- Xu
- 35


- Kiếm tiền
- Tác Giả Búnnn đã kiếm được 1340 đ
Tên truyện: Đồng Thầy Trung
Tác giả: Bún
Thể loại: Truyện ngắn, kinh dị
Tác giả: Bún
Thể loại: Truyện ngắn, kinh dị

Một đàn anh khóa trên học cùng khoa đã từng nói với tôi rằng: "Nếu em đặt tiêu đề truyện là truyện ma có thật hoặc là sự trải nghiệm của bản thân sẽ thu hút được rất nhiều độc giả. Bên cạnh đó còn có thể kiếm chút kinh phí. Cái nghề viết văn vốn đã khó kiếm rồi nếu em cứ viết theo lối mòn không có gì thu hút thì khó sống lắm em ạ." Lắm lúc nghĩ theo lời anh ấy nói thì cũng có lí lắm nhưng mà làm vậy thì lương tâm tôi lại không cho phép vì nhà văn Nam Cao đã từng nói rằng: "Sự cẩu thả trong bất cử nghề gì cũng là bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện." Tôi tin là những gì tôi sắp kể và có lẽ, ở một phút giây nào đó trong cuộc đời bằng cách này hay cách khác khi bạn phải đối diện với sự sợ hãi tột cùng bạn cũng sẽ làm giống tôi.
Tôi tên là Quỳnh Mây, hai mươi hai tuổi là sinh viên mới tốt nghiệp ra trường cách đây vài ngày câu chuyện xảy ra cách đây mười bốn năm về trước. Tôi sinh ra lớn lên ở mảnh đất cao nguyên rộng lớn. Vùng đất được biết đến những cánh rừng thông bạt ngàn, những dòng thác nước hùng vĩ và những vườn cao su, cà phê xanh tươi. Làng tôi thì cũng như bao làng quê khác trên mảnh đất quê hương Việt Nam. Nó là một nơi vô cùng bình yên và đáng sống. Buổi sáng người lớn lên nương làm rẫy, trẻ con thì cắp sách đến trường, chiều chiều sân đình luôn là chỗ vui chơi của đám trẻ con, tối đến người ta thường qua nhà nhau để tám chuyện. Tôi cứ nghĩ cuộc sống của làng sẽ mãi mãi bình yên như thế cho đến một ngày những chuyện kì quái xảy ra liên tiếp trong làng. Làm đảo lộn nhận thức của tất cả mọi người giờ đây người ta không đi dám đi ra ngoài một mình dù trời vẫn còn sáng, đêm đến người ta khóa chặt cửa không còn ai qua nhà hàng xóm uống nước tám chuyện. Những đứa trẻ con trong làng thì cứ tối là bị người lớn lùa hết vào trong nhà. Mọi sự bắt đầu từ cái ao cạnh đình làng, người làng tôi gọi nó là ao Ông Mão. Theo quy ước của làng có ghi chép dưới thời chúa Nguyễn, truông nhà Hồ nổi tiếng là cơn ác mộng của bao lữ khách đường xa. Với địa hình rậm rạp dễ quan sát và ẩn nấu truông nhà Hồ chính là địa bàn của băng cướp khét tiếng. Hễ có ai đi qua đó đều sẽ bị bọn chúng cướp bóc hàng hóa tiền bạc của cải. Năm ấy, Ông Mão là trưởng làng đã dẫn người dân trong làng mang theo những mảnh tơ lụa ra phương Bắc buôn bán. Trên đường đi ngang qua truông nhà Hồ bị bọn cướp giết sạch không một ai sống sót. Để tưởng nhớ vị trưởng làng đã hy sinh cả đời vì cuộc sống của người dân nơi đây nên họ đặt tên ao cạnh đình làng là ao Ông Mão để con cháu đời sau mãi ghi nhớ về ông. Ban đầu ao của đình làng chỉ trồng hoa sen để tăng thêm cảnh đẹp cho đình làng, nhưng các vị bô lão trong làng cảm thấy để vậy thì quá phí nên đã nuôi thêm cá vào ngày tiết xuân lập hàng năm sẽ bắt cá lên đem ra chợ bán kiếm tiền. Tiền kiếm được sẽ trùng tu sửa sang lại đình làng còn ít thì chia cho các gia đình hoàn cảnh khó khăn. Chỉ còn vài ngày nữa là đến tiết xuân lập, các bị trưởng làng mới quyết định bắt cá lên sớm hơn mọi năm. Nhưng lần này, khi đang trong quá trình bắt cá, có một vài người trong đoàn vô tình chạm vào vật gì đó nằm sau dưới vũng bùn lầy ao nước. Thấy có chuyện chẳng lành người ta mới hợp sức vớt vật đó lên. Mấy anh thanh niên trong làng dùng gáo rửa trôi hết những rong rêu bám trên vật bí ẩn. Sau khi lớp rong rêu được rửa sạch thì bấy giờ người ta mới nhìn rõ nó là một chiếc quan tài được làm bằng đá. Phía hai bên hông quan tài là những con rồng được trạm trổ vô cùng tinh tế và tinh xảo trông vô cùng đẹp mắt. Nhưng có một điều kì lạ là quan tài này được buộc bằng những sợi dây thừng vô cùng chắc chắn, trên những đoạn dây thừng còn buộc thêm những chiếc chuông bằng đồng nhỏ và những sợi vải đã bạc màu, kèm theo những chữ văn tự cổ không tài nào đọc được. Trên nắp quan tài còn khắc hình âm dương bác quái. Hai bên hình như là những dòng chữ hán cổ. Một cụ bà bấy giờ mới tiến đến nhìn kỹ chiếc quan tài thì chỉ nhận ra được một chữ đó là chữ "Trấn" rất lớn nằm ở chính giữa quan tài. Thảo luận một hồi thì các vị bô lão đều lắc đầu, chẳng ai đoán được gì ngoài chữ trấn. Cuối cùng, các vị bô lão mới đưa ra một quyết định, có thể những hàng chữ kia không phải là chữ viết, nó có thể là hình vẽ hoặc là một ký tự nào đó cũng không chừng. Suy nghĩ một hồi, bác Tư mới quyết định cho người mở nắp quan tài ra xem xét bên trong. Nắp quan tài được làm bằng đá nên rấp nặng phải năm sáu anh thanh niên cao to mới hất được chiếc quan tài ra, những cộng dây thừng cũng được người ta thu lại để một góc. Khi này nắp quan tài cũng đã được mở ra đột nhiên có luồng khói đen nhanh thoăn thoắt thoát ra bên ngoài, ai nấy cũng đều xúm nhau xem bên trong có cái gì nhưng không ai để ý hiện tượng vừa rồi. Mà kỳ lạ thay bên trong không hề có xác người mà chỉ có một con hình nộm bằng rơm mặc áo giáp sắt quấn quanh là lá bùa huyết thù đã ngã sang màu vàng nhạt. Trên thân con hình nộm còn khắc chi chít những hoa văn ký tự đã mờ đi. Bên trong quan tài ngài hình nhân bằng gỗ ra thì chẳng còn gì nữa hết. Sau khi một hồi xem xét không có kết quả gì, mọi người mới cùng nhau đóng lại nắp quan tài. Nhưng dù gì cũng là vật được đào lên từ đình làng, rất có thể nó có một mối quan hệ mật thiết với làng. Thế là các cụ bô lão mới quyết định chôn chiếc quan tài sau gốc cây gạo cạnh đình. Sau sự kiện đó thì không có việc gì xảy ra nữa, cuộc sống của người dân trong làng diễn ra như bình thường. Nhưng trừ duy nhất một người đó là bác Tư. Tôi gọi là bác Tư vì bác Tư là bác cô bên phía nhà bà nội nói chung là quan hệ dây mơ rễ má với gia đình tôi. Bác Tư năm nay đã ngót nghét 68 tuổi, là một người vô cùng đẹp lão, tính cách nhân hậu. Thời còn trẻ bác còn tham gia kháng chiến chống Mỹ. Sau khi đất nước giải phóng bác lên huyện làm giáo viên, đến khi lớn tuổi vì tin tưởng bác nên các cụ bô lão mời bác trông coi đình thần. Bác Tư thì cũng vui vẻ đồng ý, ban ngày thì quét dọn đình làng, ban đêm thì ngủ lại. Tiền lương thì cũng chẳng có là bao nhưng bác Tư chẳng bao giờ để ý bác thích tận hưởng tuổi già như vậy. Bác Tư thì cũng hay qua nhà chơi với ông nội phần vì ông nội tôi thời trẻ cũng tham gia kháng chiến chống Mỹ, phần vì có chuyện gấp. Hôm đó, khi tôi và ông nội đang ngồi băm cây chuối để lát nấu cám cho heo. Thì bác Tư đạp xe sang nhà tôi chơi. Nhưng tôi nhìn thấy bác hôm nay lạ lắm, mọi hôm bác luôn nở nụ cươi nay lại có chút cau có, vẻ mặt còn có chút sợ hãi nữa. Ông tôi nhìn thấy bác Tư thì vui lắm, gật đầu chào nói:
"Bác tư đến chơi đấy à, vào nhà uống chén trà chú mới pha."
Bác Tư gật đầu cười, dựng chiếc xe đạp vào giàn hoa giấy cạnh cổng nhà, rồi đi vào bàn ghế đá ngồi, mặt bác hơi lo lắng nói:
"Nước thì để khi khác ạ, hôm nay cháu sang đây vì có chuyện gấp ạ"
Nghe bác Tư nói vậy, ông tôi mới thu lại nụ cười, nhìn bác Tư gật đầu rồi ra hiệu để bác Tư nói. Bác tư cứ ầm à ầm ừ mãi như thể không biết phải bắt đầu từ đâu. Ông tôi rót ly trà đẩy về phía bác Tư. Mãi không thấy bác Tư nói gì thì ông tôi mới bắt đầu lên tiếng:
"Ơ cái con này, nói gì đi chứ."
Bác Tư đưa tay lấy ly nước, đưa lên miệng rồi uống một ngụm rồi mới mở lời:
"Cháu nói cài này, chú đừng chê cười cháu nhé, trong đình hình như đang có sự lạ lắm chú ạ."
Nghe vậy ông tôi mới cau mày hỏi lại:
"Trong đình có chuyện gì sao? Có ăn trộm hả?"
Bác Tư lắc đầu nói tiếp:
"Không phải chú ạ, hình như trong đình có ma chú ơi."
Nghe vậy ông tôi mới cười rồi nói:
"Cháu nói thật hay đùa đấy, 20 năm rồi đêm này cháu cũng ngủ lại ở đấy có làm sao đâu, thế mà hôm nay lại bảo có ma, cháu đùa chú đấy à."
Bác Tư lắc đầu tay siếc chặt ly trà nói với giọng hơi rung:
"Cháu nào dám đùa bác, vì cháu trông đình đã hơn 20 năm nay, cháu mới dám chắc là có chuyện lạ ở trong đình. Nhưng cháu không chắc chắn nên hôm nay mới đến đây nhờ chú."
Nghe bác Tư nói vậy ông tôi mới ngồi thẳng người nhìn bác với vẻ mặt nghiệm túc.
"Thế cháu kể bác nghe đi, rốt cuộc chuyện gì xảy ra ở đình làng."
Thế là bác Tư mới bắt đầu kể lại đầu đuôi mọi chuyện.
"Như thường lệ, ban ngày cháu sẽ qua đình để quét lá, dọn dẹp đình làng, rồi chiều cháu sẽ về nhà ăn cơm, cứ đến 23 giờ đêm là cháu lại lốc cốc đạp xe quay trở lại đình làng để ngủ. Đúng 3 hôm trước, khi cháu đạp tới gần cổng đình thì tự nhiên xe bị trật dây sên, thấy thế cháu mới dựng chóng xe cúi xuống để xem. Vì trời tối quá nên cháu cứ lò mọ mãi. Đang loay hoay thì bỗng bên tai cháu vang lên một tiếng bụp. Như có cái gì đó vừa từ trên cao rớt xuống vậy. Theo phản xạ cháu nhanh chóng đưa mắt nhìn về hướng phát ra tiếng bụp. Chỗ gần cổng đình, hình như có con gì đó đang lồm còm bò dậy, mới nhìn, thì chỉ thấy nó là con vật có bốn chân, nhìn không giống trâu cũng chẳng giống bò, đến lúc cháu nhìn lên phía trên thì tim cháu suýt nữa thì tim cháu ngừng đập chú ạ, nó là con cọp không đầu, hình như nó nhìn thấy cháu, rồi tự nhiên nó cong đuôi chạy mất mà hướng nó chạy lại là đình làng. Thấy nó chạy, cháu cũng chạy theo nhưng tới trước cổng đình thì không thấy bóng dáng con cọp đâu nữa. Cổng đình thì vẫn khóa, chính tay cháu đã khóa. Ban đầu cháu nghĩ mình hoa mắt nên nhìn nhầm. Thế là cháu quay lại chỗ chiếc xe đạp thì bất ngờ không biết chiếc xe được lắp lại dây sên từ lúc nào nhưng mà cháu nhớ rõ ràng là mình chưa lắp xong. Ngán ngẫm vì những sự lạ diễn ra tối nay, cháu dắt xe vào trong đình. Sau đó cháu đi thắp hương cho đức thần hoàng làng. Nhưng kì lạ ở chỗ, cháu chăm lửa đốt hương vừa cháy, cắm lên bát là hương tự động vụt tắt, cháu phải thắp đi thắp lại ba bốn lần thì hương mới cháy bình thường. Ngồi xem ti vi được một lúc thì cháu tắt đi ngủ. Nằm trên giường cháu cứ chập chà chập chờn chẳng tày nào ngủ được. Và rồi đêm đó, cháu nằm mơ thấy ác mộng. Trong mơ cháu thấy mình đang đứng giữa trận chiến thời xưa, xung quanh là tiếng giao kiếm cứ va lách cách vào nhau. Tiếng vó ngựa, tiếng người la oai oái, cháu thấy những thi thể của các binh sĩ nằm la liệt ở dưới đất. Người thì mất tay, người thì mất chân, người thì kiếm xuyên thủng cả bụng ruột gan cứ thế mà bị lôi cả ra. Rồi có một cái đầu của ai đó lăn long lóc về phía cháu. Như có một sự thôi thúc nào đó tự nhiên cháu hết lên:
" Dừng lại, tất cả dừng lại. "
Cháu không nói thì không sao, sau khi cháu hét lên thì tất cả những người có mặt ở đó tự nhiên dừng lại toàn bộ hành động của mình. Tất cả đều hướng ánh mắt về phía cháu, ngay cả chiếc đầu dưới chân cháu cũng mở to đôi mắt nhìn chằm chằm về phía cháu. Họ chẳng nói chẳng rằng, tất cả bọn họ đều tiến về phía cháu, họ bao vây lấy cháu, cháu không có đường để thoát. Rồi cháu thấy một tên tướng sĩ không đầu, người mặc áo giác sắt, tay cầm thanh kiếm đâm thẳng về phía cháu. Cháu nghỉ rằng mình sẽ chết thì cũng là lúc tiếng gà gáy vang lên:
" Ò ó o o o "
Cháu giật mình tỉnh giấc, nhìn ngó xung quanh, thấy mình vẫn nằm ở trong đình làng, nhưng cả người đã ướt đẫm mồ hôi.
Kể đến đây hai tay bác Tư run run xiết chặt ly trà trong trà, rồi sau đó đưa ly trà lên uống cạn. Ông tôi nghe xong thì trầm tư, suy nghĩ một lúc mới nói:
" Nghe chuyện cháu kể cũng hợp lý, nhưng mà cũng chưa chắc là ma, biết đâu là cháu mệt quá nên xin ra ảo giác. "
Nghe vậy bác Tư mới cười khổ rồi nói:
" Cháu cũng mong là như lời bác nói, nhưng mà chuyên không dừng ở đó, nó xảy ra đêm thứ hai rồi đêm thứ ba thì cháu chắc chắn làng mình sắp gặp chuyện chẳng lành rồi chú ạ. "
Ông tôi nghe Bác Tư nói vậy thì buông ly trà xuống rồi nói:
" Cháu nói cái gì, nó xảy ra hai đêm nữa sao, cháu kể chú nghe xem nào. "
Ông tôi lấy làm ngạc nhiên lắm, bác Tư giọng run run kể tiếp:
" Đêm thứ hai khi cháu qua đình, cũng đi tới gần đình làng thì xe cháu lại bị trật dây sên. Lúc này cháu cũng hơi sợ, chẳng lẻ lại có chuyện trùng hợp đến vậy sao nên lần này cháu không sữa nữa mà quyết định dắt xe đi tiếp. Nhưng chưa đi được bao lâu thì cháu nghe tiếng bước chân cứ bình bịch sau lưng cháu, cháu quay đầu lại thì chẳng nghe thấy gì nữa, nhưng cứ hễ cháu quay đi thì lại nghe tiếng bình bịch cứ dồn dập như thể đang đi cạnh sau lưng cháu vậy. Lần này, cháu quay đầu thật nhanh vì nghĩ ai đó đang trêu cháu nhưng cũng như lần trước cháu quay lại thì không thấy gì. Thấy điều kỳ dị xảy ra, trong lòng cháu dâng lên nỗi bất an khó tả, cháu nhanh chóng dắt xe tới cổng đình, mở cổng, rồi chạy thẳng đến trước bàn thờ đức thần hoàng nhanh chóng cháu thắp ba nén hương trên bàn thờ đức thành hoàng, sau khi thắp hương, cháu thầm cầu khấn đức thành hoàng sau đó thì không còn nghe thấy gì nữa. Cũng như mọi hôm, một lúc sau thì cháu tắt đèn rồi đi ngủ. Nhưng khi cháu vừa ngã lưng xuống thì tiếng kèn trống, tiếng binh sĩ chạy ù ù, tiếng chân người, tiếng giao kiếm va lanh lách vào nhau, ruỳnh ruỳnh chạy quanh đình. Đây không phải là mơ, cháu vẫn còn đang thức thế là cháu định bụng sẽ chạy ra bàn thờ đức thần hoàng cầu nguyện mong ngài phù hộ. Chạy đến trước bàn thờ đức thành hoàng thì ôi trời ơi, hai ngọn nến thắp hai bên gian thờ tự nhiên bùng cháy dữ dội, mà ngọn lửa này nó không phải màu đỏ mà là màu xanh như ma trơi vậy. Cháy lớn như vậy mà cháu chẳng cảm thấy nóng chút nào, ngược lại cảm thấy đầy sợ hãi. Hai ngọn nến cháy được một chút thì tắt. Cháu vội vàng thắp hương cho đức thần hoàng thì mọi sự lạ mới chịu dừng lại. Đêm thứ ba khi cháu đi ra đình làng lần này xe không trật dây sên cũng không gặp sự lạ nên cháu cũng yên tâm hơn hẳn, nhưng cho đến nữa đêm khi cháu đang ngủ thì nghe thấy tiếng gõ cửa rất to và rõ:
"Cốc, cốc, cốc."
Ban đầu cháu chỉ nghĩ là ai đó thôi, lau bàu một hồi, dụi hai mắt còn đang mớ ngủ, cháu tiến ra phía cổng xem đó là ai.
"Ai đấy, biết bây giờ là mấy giờ rồi không, định không cho ai ngủ à?"
Nhưng lúc này, lại không có ai lên tiếng, cháu dừng tay ở chốt chưa mở cổng vội, cháu mới hỏi lại lần nữa:
"Ai gõ cửa đình đấy, tôi hỏi sao không trả lời hả?"
Vẫn là sự im lặng đấy, ban đầu cháu nghĩ là bọn trẻ con trong làng nữa đêm không chịu ngủ ra đình quậy phá cháu liền quát:
"Con cái nhà ai thế hả? Biết đây là nơi nào không mà quậy, để bà mà bắt được, bà đánh cho nát mông."
Thế là, cháu quay về phía trong ngủ được một lát thì lại nghe thấy tiếng gõ cửa, tiếng gõ cửa cừ đều đều ba tiếng một, ngưng lại một chút thì lại bắt đầu gõ cửa cứ lặp đi lặp lại một hành động. Trong lòng cháu tức lắm, cháu mới điên tiết cầm lấy cái điếu cày, định bụng tóm được là cháu sẽ đập cho một trận. Nhưng khi cháu mở cổng đình ra thì bên ngoài lại chẳng có ai, chỉ có một màu đen tối thui. Cháu dám khẳng định là nếu có đứa nào trêu thì nó không thể chạy thế nào nhanh như vậy được, vì từ hành động cầm điếu cày đến mở cổng đình cháu làm rất nhanh và dứt khoác, trong khi đó tiếng gõ cửa vẫn cứ vang lên liên hồi, chỉ khi cháu mở cửa thì nó mới biến mất. Thấy sự chẳng lành, lần này cháu không quay lại bên trong, quyết định đứng cạnh cửa để canh xem thứ đó là gì, nhìn khe cửa ra phía bên ngoài. Ngoài đình, thì vẫn là một màu đen tối như mực. Đứng canh tầm 30 phút chẳng thấy gì, chân cháu cũng bắt đầu mỏi, khi mà sắp hết kiên nhẫn cháu đang định quay người đi vào bên trong. Thì đột nhiên, thì từ phia xa xa, cạnh chiếc quan tài bên gốc cây gạo thấp thoáng một chiếc bóng màu trắng từ từ xuất hiện, cao lêu nghêo như cây tre vậy nó cứ lập lờ lững thững tiến gần về phía cổng đình. Lúc này, chân tay cứng dờ cả vì sợ, bởi cháu biết cái thứ ngoài kia không phải là người. Bóng đó lững thững lướt tới gần cổng đình tầm 2 mét, thì dừng lại, khi thứ đó dừng lại cũng là lúc tiếng gõ cửa vang lên:
"Cốc, cốc, cốc."
Ba tiếng một, đều như vắt chanh, lúc ấy cháu sợ mình sẽ phát ra tiếng nên lấy tay bịt miệng bản thân lại, thế mà tay chân luống cuống đánh rơi cái điều cày trong tay xuống đất,
"cạch, cạch, cạch."
Lúc này trong đầu cháu nghĩ thôi chết rồi. Sau tiếng điếu cày rơi xuống đất thì chẳng còn nghe tiếng gõ cửa nữa. Lúc đó cháu tò mò lắm, không biết thứ kia có phát hiện ra cháu không nữa. Cháu ghé đôi mắt nhìn qua khe cửa thì vừa mới đưa mắt ghé vào, cháu thấy rõ gương mặt của thứ ngoài kia, hai con mắt bị ai đó móc ra treo tòn ten trước mặt, bên trong hai hốc mắt chảy ra một thứ nước màu xanh đục. Sợ quá, cháu ngã người về phía cháu, môi mím chặt không dám thốt lên tiếng. Không biết nó thấy cháu không, cháu liền quay người bỏ chạy về phía bên trong. Cháu vừa quay lưng đi thì bên ngoài vang lên tiếng cười quỷ quái đến đang sợ:
"Khà khà, khành khạch, hí hí.."
Rồi tiếng đập cửa vang lên dồn dập:
"Rầm, rầm, rầm.."
Lần này thì không còn là tiếng gõ cửa nữa mà là tiếng đập cửa dồn dập như thể thứ kia đang muốn đập cửa xong vào bên trong vậy. Cháu không dám dừng lại nữa, cháu chạy thẳng đến bàn thờ đức thần hoàng làng. Khi hương vừa cắm vào bát, thì tiếng gõ cửa ngoài kia biến mất, cháu quỳ xuống khấn vái đức thành hoàng. Nhưng chú biết gì không, chỉ cần hương vừa tắt là tiếng gõ cửa lại vang lên, ngoài ra cháu còn nghe thấy tiếng bước chân trên mái đình, tiếng xào xạc. Nhận ra điều đó cháu không dám để nhang tắt thêm lần nào nữa, chỉ cần nhang vừa tàn là cháu lại đốt thêm đợt mới, cứ thế cho đến khi trời sáng, cháu lật đật dắt xe chạy thẳng qua đây để thưa chuyện với chú.
Tôi nghe xong chuyện, mặt tái xanh, tôi nép người vào lưng ông, đặt tay lên vai ông tôi thấy người ông cũng hơi run run, ông tôi mới nói:
"Thế này đi, trưa nay cháu ở lại đây ăn cơm với chú, tí nữa chú cho con bé Mây chạy sang nhà các vị mời các vị ấy qua đây, hai cái đầu thì không thể nào bằng nhiều cái đầu được. Trong bữa cơm cháu hãy kể lại mọi chuyện một lần nữa, xem các cự ấy nói thế nào. Đồng thời xin ý kiến các cụ xử lý chiếc quan tài đó thế nào.
Nói chuyên với bác Tư xong, ông quay đầu sang nói với tôi.
" Mây, cháu chạy sang nhà các vi bô lão trong làng qua nhà mình dùng cơm, các vi có hỏi cứ bảo có chuyện gấp, ông mời các vị sang dùng cơm để ông thưa chuyện. "
Thế là tôi ba chân bốn cẳng, chạy sang nhà các vi bô lão, mời các các cụ sang nhà dùng cơm như lời ông đã dặn. Trưa hôm đấy có ba cụ qua nhà tôi, cơm canh đã được dọn sẵn. Trong quá trình dùng bữa, ông tôi mới mở lời:
" Thưa các cụ bô lão, chẳng là hôm nay tôi mời các cụ qua đây là có việc, mà việc này thì nó rất hệ trong liên quan đến sự an nguy của cả làng. "
Nghe vậy, cụ Xuân mới lên tiếng:
" Có việc gì, anh cứ trình bày cho chúng tôi nghe. "
Thế là bác Tư mới kể lại hết đầu đuôi mọi việc diễn ra trong ba ngày qua. Mọi người đều im lặng lắng nghe. Nghe xong, mặt cụ nào cũng căng thẳng. Cụ Xuân mới lên tiếng:
" Đấy thấy chưa, tôi đã bảo cái quan tài này có vấn đề mà, giờ thì cô Tư bị nó trêu rồi đấy. "
Nghe vậy, cụ Mạnh mới lên tiếng phản bác:
" Thế hôm đào quan tài sao không thấy ông nói gì cả, ông còn bảo quan tài có niên đại ngàn năm cơ mà. "
Thế là cụ Xuân và cụ Mạnh mới quay sang cãi nhau, cuối cùng cụ Thiên mới lên tiếng khuyên ngăn:
" Này hai người có thôi đi không, bây giờ không phải lúc cãi nhau, giờ phải nghỉ cách giải quyết cái quan tài. "
Sau một hồi thảo luận, mấy cụ, ông tôi và kể cả bác Tư, chẳng ai có cách giải quyết cả. Nhưng các cụ vẫn quyết định đào chiếc quan tài để sau đình vì nếu đó là vật tà ác để trước cổng đình thì không hay. Thời gian này, bác Tư đừng ngủ lại đình nữa, ban ngày chỉ cần qua dọn dẹp là được. Bàn bạc xong mọi người tiếp tục dùng bữa.
Đêm hôm đó, sau một đêm say sưa cũng đám bạn già, lão Năm điên đang say xưa lững thững đi bộ trên con đường làng mà về nhà, vừa đi lão vừa ngao nghêu hát rồi cười rồ cả lên. Bổng từ đằng sau lưng lão vang lên tiếng chạy rầm rập rồi tiếng ngựa hí dài. Đang trong cơn say mơ màng lão ta mới quay ra quát:
" Bố con ngựa nhà ai, để xổng chạy ra hù dọa ông thế này, có tin ông đây bắt lại thịt ăn không hả? "
Vừa quay ra đằng sau, nheo nheo hai con mắt lão thấy hai cái đốm màu xanh lơ lửng u ám, sáng quắc đang bay lơ lửng về phía lão. Lão Năm điên thấy thế mới khom lưng nhặt viên gạch ven đường nén thẳng về phía hai cái đốm xanh ấy, vừa ném lão vữa chửi:
" Đứa nào đó, đứa nào trêu ông, có tin ông ném chết không hả? "
Vừa chửi dứt câu, lão lại nghe tiếng ngựa hí vang lên một lần nữa, rồi hai cái đốm sáng kia lao thẳng về phía lão mà chạy. Lão Năm điên lúc này cũng có chút hoảng rồi, lão mới quay người bỏ chạy vừa chạy lão vừa la to:
" Bớ người ta ơi cứu tôi với có ma, cứu với có ma, có ma.. "
Cứ thế lão chạy bán sống bán chết, chạy đến gốc cây đa đầu làng thì lão ngồi phịch xuống, thở hổn ha hổn hển, quay đầu lại thì không thấy hai cái đốm kia đâu nữa, đang thở phào nhẹ nhỏm, lão đứng dậy đang định đi về nhà thì đột nhiên đập vào mắt lão là một thân ảnh to lớn, với đôi mắt màu xanh sáng quắc, tay cầm cây thương to, xung quanh thân ảnh bốc lên những làn khói màu đen quỷ dị. Lão Năm điên trong miệng chỉ kịp phát lên những tiếng kêu ú ớ rồi ngã bịch xuống đất. Thân ảnh kia lúc này, mới từ từ tiến lại về phía lão mà tóm cổ lão lên, vừa xách hắn vừa nói:
" Chạy đi, mày đi cho tao xem nào.. "
Còn chưa kịp để lão Năm điên phản kháng thì thân ảnh kia dùng tay tóm chặt lấy cổ lão, chặt đến nổi hai cái hốc mắt cứ thế lồ cả ra, mặt đảo đỏ, lười thè ra vắt sang một bên, đầu nghẹo ra một bên. Thấy lão đã chết, thân ảnh kia mới dùng tay thọc thẳng vào người lão mà móc lấy quả tim, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Từ trong cổ họng hắn phát ra một điệu cười quỷ dị, âm lạnh, tiếng cười cứ ngày một dần đầy thích thú. Sáng ngày hôm sau, khi mặt trời thức dậy, bà con trong làng đang chuẩn bị đi lên đồi làm nương khi đi qua cây đa đầu làng thì trông thấy một cảnh tượng kinh hoàng, vứt hết đồ đạc mà hớt lại chạy về phía làng.
" Bớ làng nước ơi, có người chết, có người chết ở gốc đa đầu làng, mau chạy ra mà xem.. "
Khi bác Tư và ông nội tôi đang ngồi trước bàn nước hiên nhà nói chuyện thì mọi người la thấy tiếng khóc thảm thiết, la ó. Thấy ồn ảo bác Tư với ông nội tôi mới chạy ra xem, tôi cũng chạy theo để hóng hớt. Ngạc nhiên, bác Tư mới kéo một người đi đường lại hỏi chuyện:
" Có chuyện gì mà mấy người xúm nhau chạy ghê dữ vậy? "
Người phụ nữ kia mới gấp đáp:
" Có người chết rồi mà bác Tư không biết gì à, có người chết ở gốc cây đa đấy, bác mau chạy ra xem đi. "
Nghe vậy, ông nội tôi và bác Tư mới chạy ra xem. Tới gốc đa làng thì mới phát hiện người chết là lão Năm điên. Người lão be bét máu, đầu lão nghẹo ra một bên, lưỡi thì thè cả ra, quả tim thì bị ai đó lấy mất và một điều kinh sợ hơn nữa là hai con mắt lão trợn trừng cả lên như muốn lồ ra bên ngoài. Một lúc sau, thì công an cũng xuống làm việc mới bà con trong làng. Sau khi lấy lời khai cùng với khám nghiệm hiện trường thì công an mới đưa ra kết luận đây là một vụ án giết người. Thi thể được công an bàn giao cho người nhà Lão Năm điên để lo liệu an táng, Vợ lão là bà Lý thấy chồng mình chết thảm như vậy mới khóc ngất cả đi. Thương thay có người chồng người cha xấu số của mình. Thời gian thấm thoát thoi đưa rồi ngày đưa đám tang của lão cũng đến. Theo tục lệ của làng đáng tang lão sẽ diễn ra trong 2 ngày. Trong hai ngày diễn ra đám ma lão năm điên thì không biết lũ quả từ đâu cứ bay đến đậu kính cây xoài nhà lão Năm điên mà kêu:
" Quạ, quạ, quạ.. "
Tiếng quạ kêu ầm ĩ ngoài cổng, bên trong là người nhà lão Năm điên trên đầu ai cũng đeo khăn tang, xen lẫn tiếng quạ kêu là tiếng khóc thê lương của người thân lão Năm điên, kết hợp với nhau tạo nên một khúc ca kinh dị đến rợn người. Những ngày đó thì ông tôi cũng ít nói, ít cười đi hẳn, cứ chiều chập tối khi tiếng quạ kêu khắp làng thì ông tôi cũng đi ra trước cửa, nhìn về phía nhà lão Năm điên mà thở dài thườn thượt, đôi mắt đầy sự lo lắng, mà ông tôi đang lo lắng chuyện gì thì tôi chẳng thể nào hiểu được.
Sau ngày lão Năm điên chết, tiếng quạ vẫn vang vọng mỗi đêm, hôm nào cũng thế, khi chiều tà, lúc sẩm tối, chúng nó cũng kêu réo ầm ĩ, khiến cho bầu không khí của một làng quê vốn dĩ yên bình, bỗng trở lên quỷ dị. Nhiều lần thấy ông tôi cứ trầm tư, ít nói, có lần bác Tư ghé ngang hỏi thăm:
" Chú sao dạo này, cháu thấy chú ít nói, có chuyện gì hả chú? "
Ông tôi thở dài nhìn bác Tư rồi đáp:
" Cháu không thấy lạ sao, chú nghĩ rằng cái chết của lão năm điên không đơn giản như vậy đâu, chắc chắn nó có liên quan gì đó đến chiếc quan tài ma quái kia. Cháu không thấy sao từ ngày lão ấy chết, đàn quạ cứ tự tập ở nhà lão. Loài quạ là biểu tượng của cái chết, chúng rất mẩm cảm với âm khí. Nó đậu trước cổng nhà lão chứng tỏ nhà lão có âm khí cực thịnh mới có thể thu hút được nhiều quạ đến vậy. Từ ngày lão Năm điên chết không khí trong làng cũng vì thế mà âm u đến lạ. Nhưng mà, chú nghĩ đây chỉ là sự im lặng này chỉ là nhất thời trước khi cơn giông thật sự kéo đến.
Sau hôm ấy, ông tôi ngày càng ít nói hầu như không nói chuyện với ai. Từ sáng đến tôi ông nhốt mình trong phòng suy nghĩ chuyện gì hệ trọng lắm. Rồi chuyện gì đến rồi cũng phải đến, chẳng ai có thể thay đổi được dòng chảy của thời gian, ngày đưa ma lão Năm điên cũng tới. Mọi người đều tập trung lại ở nhà lão năm điên, chuẩn bị đưa quan tài lão ra đồng. Mặc dù có vài người nhát gan sợ hãi khi thấy cảnh tượng ở gốc cây đa cùng với đàn quạ nhà lão mấy ngay nay Nhưng âu, ông bà có câu nói "Bán anh em xa mua láng giềng gần." Người chếtt thì cũng đã chết nhưng cái tình cái nghĩa thì vẫn còn mãi. Tiền tài vật chất rồi sẽ trôi theo cát bụi chỉ có cái tình cái nghĩa sẽ mãi còn ở đó dù cho người kia đã đi khuất xa. Dân làng bu đông lại trước cổng nhà lão Năm điên. Tiếng kèn, tiếng trống, xe lẫn tiếng khóc của người thân trong nhà, khiến ai nấy cũng ngậm ngùi chua xót, tôi cũng rơm rớm nước mắt.
"Thùng, thùng, beng, beng.."
Mấy anh thanh niêm xúm lại, khiêng quan tài lên xe tang của làng đậu trước cổng, Thằng Tèo con lão Năm điên cầm di ảnh đi về phía trước, vợ lão thì khóc nhiều quá, không khóc nổi nữa, mất sức mà ngất lịm đi. Mấy thím trong họ hàng phải xúm lại dìu lấy, cố lê lết bước chân theo quan tài. Việc chẳng có gì đáng nói nếu đây chỉ là một đám ma bình thường. Nhưng khi quan tài được khiêng ra khỏi cổng thì lũ quạ đậu trên cành cây xoài như bị kích thích bởi một thứ gì đó chúng kêu ầm cả lên.
"Quạ, quạ, quạ.."
Mặt mọi người ai cũng biến sắc vì ai cũng đều biết quạ biểu tượng cho điềm xui. Người dân trong làng thấy thế mới lấy đá ném vào mấy con quạ nhằm đuổi bọn chúng đi nhưng cũng ăn thua, đuổi được một lúc, bọn chúng lại bu đầy cành cây xoài mà kêu. Thế là cũng đành mặc kệ bọn chúng, tổ chức đám tang như bình thường. Thì hai anh đi đằng phía trước, tự nhiên khụy gối xuống xem tí thì ngã. Mới người hết cả hồn, Ông tôi mới nói:
"Này, này, mấy chú làm ăn cho đàng hoàng vào coi chừng làm rơi chiến quan tài bây giờ."
Hai anh thanh niên sau khi lấy lại được thăng bằng mới cao giọng quát:
"Đứa nào nghịch ngu thế hả? Kéo chân tao vậy."
Mấy người xung quanh mới thấy lạ dáo dác nhìn khắp nơi. Ông tôi mới quay sang hỏi ngược:
"Mấy chú nói gì thấy lạ vậy, làm gì có ai kéo chân hai anh đâu."
Hai anh thanh niên quả quyết:
"Hai bọn cháu thề, lúc nãy có ai đó kéo chân bọn cháu."
Nghe hai anh thanh niên nói chắc nịch như vậy, nhanh thoăn thoắt ông tôi tiếng gần đến một anh thanh niên kéo quần lên rồi hạ xuống. Chẳng ai thấy được gì vì tấm lưng của ông đã che đi. Ông tôi cau mày đứng dậy tiến về phía một bà con trong gia đình lão Năm điên gì đó. Người họ hàng kia nghe xong thì sợ hãi gật đầu lia lịa quay sang nói với người nhà cái gì đó. Còn ông tôi ra hiệu cho mấy anh thanh niên giữ nguyên vị trí. Người nhà lão Năm điên lấy tiền vàng mã đốt trước cổng nhà. Còn ông tôi vừa cầm gạo muối rãi quanh chiếc xe quan tài vừa lẩm nhẩm "Gạo muối vãi ra, ma tà tránh xa." Xong việc, ông tôi ra hiệu cho bốn anh thanh niên đưa quan tài lão Năm điên lên xe tang. Cứ tưởng mọi chuyện đã xong, nhưng không ngờ biến cổ lại xảy ra. Bốn anh thanh niên đang khiên chiếc quan tài thì tự nhiên khụy cả xuống xem tí thì quan tài đã chạm đất. Có người phản ứng nhanh, mau chóng qua đỡ lấy chiếc quan tài. Ông tôi mới tức giận quát lên:
"Có mỗi chiếc quan tài mà bê cũng không xong, đàn ông con trai sức dài vai rộng mã cứ ngã lên ngã xuống, nhắm làm được không đây?"
Bốn anh thanh niên trán đổ mồ hôi như mưa, một anh thanh niên trong đấy mới cười gượng:
"Không phải ông ơi, chiếc quan tài, đột nhiên chiếc quan tài.."
Anh thanh niên vừa thở vừa nói như kiểu cực kì tốn sức, điều này lại khiến cho ông tôi càng thêm giận dữ mới gầm lên:
"Quan tài làm sao?"
Anh kia mới nói lớn:
"Quan tài nặng lắm ông ơi.."
Mọi người nghe vậy thì ngớ hết cả người, ông tôi cũng vậy. Chẳng tin vào sự lạ, ông tôi lại kê vai bê thử. Thì lúc này ông tôi hết sức ngạc nhiên thân hình lão Năm điên gầy như vậy sao đột nhiên lại nặng như vậy? Lúc này ông tôi mới vội vàng quát lên:
"Tuyệt đối, tuyệt đối không được để quan tài chạm đất nghe rõ chưa, vợ lão Năm điên đâu rồi?"
Vợ lão Năm điên nghe ông tội gọi, giật mình đi về phía ông.
"Dạ cháu đây ạ."
Thấy vợ lão Năm điên, ông tôi gật đầu nói:
"Cháu khóc đi, khóc lớn vào, lão Năm điên không muốn rời nhà, cô khuyên bảo nó đi."
Nghe ông tôi nói vậy, vợ lão Năm điên mới gào lên khóc đau đớn.
"Ôi chồng ơi, sao anh nỡ bỏ mẹ con em mà đi thế này hả, anh chết oan quá. Ôi chồng ơi, nếu thương tiếc quá thì anh ở lại với em cũng được đừng đi đâu hết."
Ông tôi sợ hãi quát lên:
"Trời ơi, cô khóc gì thế hả? Cô khuyên gì thế hả? Người nhà đâu? Mau mau bịt miệng cô này lại?"
Ông tôi rối rít cả lên, có mấy người nhà tính đến bịt miệng lại nhưng lại cảm thấy làm như vậy là quá thất đức. Cứ chần chừ, lưỡng lữ mãi bước đến rồi lại thôi. Ông tôi lần này, thì không cong giữ được sự điềm tĩnh nữa mới chửi thẳng:
"Ngu, quá ngu, ngu vừa thôi trời ạ. Khóc như vậy lão Năm điên sẽ không chịu đi. Lão mà không đi thì làng này sẽ chết hết, cái nhà này cũng chết hết, mẹ nó chứ, tôi mặc xác các người đấy."
Ông nhìn xung quanh không thấy tôi, ông quát:
"Con Mây đâu rồi, lại đây với ông, chúng ta đi về mặc xác bọn này."
Thấy ông tôi nổi trận lôi đình, thằng Tèo mới tiến về phía ông tôi mà nói:
"Ông ơi, ông bớt giận.."
Mấy người lúc này mới chịu tiến đến bịt miệng vợ lão Năm điên lại. Lúc này mấy anh thanh niên đang khiên chiếc quan tài lão năm điên mới đột nhiên hét lớn:
"Trời ơi, sao quan tài càng lúc càng nặng thế này, có ai không lại đây giúp một tay với, sắp chịu hết nổi rồi."
Thấy thế, có vài người chạy đến giúp, mấy người đỡ lấy quan tài, ai cũng nghiến răng, người run run, mặt thì lấm tấm những giọt mồ hôi. Lúc này, ông tôi mới tiến gần đến chiếc quan tài rồi quay người sang bảo với họ hàng nhà lão Năm điên:
"Lấy cho tôi một con dao, à mà thôi mang cây xà beng lại đây."
Rất nhanh người nhà làm theo lời ông tôi nói. Ông đứng trước quan tài thấp 3 nén hương trên nắp quan rồi nói với mấy người khiên quan tài hạ thấp quan tài xuống rồi nói:
"Lão Năm điên, lão đã chết, cái chết của lão thì bà con trong xóm làng vô cùng thương tiếc, điều này chắc lão cũng biết rõ. Âm dương khác đường, hà cớ gì lão cứ mãi vấn vương ở dương gian mà không chịu rời đi. Điều này không tốt cho gia đình cũng như mọi người xung quanh. Nay ta ép lão rời đi, nhớ là ép, không phải thương lượng. Nếu không chịu đi ta đành đóng vai ác, mở quan tài đem thi thể đi thiêu điều này chắc lão cũng không muốn mà phải không."
Nói rồi, ông ra hiệu cho những người khiên quan tài giữ nguyên vị trí, không được cử động. Mọi người cung quanh đều nghe rõ những gì ông tôi nói, mọi người đều nín thở chờ đợi, thời gian chậm chạp trôi qua. Ánh mắt của tất cả mọi người đều nhìn về một hướng đó là ba nén hương trên nắp quan tài. Điều gì đến rồi cũng sẽ phải đến, ba nén hương trên nắp quan tài cũng tàn dần đi. Ông tôi liền ra hiệu cho đám người nâng quan tài lên. Cả nhóm cố nâng lên rồi nhanh chóng khụy xuống. Mấy người đồng thời lắc đầu, ý hiệu là quan tài rất nặng. Ông tôi thở dài thườn thượt rồi nói:
"Lão Năm điên, nếu lão đã quyết định như vậy thì đừng trách tôi độc ác."
Nói rồi, ông tôi cầm xà beng trên tay, định bụng sẽ phá quan tài thì bỗng mấy anh thanh niên mới cất giọng nói:
"Nhẹ rồi, khiêng được rồi.."
Ông tôi lúc này mới hạ cây xà beng trong tay xuống, ra hiệu cho mấy anh thanh niên cứ tiếp tục tổ chức như bình thường. Rồi nói:
"Vợ lão Năm điên đâu rồi?"
Một người họ hàng mới chạy ra và nói:
"Dạ bà ấy khóc nhiều quá, ngất đang nằm bên trong ông ạ."
Nghe vậy ông tôi liền đáp:
"Chú cho mấy người dìu bà ấy đi theo."
Giọng ông tôi chắc nịch, người họ hàng kia bối rối đáp:
"Nhưng mà.."
"Tôi không cần biết, mấy người làm cách nào thì làm, nhất định phải đưa bà ấy ra đồng, điều này chỉ có lợi không có hại."
Nghe ông tôi nói xong, người kia vừa khóc vừa nước mắt lăn dài rồi vâng dạ làm theo. Thế là mọi việc lại diễn ra bình thường, cờ phướn đi đằng trước, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng khóc, rồi đến chiếc xe tang do mấy người kéo đi phía sau. Trên bầu trời, mấy con quạ đen không chịu ở yên trên cây, mà chúng lũ lượt bay theo, kêu lên inh ỏi:
"Quạ, quạ, quạ.."
Cách làng Đông Dương khoảng hai ngàn cây số về phía bắc, có một làng nữa người ta gọi đây là Đông Anh. Nơi đây có một ngôi điện thờ khang trang được dựng ngay giữa làng, náo nức người ra kẻ vô. Ngôi điện thờ có tất cả ba gian lớn, nằm trên mảnh đất rộng độ khoảng 300 mét vuông. Ở đây có vườn, áo cá, cây cảnh các loại. Trong khung cảnh toát lên vẻ cổ kính, ngôi nhà được xây theo lối cổ điện. Ngôi điện trông đông đúc như vậy vì do hôm nay là ngày lễ nhà Trần. Ngôi điện này trước là cụ chín nhưng nay đã về hưu để cho cháu của mình là đồng thầy Trung làm thủ nhang. Cậu Trung hai mươi bảy tuổi dòng đồng nhà Trần đời thứ chín. Cậu được truyền pháp đạo từ ông nội cậu là cụ chín. Cụ chín tuổi già sức yếu, nhận thấy cháu trai của mình cũng đã đến tuổi phụng sự nên năm ngoái cụ đã lên điện xin Cửu Thiên Vũ Đế mãn hạn phụng sự truyền lại cho đời sau. Bước qua cánh cửa điện đi vào bên trong, người ta không khỏi choáng ngợt trước khung cảnh nơi đây. Đập vào mắt là khung cảnh vô cùng hoành tráng và uy nghiêm, những cây trụ cột gỗ liêm cao to hai người ôm không hết. Trên những cây cột là những con rồng được trạm trỗ vô cùng tinh xảo. Bên trên cao được treo những bức tranh cổ vô cùng quý giá. Tất cả đều được sơn son thép vàng vô cùng uy nghiêm. Hương khói lúc nào cũng ngào ngạt, bên trong chia làm ba gian và được chia làm các hàng.
Ban ở giữa được gọi là ban công đồng với hàng trên cùng cao nhất là thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Tiếp đến là hàng thứ hai thờ vua cha Ngọc Hoàng kế bên là hai vị quan Nam Tào và Bắc Đẩu. Tiếp đến là hàng thứ ba là thờ Tam Tòa Thánh Mẫu gồm có Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên, Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn và Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ. Hàng thứ tư thờ Ngũ Vị Tôn Quan. Hàng thứ năm thờ Ngũ Vị Quan Lớn. Hàng thứ sáu thờ Tứ Vị Chầu Bà. Hàng thứ bảy thờ Thập vị Quan Hoàng. Hàng thứ tám thờ Hoàng Cô và Hoàng Cậu. Hàng cuối cùng thờ Thần Ngũ Hổ.
Đêm hôm ấy sau khi kết thúc buổi lên đồng cậu Trung nằm trong căn buồng nhỏ. Trong mơ cậu thấy mình đang đứng ở một nơi tràn ngập ánh sáng. Cậu nhẹ nhàng bước đi từng bước chậm rãi thì cậu nhìn thấy chân mình đang dẫm lên vật gì đó mềm mềm nhìn giống như những đám mây vậy. Từ trên cao cậu thấy một vầng ánh sáng chói lòa chói đến mức cậu bất giác nhắm đôi mắt lại đưa tay lên để che bớt ánh sáng.
Dần dần trong thứ ánh sáng đó xuất hiện một người phụ nữ mặc áo lụa xanh trên vạc áo thuê những họa tiết bông hoa tinh tế, đầu đội khăn buồm màu xanh, cổ đeo kiềng vàng, ngồi trên tòa hoa sen bên cạnh là mười hai cô tiên nàng hầu cận, cậu Trung lúc này cũng đã mở mắt từ từ bỏ tay xuống vì cũng đỡ sáng. Cậu ngửa mặt lên nheo nheo đôi mắt để nhìn cho rõ. Chợt trong không trung vang vọng lên âm thanh nghe vô cùng trang nghiêm.
"Chuông đền văng vẳng sớm hôm
Xa nghe tiếng hú gọi rừng hồn vang
Mẫu Đệ nhị ngự giá cung trung."
Nghe xong cậu Trung bất giác quỳ xuống hai tay đưa ra phía trước mà hành lễ.
"Đồng Trung xin được yết kiến Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn."
Thân ảnh dần hiện rõ ra đó là Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay còn được gọi là Quế Hoa công chúa. Mẫu ngồi trên tòa sen ngự trên tầng mây cất giọng vô cùng ấm áp nhưng cũng không kém phần uy nghiêm.
"Đồng Trung con hãy đứng lên."
"Dạ vâng thưa mẫu, không biết có gì khiến mẫu phải cất công đến tìm con như này vậy ạ."
"Ta đến đây chỉ muốn báo cho con một tin, có một đại nạn đang xảy ra ở một ngôi làng khuất sâu nơi núi rừng Tây Nguyên tên là Làng Đông Dương. Người dân nơi ấy đang cần sự giúp đỡ của con."
"Dạ vâng thưa mẫu"
"Chặng đường sắp tới của con sẽ vô cùng nguy hiểm con sẽ phải đối đầu với một thế lực tà ác, có người trong làng tiếp tay cho quỷ và kẻ thù nước Đại Việt ta đã xuất hiện hắn chính là Phạm Nhan pháp lực vô cùng thâm hậu, e rằng chuyến đi này sẽ lành ít dữ nhiều đồng Trung ạ."
"Dạ vâng thưa mẫu, con biết chặn đường sắp tới của con sẽ vô cùng gian lao và khó khăn nhưng con là con nhà mẫu trên lo việc thánh dưới gánh việc trần, dù khó khăn hay nguy hiểm thế nào con cũng chịu tuyệt đối không khoái thác, nguyện đem tính mạng này để đổi lấy sự yên bình cho người dân, thưa mẫu."
"Ta biết ta cũng rất thương con dân của ta và cũng rất thương con là một đồng thầy trên lo việc nhà thánh dưới gánh vác việc dân gian cứu dân, nên ta mới trực tiếp đến đây để thông báo cho con và con yên tâm ta sẽ luôn dõi theo chặng đường cứu người diệt quỷ của con."
"Dạ thưa mẫu sắp tới con sẽ đối đầu với bọn quỷ liệu có cách nào để hàn phục bọn quỷ đó không mẫu."
"Thiên cơ không thể tiết lộ, đến lúc đó mọi chân tướng sẽ tự khắc xuất hiện, hãy nhớ pháp lực của bọn quỷ này rất uyên bác con phải hết sức cẩn trọng, ta chỉ có thể giúp con đến đây, còn đâu sẽ phụ thuộc vào con."
"Giờ ta phải đi rồi, con yên tâm ta sẽ luôn giỏi theo con."
"Dạ vâng con xin ghi nhớ lời dạy của mẫu ạ."
Từ trong không trung lại vang lên một giọng nói ấm áp nhưng vô cùng trang nghiêm.
"Xe loan thánh giá hồi cung."
Bóng của Mẫu đệ nhị mờ dần mờ dần rồi tan biến trong không khí, cùng lúc ấy cậu Trung bừng tỉnh lại mồ hôi ướt đẫm trên trán. Không chần chừ, cậu bước chân ra khỏi buồng súc miệng rồi thay y phục pháp sự. Nhớ lời ông dặn, cậu lên điện xin lệnh nhà thánh đi hành sự. Xoay hai đồng xu cổ mãi mới được nhất âm nhất dương tất là được phép đi hành sự. Trong hôm đó cậu khởi hành đi ngay lập tức.
Hết
Link thảo luận góp ý: [Thảo luận - Góp ý] - Các Tác Phẩm Của Tác Giả Búnn