Bạn được Phong Thiên mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
75 ❤︎ Bài viết: 5 Tìm chủ đề
643 1
Kiếm tiền
Iluttmab đã kiếm được 6430 đ
Có một Tố Hữu đã từng tự hỏi mình:

"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"​

Khi ấy-khi đã rời xa chốn thân thuộc hơn chục năm cuộc đời, chàng trai Hà Thành đã đau lòng và nhung nhớ, để rồi nhấc bút lên viết xuống mấy dòng thơ "Việt Bắc", viết về chốn cũ, viết cho những niềm nhớ, viết cho những bồn chồn lúc chia xa, viết về hào hùng và nam kham thuở thiếu thời. Và ở tám dòng đầu của đoạn trích Việt Bắc, tôi thấy cái nỗi lòng ấy là tha thiết và chân thật nhất:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..

Trong tám dòng thơ này, có tới hai nhân vật xuất hiện – "mình" với "ta". "Mình" là ai? "Ta" lại là ai? Phải chăng "mình" là chàng trai Hà Thành-người cất bước ra đi, rời xa chốn Việt Bắc thương mến. Còn "ta" là người ở lại, người đứng đây mòn mỏi ngóng nhìn "mình"? Âu cũng đều là Tố Hữu cả, nhưng biết nói sao khi lòng ông đang dằn xé bởi nỗi đau phân ly và nỗi nhung nhớ khôn tả. Ông đành tự cho mình một thân phận khác, để nhắc nhớ bản thân về mười lăm năm tuổi trẻ đẹp nhất của cuộc đời. Cũng như Hàn Mặc Tử từng có câu "Sao anh không về chơi thôn Vỹ?", lời mời mọc chính là cái cớ cho tâm hồn về với "chốn cũ hoàn nguyên", thì ở đây, Tố Hữu cũng đang cho mình không thôi nhung nhớ về cái nơi cao xa thăm thẳm kia.

Và ngay ở bốn câu mở đầu, lời người ở lại cất lên là hai câu hỏi đánh thẳng vào trái tim người ra đi "Mình về mình có nhớ", có nhớ hay không những "thiết tha mặn nồng", "nhìn cây" có "nhớ núi", "nhìn sông" có "nhớ nguồn"? Có những hay không những gắn bó thân thuộc, kề vai sát cánh, bên nhau từ hạ sang xuân? Hai câu hỏi trực tiếp với nhịp điệu vồn vã và giọng điệu tha thiết, người ở lại mở ra khung cảnh ỏ chiến khu Việt Bắc với mười lăm năm gắn bó mặn nồng, cùng gian lao, cùng hạnh phúc, cùng chí hướng, cùng chung mối thù, đồng thời cũng nhắc nhớ người ra đi về chính khung cảnh ấy.

Vậy người ra đi có đáp lại không? Không.

Nhưng người ra đi có nhớ không? Có.

Không bằng lời nói, song cử chỉ và mọi hành động đều cho ta thấy nội tâm hẳn đang dằng xé ấy. Như lòng dạ "bâng khuâng", bước đi "bồn chồn". Nào có ai hững hờ, có ai quên lãng mà nhập nhằng chẳng nỡ chia xa đâu? Dù là người lạ ở cùng vài ba hôm, thì khi người ta đi ta còn thấy hẫng hụt, huống hồ là người đã cạnh bên hơn năm ngàn ngày đêm trường kỳ kháng chiến. Cơ mà, dẫu nghe "tiếng ai tha thiết bên cồn" thì vẫn phải "áo chàm đưa buổi phân ly". Phải lên đường rồi, phải chia xa sau những thiết tha, lúc ấy có lẽ người ra đi đã chua xót và ngậm ngùi lắm. Bởi khi ấy, "cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Có những nỗi buồn không nói nổi thành lời, có vài nỗi chua xót không được đặt thành tên. Chỉ có thể hóa hết thành nỗi nhớ, gửi vào thơ, vào con chữ, mong chờ rằng giấy trắng sẽ thay mình lưu giữ chút tình con con ấy mãi mãi.

Với tôi, Việt Bắc có thể được xem là bài thơ mang đến cảm giác khác lạ nhất trong số các bài thơ của Tố Hữu. Vừa có chút "khô khan" của một nhà cách mạng, vừa có cái tình day dứt quấn quít của thi sĩ. Toàn bài thơ mang đến cảm giác chủ đạo là "nhẹ" nhưng "sắc". Tất cả đều hào hợp vừa đủ và trọn vẹn. Tất nhiên, tôi cực kỳ ấn tượng với tám dòng đầu của đoạn trích Việt Bắc mà tôi vừa nhắc đến.

Lấy phương thức như lời đối đáp tâm tình và xưng hô "mình-ta" hay thấy trong lối hát đối đáp giao duyên, Tố Hữu đã khắc họa ra khung cảnh chia xa ngậm ngùi một cách chân thất, lắng đọng mà cũng dầy day dứt. Ngoài ra, một số biện pháp nghệ thuật khác trong bài mang đậm tính dân tộc cũng góp phần tạo nên sức hút cho đoạn thơ như thể thơ lục bát truyền thống và ngôn ngữ giản dị, gần gũi, mộc mạc..

Sau tất cả, đoạn thơ trên đã mang đến sự thỏa mãn trọn vẹn với tôi về cả nghệ thuật lẫn ý nghĩa. Lấp lửng nhưng day dứt khôn nguôi, cũng có tha thiết lẫn hào hùng khi nhắc nhớ về hàng chục năm chinh chiến. Mà nhắc đến những năm tháng ấy, tôi thấy bản thân mình còn phải cố gắng hơn nữa. Bởi vì, nhìn những khó khăn của ông cha ta về mặt vật chất, cho đến những mất mát, hi sinh nơi chiến trường cho đến nỗi đau tinh thần bởi những chia xa, thuyên chuyển, tôi đã nhân được những điều quý báu nhất từ những hi sinh ấy, vậy nên tôi cũng phải sống cho xứng với nó. Sống, học tập, nỗ lực từng ngày, để cho đất nước giàu đẹp, sống không uổng phí đời phải như thế thì mới thẳng lưng nhìn về xương máu cha ông đang chèo chống thế hệ mai sau được.
 
1,549 ❤︎ Bài viết: 1277 Tìm chủ đề

Cảm nghĩ về tám câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc​


Tám câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc mở ra một không gian chia tay đầy xúc động giữa người ra đi và người ở lại sau mười lăm năm gắn bó máu thịt. Đó không chỉ là cuộc chia tay địa lý, mà là cuộc chia tay của nghĩa tình cách mạng, của những năm tháng gian lao mà sâu nặng ân tình.

Tiếng lòng trong buổi chia tay lịch sử​


Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..


Điều gây ấn tượng đầu tiên là cách xưng hô mình – ta quen thuộc, mộc mạc như lời trò chuyện của những người thân ruột thịt. Không có lời nào hoa mỹ, không diễn giải dài dòng, chỉ một câu hỏi nhẹ nhàng mà da diết: Mình về mình có nhớ ta. Câu hỏi ấy vang lên như một lời nhắc nhở, một lời gửi gắm và cũng là một nỗi lo thầm kín của người ở lại trước phút chia tay.

Hai câu thơ tiếp theo gợi lại mười lăm năm gắn bó "thiết tha mặn nồng", khoảng thời gian đủ dài để biến núi rừng Việt Bắc thành quê hương, biến tình đồng chí thành tình ruột thịt. Hình ảnh nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn không chỉ nhắc đến đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, mà còn khẳng định Việt Bắc chính là cội nguồn của cách mạng, của những ngày gian khó không thể quên.

Sang những câu thơ sau, cảm xúc chia tay được đẩy lên cao trào. Âm thanh "tiếng ai tha thiết" hòa vào trạng thái "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất tinh tế tâm trạng luyến lưu, bịn rịn của người ra đi. Hình ảnh áo chàm – biểu tượng của con người Việt Bắc – hiện lên giản dị mà ám ảnh, trở thành dấu ấn không thể phai trong ký ức. Cái nắm tay trong câu thơ cuối lặng lẽ mà nghẹn ngào, đến mức "biết nói gì hôm nay", bởi mọi lời nói đều trở nên thừa thãi trước một tình cảm quá lớn.

Tám câu thơ đầu của Việt Bắc vì thế không chỉ là khúc dạo đầu cho toàn bài, mà còn là bản hòa âm sâu lắng của nghĩa tình cách mạng. Qua đó, Tố Hữu đã thể hiện tài năng kết hợp giữa chất trữ tình chính trị và giọng thơ dân tộc, để cuộc chia tay lịch sử năm 1954 trở thành một kỷ niệm không thể phai mờ trong tâm thức người đọc.

