Bài viết: 1903 



Trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền - Tường thuật chi tiết nhất: Gia thế, Nguyên nhân, Diễn biến, Kết quả, Ý nghĩa, Đáng giá vai trò của Ngô Quyền
Chiến thắng Bạch Đằng (Hải Phòng) năm 938 là trận thủy chiến lớn đầu tiên, một trong những trận thủy chiến lớn nhất của quân và dân ta trước quân xâm lược.
Trạn địa bãi cọc ngầm trên sông Bạch Đằng gắn liền với trận đại thắng trên trên sông Bạch Đằng là một biểu tượng cho truyền thống người Việt đánh giặc ngoại xâm phương Bắc.
Ngô Quyền nằm trong danh sách top 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất của Việt Nam.
1. Xuất thân - dòng họ của Ngô Quyền
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權; sinh 2 tháng 3 năm 898, mất 14 tháng 2 năm 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王) hoặc Ngô Vũ Vương. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Nội ngày nay) Ngô Quyền sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ái Châu. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm.
Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". "Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, dung mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc bằng đồng". (Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư)
2. Hoàn cảnh lịch sử - nguyên nhân khởi nghĩa
Thời bấy giờ nhà Đường ở Trung Quốc cai trị nước Việt. Từ giữa thế kỷ IX, nhà Đường phải đối phó với hai biến cố lớn là nông dân khởi nghĩa và phiên trấn cát cứ. Năm 907, nhà Đường mất, Chu Ôn lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc loạn Ngũ Đại, sử Trung Quốc gọi là Ngũ đại Thập quốc.
Năm 905, nhân việc nhà Đường có loạn, một thổ hào người Việt là Khúc Thừa Dụ nổi lên đánh đuổi người Trung Quốc, chiếm giữ phủ thành, xưng là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang dò xét nhà Nam Hán. Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, muốn lợi dụng sự mâu thuẫn giữa nước Lương và Nam Hán để củng cố sự nghiệp tự cường của mình. Vua Nam Hán là Lưu Cung tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ.
Khi đấy, một hào trưởng người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay) là Dương Đình Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục.
Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ. Mến phục tài đức của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ gả con gái yêu là Dương Như Ngọc cho và giao quyền cai quản Ái châu, đất bản bộ của họ Dương (Thanh Hóa ngày nay). Ngô Quyền đem hết tài năng, nhiệt huyết mang lại cuộc sống no ấm cho nhân dân trong vùng.
Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ.
Tháng 3 năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Nhưng hành động tranh giành quyền lực của Kiều Công Tiễn bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng.
Ngô Quyền đang trấn giữ Ái Châu, kéo quân ra Bắc để trị tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn vội sai sứ sang đút lót để cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ thấy có loạn muốn chiếm lấy nước ta. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân sang.
(Mời các bạn đọc tiếp phần 2 ở bên dưới nhé ❤❤❤)
Chiến thắng Bạch Đằng (Hải Phòng) năm 938 là trận thủy chiến lớn đầu tiên, một trong những trận thủy chiến lớn nhất của quân và dân ta trước quân xâm lược.
Trạn địa bãi cọc ngầm trên sông Bạch Đằng gắn liền với trận đại thắng trên trên sông Bạch Đằng là một biểu tượng cho truyền thống người Việt đánh giặc ngoại xâm phương Bắc.
Ngô Quyền nằm trong danh sách top 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất của Việt Nam.

1. Xuất thân - dòng họ của Ngô Quyền
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權; sinh 2 tháng 3 năm 898, mất 14 tháng 2 năm 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王) hoặc Ngô Vũ Vương. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Nội ngày nay) Ngô Quyền sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ái Châu. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm.
Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". "Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, dung mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc bằng đồng". (Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư)
2. Hoàn cảnh lịch sử - nguyên nhân khởi nghĩa
Thời bấy giờ nhà Đường ở Trung Quốc cai trị nước Việt. Từ giữa thế kỷ IX, nhà Đường phải đối phó với hai biến cố lớn là nông dân khởi nghĩa và phiên trấn cát cứ. Năm 907, nhà Đường mất, Chu Ôn lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc loạn Ngũ Đại, sử Trung Quốc gọi là Ngũ đại Thập quốc.
Năm 905, nhân việc nhà Đường có loạn, một thổ hào người Việt là Khúc Thừa Dụ nổi lên đánh đuổi người Trung Quốc, chiếm giữ phủ thành, xưng là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang dò xét nhà Nam Hán. Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, muốn lợi dụng sự mâu thuẫn giữa nước Lương và Nam Hán để củng cố sự nghiệp tự cường của mình. Vua Nam Hán là Lưu Cung tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ.
Khi đấy, một hào trưởng người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay) là Dương Đình Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục.
Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ. Mến phục tài đức của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ gả con gái yêu là Dương Như Ngọc cho và giao quyền cai quản Ái châu, đất bản bộ của họ Dương (Thanh Hóa ngày nay). Ngô Quyền đem hết tài năng, nhiệt huyết mang lại cuộc sống no ấm cho nhân dân trong vùng.
Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ.
Tháng 3 năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Nhưng hành động tranh giành quyền lực của Kiều Công Tiễn bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng.
Ngô Quyền đang trấn giữ Ái Châu, kéo quân ra Bắc để trị tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn vội sai sứ sang đút lót để cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ thấy có loạn muốn chiếm lấy nước ta. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân sang.
(Mời các bạn đọc tiếp phần 2 ở bên dưới nhé ❤❤❤)