Bài viết: 542 



Đề bài: Bình giảng bài thơ "lầu Hoàng Hạc" - Thôi Hiệu
Tác giả: Love cà phê sữa.
Nói đến thành tựu rực rỡ của văn học nhân loại, ta không quên nhắc đến sự đóng góp to lớn của văn học Trung Quốc thời đại nhà Đường- thơ Đường. Có thể nói, thơ Đường là nguồn vô tận cho sự sáng tạo nghệ thuật, ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học các nước, đặc biệt là Việt Nam. Theo dòng chảy lịch sử, các tác phẩm thời đại nhà Đường vẫn luôn làm say đắm lòng người, ghi ấn tượng sâu sắc với độc giả. Với hơn 300 năm phát triển, thơ Đường có hàng vạn, hàng ngàn bài thơ. Nếu như chọn mười nhà thơ tiêu biểu thì chắc chắn không có tên tuổi của Thôi Hiệu. Nhưng, để chọn mười bài thơ hay nhất thì ta không thể bỏ qua "Lầu Hoàng Hạc" của ông. Vậy, điều gì đã làm nên sức hút của tác phẩm, khiến Lí Bạch- tiên thi nhà Đường phải sững sờ tới mức "làm rơi bút không dám đề thơ"?
Không đúng như tên gọi "Lầu Hoàng Hạc", cả bài thơ không nói gì về "lầu" cả, mà tập trung diễn tả nỗi sầu, một nỗi niềm không sao tả xiết. Bốn câu thơ đầu của bài thơ gợi lên sự hoài niệm quá khứ:
"Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du".
(Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Có thể nói, lầu Hoàng Hạc đã hấp dẫn biết bao du khách tìm đến bởi vẻ đẹp thiên nhiên, bởi vẻ đẹp của câu chuyện huyền thoại xa xăm. Thôi Hiệu đang đứng trên lầu Hoàng Hạc, đáng lẽ với tâm hồn của một người thi sĩ, ông sẽ vẽ nên bức tranh đẹp lung linh về cảnh vật nơi đây. Nhưng không, đứng trước không gian bao la của mảnh đất Vũ Xương, nhà thơ bỗng hồi niệm về một cái đã có và đã mất "Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc lâu" (Người xưa cưỡi hạc bay đi rồi). Tương truyền rằng, xưa kia Phí Văn Vi- một tu sĩ đắc đạo thành tiên thường cưỡi hạc vàng ngao du sông thủy. Một hôm, tiên và hạc bay ngang Vũ Hán và dừng chân trên "Đồi Rắn" để nhìn ngắm cảnh đẹp cảnh đẹp Trường Giang và Ngũ Hồ khói sương diễm lệ. Người đời sau từ nơi tiên cưỡi hạc vàng bay đi mà xây nên Hoàng Hạc lâu. Người xưa từng từng cưỡi hạc về đây giờ đã trở thành xa xăm, chỉ còn lại trên mảnh đất Vũ Xương trống trải này, trơ lại lầu Hoàng Hạc chơi vơi "Thử địa không dư hoàng hạc lâu". Lầu Hoàng Hạc lẻ loi, trơ trọi hay chính là nỗi niềm, tâm trạng của nhà thơ- vừa cô đơn, cảm thấy mình nhỏ bé trước bao la, vừa thất vọng khi câu chuyện về người thần tiên mãi là huyền ảo.
Hai câu đầu mở ra sự trống vắng, hụt hẫng của người ngắm cảnh. Ta không chỉ ấn tượng với tâm trạng nhà thơ ẩn sâu sau lớp vỏ ngôn từ. Đặc biệt, trong hai câu thơ đầu, Thôi Hiệu đã sử dụng phép đối, thực chất là không cần, nhưng lại làm nổi bật lên sự đối lập giữa cái ra đi mãi mãi với cái ra đi còn lại, cái vô cùng với cái hữu hạn, cái hư với cái thực. Qua đó thể hiện một cách sinh động niềm nuối tiếc quá khứ và nỗi suy tư về hiện tại.
Hai câu thơ tiếp theo chất chứa nỗi niềm day dứt, bâng khuâng trong hoài niệm của con người:
"Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du."
