nào
Như cánh chim âu trên cát bị dạt trong trời đất.
*Hoàng Nguyên Chương dịch
*Bài thơ này đươc tác giả sáng tác vào năm 765
*Dịch thơ: Nỗi lòng đêm tha hương.
Bờ cỏ gió nhẹ lay
Thuyền xuôi đêm vách núi
Sao rủ xuống đồng bằng
Trăng nhồi trên sông lớn
Danh hảo gì văn chương?
Quan hưu vì già yếu
Chỗ ở còn lênh đênh
Chim âu trời đất dạt.
*Hoàng Nguyên Chương dịch.
Trích từ: Trang Thơ Hoàng Nguyên Chương.
1. Nguyệt Dạ
Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An
Hương vụ vân hoàn thấp
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thời ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?
*Hoàng Nguyên Chương dịch
+Chú thích: Theo tư liệu văn học, bài thơ trên được Đỗ Phủ sáng tác vào năm 756. Trong loạn An Lộc Sơn, ông bị bọn giặc này bắt giam ở Trường An trong khi vợ con còn ở Phu Châu.
*Dịch thơ: Đêm trăng
Đêm Phu Châu trăng sáng
Phòng khuê lẻ bóng nhìn
Cảm thương con gái nhỏ
Chưa biết nhớ Trường An
Sương hương chừng thấm tóc
Tay ngọc lạnh trăng tàn
Bao giờ chung rèm tựa
Trăng chiếu mừng lệ tan.
* Bản dịch khác của Tản Đà: Đêm Trăng
Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.
2. Khúc Giang:
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phỉ thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân.
*Dịch nghĩa: Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa rơi bay làm giảm bớt vẻ đẹp của xuân
Lúc gió thổi tung vạn cánh hoa đến mọi nơi cũng chính
Là lúc làm cho người buồn.
Hãy nhìn và cảm nhận hết hoa bay qua trong mắt.
Đừng nên chán vì xót thương nhiều, cứ để rượu thấm môi
Chim phỉ thúy còn làm tổ ở ngôi nhà trên sông.
Trong khi con kỳ lân lại nằm im nơi ngôi mộ bên vườn.
Suy cho cùng về lý lẽ của sự vật, ta nên hưởng thú vui.
Tại sao còn để phù danh trói buộc tấm thân này?
•Chú thích:
- Bài thơ này Đỗ Phủ sáng tác vào năm 758.
- Phỉ thúy: Chim trả, chim bói cá. Loại chim có lông rất đẹp, dùng làm đồ trang sức ở trên đầu.
- Kì lân: Là loại thú tưởng tượng, một trong bốn loại tứ linh. Người xưa gọi kì lân là giống thú nhân đức. Con đực gọi là kì, con cái gọi là lân. Khi có bậc vương giả, thánh minh ra đời là có lân xuất hiện.
- Phù danh: Danh nổi. Người xưa quan niệm công danh như mây nổi.
*Dịch thơ: Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa bay xuân kém tươi
Gió tung ngàn cánh để sầu người
Hãy nhìn cảm tận hoa trong mắt
Đừng xót thương nhiều rượu thấm môi
Chim thúy ven sông còn kết tổ
Kì lân bên mộ lặng im hơi
Suy cùng trời đất nên vui sống
Sao để phù danh buộc trói đời?
*Hoàng Nguyên Chương dịch
* Dịch âm: Lữ Dạ Thư Hoài
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu,
Tinh thùy bình dã khoát,
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ,
Quan ưng lão bệnh hưu.
Phiêu phiêu hà sở tự,
Thiên địa nhất sa âu.
*Dịch thơ: Nỗi lòng đêm tha hương.
Gió thổi nhẹ trên bờ cỏ nhỏ
Thuyền xuôi đêm qua vách núi đá cao
Sao rủ xuống đồng bằng rộng
Trăng chập chờn trong dòng chảy sông lớn
Danh hảo gì ở văn chương?
Ta thôi việc quan vì già yếu
Nơi ở còn trôi nổi, chưa biết chốn nào
Như cánh chim âu trên cát bị dạt trong trời đất.
*Hoàng Nguyên Chương dịch
*Bài thơ này đươc tác giả sáng tác vào năm 765
*Dịch thơ: Nỗi lòng đêm tha hương.
Bờ cỏ gió nhẹ lay
Thuyền xuôi đêm vách núi
Sao rủ xuống đồng bằng
Trăng nhồi trên sông lớn
Danh hảo gì văn chương?
Quan hưu vì già yếu
Chỗ ở còn lênh đênh
Chim âu trời đất dạt.
*Hoàng Nguyên Chương dịch.
Trích từ: Trang Thơ Hoàng Nguyên Chương.
Chỉnh sửa cuối: