45
0
Tình thương không biên giới qua "Thư gửi mẹ" (Nguyễn Quang Thiều) và "Bông huệ trắng" (Nguyễn Hữu Quý)
Người viết: Thuỷ Tô
Một nẻo tìm về..
Cả hai bài thơ đều nói đến sự trở về của người lính khi tàn cuộc chiến tranh, nhưng thực chất, "trở về" cũng là mất mát, là vĩnh viễn biệt ly, là âm dương cách trở. Đó là cuộc tìm về của tâm thức, của linh hồn và một niềm yêu thương gửi lại. Chính tình cảm đó là điều nối liền hai cõi sống- chết, có sức mạnh thanh tẩy những tội lỗi và chữa lành những tổn thương. Nhưng nếu cuộc quy hồi trong "Bông huệ trắng" được kể lại bởi lời của chủ thể trữ tình- hình tượng tác giả, thì trong "Thư gửi mẹ", người lính là chủ thể trữ tình. Bởi vậy, một bên là sự trở về của linh hồn tập thể ( "các anh"), dẫu mang nỗi buồn nhưng vẫn thiêng liêng; một bên là sự trở về của linh hồn cá thể, mang những kí ức và nỗi lo âu, thương nhớ riêng tư về người mẹ đơn độc chốn quê nhà.
Hình tượng linh hồn trong cả hai bài thơ là những chủ thể không rõ ràng, không trọn vẹn, dường như là một phiếm thể. Thơ ca cách mạng khắc họa chân dung con người với một cơ thể tráng kiện, uy nghi, tràn đầy sức mạnh: "Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng!"; "Bước trường chinh, bắp chân đã vững/ Gánh sơn hà, vai cứng đảm đương" (Tố Hữu). Tất cả cùng cống hiến sức trẻ và ý chí- những tác lực cứng, mạnh, bền bỉ để thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến. Những sự vật của thiên nhiên cũng hóa ra sắt, thép, thành luỹ, pháo đài, vũ khí.. Cái già nua, mềm yếu, lay lắt, mơ hồ hầu như không xuất hiện. Nhưng với "Bông huệ trắng" và "Thư gửi mẹ" trong dòng thơ hậu chiến, ta thấy sự xuất hiện của các từ ngữ, hình ảnh thuộc cùng trường liên tưởng gợi lên cảm giác về cái thoáng hiện, mờ ảo, mong manh, mơ hồ: Gió- gió lạ, đường gió, tiếng gió, hơi, thầm, hồn, bay, xào xạc, xôn xao, vụt tắt, phảng phất, rón rén, thầm thì, thủ thỉ, lặng im.. Đứa con trong "Thư gửi mẹ" dẫu "đã về" nhưng vẫn cất lên câu hỏi da diết, vời vợi buồn thương: "Con đã về, mẹ có thấy con không?". Người lính đã "nằm trong đất tơi tả", đã "chẳng vẹn nguyên bên cây cỏ bị xới đào". Đằng sau khúc khải hoàn của một sự nghiệp chung đã thành là những nỗi đau riêng không gì có thể bù đắp nổi. Bước vào cuộc binh lửa, người lính đã bị chia cắt vĩnh viễn với cái thực tại đáng lẽ mình phải thuộc về. Trong bức tranh hậu chiến, chẳng còn sức mạnh nào để người đập tan những ám ảnh, xô ngã những bi thương, san phẳng cái khoảng cách giữa người với cuộc đời.
Mấy chữ "Con về" hay "Con đã về" lặp lại trong "Thư gửi mẹ" đến tám lần vừa như một thông báo hân hoan, vừa như một lời chào, một tiếng gọi chờ sự xác nhận trong vô vọng. Trong "Bông huệ trắng", một tiếng gọi "Mẹ ơi!" dường như cũng vang lên chới với, hẫng hụt, đau xót. Người trở về chỉ còn là một bóng hình mờ ảo của cõi đời. "Gió sao gió mát sau lưng" của một tâm tình thầm kín giờ đây trở thành một thực tại nghiệt ngã, lòng nhớ thương của con dành cho mẹ, cho em, cho những người ở lại chỉ còn là cái nhìn đau đáu phía sau lưng. Nhưng sự trở về của người lính không chỉ diễn ra trong không gian mà còn là sự hồi quy trên trục thời gian- kí ức, tâm tưởng. Người bay qua vũng lầy chiến tranh để tìm lại những kỉ niệm xa xưa và đẹp đẽ nhất của tuổi thơ: "Viên bi tròn vẫn lăn mãi qua sân/ Cần câu cũ buông vào từng kỉ niệm.." và "những người lính trở về nơi xóm nhỏ/ chiều nồm xanh con diều giấy bay cao." Dẫu cuộc đời có bỉ ổi, đắng cay, nghiệt ngã đến bao nhiêu thì những gì đẹp nhất, đáng nhớ nhất của mỗi người cũng luôn được bảo lưu trong vùng trời tuổi nhỏ. Trở về với kí ức tuổi ấu thơ là trở về với những gì chân thật, thuần khiết nhất, trở về với nhân tính tốt đẹp ban sơ, với lòng trắc ẩn, sự tha thứ, tình yêu.. Tận cùng của sự hồi quy trên trục thời gian là khoảnh khắc đầu tiên con người cất tiếng khóc chào đời: "Con đã về rón rén bước chân/ Như thủa nhỏ để òa trong nức nở"; "Giấc mơ người bật dậy tiếng o.. Oa". Tiếng khóc ấy là dấu mốc thiêng liêng cho sự xuất hiện của một sinh mệnh trong veo, cũng là bước đầu tiên trên hành trình gian khổ của phận người. "Giấc mơ người bật dậy" là một sự thức tỉnh và thức tỉnh là quên hết mọi tham vọng, hận thù, chia rẽ để nhớ lại một chữ "người" trong tiếng khóc đầu tiên. Tiếng khóc mở ra và khép lại một kiếp người đã giúp người lính làm tròn cái nghĩa vụ "trả nhớ về không" của đời mình. Bằng tiếng khóc, ranh giới giữa sự huỷ diệt và tái sinh, cái chết và sự sống bị xóa nhòa.
Sự sống và cái chết
Trong "Thư gửi mẹ", bằng cách sử dụng những từ ngữ chỉ cái tiếp diễn, sự bất biến, bền vững, nhà thơ đã thu hẹp khoảng cách giữa sự sống và cái chết, cái còn và mất: "Cau vẫn rụng vào những chiều thương nhớ", "Viên bi tròn vẫn lăn mãi qua sân", "Đũa vẫn so thừa những bữa cơm đông", "Cánh diều giấy trẻ con làng lại thả", "Bông hoa đèn lại nở sáng trong đêm", "Cau lại trổ mẹ ơi cau sẽ bổ", "Như thuở nhỏ để òa trong nức nở", "Và con sống suốt đời mười tám tuổi/ Như buổi chiều chào mẹ con đi", "Niêu tép mẹ kho suốt đời không thể nguội", "Chiến tranh qua rồi và mãi mãi con tin".. Tất cả mọi sự đều trôi đi thật chậm, đều tái lặp, đều ngưng đọng lại ở những khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời. Nhãn kiến hạn hẹp và mơ hồ khiến ta không thể tìm lại hình ảnh vẹn nguyên của quá khứ, những kí ức mới phủ lên kí ức cũ và rồi ta thấy quá khứ thật xa xăm, tương lai thật vô định. Cái chết là điểm dừng của mọi kí ức, nó khép lại cánh cửa giữa con người với thế giới, nó quăng ném tất cả vào vực thẳm của quên lãng và hư vô. Nhưng ở đây ta thấy mọi hình ảnh của kí ức vẫn là mãi mãi, vẫn như buổi ban đầu, vẹn nguyên và cảm động. Nhìn cuộc đời ở một khoảng cách xa xôi, vô vọng- từ song sắt nhà tù, từ khung cửa của cái chết, ta mới thấy cuộc đời là đẹp đẽ, sự sống là quý giá và những điều vụn vặt, nhỏ bé cũng trở thành cái cớ của nhớ thương. Những từ lại, vẫn, như cho thấy sự luân chuyển, tuần hoàn của đời sống, một khát vọng bất diệt và tình yêu vĩnh cửu sáng mãi trong trái tim con người. Đó là "hành trình thiêng liêng đi mãi bằng dòng máu". Đó là thời gian xoay vòng của "Đào hoa y cựu tiếu đông phong" : "Con đã về khi làng vui đón Tết/ Hoa đào xoè những chúm môi thơm". Đứa con thủ thỉ nói với mẹ như một lời an ủi: "Con không chết, con chỉ không lớn nữa". Vạn vật vẫn tiếp tục tồn tại theo cách của nó và con vẫn hiện diện trong kí ức mẹ đấy thôi, vậy nên mẹ đừng buồn..
Trong bài thơ "Bông huệ trắng", cách thể hiện sự kéo dài của thời gian kỉ niệm cũng có nét tương đồng với "Thư gửi mẹ", yêu thương gửi lại dù là tình mẫu tử hay tình yêu cũng đều tha thiết: "Những thằng con trai của mẹ cởi trần/ nụ cười này, đôi mắt ấy, chẳng đổi thay!"; vòng tay dẫu là cổ tích xa xôi/ vẫn ấm áp nụ hôn đầu, thuở ấy. "Nhưng sự xóa nhòa khoảng cách sự sống- cái chết còn thể hiện ở một nghĩa cử thiêng liêng:" những người lính chở che em qua chuyến đò nghiêng/ thôi em nhé, nước mắt đừng rơi nữa! ". Dù xác thân không còn nhưng hồn thiêng người đã hy sinh vẫn can dự vào cuộc đời để trả cho" em "món nợ ân tình và gửi lại một lời an ủi, tạ từ. Người lính không thấy nỗi đau của mình- dù cái chết đã là một nỗi đau tột cùng, mà lại thấu hiểu cho người ở lại phải sống trong cảnh" vì thiếu anh nên chị bị thừa ra "để rồi chở che cho người qua chuyến đò nghiệt ngã của đời. Cái nghĩa tình vị tha, cao thượng ấy đã vượt lên lẽ sống- chết. Nhưng dường như điểm mấu chốt của bài thơ nằm ở hai câu thơ cuối:" cây của mẹ gọi anh về xanh lại/ trái cuối mùa, thêm lần nữa, mẹ sinh anh. "Nếu Whitman muốn làm lá cỏ-" Tôi ký thác tôi cho bùn đất để tái sinh từ ngọn cỏ tôi yêu ", Thanh Thảo" ước mình là một cái cây "thì ở đây hương hồn người lính đi theo tiếng gọi của tự nhiên mà trở về" xanh lại ". Thế giới của những lá cây ngọn cỏ dường như bao giờ cũng là thế giới của những điều hồn nhiên, bình dị, của cái đẹp và tình yêu, chứa đựng sự sống mãnh liệt, vô biên, chẳng gánh gồng khổ đau và thù hận. Cái cây gọi anh trở về không phải cái cây xa lạ mà là" cây của mẹ "nên đó còn là tiếng gọi của quê hương, của tình thương và nỗi nhớ. Trong sương khói cổ tích năm xưa, tiếng khóc con thơ được vỗ về bởi vị ngọt vú sữa; trong bức tranh sắc nét của hiện thực hậu chiến, nỗi đau của mẹ già phần nào được yên ủi bởi những tán lá xanh nơi kí ức về con mỗi ngày một sinh lại. Hình ảnh trái cuối mùa và người mẹ có sự đồng nhất với nhau khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong" Những hạt cây "của Nguyễn Quang Thiều:" Tách ra từ chùm quả Thiên Đường/ Người gieo họ xuống cánh đồng nhân tính ". Cách liên tưởng tương đồng đó tạo cơ sở cho ta nhìn lại hình tượng người mẹ và nhận thấy ở người dáng dấp của một đấng thiêng liêng, một" đức mẹ sầu bi "của hiện thực chiến tranh phải chứng kiến những đứa con ruột thịt đã lặng yên gối đầu trên đất quê hương. Bởi hình tượng người mẹ được thiêng hóa nên những đứa con cũng trở thành những linh hồn bất tử. Cái chết khi đó không còn là một mất mát mà là sự trở về với nguồn cội yêu thương, trở về để lại được tái sinh trong lòng mẹ bao la, nhân từ.
Màu trắng
Tôi nhận thấy hai bài thơ đều toát lên một sắc trắng. Đó không phải là màu trắng trong sự miêu tả, cũng không phải khoảng trắng của văn bản mà dường như là mang một ý nghĩa biểu tượng. Trong bài thơ của Nguyễn Hữu Quý, màu trắng hiện lên ở nhan đề và trong những câu thơ:" Trắng thời gian những thập kỷ mong chờ "," Giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng ". Trong" Thư gửi mẹ "của Nguyễn Quang Thiều, đó là khoảng trắng của" thư con viết dở ", của lá thư" chỉ một câu gọi mẹ ", bỏ ngỏ những tâm tư. Hai bài thơ đều đồng một màu trắng khăn tang trong nỗi nhớ của người ở lại, trong cuộc trở về của người lính để đưa tiễn chính mình đến một miền thanh thản, một lần sinh lại. Màu trắng đó cho ta thấy sự nghiệt ngã của chiến tranh, sự thản nhiên của cái chết. Màu trắng đó khiến ta cảm động trước trái tim chan chứa yêu thương của người con ngập ngừng bên trang giấy. Màu trắng là những tháng năm đằng đẵng đợi chờ, là sự mỏi mòn của mẹ, là một cuộc sống đã bị nỗi buồn thương làm phai đi sắc màu ý nghĩa. Màu trắng của bông huệ, của dòng sữa mẹ lại là màu thanh khiết của sự tha thứ, sự tái sinh và chứa đựng niềm hy vọng khấp khởi của những trang đời mới đang chờ viết lại bằng tình người. Chiến tranh phủ lên cuộc đời con người màu áo lính nhọc nhằn, màu đen tro tàn, màu đỏ máu tuôn, màu lửa cháy, màu đạn rơi.. Đến cả chiếc khăn tang cũng pha màu lá chuối khô trong những tháng năm đói khổ kiệt cùng (thơ Trần Dạ Từ). Khi đó, màu trắng như một sự thanh tẩy, một lời nguyện cầu, để bức tranh khác của lịch sử sẽ đẹp đẽ và bình yên hơn. Sắc trắng không xóa bỏ những tổn thương, không làm nhòa đau khổ mà nó nhắc nhở ta rằng mọi sự khởi đầu đều là chặng cuối của một chặng đường dài trả giá bằng máu xương và những mất mát không gì đong đếm nổi. Một khoảng trắng hư vô khép lại cuộc hành trình ra đi và trở về, để rồi điều còn lại với ngàn năm mây trắng là tình thương:" Ôi lá thư chỉ một câu gọi mẹ/ Là lá thư dài nhất ở trên đời. "
Những biểu tượng
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, gió" là những dấu hiệu và cũng như các thiên thần, chúng mang những thông điệp; chúng là một dạng biểu hiện của thần linh, muốn truyền đạt những cảm xúc của mình. "Gió là trung giới giữa trời và đất, giữa không gian đời thường và không gian tâm linh, là cầu nối của cõi sống và cõi chết. Những ngọn gió thổi xuyên suốt không gian nghệ thuật của hai bài thơ. Gió không chỉ là một hiện tượng của thiên nhiên-" Những ngọn gió thổi qua vườn cuối hạ ", mà còn mở ra một miền cảm xúc thầm lặng, mãnh liệt-" Lá xôn xao những cánh thư thầm ". Gió như một luồng sinh khí bao la từ thời sáng thế luôn truyền thổi linh hồn vào vạn vật, mang lại sự sống êm ả diệu kì cho kí ức:" Cánh diều giấy trẻ con làng lại thả/ Tiếng sáo trăng tìm đến ngõ nhà mình ";" chiều nồm xanh con diều giấy bay cao/ chiếc lá giong buồm kỉ niệm trong mưa. "Gió làm nên những biến thiên của lịch sử và những thăng trầm của đời người:" Gió thổi suốt bốn nghìn năm và mẹ/ Nước mắt đầy trên những nếp nhăn ";" cỏ kéo da non qua vết thương sâu thẳm/ qua bờ vai thiếu phụ bão giông ". Gió lay thức linh hồn anh đã ngủ vùi trong khổ đau, dẫn lối cho anh tìm về nguồn cội:" Khi gió thổi là con tỉnh giấc/ Theo đường gió con về ngắm mẹ sau lưng ";" các anh về theo gió/ phảng phất in dấu rêu sân. "Tiếng cười và lời tâm tình của đứa con trở về là thanh âm của một người không có mặt, một người mãi mãi chẳng thể trở về, một thanh âm vô thanh:" Hoa gạo đỏ con cười trong tiếng gió ";" các anh lẫn trong vách đất thầm thì/ các anh hòa vào mái tranh thủ thỉ ".. Ngọn gió cho người niềm hạnh phúc được tìm lại quê nhà, nhưng cũng là một sự hiện diện mang lời nhắc nhở đớn đau- người đã chẳng thể trở về được nữa mà chỉ còn là bóng hình của kí ức, là một phần hồn thiêng thổi mãi trên mảnh đất quê hương.
Hai bài thơ giao nhau ở cách sử dụng rất hay biểu tượng cỏ:" Cỏ kéo da non qua vết thương sâu thẳm "(Bông huệ trắng) và" Cỏ đã lên mầm trên những hố bom "(Thư gửi mẹ). Cỏ là một nét đơn sơ, giản dị, đời thường nhưng đã vẽ nên những bức tranh ngời ngời sự sống trong thơ:" Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa "(Nguyễn Du) hay" Sóng cỏ xanh tươi gợn tới tời/ Bao cô thôn nữ hát trên đồi "(Hàn Mặc Tử).. Cỏ luôn mang một ý chí tiềm tàng, một niềm tin bát ngát:" Mười tám hai mươi sắc như cỏ/ Dày như cỏ/ Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ "(Thanh Thảo). Và giờ đây cỏ lại được bồi đắp ý nghĩa biểu tượng mới: Vết thương được chữa lành, sự sống được tái sinh và sự tha thứ mở đường cho một khởi đầu mới. Cái mới của hai nhà thơ dường như nằm ở việc không miêu tả cỏ như một đối tượng của tự nhiên nhằm gợi lên ý nghĩa tượng trưng (" cỏ non "," sóng cỏ ") hay gán cho đối tượng được miêu tả những đặc điểm, phẩm chất của cỏ (" như cỏ ") mà cỏ tự nó như thể một nguồn lực sống tự nhiên, mãnh liệt sẽ hàn gắn lại những vết tích chiến tranh trên mặt đất và cả những tổn thương trong tâm hồn người. Đó là một cách nhìn tương đối lạc quan về chiến tranh, chứa đựng niềm tin về khả năng hồi sinh của con người sau những tai ương của cuộc sống. Nhưng với một nhà thơ khác, chiến tranh là bóng ma đeo bám suốt lịch sử con người, là sự mất mát, đổ vỡ không thể cứu vãn trong cuộc đời cá nhân:" Sau chiến tranh/ Mỗi khi trời trở gió/ Anh thường đau/ Ở bắp chân/ Không còn ở đó ". Những lời lẽ giản đơn của Nguyễn Đức Tùng đã phá bỏ lớp áo mĩ từ mà người ta gán cho chiến tranh- không ai có thể thực hiện giấc mộng anh hùng, không ai có thể bước khỏi cuộc chiến với thể xác và tâm hồn lành lặn. Khả năng tái sinh của con người không bao giờ là cái cớ để chiến tranh có thể tiếp diễn vì mục đích kinh tế, chính trị tầm thường. Suy cho cùng, người ta có quyền hy vọng vào một tương lai tốt đẹp nhưng cũng không thể quên đi những nỗi đau mà tội ác chiến tranh đã gây ra.
Người mẹ trong nỗi nhớ
Người mẹ là nhân vật trữ tình trong hai bài thơ, là đối tượng mà chủ thể trữ tình (" con ", hình tượng tác giả) bộc lộ tình cảm. Không còn là mẹ Tơm, mẹ Suốt cụ thể trong những năm kháng chiến mà giờ đây những người mẹ vô danh trên mọi ngả đường lịch sử đều hiện lên trong nỗi đau chung. Tuy vậy, hình tượng người mẹ trong hai bài thơ cũng được đặt dưới cái nhìn thiêng liêng hóa với cách thức thể hiện khác nhau. Trong" Bông huệ trắng ", mẹ là người mẹ của tổ quốc, của" các anh ", chính" các anh "mang lại tầm vóc phổ quát cho mẹ. Trong" Thư gửi mẹ ", người trở nên cụ thể hơn nhưng vẫn được đặt ngang hàng lịch sử, những đau khổ đời mẹ là những thăng trầm của lịch sử dân tộc:" Gió thổi suốt bốn nghìn năm và mẹ/ Nước mắt đầy trên những vết nhăn ". Bài thơ đã có ý thức nhận thức lại lịch sử ở khía cạnh của nỗi đau nhưng vẫn còn mang sắc thái ca ngợi, tự hào:" Con đã về lửa tí tách trong rơm/ Soi mặt mẹ tự hào và thương nhớ. "Trong nhớ thương vẫn có niềm tự hào, có thật không? Nhà văn Trang Thế Hy trả lời rằng, không, một cách dứt khoát. Trong truyện ngắn" Vết thương thứ mười ba ", nhà văn kể lại lời chị Châu, vợ của một người lính, mẹ của những đứa con chết trận:" Muốn biết chiến tranh là cái gì, người cần hỏi ý kiến, người cung cấp định nghĩa chính xác nhứt không phải là các vị nguyên thủ Quốc gia, các chính khách lẻo mép, và các vị thống chế tổng tư lệnh không bị bom đạn làm trầy một miếng da nào.. Hãy hỏi vợ anh, cô anh, dì anh.. Nói chung là hỏi những người phụ nữ đẻ con cho thiên hạ đem đi nướng, hỏi những bà mẹ sau chiến tranh đi hết những nghĩa trang này đến nghĩa trang khác tìm nấm mộ đề tên con mình mà không gặp.. ". Nói mãi về sự hãnh diện, tự hào, một lúc nào đó người ta nhận ra đó dường như là một sự che đậy nỗi đau.
Những câu thơ thực sự xúc động về mẹ trong hai bài thơ đều mang màu nước mắt. Mẹ chỉ còn lại một mình thui thủi cùng con mèo bầu bạn," lặng im theo bóng mẹ lưng còng ". Tiếng ho, tuổi già, bệnh tật, cái chết cũng theo sát mẹ. Hình bóng mẹ ngồi một mình trong đêm," vấn tóc mãi "trong sự rũ rượi, rã rời như một nỗi ám ảnh triền miên khiến người đọc đau xót. Tháng ngày trôi đi với mẹ chỉ còn là sự chuỗi dài lo âu, đợi chờ, thương nhớ:" Trắng thời gian những thập kỉ mong chờ/ mẹ thao thức mắt mờ tóc bạc.. "," Mẹ thêu áo buổi chiều ra quét ngõ/ Chim khách kêu rung từng chân tóc mẹ. "Và điều đáng chú ý nhất là hai nhà thơ đã tìm cách thấu hiểu và biểu đạt nỗi đau thường trực, dai dẳng của người mẹ qua việc khai thác giấc mơ. Còn lại trong căn nhà trống trải chỉ là tiếng vọng của kí ức:" Trong cơn mê tiếng trẻ nói vang nhà ". Hình như chiến tranh bao giờ cũng buộc người ta phải lội ngược dòng, ngược dòng kí ức để tìm lại những hạnh phúc vẹn nguyên chưa bị đánh cắp. Đó là cuộc ngược dòng của tâm thức và khát khao về hạnh phúc là một ẩn ức. Nguyễn Hữu Quý lại có ý thức hơn trong việc khai thác tiềm thức khi ông đã tách riêng bảy dòng thơ nói về giấc mơ thành một khổ và trước mỗi câu thơ là dấu gạch đầu dòng, mỗi chữ cái đầu của câu lại được viết hoa (trong bài, chỉ những chữ đầu của mỗi khổ và tiếng gọi" Mẹ ơi! "Ở lưng chừng bài thơ mới được viết hoa). Bốn dấu gạch đầu dòng dường như có tác dụng ngăn cách mạch tự sự, mạch cảm xúc chung của bài thơ để hé mở một không gian tâm thức, không gian ấy lại được chia thành bốn bức tranh khác nhau:" Giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu "," Giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm "," Giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng "," Giấc mơ người bật dậy tiếng o.. Oa.. ". Mỗi chữ" Giấc mơ.."vang lên như một tiếng vọng mơ hồ từ cõi khác, mỗi bước thơ là mỗi bước lần về quá khứ- một miền kí ức xa xăm, một miền cố hương vời vợi.. Ta nhận ra một gương mặt ác nghiệt khác của chiến tranh: Nó đẩy tất cả những ảnh hình hạnh phúc của hiện tại đang có vào không gian của ước mơ, của cái bất khả, của nỗi hoài vọng bất lực.. Chiều sâu của niềm đau nỗi nhớ là một yếu tố quan trọng giúp hai bài thơ nói được câu chuyện của muôn thời và của mọi con người.