Cả ba câu thơ liên tiếp đều nhắc đến lầu Hoàng Hạc, "hoàng hạc" cứ trở đi trở lại đến ba lần, nhưng chỉ có một lần là thực. Cánh hạc vàng trở về trong suy ngẫm, trong tưởng tượng chỉ càng tô đậm thêm niềm khắc khoải, chỉ làm tăng thêm sự thấm thía, mất mát, nuối tiếc đến quặn lòng. Hơn nữa, hoàng hạc còn là ẩn dụ cho hình ảnh con người. Con người tồn tại trong thời gian hạn hẹp giữa sự mênh mông vô tận của thời gian, đối lập với cái vô tận của vũ trụ. "Hạc vàng" gợi ta liên tưởng đến Phí Văn Vĩ từng xuất hiện hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, con người ấy đã biến mất, đã tan nát cùng cỏ cây. Hàng ngàn năm sau, khi tác giả đặt chân đến hoàng hạc lâu, đám mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xưa kia vẫn còn đó, mà con người thì biến đâu mất? Âm vang của câu thơ như gợi lên tâm trạng buồn, nỗi niềm hoài cổ, đâu đó chất chứa nỗi trăn trở, sự thắc mắc không nguôi. Tại sao con người lại không thể vĩnh hằng cùng thiên nhiên, vũ trụ bao la? Tại sao con người phải chịu đựng sự luân hồi của kiếp người? Vì sao vậy? Nhưng, tất cả đều không thể, vũ trụ bao la, bất biến thế đấy nhưng con người sẽ không tồn tại nếu điều đó xảy ra. Tất cả cũng chỉ là mơ ước của nhà thơ. Nỗi khắc khoải đó thật giống với tâm trạng của thiền sư Mãn Giác:
"Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai".
Từ không gian tâm tưởng cõi tiên, nhà thơ trở về hiện tại với sự thất vọng, nỗi lòng buồn nhớ quê hương. Ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa cảnh sắc bốn câu thơ cuối với bốn câu thơ đầu. Từ cõi tiên về cảnh thực, từ cấu tứ lấy ý làm chủ quyền sang lấy cảnh làm chủ, từ trạng thái mông lung, huyền ảo sang màu sắc tươi sáng rõ nét. Về hình thức thơ, từ phá cách quay về tuân thủ nghiêm chỉnh. Điểm khác biệt không hề gây đột ngột, bất ngờ bởi dù có suy nghĩ miên man về quá khứ, bị lôi cuốn bởi truyền thuyết thì rốt cuộc, Thôi Hiệu cũng phải quay về thực tại. Sự đối lập giữa con người và vũ trụ, giữa cái hữu hạn và vô cùng ở phần đầu có ý nghĩa với hiện tại mà thi nhân đang phải đối mặt.
"Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Trở về câu thơ, hai từ "lịch lịch", "thê thê" vốn là hai từ láy miêu tả đặc điểm tính chất của sự vật. Hàng cây trên đất Hán Dương phản chiếu mồn một trên dòng sông xanh. Trên bãi Anh Vũ, cỏ thơm ngào ngạt, mơn mởn. Cảnh vật hiện ra trước mặt đầy sức sống, tinh khôi, gợi nhớ về thực tại, đánh thức người lữ khách về lại với lòng mình, không cần tìm đến cái đẹp huyền ảo đâu xa mà ngay bên chúng ta. Và đó cũng là lúc nhà thơ nhận ra mình đang xa cách cố hương. Thời gian chuyển sang khắc hoàng hôn, lữ khách tự hỏi đâu là chốn quê. Đó là tiếng thở dài não ruột. Khói sóng gợi cảnh sum họp gia đình, đứng trước nó, Thôi Hiệu chạnh lòng nhớ chốn quê. Mượn lầu Hoàng Hạc, nhà thơ thể hiện tình cảm với quê hương trong nỗi nhớ. Có thể nói, từ "sầu" là nhãn tự của cả bài thơ, là kết tinh nỗi buồn không gian, thời gian. Chữ "sầu" gói trọn nỗi đau của đời người, của thời đại. Phải chăng, đó là sự nuối tiếc trước một thời vàng son và thất vọng trước buổi xế chiều của Thịnh Đường?
Bài thơ hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu "Mười bài thơ hay nhất mọi thời đại". Với sự sáng tạo nghệ thuật qua việc phá bỏ quy tắc niêm luật, kết hợp với tâm trạng sâu lắng của Thôi Hiệu đã tạo nên kiệt tác cho nhân loại. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc bất chấp cả quy luật băng hoại của thời gian.
Tác giả: Love cà phê sữa.
Nói đến thành tựu rực rỡ của văn học nhân loại, ta không quên nhắc đến sự đóng góp to lớn của văn học Trung Quốc thời đại nhà Đường- thơ Đường. Có thể nói, thơ Đường là nguồn vô tận cho sự sáng tạo nghệ thuật, ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học các nước, đặc biệt là Việt Nam. Theo dòng chảy lịch sử, các tác phẩm thời đại nhà Đường vẫn luôn làm say đắm lòng người, ghi ấn tượng sâu sắc với độc giả. Với hơn 300 năm phát triển, thơ Đường có hàng vạn, hàng ngàn bài thơ. Nếu như chọn mười nhà thơ tiêu biểu thì chắc chắn không có tên tuổi của Thôi Hiệu. Nhưng, để chọn mười bài thơ hay nhất thì ta không thể bỏ qua "Lầu Hoàng Hạc" của ông. Vậy, điều gì đã làm nên sức hút của tác phẩm, khiến Lí Bạch- tiên thi nhà Đường phải sững sờ tới mức "làm rơi bút không dám đề thơ"?
Không đúng như tên gọi "Lầu Hoàng Hạc", cả bài thơ không nói gì về "lầu" cả, mà tập trung diễn tả nỗi sầu, một nỗi niềm không sao tả xiết. Bốn câu thơ đầu của bài thơ gợi lên sự hoài niệm quá khứ:
"Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du".
(Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Có thể nói, lầu Hoàng Hạc đã hấp dẫn biết bao du khách tìm đến bởi vẻ đẹp thiên nhiên, bởi vẻ đẹp của câu chuyện huyền thoại xa xăm. Thôi Hiệu đang đứng trên lầu Hoàng Hạc, đáng lẽ với tâm hồn của một người thi sĩ, ông sẽ vẽ nên bức tranh đẹp lung linh về cảnh vật nơi đây. Nhưng không, đứng trước không gian bao la của mảnh đất Vũ Xương, nhà thơ bỗng hồi niệm về một cái đã có và đã mất "Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc lâu" (Người xưa cưỡi hạc bay đi rồi). Tương truyền rằng, xưa kia Phí Văn Vi- một tu sĩ đắc đạo thành tiên thường cưỡi hạc vàng ngao du sông thủy. Một hôm, tiên và hạc bay ngang Vũ Hán và dừng chân trên "Đồi Rắn" để nhìn ngắm cảnh đẹp cảnh đẹp Trường Giang và Ngũ Hồ khói sương diễm lệ. Người đời sau từ nơi tiên cưỡi hạc vàng bay đi mà xây nên Hoàng Hạc lâu. Người xưa từng từng cưỡi hạc về đây giờ đã trở thành xa xăm, chỉ còn lại trên mảnh đất Vũ Xương trống trải này, trơ lại lầu Hoàng Hạc chơi vơi "Thử địa không dư hoàng hạc lâu". Lầu Hoàng Hạc lẻ loi, trơ trọi hay chính là nỗi niềm, tâm trạng của nhà thơ- vừa cô đơn, cảm thấy mình nhỏ bé trước bao la, vừa thất vọng khi câu chuyện về người thần tiên mãi là huyền ảo.
Hai câu đầu mở ra sự trống vắng, hụt hẫng của người ngắm cảnh. Ta không chỉ ấn tượng với tâm trạng nhà thơ ẩn sâu sau lớp vỏ ngôn từ. Đặc biệt, trong hai câu thơ đầu, Thôi Hiệu đã sử dụng phép đối, thực chất là không cần, nhưng lại làm nổi bật lên sự đối lập giữa cái ra đi mãi mãi với cái ra đi còn lại, cái vô cùng với cái hữu hạn, cái hư với cái thực. Qua đó thể hiện một cách sinh động niềm nuối tiếc quá khứ và nỗi suy tư về hiện tại.

Hai câu thơ tiếp theo chất chứa nỗi niềm day dứt, bâng khuâng trong hoài niệm của con người:
"Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du."
Cả ba câu thơ liên tiếp đều nhắc đến lầu Hoàng Hạc, "hoàng hạc" cứ trở đi trở lại đến ba lần, nhưng chỉ có một lần là thực. Cánh hạc vàng trở về trong suy ngẫm, trong tưởng tượng chỉ càng tô đậm thêm niềm khắc khoải, chỉ làm tăng thêm sự thấm thía, mất mát, nuối tiếc đến quặn lòng. Hơn nữa, hoàng hạc còn là ẩn dụ cho hình ảnh con người. Con người tồn tại trong thời gian hạn hẹp giữa sự mênh mông vô tận của thời gian, đối lập với cái vô tận của vũ trụ. "Hạc vàng" gợi ta liên tưởng đến Phí Văn Vĩ từng xuất hiện hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, con người ấy đã biến mất, đã tan nát cùng cỏ cây. Hàng ngàn năm sau, khi tác giả đặt chân đến hoàng hạc lâu, đám mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xưa kia vẫn còn đó, mà con người thì biến đâu mất? Âm vang của câu thơ như gợi lên tâm trạng buồn, nỗi niềm hoài cổ, đâu đó chất chứa nỗi trăn trở, sự thắc mắc không nguôi. Tại sao con người lại không thể vĩnh hằng cùng thiên nhiên, vũ trụ bao la? Tại sao con người phải chịu đựng sự luân hồi của kiếp người? Vì sao vậy? Nhưng, tất cả đều không thể, vũ trụ bao la, bất biến thế đấy nhưng con người sẽ không tồn tại nếu điều đó xảy ra. Tất cả cũng chỉ là mơ ước của nhà thơ. Nỗi khắc khoải đó thật giống với tâm trạng của thiền sư Mãn Giác:
"Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai".
Từ không gian tâm tưởng cõi tiên, nhà thơ trở về hiện tại với sự thất vọng, nỗi lòng buồn nhớ quê hương. Ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa cảnh sắc bốn câu thơ cuối với bốn câu thơ đầu. Từ cõi tiên về cảnh thực, từ cấu tứ lấy ý làm chủ quyền sang lấy cảnh làm chủ, từ trạng thái mông lung, huyền ảo sang màu sắc tươi sáng rõ nét. Về hình thức thơ, từ phá cách quay về tuân thủ nghiêm chỉnh. Điểm khác biệt không hề gây đột ngột, bất ngờ bởi dù có suy nghĩ miên man về quá khứ, bị lôi cuốn bởi truyền thuyết thì rốt cuộc, Thôi Hiệu cũng phải quay về thực tại. Sự đối lập giữa con người và vũ trụ, giữa cái hữu hạn và vô cùng ở phần đầu có ý nghĩa với hiện tại mà thi nhân đang phải đối mặt.
"Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Trở về câu thơ, hai từ "lịch lịch", "thê thê" vốn là hai từ láy miêu tả đặc điểm tính chất của sự vật. Hàng cây trên đất Hán Dương phản chiếu mồn một trên dòng sông xanh. Trên bãi Anh Vũ, cỏ thơm ngào ngạt, mơn mởn. Cảnh vật hiện ra trước mặt đầy sức sống, tinh khôi, gợi nhớ về thực tại, đánh thức người lữ khách về lại với lòng mình, không cần tìm đến cái đẹp huyền ảo đâu xa mà ngay bên chúng ta. Và đó cũng là lúc nhà thơ nhận ra mình đang xa cách cố hương. Thời gian chuyển sang khắc hoàng hôn, lữ khách tự hỏi đâu là chốn quê. Đó là tiếng thở dài não ruột. Khói sóng gợi cảnh sum họp gia đình, đứng trước nó, Thôi Hiệu chạnh lòng nhớ chốn quê. Mượn lầu Hoàng Hạc, nhà thơ thể hiện tình cảm với quê hương trong nỗi nhớ. Có thể nói, từ "sầu" là nhãn tự của cả bài thơ, là kết tinh nỗi buồn không gian, thời gian. Chữ "sầu" gói trọn nỗi đau của đời người, của thời đại. Phải chăng, đó là sự nuối tiếc trước một thời vàng son và thất vọng trước buổi xế chiều của Thịnh Đường?
Bài thơ hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu "Mười bài thơ hay nhất mọi thời đại". Với sự sáng tạo nghệ thuật qua việc phá bỏ quy tắc niêm luật, kết hợp với tâm trạng sâu lắng của Thôi Hiệu đã tạo nên kiệt tác cho nhân loại. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc bất chấp cả quy luật băng hoại của thời gian.
Chỉnh sửa cuối: