1 người đang xem
186 0
Vẻ đẹp miên viễn giàu bản sắc trong "Miền đất của trường ca" của Trần Khoái

Tác giả bài viết: Lê Gia Hoài

501301990_1728913944658583_8094625197255866262_n.jpg


499827691_1728913814658596_166432235990540201_n.jpg

Với người sáng tạo thơ chuyên nghiệp, mỗi bài thơ được viết ra dù dài ngắn, dù nông sâu bao nhiêu thì bài thơ ấy cũng chỉ như một nốt nhạc đơn lẻ trong một bản nhạc mà thôi. Thế nhưng khi người viết thơ sản sinh ra một trường ca lại là truyện hoàn toàn khác. Bởi trường ca bằng thơ là "tổng hòa" các nốt nhạc với đa dạng các cung bậc âm sắc, giống như một bản giao hưởng âm nhạc hoàn chỉnh có kết cấu chặt chẽ, có nội dung phong phú và mang lại cho đời một ý nghĩa nhân sinh cao cả nào đó. Trong hành trình sáng tác của mỗi thi nhân, có một trường ca trình làng đã là niềm tự hào sâu sắc với bạn đọc rồi. Ấy vậy mà nhà thơ Trần Khoái (Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phúc, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam) đã có đến 3 trường ca dày dặn, "có sức nặng đáng kể" trong sự nghiệp sáng tác thơ ca cho đến thời điểm này. Trường ca thứ ba "Miền đất của trường ca" do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tháng 4 năm 2024 được chia làm 5 phần với độ dày 86 trang in, là kết quả của sự thai nghén gần nửa thế kỷ về miền cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang mà nhà thơ muốn trình làng khi ông đã bước qua tuổi bát tuần.

"Miền đất của trường ca" mà Trần Khoái muốn giới thiệu với với chúng ta là cao nguyên đá Đồng Văn thuộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ở biên độ hẹp nội dung của trường ca phản ánh hình ảnh thiên nhiên và con người quanh khu vực cao nguyên đá Đồng Văn trong suốt chiều dài lịch sử từ thuở hồng hoang cho đến hôm nay. Tuy nhiên đó chỉ là nền tảng để nội dung tư tưởng của trường ca vươn rộng phản ánh toàn bộ vẻ đẹp của quê hương đất nước và con người Việt Nam "chốn biên thùy", phía Bắc của Tổ quốc. Đó là nơi "Tôi choáng ngợp trước bao la hùng vĩ/ Núi sông quê mình, làng bản yêu thương.." (Trang 70 ).


489201007_4018633045119357_2682485749715986669_n.jpg

Những câu chuyện hiện lên trong tác phẩm "Miền đất của trường ca" không được thiết lập theo trình tự tuyến tính thời gian thuần túy như: Cổ, trung, cận, hiện đại mà được Trần Khoái dẫn dắt theo "xúc cảm chủ quan" qua nhiều thời điểm khác nhau để phù hợp với chủ đề của từng chương trong toàn bộ tác phẩm. Tư liệu để nhà thơ viết nên trường ca là những gì ông tìm thấy trong kho kiến thức đồ từ sách báo, trong các tài liệu khoa học mà ông gặp được (thế mới thấy sức đọc của Trần khoái lớn đến như thế nào) và cả những "kỷ niệm" đặc biệt từ những chuyến "du ký" về với miền đất Hà Tuyên cùng với bạn bè và những đồng nghiệp thân quý từ thuở thanh xuân.

Mở đầu trường ca là những dòng tự sự (Trước đá) của tác giả. Viết về Đồng Văn, về Hà Giang, nhà thơ coi như "Định mệnh dành cho ta" (tr. 13), giống như có lần ông tâm sự: ".. Tôi như bị ám ảnh bởi những núi đá xám tai mèo trập trùng cao thấp, một dòng Nho Quế như mơ như thực. Những ô xòe nghiêng ngả, những lễ hội cuồng nhiệt, những địa danh với tên gọi lạ kỳ, hấp dẫn hoang sơ và cứ miên man là tiếng ong bay vào mùa làm mật.. Chạm vào đâu của miền đất Cao nguyên Đồng Văn hùng vĩ cũng là nguồn cảm xúc bất tận cho thi ca.. (Tr. 8)" . Ý tưởng viết thiên trường ca này có lẽ được bắt đầu khi Trần Khoái có lần đầu tiên được chạm vào Mèo Vạc, Đồng Văn, Mã Pì Lèng, "Nhìn xuống thung sâu bập bềnh mây trắng.. / Trong vạt nắng chiều ta như bị thôi miên.. (tr. 15)" . Ngay lúc này đây nhà thơ đã liên tưởng tới "chuyện Thạch xanh bà kể", đến khi trở về Phó Cáo trước "Nồng nàn ngọn lửa kể ta nghe.. (tr. 20)", nhà thơ đã suy nghĩ rất "lung" về huyền tích Âu Cơ – Lạc Long Quân với ".. Lời truyền dạy vang miền đá xám/ Đây là nơi đỉnh đầu Tổ quốc.. / Giang sơn gấm vóc khởi nguồn.. (tr. 22)". Có thể thấy hai dữ kiện lịch sử từ thời đại Hùng Vương dựng nước (Truyền thuyết Âu Cơ - Long Quân và Thạch Sanh) đã được tác giả nhắc tới như một sự khẳng định mạnh mẽ Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang là nơi bắt đầu của Tổ quốc Việt Nam. Có thể nói chương I đã khai mở cho độc giả những liên tưởng khá thú vị khi bắt đầu chạm vào "Miền đất của trường ca" .


488712974_4015559665426695_5293059489653276548_n.jpg

Nếu chương một là những câu chuyện ngấm màu huyền sử thì chương II (Biên ải) lại là những khúc ca đầy ắp hiện thực, diễn giải chi tiết về đời sống tinh thần, đời sống nội tâm của các dân tộc miền "Biên ải" hoang sơ, bản sắc. Mở đầu tác giả hồi nhớ về "miền biên ải tuổi thơ" . Đó là miền biên ải mà "Ta đã nghe", đã thấy, đã bị"ám ảnh" qua lời kể, lời hát não lòng của "Những người đàn bà cuối bãi đầu sông.." suốt đời bị"Những bùa ngải, đường rừng, nước độc ma thiêng.." ám trú trong lòng. Ước mơ "Một lần về biên ải hóa chứng nhân" đã trở thành "khát vọng", "dồn nén", "thức gọi" suốt tuổi thơ, suốt thanh xuân để rồi nhà thơ đã trở về biên ải "Khi tuổi ngoại bốn mươi/ Đủ sức vui buồn trước một vùng đất nước.. (tr. 25)". Biên ải hiện ra trước mắt "chàng thanh niên đã luống tuổi" bằng sương bằng thịt. Trong nội tâm chàng đau đáu một câu hỏi"Biên ải thế này sao"? Câu hỏi đánh thức trái tim chàng, đánh thức trái tim người đọc về cuộc sống miền biên viễn thật "Thân thương bình dị" . Chàng biết "Bên kia là xứ người", bên này là "Lịc sử không trang nào không chiến trận" . Chàng "Ngồi đây suy ngẫm" và nhận ra biên ải vẫn "Còn em/ Hồn nhiên váy áo.." cùng chàng ngày mai xuống chợ. Đến đây toàn thể những "đặc sản" chợ vùng cao - nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng điển hình của người dân tộc thiểu số phía Bắc, được hiện lên qua những hình ảnh thân thương đến nao lòng. Chắc chắn nhà thơ Trần Khoái đã rất "ám ảnh" với những thanh âm, những sắc màu của những phiên chợ vùng cao nên ông đã thốt lên: "Cao nguyên nghiêng về phía chợ/ Làng bản nghiêng về phía chợ/ Người dồn về phía chợ.. (tr. 31)" . Để rồi đắm đuối, ngất ngây, không nói thành lời mà chỉ để trái tim nhận biết "Miền biên ải cao nguyên" mang vẻ đẹp miên viễn đầy chất thi ca. Vẻ đẹp miên viễn ấy chỉ có thể "cảm" bằng tâm hồn mà thấu tỏ chứ không thể nắm bắt một cách trọn vẹn sự tinh túy của nó bằng các giác quan đơn thuần.

Tiếp theo mạch cảm xúc, chàng trai kể về miền "Biên ải" là những dòng thơ đượm buồn. Chàng trai "Gạt nước mắt" trong "Ngày em đi lấy chồng", để rồi "Trước em ta muốn khóc", "Cùng bao nhiêu đợt rét tím người" và chàng đã quyết trở thành một thi sĩ viết lên "Những tên đất, tên người dâng liên khúc trường ca.. (tr. 41)". Với ngôi kể linh hoạt, đan chéo, lồng ghép chuyện mình, chuyện người; có lúc nhân vật trữ tình là người trong cuộc, có lúc nhân vật trữ tình là (bản thân tác giả) kể câu chuyện tình.. đã giúp nhà thơ nói lên được nhiều tầng ý nghĩa qua câu chuyện xoay quanh (Biên ải) . Qua những vần thơ tả cảnh, tả tình rất trữ tình và những dòng thơ tự sự đầy chất hùng ca, ta thấy được nếp sống, những biểu hiện của nền văn hóa cộng đồng các dân tộc thiểu số rất đặc biệt, đặc sắc góp thêm vẻ đẹp văn hóa đa dạng của Việt Nam. Có thể nói nội dung tư tưởng trong chương II của trường ca đã được Trần Khoái khắc họa thành công vẻ đẹp trữ tình trong tâm hồn, nếp sống, nếp nghĩ của người vùng cao.


482269799_4012697059046289_5434297521239052775_n.jpg

Phần mở đầu chương III. (Liên khúc trường ca) nhà thơ đã đặt liền 4 câu hỏi. Câu 1 "Nếu không còn đá xám/ Anh về đây làm gì?" ; câu 2 "Nếu không dòng Nho Quê.. / Tìm đâu phiên chợ tình?" ; câu 3 "Nếu không còn thắng cố/ Biết lấy gì mời nhau" ; câu 4 "Nếu không ruộng bậc thang/ Sẽ lấy gì khao khát.. (tr. 45, 46)" . Đây là những câu hỏi tu từ mang tính chất "gợi dẫn" nhằm đưa, hướng cảm xúc của người đọc vượt qua những điều "chạm được" từ ngôn ngữ thơ để liên tưởng đến những hình ảnh ẩn tàng, lắng sâu, vô cùng phong phú và đặc sắc của "Miền đất của trường ca" sẽ xuất hiện ở các phần tiếp theo trong chương III này. Nếu câu hỏi thứ nhất và thứ hai gợi dẫn về hình ảnh thiên nhiên là núi "đá", sông "dòng" thì câu hỏi thứ ba và thứ tư lại hướng đến chủ thể là những sinh hoạt văn hóa liên quan trực tiếp đến đời sống con người vùng cao với hương vị ẩm thực "thắng cố", việc làm thường nhật của đồng bào "ruộng bậc thang". Hai khúc ca về thiên nhiên và đời sống sinh hoạt của người dân miền cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang là hai nhân vật trữ tình "cốt tủy" để tạo nên (Liên khúc trường ca) làm đắm say lòng người.

Ở khúc ca thứ nhất. Khi viết về thiên nhiên trước hết nhà thơ nghẹn lòng, cảm khái về "đất" nơi đây. "Đấy là đất tận cùng Tổ quốc.. (tr45) / Những tên đất hoang sơ dữ dội/ Mã Pì Lèng – Du Già – Lao Sán/ Má Sí, Sà Phìn, Lũng Cú đỉnh non cao.. / Đất khô cằn hoa cỏ mọc miên man (tr51)", "Ôi miền đất một đời anh mang nợ/ Nhìn phía nào cũng gặp trường ca (tr52)" . Những rung cảm về "đất" có phần quằn quại, xa xót, cảm thương được tiếp nối bằng những rung cảm về "sông" . Có thể thấy "Tên sông đẹp.. lãng mạn, bâng khuâng.. Nho Quế mải mê trôi.. như hư như thực""Nho Quế cùng anh chạm vào nhau thổn thức" để suốt đời nhà thơ như thấy mình mắc nợ với dòng sông này một niềm yêu khó nói hết bằng lời. Tất nhiên chỉ nói về đất, sông là chưa đủ để diễn thấu sắc diện thiên nhiên Đồng Văn, thêm một lần nữa nhà thơ nói về "đá". "Đá trụi trần là đá" ông đã "Áp môi vào đá" để nhận lấy từ đá dòng thanh âm về một truyền thuyết tình yêu đầy bi thương () sẽ nhắc ở phần sau.


488258658_4007199752929353_9156054081265361625_n.jpg

Trả lời cho câu hỏi thứ ba và thứ tư, tác giả đã tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây. Trước tiên là hình ảnh "Bàn chân em bám đầy đất đỏ" của một cô giáo đã nguyện gắn bó suốt đời với mảnh đất thiêng liêng này. Một cô giáo yêu nghề, một giáo viên "dũng cảm", "Khi em sống bao mùa đông rét buốt/ Sương làm mờ nét phấn bảng đen.. / Làm cô giáo trên vùng cao hẻo lánh/ Dắt đàn em qua nét chữ ban đầu.. (tr46, 47)" . Gian lao vất vả là có thừa nhưng tâm hồn và tình yêu nghề của cô giáo đẹp đẽ biết bao, đáng trân trọng và khâm phục biết bao. Đến với bản vắng, đến với quẩy tấu, điệu khèn, tiếng trống đồng, "Câu hát, câu thơ dẻo thơm mèm mén", "Đêm mộng ảo tiếng xập xòe kèn lá/ Biết lời yêu đã chín ở đầu môi.. (tr. 50)".. là ta được đến với nét đẹp truyền thống văn hóa đặc sắc trong đời sống tinh thần hiện lên qua các mùa lễ hội và những tập quán yêu đương, kết hôn của người vùng cao. Chạm vào văn hóa của người Đồng Văn, Mèo Vạc là chạm vào "truyền thuyết một tình yêu" . Tình yêu của Seoly và Sèo Lử được nhà thơ diễn tả trong khoảng 100 câu thơ với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, có đam mê say đắm, có đớn đau tủi hờn và có cả "Hy vọng người đi có thể về".. Cuộc tình dang dở trong truyền thuyết đẫm nước mắt nhưng đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách cũng như quan niệm sống, yêu đương.. của người miền cao chốn biên ải. Đan xen giữa hai câu chuyện về cô giáo vùng cao và truyền thuyết Seoly – Sèo Lử là những đoạn thơ diễn tả chi tiết, cặn kẽ vẻ đẹp miên viễn của tiếng khèn. "Điệu khèn thổi bổng, trầm say đắm.. / Cho chán mẹ giãn những nếp nhăn.. / Tiếng khèn tìm bạn êm đềm.. / Mùa xuân kịp đến kia rồi.. (tr55, 56)". Tiếng khèn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong chương III và toàn bộ trường ca như dấu gạch nối gắn kết vẻ đẹp của thiên nhiên với vẻ đẹp trong hồn người Tây Bắc; gắn kết chuyện xưa với chuyện nay trong đời sống tinh thần người dân tộc thiểu số làm nên liên khúc trường ca đầy mê hoặc, đầy chất thơ mà ai cũng muốn khám phá.

Chương III. Có dung lượng dài nhất thể hiện rõ nhất vẻ đẹp của "Miền đất của trường ca" . Với (Liên khúc trường ca) đó là thiên nhiên bao la hùng vĩ, đời sống tinh thần của con người lãng mạn trữ tình đầy bản sắc. Trong chương III có nhiều lần nhà thơ đã khẳng định: "Xin được gọi quê mình là đất của trường ca.. (tr49)", "Đã đi rồi xin đi hết trường ca.. (tr51)", "Nhìn phía nào cũng gặp trường ca.. (tr. 52)". Có thể khẳng định đây là chương trường ca hoành tráng nhất, trữ tình nhất mà Trần Khoái cố công khắc họa vẻ đẹp của miền đất Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Đọc tới chương III cảm xúc của ta có lúc thăng hoa như được bay lên, vắt vẻo trên đỉnh Tây Côn Lĩnh với tiếng kèn, điệu sáo, câu hát dân ca dặt dìu, vang vọng, lan tỏa khắp thung sâu, bản vắng.. Có lúc trầm lắng đến nghẹn lòng như đang đắm chìm dưới sóng nước miên man của dòng Nho Quế bồng bềnh trôi xuôi, tiếng gió rừng man dại lướt qua hẻm Tu Sản hay lời "nuối tình" nhạt nhòa đêm chợ Khau Vai..


486859933_4006262496356412_6612567481532606637_n.jpg

Đến với chương IV. (Cờ Tổ quốc) ta đến với những câu chuyện lịch sử được nhân vật "tôi" (nhân vật trải nghiệm) khắc họa theo trình tự thời gian "tương đối" của lịch sử. Thời điểm nhân vật tôi trở về với Lũng Cú đã là cuối Thu, đầu Đông "Với ngọn gió thổi nghiêng sườn Đông Bắc (tr. 64)" . Ở đây nhân vật trải nghiệm sau khi "Vượt hai trăm bảy mươi chín bậc thang bằng đá (tr. 67)", "Nhìn lên cờ Tổ quốc.. Ở Lũng Cú uy nghiêm" và đã nhận ra "Những trang sử đã ố màu mưa nắng (tr. 67)" của miền đất linh thiêng này. Trang sử đầu tiên đó là âm vang chiến thắng vọng về từ cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược thời nhà Lý với bản tuyên ngôn đầu tiên "Nam quốc sơn hà..""Vị Thái Úy của Vương Triều nhà Lý/ Đã cắm cờ thiêng trên đỉnh núi này (tr. 67)". Trang sử thứ hai trong chương IV là trang sử hào hùng, oanh liệt mà "Hoàng đế Quang Trung đã mang đến nơi này.. / Hoàng đế dựng đồn canh trên đỉnh núi rồng.. (tr. 68, 69)". Trang sử thứ ba là trang sử viết về "Ngày người lính Cụ Hồ lên Lũng Cú.. / Dựng cột cờ trên đỉnh núi hoang sơ.. / Đoàn tụ những bản làng (tr. 69)". Lên đến đỉnh cao Lũng Cú, nhân vật trải nghiệm đã thổn thức với lời thơ rất phiêu mà rất Cách mạng "Cờ Tổ quốc – em và tôi cùng bay lên kiêu hãnh (tr. 71)". Cảm xúc bao trùm lên toàn bộ chương IV là cảm xúc kiêu hãnh, tự hào khi được đến, được sống và trải nghiệm những điều thú vị trong lòng của miền đất phên dậu Tổ quốc oai linh kiệt hiệt. Hình tượng cờ Tổ quốc được khắc họa như một biểu tượng thiêng liêng gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam trong suốt 1000 năm lịch sử (từ triều đại nhà Lý đến nay) là hình tượng bất diệt, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam là sức mạnh vô địch.

Chương V. (Séo lù - Trở lại), chương cuối của trường ca là những đúc kết, tổng kết về những trải nghiệm của tác giả khi đến, sống và chia tay "Miền đất của trường ca" . Trong quá trình "Tôi và trường ca dong duổi suốt cao nguyên", "Tôi nghẹn ngào nhận biết.. tr. 75)" số phận mình gắn liền với Tờ Nhềnh Khênh (Là sắc chỉ do thầy mo cấp cho, để công nhận một người trong cộng đồng là người con của dân tộc ấy – Tập tục vùng cao) (tr76) chính là khi ông nguyện với lòng, với mế, với em, với đồng bào "Xa cao nguyên mang lời nguyền trở lại" . Nhà thơ đã trở lại, ông khẳng định "Ta đã là người con của cao nguyên.. / Ta đã là người cao nguyên.. / Ta là người phố cổ Đồng Văn.. / Xin trọn tình với miền đất trường ca (tr. 86)" . Thật không ngoa khi nói tằng tâm hồn nhà thơ đã hóa máu sông chốn biên ải, trái tim nhà thơ đã gửi tình yêu trọn vẹn đời mình với miền đất cao nguyên và tâm hồn nhà thơ đã nguyện sống "Mơ trên miền đất trường ca", chết "làm ma" ngự trên cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc bao la hùng vĩ. Ngày mới đến cũng chính là ngày trở về. Ngày trở về cũng chính là ngày mới đến. Điều ấy không hề mâu thuẫn mà nó là kết quả của tư duy nhất thống hằn in trong tiềm thức nhà thơ trong suốt hành trình "đi tìm cái đẹp" nơi biên ải của đời mình. Nét đẹp ẩn tàng trong chiều sâu suy tư của nhà thơ thật nhân văn và cao cả.


487240451_4004856399830355_1855313981107806283_n.jpg

Trường ca đã khép lại trong bao nỗi vui sướng, hạnh phúc nhưng cũng nhiều trăn trở, suy tư. Trần Khoái từng tâm sự "Đi qua một hành trình sáng tạo, khi dừng lại tâm trạng trở nên hụt hẫng. Cứ có cảm giác như vừa được một điều gì, lại như vừa mất một cái gì mà mình từng nung nấu, ôm ấp, giữ gìn.". Có thể khẳng định cái được của Trần Khoái sau khi hoàn thành trường ca này là ông đã trả đầy đủ "món nợ ân tình" mà bạn văn, bạn đời đã kỳ vọng, đã mong muốn ông viết được điều gì đó để tôn vinh vẻ đẹp của Hà Giang từ nhiều năm trước. Những cái tên của các văn thi hữu được ông nhắc đến trong nghẹn ngào đầu sách như (Quốc Kứu, Đinh Công Diệp, Mai Liễu, Cao Xuân Thái, Nông Quốc Bình) là những người "Đồng thanh tương khí, đồng ý tương cầu" với hồn thơ ông. Ước mơ, khát vọng của họ dành cho ông, cho Hà Giang là nguồn động lực tinh thần không nhỏ giúp cho nhiệt tình sáng tạo của Trần Khoái tăng lên gấp bội; để rồi "món nợ ân tình" ấy ông đã trả xong; trở thành "nguồn tri ân" vô cùng đẹp đẽ mà Trần Khoái muốn gửi tặng những con người và văn hóa Hà Giang. Tuy nhiên điều mà Trần Khoái suy tư, hụt hẫng và "như vừa mất một cái gì" đó sau khi sinh đứa con tinh thần lần này là điều dễ hiểu. Xin được trích hai câu thơ khái triết của Xuân Diệu về tình yêu "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề" để nói lên tâm tư Trần Khoái lúc này. Những tên đất, tên người với bao tình cảm yêu thương trìu mến, bao vẻ đẹp lắng đọng có thể đi vào cả bữa ăn giấc ngủ, mang đến bao cơn mê đẹp đẽ trong nhiều năm dài đằng đẵng nay đã thành hình, thành tượng đẹp đẽ trong tác phẩm và trong nội tâm nhà thơ đã chẳng phải đau đáu, chẳng phải dốc lòng, chẳng phải cố công để hướng tâm tư, tình cảm về nó nhiều nữa.. Ai mà chẳng thấy chơi vơi, chẳng thấy thiêu thiếu điều gì đó trong sâu thẳm lòng mình.. Trần Khoái nặng tình, đa cảm thì điều ấy càng lớn hơn bao giờ hết. Đúng là cái được và mất đôi khi song hành trong một điều ta làm. Tôi tin bản trường ca tuyệt vời này của Trần Khoái được là chính, mất chỉ là con gió thoảng qua mà thôi.

Gấp lại cuốn trường ca dài gần 100 trang in với khoảng 1.200 câu thơ; đi qua những câu chuyện cảm động từ huyền sử đến thực sử của dân tộc; được tiếp xúc với vẻ đẹp của văn hóa Hà Giang đậm đà mà rộng hơn là văn hóa Việt Nam đặc sắc; nắm bắt được những thông điệp mang ý nghĩa nhân sinh cao đẹp mà tác phẩm muốn lan tỏa; được tiếp cận với những câu thơ tài hoa đỉnh cao của một "quái kiệt" trong làng thơ Vĩnh Phúc nói riêng, nền thơ Việt Nam nói chung.. Tôi không tránh khỏi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, lòng dâng lên bao nỗi cảm phục về một người thơ, một tác phẩm như thế. "Miền đất của trường ca" như một bản hòa ca muôn sắc điệu làm đẹp thêm vẻ đẹp hùng tráng, trữ tình của đất và người Hà Giang; thêm một lần khẳng định tài năng thiên phú của nhà thơ; tác phẩm góp thêm một làn hương mới trong sự nghiệp văn chương của Trần Khoái; giúp người yêu thơ có thêm những lựa chọn mới với thể loại trường ca vốn khó viết và khó viết hay từ bấy nay trên thi đàn thơ Việt. Bằng sự ngưỡng mộ từ đáy lòng kẻ hậu sinh, mong sao nhà thơ Trần Khoái sẽ có thể sản sinh cho Vĩnh Phúc một đứa con tinh thần đẹp tươi, giàu chất "văn ca" như "Miền đất của trường ca" trứ danh ông dành cho Hà Giang.


Đầu hạ 2024

Lê Gia Hoài
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back