Người viết: Thuỷ Tô
Một nẻo tìm về..
Cả hai bài thơ đều nói đến sự trở về của người lính khi tàn cuộc chiến tranh, nhưng thực chất, "trở về" cũng là mất mát, là vĩnh viễn biệt ly, là âm dương cách trở. Đó là cuộc tìm về của tâm thức, của linh hồn và một niềm yêu thương gửi lại. Chính tình cảm đó là điều nối liền hai cõi sống- chết, có sức mạnh thanh tẩy những tội lỗi và chữa lành những tổn thương. Nhưng nếu cuộc quy hồi trong "Bông huệ trắng" được kể lại bởi lời của chủ thể trữ tình- hình tượng tác giả, thì trong "Thư gửi mẹ", người lính là chủ thể trữ tình. Bởi vậy, một bên là sự trở về của linh hồn tập thể ( "các anh"), dẫu mang nỗi buồn nhưng vẫn thiêng liêng; một bên là sự trở về của linh hồn cá thể, mang những kí ức và nỗi lo âu, thương nhớ riêng tư về người mẹ đơn độc chốn quê nhà.
Hình tượng linh hồn trong cả hai bài thơ là những chủ thể không rõ ràng, không trọn vẹn, dường như là một phiếm thể. Thơ ca cách mạng khắc họa chân dung con người với một cơ thể tráng kiện, uy nghi, tràn đầy sức mạnh: "Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng!"; "Bước trường chinh, bắp chân đã vững/ Gánh sơn hà, vai cứng đảm đương" (Tố Hữu). Tất cả cùng cống hiến sức trẻ và ý chí- những tác lực cứng, mạnh, bền bỉ để thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến. Những sự vật của thiên nhiên cũng hóa ra sắt, thép, thành luỹ, pháo đài, vũ khí.. Cái già nua, mềm yếu, lay lắt, mơ hồ hầu như không xuất hiện. Nhưng với "Bông huệ trắng" và "Thư gửi mẹ" trong dòng thơ hậu chiến, ta thấy sự xuất hiện của các từ ngữ, hình ảnh thuộc cùng trường liên tưởng gợi lên cảm giác về cái thoáng hiện, mờ ảo, mong manh, mơ hồ: Gió- gió lạ, đường gió, tiếng gió, hơi, thầm, hồn, bay, xào xạc, xôn xao, vụt tắt, phảng phất, rón rén, thầm thì, thủ thỉ, lặng im.. Đứa con trong "Thư gửi mẹ" dẫu "đã về" nhưng vẫn cất lên câu hỏi da diết, vời vợi buồn thương: "Con đã về, mẹ có thấy con không?". Người lính đã "nằm trong đất tơi tả", đã "chẳng vẹn nguyên bên cây cỏ bị xới đào". Đằng sau khúc khải hoàn của một sự nghiệp chung đã thành là những nỗi đau riêng không gì có thể bù đắp nổi. Bước vào cuộc binh lửa, người lính đã bị chia cắt vĩnh viễn với cái thực tại đáng lẽ mình phải thuộc về. Trong bức tranh hậu chiến, chẳng còn sức mạnh nào để người đập tan những ám ảnh, xô ngã những bi thương, san phẳng cái khoảng cách giữa người với cuộc đời.
Mấy chữ "Con về" hay "Con đã về" lặp lại trong "Thư gửi mẹ" đến tám lần vừa như một thông báo hân hoan, vừa như một lời chào, một tiếng gọi chờ sự xác nhận trong vô vọng. Trong "Bông huệ trắng", một tiếng gọi "Mẹ ơi!" dường như cũng vang lên chới với, hẫng hụt, đau xót. Người trở về chỉ còn là một bóng hình mờ ảo của cõi đời. "Gió sao gió mát sau lưng" của một tâm tình thầm kín giờ đây trở thành một thực tại nghiệt ngã, lòng nhớ thương của con dành cho mẹ, cho em, cho những người ở lại chỉ còn là cái nhìn đau đáu phía sau lưng. Nhưng sự trở về của người lính không chỉ diễn ra trong không gian mà còn là sự hồi quy trên trục thời gian- kí ức, tâm tưởng. Người bay qua vũng lầy chiến tranh để tìm lại những kỉ niệm xa xưa và đẹp đẽ nhất của tuổi thơ: "Viên bi tròn vẫn lăn mãi qua sân/ Cần câu cũ buông vào từng kỉ niệm.." và "những người lính trở về nơi xóm nhỏ/ chiều nồm xanh con diều giấy bay cao." Dẫu cuộc đời có bỉ ổi, đắng cay, nghiệt ngã đến bao nhiêu thì những gì đẹp nhất, đáng nhớ nhất của mỗi người cũng luôn được bảo lưu trong vùng trời tuổi nhỏ. Trở về với kí ức tuổi ấu thơ là trở về với những gì chân thật, thuần khiết nhất, trở về với nhân tính tốt đẹp ban sơ, với lòng trắc ẩn, sự tha thứ, tình yêu.. Tận cùng của sự hồi quy trên trục thời gian là khoảnh khắc đầu tiên con người cất tiếng khóc chào đời: "Con đã về rón rén bước chân/ Như thủa nhỏ để òa trong nức nở"; "Giấc mơ người bật dậy tiếng o.. Oa". Tiếng khóc ấy là dấu mốc thiêng liêng cho sự xuất hiện của một sinh mệnh trong veo, cũng là bước đầu tiên trên hành trình gian khổ của phận người. "Giấc mơ người bật dậy" là một sự thức tỉnh và thức tỉnh là quên hết mọi tham vọng, hận thù, chia rẽ để nhớ lại một chữ "người" trong tiếng khóc đầu tiên. Tiếng khóc mở ra và khép lại một kiếp người đã giúp người lính làm tròn cái nghĩa vụ "trả nhớ về không" của đời mình. Bằng tiếng khóc, ranh giới giữa sự huỷ diệt và tái sinh, cái chết và sự sống bị xóa nhòa.
Sự sống và cái chết
Trong "Thư gửi mẹ", bằng cách sử dụng những từ ngữ chỉ cái tiếp diễn, sự bất biến, bền vững, nhà thơ đã thu hẹp khoảng cách giữa sự sống và cái chết, cái còn và mất: "Cau vẫn rụng vào những chiều thương nhớ", "Viên bi tròn vẫn lăn mãi qua sân", "Đũa vẫn so thừa những bữa cơm đông", "Cánh diều giấy trẻ con làng lại thả", "Bông hoa đèn lại nở sáng trong đêm", "Cau lại trổ mẹ ơi cau sẽ bổ", "Như thuở nhỏ để òa trong nức nở", "Và con sống suốt đời mười tám tuổi/ Như buổi chiều chào mẹ con đi", "Niêu tép mẹ kho suốt đời không thể nguội", "Chiến tranh qua rồi và mãi mãi con tin".. Tất cả mọi sự đều trôi đi thật chậm, đều tái lặp, đều ngưng đọng lại ở những khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời. Nhãn kiến hạn hẹp và mơ hồ khiến ta không thể tìm lại hình ảnh vẹn nguyên của quá khứ, những kí ức mới phủ lên kí ức cũ và rồi ta thấy quá khứ thật xa xăm, tương lai thật vô định. Cái chết là điểm dừng của mọi kí ức, nó khép lại cánh cửa giữa con người với thế giới, nó quăng ném tất cả vào vực thẳm của quên lãng và hư vô. Nhưng ở đây ta thấy mọi hình ảnh của kí ức vẫn là mãi mãi, vẫn như buổi ban đầu, vẹn nguyên và cảm động. Nhìn cuộc đời ở một khoảng cách xa xôi, vô vọng- từ song sắt nhà tù, từ khung cửa của cái chết, ta mới thấy cuộc đời là đẹp đẽ, sự sống là quý giá và những điều vụn vặt, nhỏ bé cũng trở thành cái cớ của nhớ thương. Những từ lại, vẫn, như cho thấy sự luân chuyển, tuần hoàn của đời sống, một khát vọng bất diệt và tình yêu vĩnh cửu sáng mãi trong trái tim con người. Đó là "hành trình thiêng liêng đi mãi bằng dòng máu". Đó là thời gian xoay vòng của "Đào hoa y cựu tiếu đông phong" : "Con đã về khi làng vui đón Tết/ Hoa đào xoè những chúm môi thơm". Đứa con thủ thỉ nói với mẹ như một lời an ủi: "Con không chết, con chỉ không lớn nữa". Vạn vật vẫn tiếp tục tồn tại theo cách của nó và con vẫn hiện diện trong kí ức mẹ đấy thôi, vậy nên mẹ đừng buồn..
Trong bài thơ "Bông huệ trắng", cách thể hiện sự kéo dài của thời gian kỉ niệm cũng có nét tương đồng với "Thư gửi mẹ", yêu thương gửi lại dù là tình mẫu tử hay tình yêu cũng đều tha thiết: "Những thằng con trai của mẹ cởi trần/ nụ cười này, đôi mắt ấy, chẳng đổi thay!"; vòng tay dẫu là cổ tích xa xôi/ vẫn ấm áp nụ hôn đầu, thuở ấy. "Nhưng sự xóa nhòa khoảng cách sự sống- cái chết còn thể hiện ở một nghĩa cử thiêng liêng:" những người lính chở che em qua chuyến đò nghiêng/ thôi em nhé, nước mắt đừng rơi nữa! ". Dù xác thân không còn nhưng hồn thiêng người đã hy sinh vẫn can dự vào cuộc đời để trả cho" em "món nợ ân tình và gửi lại một lời an ủi, tạ từ. Người lính không thấy nỗi đau của mình- dù cái chết đã là một nỗi đau tột cùng, mà lại thấu hiểu cho người ở lại phải sống trong cảnh" vì thiếu anh nên chị bị thừa ra "để rồi chở che cho người qua chuyến đò nghiệt ngã của đời. Cái nghĩa tình vị tha, cao thượng ấy đã vượt lên lẽ sống- chết. Nhưng dường như điểm mấu chốt của bài thơ nằm ở hai câu thơ cuối:" cây của mẹ gọi anh về xanh lại/ trái cuối mùa, thêm lần nữa, mẹ sinh anh. "Nếu Whitman muốn làm lá cỏ-" Tôi ký thác tôi cho bùn đất để tái sinh từ ngọn cỏ tôi yêu ", Thanh Thảo" ước mình là một cái cây "thì ở đây hương hồn người lính đi theo tiếng gọi của tự nhiên mà trở về" xanh lại ". Thế giới của những lá cây ngọn cỏ dường như bao giờ cũng là thế giới của những điều hồn nhiên, bình dị, của cái đẹp và tình yêu, chứa đựng sự sống mãnh liệt, vô biên, chẳng gánh gồng khổ đau và thù hận. Cái cây gọi anh trở về không phải cái cây xa lạ mà là" cây của mẹ "nên đó còn là tiếng gọi của quê hương, của tình thương và nỗi nhớ. Trong sương khói cổ tích năm xưa, tiếng khóc con thơ được vỗ về bởi vị ngọt vú sữa; trong bức tranh sắc nét của hiện thực hậu chiến, nỗi đau của mẹ già phần nào được yên ủi bởi những tán lá xanh nơi kí ức về con mỗi ngày một sinh lại. Hình ảnh trái cuối mùa và người mẹ có sự đồng nhất với nhau khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong" Những hạt cây "của Nguyễn Quang Thiều:" Tách ra từ chùm quả Thiên Đường/ Người gieo họ xuống cánh đồng nhân tính ". Cách liên tưởng tương đồng đó tạo cơ sở cho ta nhìn lại hình tượng người mẹ và nhận thấy ở người dáng dấp của một đấng thiêng liêng, một" đức mẹ sầu bi "của hiện thực chiến tranh phải chứng kiến những đứa con ruột thịt đã lặng yên gối đầu trên đất quê hương. Bởi hình tượng người mẹ được thiêng hóa nên những đứa con cũng trở thành những linh hồn bất tử. Cái chết khi đó không còn là một mất mát mà là sự trở về với nguồn cội yêu thương, trở về để lại được tái sinh trong lòng mẹ bao la, nhân từ.
Màu trắng
Tôi nhận thấy hai bài thơ đều toát lên một sắc trắng. Đó không phải là màu trắng trong sự miêu tả, cũng không phải khoảng trắng của văn bản mà dường như là mang một ý nghĩa biểu tượng. Trong bài thơ của Nguyễn Hữu Quý, màu trắng hiện lên ở nhan đề và trong những câu thơ:" Trắng thời gian những thập kỷ mong chờ "," Giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng ". Trong" Thư gửi mẹ "của Nguyễn Quang Thiều, đó là khoảng trắng của" thư con viết dở ", của lá thư" chỉ một câu gọi mẹ ", bỏ ngỏ những tâm tư. Hai bài thơ đều đồng một màu trắng khăn tang trong nỗi nhớ của người ở lại, trong cuộc trở về của người lính để đưa tiễn chính mình đến một miền thanh thản, một lần sinh lại. Màu trắng đó cho ta thấy sự nghiệt ngã của chiến tranh, sự thản nhiên của cái chết. Màu trắng đó khiến ta cảm động trước trái tim chan chứa yêu thương của người con ngập ngừng bên trang giấy. Màu trắng là những tháng năm đằng đẵng đợi chờ, là sự mỏi mòn của mẹ, là một cuộc sống đã bị nỗi buồn thương làm phai đi sắc màu ý nghĩa. Màu trắng của bông huệ, của dòng sữa mẹ lại là màu thanh khiết của sự tha thứ, sự tái sinh và chứa đựng niềm hy vọng khấp khởi của những trang đời mới đang chờ viết lại bằng tình người. Chiến tranh phủ lên cuộc đời con người màu áo lính nhọc nhằn, màu đen tro tàn, màu đỏ máu tuôn, màu lửa cháy, màu đạn rơi.. Đến cả chiếc khăn tang cũng pha màu lá chuối khô trong những tháng năm đói khổ kiệt cùng (thơ Trần Dạ Từ). Khi đó, màu trắng như một sự thanh tẩy, một lời nguyện cầu, để bức tranh khác của lịch sử sẽ đẹp đẽ và bình yên hơn. Sắc trắng không xóa bỏ những tổn thương, không làm nhòa đau khổ mà nó nhắc nhở ta rằng mọi sự khởi đầu đều là chặng cuối của một chặng đường dài trả giá bằng máu xương và những mất mát không gì đong đếm nổi. Một khoảng trắng hư vô khép lại cuộc hành trình ra đi và trở về, để rồi điều còn lại với ngàn năm mây trắng là tình thương:" Ôi lá thư chỉ một câu gọi mẹ/ Là lá thư dài nhất ở trên đời. "
Những biểu tượng
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, gió" là những dấu hiệu và cũng như các thiên thần, chúng mang những thông điệp; chúng là một dạng biểu hiện của thần linh, muốn truyền đạt những cảm xúc của mình. "Gió là trung giới giữa trời và đất, giữa không gian đời thường và không gian tâm linh, là cầu nối của cõi sống và cõi chết. Những ngọn gió thổi xuyên suốt không gian nghệ thuật của hai bài thơ. Gió không chỉ là một hiện tượng của thiên nhiên-" Những ngọn gió thổi qua vườn cuối hạ ", mà còn mở ra một miền cảm xúc thầm lặng, mãnh liệt-" Lá xôn xao những cánh thư thầm ". Gió như một luồng sinh khí bao la từ thời sáng thế luôn truyền thổi linh hồn vào vạn vật, mang lại sự sống êm ả diệu kì cho kí ức:" Cánh diều giấy trẻ con làng lại thả/ Tiếng sáo trăng tìm đến ngõ nhà mình ";" chiều nồm xanh con diều giấy bay cao/ chiếc lá giong buồm kỉ niệm trong mưa. "Gió làm nên những biến thiên của lịch sử và những thăng trầm của đời người:" Gió thổi suốt bốn nghìn năm và mẹ/ Nước mắt đầy trên những nếp nhăn ";" cỏ kéo da non qua vết thương sâu thẳm/ qua bờ vai thiếu phụ bão giông ". Gió lay thức linh hồn anh đã ngủ vùi trong khổ đau, dẫn lối cho anh tìm về nguồn cội:" Khi gió thổi là con tỉnh giấc/ Theo đường gió con về ngắm mẹ sau lưng ";" các anh về theo gió/ phảng phất in dấu rêu sân. "Tiếng cười và lời tâm tình của đứa con trở về là thanh âm của một người không có mặt, một người mãi mãi chẳng thể trở về, một thanh âm vô thanh:" Hoa gạo đỏ con cười trong tiếng gió ";" các anh lẫn trong vách đất thầm thì/ các anh hòa vào mái tranh thủ thỉ ".. Ngọn gió cho người niềm hạnh phúc được tìm lại quê nhà, nhưng cũng là một sự hiện diện mang lời nhắc nhở đớn đau- người đã chẳng thể trở về được nữa mà chỉ còn là bóng hình của kí ức, là một phần hồn thiêng thổi mãi trên mảnh đất quê hương.
Hai bài thơ giao nhau ở cách sử dụng rất hay biểu tượng cỏ:" Cỏ kéo da non qua vết thương sâu thẳm "(Bông huệ trắng) và" Cỏ đã lên mầm trên những hố bom "(Thư gửi mẹ). Cỏ là một nét đơn sơ, giản dị, đời thường nhưng đã vẽ nên những bức tranh ngời ngời sự sống trong thơ:" Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa "(Nguyễn Du) hay" Sóng cỏ xanh tươi gợn tới tời/ Bao cô thôn nữ hát trên đồi "(Hàn Mặc Tử).. Cỏ luôn mang một ý chí tiềm tàng, một niềm tin bát ngát:" Mười tám hai mươi sắc như cỏ/ Dày như cỏ/ Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ "(Thanh Thảo). Và giờ đây cỏ lại được bồi đắp ý nghĩa biểu tượng mới: Vết thương được chữa lành, sự sống được tái sinh và sự tha thứ mở đường cho một khởi đầu mới. Cái mới của hai nhà thơ dường như nằm ở việc không miêu tả cỏ như một đối tượng của tự nhiên nhằm gợi lên ý nghĩa tượng trưng (" cỏ non "," sóng cỏ ") hay gán cho đối tượng được miêu tả những đặc điểm, phẩm chất của cỏ (" như cỏ ") mà cỏ tự nó như thể một nguồn lực sống tự nhiên, mãnh liệt sẽ hàn gắn lại những vết tích chiến tranh trên mặt đất và cả những tổn thương trong tâm hồn người. Đó là một cách nhìn tương đối lạc quan về chiến tranh, chứa đựng niềm tin về khả năng hồi sinh của con người sau những tai ương của cuộc sống. Nhưng với một nhà thơ khác, chiến tranh là bóng ma đeo bám suốt lịch sử con người, là sự mất mát, đổ vỡ không thể cứu vãn trong cuộc đời cá nhân:" Sau chiến tranh/ Mỗi khi trời trở gió/ Anh thường đau/ Ở bắp chân/ Không còn ở đó ". Những lời lẽ giản đơn của Nguyễn Đức Tùng đã phá bỏ lớp áo mĩ từ mà người ta gán cho chiến tranh- không ai có thể thực hiện giấc mộng anh hùng, không ai có thể bước khỏi cuộc chiến với thể xác và tâm hồn lành lặn. Khả năng tái sinh của con người không bao giờ là cái cớ để chiến tranh có thể tiếp diễn vì mục đích kinh tế, chính trị tầm thường. Suy cho cùng, người ta có quyền hy vọng vào một tương lai tốt đẹp nhưng cũng không thể quên đi những nỗi đau mà tội ác chiến tranh đã gây ra.
Người mẹ trong nỗi nhớ
Người mẹ là nhân vật trữ tình trong hai bài thơ, là đối tượng mà chủ thể trữ tình (" con ", hình tượng tác giả) bộc lộ tình cảm. Không còn là mẹ Tơm, mẹ Suốt cụ thể trong những năm kháng chiến mà giờ đây những người mẹ vô danh trên mọi ngả đường lịch sử đều hiện lên trong nỗi đau chung. Tuy vậy, hình tượng người mẹ trong hai bài thơ cũng được đặt dưới cái nhìn thiêng liêng hóa với cách thức thể hiện khác nhau. Trong" Bông huệ trắng ", mẹ là người mẹ của tổ quốc, của" các anh ", chính" các anh "mang lại tầm vóc phổ quát cho mẹ. Trong" Thư gửi mẹ ", người trở nên cụ thể hơn nhưng vẫn được đặt ngang hàng lịch sử, những đau khổ đời mẹ là những thăng trầm của lịch sử dân tộc:" Gió thổi suốt bốn nghìn năm và mẹ/ Nước mắt đầy trên những vết nhăn ". Bài thơ đã có ý thức nhận thức lại lịch sử ở khía cạnh của nỗi đau nhưng vẫn còn mang sắc thái ca ngợi, tự hào:" Con đã về lửa tí tách trong rơm/ Soi mặt mẹ tự hào và thương nhớ. "Trong nhớ thương vẫn có niềm tự hào, có thật không? Nhà văn Trang Thế Hy trả lời rằng, không, một cách dứt khoát. Trong truyện ngắn" Vết thương thứ mười ba ", nhà văn kể lại lời chị Châu, vợ của một người lính, mẹ của những đứa con chết trận:" Muốn biết chiến tranh là cái gì, người cần hỏi ý kiến, người cung cấp định nghĩa chính xác nhứt không phải là các vị nguyên thủ Quốc gia, các chính khách lẻo mép, và các vị thống chế tổng tư lệnh không bị bom đạn làm trầy một miếng da nào.. Hãy hỏi vợ anh, cô anh, dì anh.. Nói chung là hỏi những người phụ nữ đẻ con cho thiên hạ đem đi nướng, hỏi những bà mẹ sau chiến tranh đi hết những nghĩa trang này đến nghĩa trang khác tìm nấm mộ đề tên con mình mà không gặp.. ". Nói mãi về sự hãnh diện, tự hào, một lúc nào đó người ta nhận ra đó dường như là một sự che đậy nỗi đau.
Những câu thơ thực sự xúc động về mẹ trong hai bài thơ đều mang màu nước mắt. Mẹ chỉ còn lại một mình thui thủi cùng con mèo bầu bạn," lặng im theo bóng mẹ lưng còng ". Tiếng ho, tuổi già, bệnh tật, cái chết cũng theo sát mẹ. Hình bóng mẹ ngồi một mình trong đêm," vấn tóc mãi "trong sự rũ rượi, rã rời như một nỗi ám ảnh triền miên khiến người đọc đau xót. Tháng ngày trôi đi với mẹ chỉ còn là sự chuỗi dài lo âu, đợi chờ, thương nhớ:" Trắng thời gian những thập kỉ mong chờ/ mẹ thao thức mắt mờ tóc bạc.. "," Mẹ thêu áo buổi chiều ra quét ngõ/ Chim khách kêu rung từng chân tóc mẹ. "Và điều đáng chú ý nhất là hai nhà thơ đã tìm cách thấu hiểu và biểu đạt nỗi đau thường trực, dai dẳng của người mẹ qua việc khai thác giấc mơ. Còn lại trong căn nhà trống trải chỉ là tiếng vọng của kí ức:" Trong cơn mê tiếng trẻ nói vang nhà ". Hình như chiến tranh bao giờ cũng buộc người ta phải lội ngược dòng, ngược dòng kí ức để tìm lại những hạnh phúc vẹn nguyên chưa bị đánh cắp. Đó là cuộc ngược dòng của tâm thức và khát khao về hạnh phúc là một ẩn ức. Nguyễn Hữu Quý lại có ý thức hơn trong việc khai thác tiềm thức khi ông đã tách riêng bảy dòng thơ nói về giấc mơ thành một khổ và trước mỗi câu thơ là dấu gạch đầu dòng, mỗi chữ cái đầu của câu lại được viết hoa (trong bài, chỉ những chữ đầu của mỗi khổ và tiếng gọi" Mẹ ơi! "Ở lưng chừng bài thơ mới được viết hoa). Bốn dấu gạch đầu dòng dường như có tác dụng ngăn cách mạch tự sự, mạch cảm xúc chung của bài thơ để hé mở một không gian tâm thức, không gian ấy lại được chia thành bốn bức tranh khác nhau:" Giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu "," Giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm "," Giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng "," Giấc mơ người bật dậy tiếng o.. Oa.. ". Mỗi chữ" Giấc mơ.."vang lên như một tiếng vọng mơ hồ từ cõi khác, mỗi bước thơ là mỗi bước lần về quá khứ- một miền kí ức xa xăm, một miền cố hương vời vợi.. Ta nhận ra một gương mặt ác nghiệt khác của chiến tranh: Nó đẩy tất cả những ảnh hình hạnh phúc của hiện tại đang có vào không gian của ước mơ, của cái bất khả, của nỗi hoài vọng bất lực.. Chiều sâu của niềm đau nỗi nhớ là một yếu tố quan trọng giúp hai bài thơ nói được câu chuyện của muôn thời và của mọi con người.