Bài cảm nhận thứ 2:


Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, Tố Hữu được xem là lá cờ đầu với phong cách thơ trữ tình chính trị độc đáo. Thơ ông luôn song hành cùng những chặng đường lịch sử của dân tộc, và "Việt Bắc" chính là đỉnh cao chói lọi nhất của hồn thơ ấy. Tác phẩm được ra đời vào tháng 10 năm 1954, trong thời điểm lịch sử đặc biệt khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc để trở về Hà Nội. Bài thơ là khúc hùng ca và cũng là bản tình ca về tình quân dân thắm thiết. Đặc biệt, tám câu thơ đầu tiên như một khúc dạo đầu đầy lưu luyến, tái hiện khung cảnh chia tay xúc động, bịn rịn giữa kẻ ở và người đi.

Mở đầu đoạn thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào, day dứt của người ở lại – đồng bào Việt Bắc dành cho người cán bộ về xuôi:

"Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn."

Tố Hữu đã rất khéo léo khi vận dụng thể thơ lục bát truyền thống cùng cặp đại từ nhân xưng "mình – ta" quen thuộc trong ca dao, dân ca. Chuyện chính trị, chuyện kháng chiến bỗng chốc hóa thành chuyện tình cảm lứa đôi đằm thắm. Câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta?" vang lên không phải để tìm câu trả lời, mà để nhắc nhớ về một chặng đường đã qua. "Mười lăm năm ấy" là khoảng thời gian cụ thể của lịch sử (từ khởi nghĩa Bắc Sơn 1940 đến ngày hòa bình 1954), nhưng qua hồn thơ Tố Hữu, nó trở thành khoảng thời gian của ân tình "thiết tha mặn nồng", cùng chia ngọt sẻ bùi.

Người ở lại tiếp tục dồn dập với câu hỏi thứ hai: "Mình về mình có nhớ không?". Lần này, lời nhắn nhủ mang tầm khái quát triết lý sâu sắc: "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn". Hình ảnh "cây, núi, sông, nguồn" không chỉ là thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, mà còn là ẩn dụ cho cội nguồn cách mạng. Câu thơ gợi nhắc đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, nhắn nhủ người về xuôi đừng để ánh đèn thành phố làm phai nhòa ký quá khứ gian lao nhưng hào hùng nơi núi rừng.

Đáp lại lời ướm hỏi tha thiết ấy không phải là những lời thề thốt to tát, mà là những rung động tinh tế trong tâm hồn người ra đi:

"Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay.."

Đại từ phiếm chỉ "ai" trong "Tiếng ai" khiến âm thanh trở nên mơ hồ, vang vọng từ sâu thẳm ký ức. Hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn" được đặt trong cùng một câu thơ đã diễn tả trọn vẹn trạng thái tâm lý phức tạp của người đi: Vừa thương nhớ, luyến tiếc, vừa day dứt không yên. Bước chân người đi như ngập ngừng, níu kéo, không nỡ rời xa mảnh đất đã gắn bó suốt một thời thanh xuân.

Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" là một nét vẽ đơn sơ nhưng đầy ám ảnh. Màu áo chàm bình dị, bền bỉ của người dân vùng cao đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng son sắt, thủy chung của đồng bào Việt Bắc. Màu áo ấy tiễn đưa người đi, làm cho buổi phân ly thêm phần trang nghiêm và xúc động.

Đỉnh điểm của cảm xúc dồn nén lại trong hành động: "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..". Dấu chấm lửng ở cuối câu thơ như một nốt lặng đầy nghệ thuật. "Biết nói gì" không phải là không có gì để nói, mà là có quá nhiều điều muốn nói nhưng nghẹn ngào không thể thốt nên lời. Trong giây phút ấy, ngôn ngữ trở nên bất lực, chỉ còn lại hơi ấm của cái nắm tay và ánh mắt trao nhau thay cho mọi lời hứa hẹn thủy chung.

Chỉ với tám câu thơ lục bát nhuần nhuyễn, Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh chia ly thấm đẫm nước mắt nhưng cũng rạng ngời tình nghĩa cách mạng. Đoạn thơ không chỉ là lời chào tạm biệt giữa người cán bộ và đồng bào, mà còn là lời thề nguyện sắt son: Dù hoàn cảnh có thay đổi, dù kẻ ở miền ngược người về miền xuôi, thì tình cảm quân dân, lòng biết ơn đối với cội nguồn kháng chiến sẽ mãi mãi không bao giờ phai nhạt. Đó chính là giá trị nhân văn sâu sắc làm nên sức sống mãnh liệt của "Việt Bắc".
 
Từ khóa: Sửa

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back