Welcome! You have been invited by hang2k9 to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem

Cam Thuong

My name is Cẩm Thương :)
Bài viết: 92 Tìm chủ đề
1663 158
Tình cảm gia đình qua bài thơ bếp lửa và truyện ngắn chiếc lược ngà.

Bài làm

[HIDETHANKS=1]Phải nói rằng, tình cảm gia đình luôn là chủ đề làm cho các tác giả xao xuyến. Có rất nhiều ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam cũng viết về đề tài ấy như các tác giả Chế Lan Viên với bài con cò, Xuân Quỳnh với bài thơ tiếng gà trưa, trong lòng mẹ của tác giả Nguyên Hồng.. Nhưng hai tác phẩm nổi cộm hơn hết chỉ có thể là bài thơ bếp lửa của Bằng Việt và truyện ngắn chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Hai văn bản ấy đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà.

Bằng Việt sáng tác bài thơ năm 1963 khi nhà thơ đang theo học ngành luật tại nước Nga. Bài thơ "bếp lửa" được in trong tập

"Hương cây", là tập thơ đầu tay của tác giả. Nhà thơ đã kể lại rằng "những năm đầu theo học luật tại đây, tôi nhớ nhà kinh khủng, tháng chín trời ở bên đó se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà, mỗi buổi sớm đi học tôi hay nhớ hình ảnh bếp lửa thân quen, nhớ hình ảnh nội dậy sớm lụi hụi nấu nồi xôi để sớm mai kịp cho cả nhà cùng ăn."

Bài thơ có tên là "Bếp lửa" nhưng một điều dễ nhận thấy là hình ảnh đầy sức gợi ấy được gợi cảm hứng từ người bà. Hay nói cách khác, bếp lửa trong kí ức nhà thơ được nhóm lên từ đôi tay của bà: Sáng sáng chiều chiều bà nhen bếp lửa thổi gạo, nấu cơm một tay tảo tần nuôi cháu, Bởi thế, hình ảnh bếp lửa bập bùng trong bài thơ để hình ảnh thiêng liêng ấy gắn bó mật thiết với hình ảnh của bà. Nhắc về bà là nhớ về bếp lửa và nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. "Bếp lửa" là bài ca về tình bà cháu ấm áp, cảm động. Bài thơ mở đầu bằng những

Hình ảnh thơ đầy ám ảnh, gợi lên hình ảnh về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà. Hỉnh ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc và hồi tưởng về bà:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!"

Hình ảnh "bếp lửa" được điệp lại đến hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh "bếp lửa" là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm xúc cho cháu, nó như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Từ láy "chờn vờn" tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay gầy tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo lắng cho đứa cháu ruột rà.

Vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ. Và sâu

Trong hình ảnh ấy chính là bóng dáng của người bà kính yêu, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, cháu thương những năm tháng bà tần tảo, hy sinh.

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

Đọng lại trong câu thơ là chữ "thương", thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh "biết mấy nắng mưa", làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé! Bao kỉ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ trong cháu.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay".

Cuộc sống khốn khó những năm tháng ấy có lẽ là điều mà cháu không thể nào quên dù lúc chỉ vừa lên bốn. Cái đói, cái nhọc nhằn vất vả được thể hiện qua hình ảnh "khô rạc ngựa gầy", mùi khói trở thành thứ hương vị quen thuộc. Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Sống trong hoàn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ cực. Từ ghép "mòn mỏi" được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc. Khói hun nhèm lên mắt, vị khói khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn, đói khổ của năm tháng xưa khiến khi nghĩ về mà lòng nôn nao vừa xúc động, vừa xót xa.

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế."

Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. "Tám năm" - khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động:

"Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!"

Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thể đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

" Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! "

Chiến tranh không những khiến bao gia đình phải chia xa mà nó còn tàn phá sự yên bình của bao làng quê, thôn xóm. Hai bà cháu người trẻ nhỏ, người già yếu được hàng xóm giúp đỡ dựng lại túp lều tranh liu xiu, có chỗ che mưa, che nắng. Bao khốn khổ là thế mà bà có bao giờ chịu phó mặc, luôn vững lòng, đinh ninh. Hình ảnh bà hiện lên chẳng những ấm áp yêu thương mà còn đầy cao cả, vị tha và giàu đức hi sinh. Đó phải chăng là tấm lòng muôn thuở của những người bà, người mẹ trên mảnh đất Việt Nam này? Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa và cũng là của bà:

" Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.. ".

Điệp ngữ" một ngọn lửa "ý muốn nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Hình ảnh bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực luôn bền bỉ và bất diệt. Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, chẳng quản ngại hy sinh, vẫn luôn tin yêu vào ngày gia đình sum vầy, ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.

Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý

Chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau. Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:

" Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.. "

Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết

Nối xóm làng. Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. Một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên:

" Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! "

Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau. Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cứ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên:

" Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa? "Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Tình bà cháu trong" Bếp lửa "của Bằng Việt là tình cảm thiêng liêng cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thầm lặng của phần đời mong manh còn lại. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khờ, yếu đuối của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống. Và người cháu, những năm tháng cháu đi trong đời là những năm tháng cháu

Nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho cháu đựac cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn, bất diệt.

Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận. Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ, 9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bà. Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành. Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.

Ta không chỉ bắt gặp tình cảm bà cháu thiêng liêng qua bài thơ bếp lửa của Bằng Việt

Mà ta còn bắt gặp tình phụ tử sâu nặng cảm động hơn nữa trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh qua bài thơ chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Truyện ngắn chiếc lược ngà xoay quanh nhân vật ông sáu. Ông Sáu vốn là một người nông dân Nam Bộ tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, để lại vợ và con thơ, tức bé Thu. Sau bao năm ròng rã, có đợt được nghỉ ba ngày, ông quay trở về thăm gia đình. Chính vào khoảng thời gian này, một câu chuyện éo le và cảm động đã diễn ra. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: Con thơ, vợ trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi. Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến, ông không một lần về thăm con, bởi với những người lính" đâu có giặc là ta phải đi ". Vậy là ông Sáu đã hi sinh tình riêng, đặt tình chung lên trên, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, quyết hi sinh đến hơi thở cuối cùng để

Bảo vệ mảnh đất, ngọn cỏ dân tộc, bỏ lại sau lưng ánh mắt non nớt của đứa con thơ và người vợ tảo tần ngày đêm mong ngóng. Lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ được khắc họa thật mạnh mẽ, quyết liệt. Không chỉ là một người chiến sĩ yêu nước, ông Sáu còn là một người cha giàu lòng yêu thương con. Khi còn ở rừng ông luôn nhớ thương con, khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của bé Thu. Ông Sáu chỉ được thấy con qua tấm ảnh nhỏ. Sau nhiều năm xa cách, ông được nghỉ phép về thăm nhà, nhưng thời gian chỉ gói gọn vẻn vẹn trong ba ngày ngắn ngủi. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà," cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng anh ". Xuồng chưa cập bến, nhìn thấy một đứa trẻ chơi nhà chòi, đoán biết là con, không chờ xuồng cặp lại bến, anh đã nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra làm xuồng chới với." Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu

To: Thu! Con ". Đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con. Đáp lại tình cảm của ông Sáu bé Thu nhìn một cách ngơ ngác, lạ lùng và vụt chạy kêu thét lên: Má! Má! Điều ấy đã khiến ông Sáu vô cùng đau đớn, thất vọng," đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy ". Mặc dù vậy, nhưng ông vẫn rất thương con lắm, ông rất hiểu sự ngây thơ, bồng bột của con cho nên suốt ba ngày được nghỉ phép, ông không muốn đi đâu, chỉ ru rú trong nhà, luôn tìm cách vỗ về con, chăm sóc và bù đắp cho con những tháng ngày sống thiếu hơi ấm của tình cha. Ông chăm sóc, chiều chuộng con và chỉ mong một tiếng" ba "từ con bé. Mọi cố gắng của ông từ việc" giả vờ không nghe "đến việc dồn nó vào thế bí khi phải chắt nước cơm, nhưng không có kết quả. Mặc cho Thu bướng bỉnh, nhưng ông Sáu vẫn dành cho con những tình cảm sâu sắc. Trong bữa cơm, ông đã ân

Cần gắp miếng cá to và ngon vào bát của bé Thu. Hành động này chứng tỏ tình cảm cha con rất sâu đậm. Kể cả khi ông Sáu đánh con vì đã hất miếng trứng cá ra khỏi bát làm cơm tung tóe thì đó cũng chỉ là bởi ông quá thương con, quá đau đớn khi nhìn thấy sự lạnh lùng của cô bé giành cho mình. Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con. Sau buổi chia tay với con gái yêu để trở lại chiến trường Nam Bộ tiếp tục kháng chiến. Tình yêu thương con của ông Sáu trong những ngày ở

Chiến khu càng thêm da diết. Ông Sáu đã mang theo tình yêu thương và nỗi nhớ con vào chiến trường xen lẫn cả sự ân hận vì đã đánh con. Ông đánh bé Thu rồi sau đó dằn vặt, day dứt khôn nguôi. Đồng thời ông đã dồn hết tâm sức vào việc làm" chiếc lược ngà ". Ông vui mừng phấn khởi khi kiếm được khúc ngà, sau đó dùng vỏ đạn hai mươi li đập mỏng làm cưa. Ông tự tay cưa từng chiếc răng lược thành một chiếc lược ngà một cách thận trọng, tỉ mỉ, khéo léo và cố công như người thợ bạc. Khi cây lược được hoàn thành, ông tỉ mẩn, gò công khắc lên chiếc lược dòng chữ" Yêu nhớ tặng Thu con của ba ". Sau khi làm xong cây lược ông Sáu phần nào với đi nỗi nhớ con, nỗi ân hận vì đã đánh con. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ gối được phần nào tâm trạng ông Sáu. Có cây lược bên cạnh ông càng khao khát được gặp con và tận tay trao cho con chiếc lược. Thỉnh thoảng những lúc rãnh rỗi ông lại lấy cây lược ra ngắm nghía rồi

Mài lên lên tóc cho bóng, thêm mượt. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Thật trớ trêu thay, ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay con món quà ấy, thế nhưng ánh mắt, cái nhìn không đủ lời diễn tả của ông đã nói lên tất cả tình yêu thương ông dành cho bé Thu" trong giờ phút cuối cùng, không đủ sức để trăn trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, ông đưa tay vào túi, móc cây lược.."nhờ bạn ông là bác Ba - người đồng đội trao lại cho bé Thu. Đó là tình cảm cao đẹp, sâu nặng cảm động trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của chiến tranh. Tình phụ tử bất diệt ấy không bao giờ chết đi và mãi mãi bất tử ở chiếc lược ngà, trong lòng bé thu, trong lòng bác Ba, trong trái tim âm thầm của độc giả.

Với cách xây dựng cốt truyện chặt chẽ, độc đáo lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của

Ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan. Ngoài ra tác giả còn miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật hết sức tinh tế, sâu sắc nhất là đối với nhân vật bé Thu. Ngôn ngữ đậm chất địa phương Nam Bộ, mộc mạc, tình cảm đã làm giàu đẹp thêm cho tác phẩm cũng như tài năng của ông.

Qua hai tác phẩm, ta cũng thấy những nét giống nhau trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm: Bài thơ bếp lửa là tình yêu thương của sự chăm sóc, ân cần dạy dỗ, tấm lòng vị tha, đức hy sinh vì cháu - một tình cảm mang tính phổ quát.

Còn bài thơ Chiếc lược ngà là tình cảm cha con cao cả, vĩ đại trong hoàn cảnh éo le, khắc

Nghiệt của chiến tranh. Qua hoàn cảnh ấy, tình cảm cha con ông Sáu hiện lên thật sâu sắc, cảm động và đầy nước mắt. Mặc dù là hai tình cảm khác nhau: Tình phụ tử và tình bà cháu, nhưng đều có điểm chung là tình cảm gia đình sâu nặng, là tình cảm để thương để nhớ trong lòng mỗi người khó có thể tách rời.

Tóm lại, tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm gì đó thật thiêng liêng, cao cả đáng được tôn thờ đối với mỗi con người. Mỗi tác giả bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và lay thức tình cảm tốt đẹp của con người. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hòa quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được

Lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của văn học dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng, một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.[/HIDETHANKS]

Tác giả: DNNY
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back