

Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
1. Khái lược về triết học:
1.1. Nguồn gốc của triết học:
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người Triết Học ra đời ở cả Phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công Nguyên tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh văn hóa và khoa học. Con người với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu và nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất có tính hệ thống phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất và trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
1.1. 1. Nguồn gốc nhận thức:
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên khách quan của con người về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh người nguyên thủy kết nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi logic của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái Phật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới từng bước con người có kinh nghiệm và có tri thức về thế giới ban đầu là những tri thức cụ thể liên lạc cảm tính cùng sức sản xuất và đời sống nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống logic và nhân quả mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là đối tượng đồng thời là động lực đòi hỏi nhận thức ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến cái chung những quy luật chung sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát trong quá trình nhận thức sẽ đến lúc làm cho các quan điểm quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó hình thành. Đó là lúc triết học xuất hiện với tư cách là một loại hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và triết lý huyền thoại.
Vào thời cổ đại Khi các loại hình tri thức còn ở trong tình trạng tản mạn dung hợp và sơ khai, các khoa học độc lập chưa hình thành thì triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận tổng hợp giải quyết tất cả các vấn đề lý luận chung về tự nhiên xã hội và tư duy từ buổi đầu lịch sử triết học và tới tận thời kỳ trung cổ triết học vẫn là tri thức bao trùm là khoa học của các khoa học trong hàng nghìn năm đó triết học được coi là có sứ mệnh mang trong mình mọi trí tuệ của nhân loại ngay cả Cantơ nhà triết học sáng lập ra triết học cổ điển Đức ở thế kỷ 18 cũng đồng thời là nhà khoa học bách khoa. Sự dung hợp đó của triết học một mặt phản ánh tình trạng chưa chín muồi của các khoa học chuyên ngành. Mặt khác nói lên nguồn gốc nhận thức của chính triết học triết học không thể hình thành từng mảnh đất trống mà phải dựa vào các tri thức khác để khái quát và định hướng ứng dụng các loại hình tri thức cụ thể ở thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên thực tế đã khá phong phú đa dạng nhiều thành tựu mà về sau người ta xếp vào tri thức cơ học toán học. Y học Nghệ thuật kiến trúc quân sự và cả chính trị ở châu u thời bấy giờ đã đạt tới mức mà đến nay vẫn còn khiến con người ngạc nhiên giải phẫu học cổ đại đã phát hiện ra những tỷ lệ đặc biệt cân đối của cơ thể người và những tỷ lệ này đã trở thành những chuẩn mực vàng trong hội họa và kiến trúc cổ đại góp phần tạo nên một số kỳ quan của thế giới dựa trên những tri thức như vậy chứ. Triết Học ra đời và khái quát các tri giác riêng lẻ thành luận thuyết trong đó có những khái niệm phạm trù và quy luật của mình.
Như vậy nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành phát triển của tư duy trừu tượng của năng lực khái quát trong nhận thức của con người tri thức cụ thể đi lễ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp từ tượng hóa khái quát hóa thành những khái niệm phạm trù quan điểm quy luật luận thuyết đủ sức phổ quát để giải thích thế giới Triết Học ra đời đã đáp ứng nhu cầu đó của nhận thức cho nhu cầu của sự tồn tại con người. Không thỏa mãn với các tri thức riêng lẻ một bộ về thế giới càng không thỏa mãn với cách giải thích của các tín điều và giáo lý tôn giáo tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý từ sự khôn ngoan từ tình yêu sự thông thái dừng hình thành các hệ thống những tri thức chung nhất về thế giới triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó tư duy con người cũng đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện hiện tượng riêng lẻ.
1.1. 2. Nguồn gốc xã hội:
Triết học không ra đời trong xã hội mong mỗi dã man như Các Mác nói triết học học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới cũng như bắt không tồn tại bên ngoài con người. Triết Học ra đời khi nào sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và Loài người đã xuất hiện giai cấp tức là khi chế độ Cộng Sản Nguyên Thủy tan rã chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành phương thức sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân và tư liệu sản xuất đã xác định và ở trình độ phát triển xã hội có giai cấp và nạn áp bức giai cấp và khách đã được luật hóa nhà nước công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trưởng thành từ chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội.
Gắn liền với các hiện tượng xã hội vừa nêu là lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội có vị thế xã hội xác định vào thế kỷ 7 đến thế kỷ 5 trước Công Nguyên. Tầng lớp quý tộc tăng lữ điền chủ, nhà buôn, binh lính đã chú ý đến việc học hành nhà trường và hoạt động giáo dục đã trở thành một nghề trong xã hội tri thức toán học địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học đã được giảng dạy. Nghĩa là tầng lớp trí thức đã được xã hội ít nhiều trọng vọng từ lớp này có điều kiện và nhu cầu nghiên cứu có năng lực hệ thống hóa các quan niệm quan điểm thành học thuyết lý luận những người xuất sắc trong từng lớp này đã hệ thống hóa thành công tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm các học thuyết lý luận có tính hệ thống giải thích được sự vận động. Quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định được xã hội công nhận là các nhà thông thái các triết gia tức là các nhà tư tưởng về mối quan hệ giữa các quốc gia với con người của mình các bác nhận xét các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất họ là sản phẩm của thời đại của mình của dân tộc mình mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học. Triết học xuất hiện trong lịch sử loài người với những điều kiện như vậy và chỉ trong những điều kiện như vậy là nội dung của vấn đề nguồn gốc xã hội của triết học.
Như vậy triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản xuất xã hội phân công lao động xã hội hình thành của cải tương đối dư thừa. Tư hữu hóa tư liệu sản xuất được luật định giai cấp văn hóa rõ và mạnh nhà nước ra đời trong một xã hội như vậy tầng lớp trí thức xuất hiện giáo dục và nhà trường hình thành và phát triển các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa khái quát hóa hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết, cách luận, các triết thuyết với sự tồn tại mang tính pháp lý của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của trật tự giai cấp và của bộ máy nhà nước triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp sâu sắc nó không thay tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
Còn tiếp..
1. Khái lược về triết học:
1.1. Nguồn gốc của triết học:
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người Triết Học ra đời ở cả Phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công Nguyên tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh văn hóa và khoa học. Con người với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu và nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất có tính hệ thống phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất và trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
1.1. 1. Nguồn gốc nhận thức:
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên khách quan của con người về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh người nguyên thủy kết nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi logic của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái Phật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới từng bước con người có kinh nghiệm và có tri thức về thế giới ban đầu là những tri thức cụ thể liên lạc cảm tính cùng sức sản xuất và đời sống nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống logic và nhân quả mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là đối tượng đồng thời là động lực đòi hỏi nhận thức ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến cái chung những quy luật chung sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát trong quá trình nhận thức sẽ đến lúc làm cho các quan điểm quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó hình thành. Đó là lúc triết học xuất hiện với tư cách là một loại hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và triết lý huyền thoại.
Vào thời cổ đại Khi các loại hình tri thức còn ở trong tình trạng tản mạn dung hợp và sơ khai, các khoa học độc lập chưa hình thành thì triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận tổng hợp giải quyết tất cả các vấn đề lý luận chung về tự nhiên xã hội và tư duy từ buổi đầu lịch sử triết học và tới tận thời kỳ trung cổ triết học vẫn là tri thức bao trùm là khoa học của các khoa học trong hàng nghìn năm đó triết học được coi là có sứ mệnh mang trong mình mọi trí tuệ của nhân loại ngay cả Cantơ nhà triết học sáng lập ra triết học cổ điển Đức ở thế kỷ 18 cũng đồng thời là nhà khoa học bách khoa. Sự dung hợp đó của triết học một mặt phản ánh tình trạng chưa chín muồi của các khoa học chuyên ngành. Mặt khác nói lên nguồn gốc nhận thức của chính triết học triết học không thể hình thành từng mảnh đất trống mà phải dựa vào các tri thức khác để khái quát và định hướng ứng dụng các loại hình tri thức cụ thể ở thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên thực tế đã khá phong phú đa dạng nhiều thành tựu mà về sau người ta xếp vào tri thức cơ học toán học. Y học Nghệ thuật kiến trúc quân sự và cả chính trị ở châu u thời bấy giờ đã đạt tới mức mà đến nay vẫn còn khiến con người ngạc nhiên giải phẫu học cổ đại đã phát hiện ra những tỷ lệ đặc biệt cân đối của cơ thể người và những tỷ lệ này đã trở thành những chuẩn mực vàng trong hội họa và kiến trúc cổ đại góp phần tạo nên một số kỳ quan của thế giới dựa trên những tri thức như vậy chứ. Triết Học ra đời và khái quát các tri giác riêng lẻ thành luận thuyết trong đó có những khái niệm phạm trù và quy luật của mình.
Như vậy nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành phát triển của tư duy trừu tượng của năng lực khái quát trong nhận thức của con người tri thức cụ thể đi lễ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp từ tượng hóa khái quát hóa thành những khái niệm phạm trù quan điểm quy luật luận thuyết đủ sức phổ quát để giải thích thế giới Triết Học ra đời đã đáp ứng nhu cầu đó của nhận thức cho nhu cầu của sự tồn tại con người. Không thỏa mãn với các tri thức riêng lẻ một bộ về thế giới càng không thỏa mãn với cách giải thích của các tín điều và giáo lý tôn giáo tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý từ sự khôn ngoan từ tình yêu sự thông thái dừng hình thành các hệ thống những tri thức chung nhất về thế giới triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó tư duy con người cũng đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện hiện tượng riêng lẻ.
1.1. 2. Nguồn gốc xã hội:
Triết học không ra đời trong xã hội mong mỗi dã man như Các Mác nói triết học học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới cũng như bắt không tồn tại bên ngoài con người. Triết Học ra đời khi nào sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và Loài người đã xuất hiện giai cấp tức là khi chế độ Cộng Sản Nguyên Thủy tan rã chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành phương thức sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân và tư liệu sản xuất đã xác định và ở trình độ phát triển xã hội có giai cấp và nạn áp bức giai cấp và khách đã được luật hóa nhà nước công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trưởng thành từ chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội.
Gắn liền với các hiện tượng xã hội vừa nêu là lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội có vị thế xã hội xác định vào thế kỷ 7 đến thế kỷ 5 trước Công Nguyên. Tầng lớp quý tộc tăng lữ điền chủ, nhà buôn, binh lính đã chú ý đến việc học hành nhà trường và hoạt động giáo dục đã trở thành một nghề trong xã hội tri thức toán học địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học đã được giảng dạy. Nghĩa là tầng lớp trí thức đã được xã hội ít nhiều trọng vọng từ lớp này có điều kiện và nhu cầu nghiên cứu có năng lực hệ thống hóa các quan niệm quan điểm thành học thuyết lý luận những người xuất sắc trong từng lớp này đã hệ thống hóa thành công tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm các học thuyết lý luận có tính hệ thống giải thích được sự vận động. Quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định được xã hội công nhận là các nhà thông thái các triết gia tức là các nhà tư tưởng về mối quan hệ giữa các quốc gia với con người của mình các bác nhận xét các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất họ là sản phẩm của thời đại của mình của dân tộc mình mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học. Triết học xuất hiện trong lịch sử loài người với những điều kiện như vậy và chỉ trong những điều kiện như vậy là nội dung của vấn đề nguồn gốc xã hội của triết học.
Như vậy triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản xuất xã hội phân công lao động xã hội hình thành của cải tương đối dư thừa. Tư hữu hóa tư liệu sản xuất được luật định giai cấp văn hóa rõ và mạnh nhà nước ra đời trong một xã hội như vậy tầng lớp trí thức xuất hiện giáo dục và nhà trường hình thành và phát triển các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa khái quát hóa hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết, cách luận, các triết thuyết với sự tồn tại mang tính pháp lý của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của trật tự giai cấp và của bộ máy nhà nước triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp sâu sắc nó không thay tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
Còn tiếp..