Nguyễn Tuân sinh ra tại phố hàng Bạc Hà Nội là con trai của cụ Nguyễn An Lan (tức ông Tú Hải Văn), một nhà nho bất đắc chí nhưng rất mực tài hoa. Thời niên thiếu, ông theo gia đình sống nhiều nơi ở các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Ông kể về thời gian học Thành chung ở Nam Định năm 1929: "Học đến năm thứ hai trung học tôi đã cưới vợ. Vợ tôi là con gái hàng Bạc, cũng là chỗ môn đăng hộ đối do gia đình lựa chọn cho. Tôi cưới vợ sớm vì hồi đó bố tôi ốm nặng, sợ không qua khỏi, tôi là con trưởng, hai gia đình quen biết nhau đã lâu nên bà cụ muốn cưới sớm". Vợ của nhà văn Nguyễn Tuân là bà Vũ Thị Tuệ. Sau khi cưới vợ Nguyễn Tuân vẫn còn đi học. Vì tham gia bởi khóa phản đối giáo viên Pháp nói xấu người Việt nên ông bị đuổi học, bị ghi vào hồ sơ là trong năm năm không được nhận vào làm ở các cơ quan nhà nước. Ông kể tiếp: "Mẹ tôi lấy cho một bát họ, để tôi mở hiệu sách. Tôi làm đại lý cho các báo trung bắc tân văn thanh Nghệ tĩnh, tiểu thuyết thứ bảy.. Được vài năm tôi phá gần sạch bố đành đưa vợ con về sống bám vào thầy mẹ tôi". Nguyễn Tuân tuy quê ở Hà Nội nhưng từ nhỏ ông đã theo gia đình (cụ Nguyễn An Lan làm thư ký Tòa sứ) sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố miền trung như Thanh Hóa, Hà tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, khánh Hòa. Chính hoàn cảnh sống của gia đình đã tạo điều kiện cho ông ngay từ thời niên thiếu đã được "xê dịch" qua nhiều nơi. Những vùng đất nói trên, đặc biệt là Thanh Hóa (nơi lâu nhất), đã để lại nhiều dấu ấn trong những trang viết về đề tài: "Chủ nghĩa xê dịch" của ông. Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tham gia kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950 ông được kết nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương nay là đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1948 đến 1958, ông giữ chức tổng thư ký hội văn nghệ Việt Nam, ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội.