Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Gill, 20 Tháng mười hai 2021.

  1. Gill

    Bài viết:
    6,243
    Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

    Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh


    Trường Đại học Nội vụ Hà Nội


    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài

    Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 chỉ rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. [1]

    Tư tưởng, quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là kết quả của sự nhận thức vô cùng sâu sắc và là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng giá trị vô cùng to lớn về cả hai mặt những mặt lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam, đây cũng là một cẩm nang để thay đổi nghề nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế nhằm sự thành công.

    Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, không phải là cái gì cũng xong, hoàn thiện và bất di bất dịch. Ngược lại, nhà nước trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có tính vận động, cởi mở, củng cố cùng đổi mới. Chính vì điều đó, trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, điều cần phải làm là Nhà nước ta phải đủ bản lĩnh và sáng suốt để điều hành, quản lý kinh tế thị trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tham gia có hiệu quả vào các thể chế quốc tế và đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới là cần thiết về tính tất yếu và khách quan.

    Nghiên cứu cũng như học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh xóa bỏ những thói hư tật xấu trong bộ máy của đất nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của con người nhân dân, bảo đảm cho nhà nước luôn giữ được bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    Với ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" làm bài tiểu luận kết thúc học phần "Tư tưởng Hồ Chí Minh" . Đề tài trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và phát triển quan hệ quốc tế ở nước ta hiện tại.

    2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

    Mục đích chung của tiểu luận là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; rồi vận dụng nó vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích tổng quát trên, bài tiểu luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:

    Thứ nhất, làm rõ sự hình thành và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

    Thứ hai, làm rõ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà nước Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    3.1 Đối tượng nghiên cứu

    Nội dung của bài tiểu luận tập trung nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong đó, bài tiểu luận tập trung nghiên cứu sâu sắc về sự hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từ đó vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

    3.2 Phạm vi nghiên cứu

    Tiểu luận tập trung nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từ quá trình hình thành. Từ đó lựa chọn những quan điểm phù hợp vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    Tiểu luận được xây dựng trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Những quan điểm chỉ đạo, kết luận của Đảng ta từ quá trình tổng kết giữa lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đất nước.

    Tác giả của bài tiểu luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau bao gồm: Phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp hệ thống; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và xã hội học.

    5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

    Nghiên cứu đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" nhằm nắm rõ tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Đồng thời có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.


    Lướt xuống bên dưới để xem tiếp nội dung bài viết!
     
  2. Gill

    Bài viết:
    6,243
    1. Những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1.1 Xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân

    Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới ở Việt Nam là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chi phối trong toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nhà nước cách mạng ở Việt Nam.

    Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.. Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của Nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị.

    Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ.. nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ".

    Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh, còn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là "bao nhiêu lợi ích đều vì dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân", đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do "dân cử ra" và "do dân tổ chức nên".

    Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội, Hồ Chí Minh còn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân. Đó là quan điểm gốc để Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới, xây dựng Đảng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân. Hồ Chí Minh không chỉ coi dân chủ có ý nghĩa một giá trị chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, xem nó như lý tưởng phấn đấu của các dân tộc và nó không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia mà còn có cả ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

    Quan điểm xây dựng nhà nước của Hồ Chí Minh không những kế thừa mà còn phát triển học thuyết Mac – Lênin về nhà nước cách mạng.

    Hiểu một cách tổng quát nhất về quan điểm nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung sau đây:

    1.1. 1 Nhà nước của nhân dân

    Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các bản hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo: Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.

    Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, bầu ra quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân.

    Nhân dân lao động làm chủ nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền dân chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu thấy những đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của dân.

    Theo Hồ Chí Minh, muốn bảo đảm được tính chất nhân dân của nhà nước phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của quy chế này quy định, và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.

    Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là "dân là chủ" đối lập với quan niệm "quan chủ". Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn, gọn, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh còn cho rằng: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ", "chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ", "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ".

    Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong Nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế, nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2 – 9 – 1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năn của dân tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.

    1.1. 2 Nhà nước do nhân dân

    Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

    Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ:

    - Toàn bộ công dân bầu ra quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.

    - Quốc hội bầu ra chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Hội đồng chính phủ.

    - Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của quốc hội và chấp hành pháp luật.

    - Mọi công việc của bộ máy Nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra). [2]

    Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa "dân làm chủ". Người khẳng định rõ: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ [3, t9, tr. 258] . Nếu" dân là chủ "xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì" dân làm chủ "nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh," nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân ". Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, vv..

    Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

    Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình. Hồ Chí Minh nói:" Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ "[4, t12, tr. 527] . Không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước, mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.

    1.1. 3 Nhà nước vì nhân dân

    Nhà nước vì dân là một Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất ký một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.

    Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho dân chứ không phải" làm quan cách mạng "để" đè đầu cưỡi cổ dân ". Đối với chức vụ chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân uỷ thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân. [5]

    Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác nhau căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại hình nhà nước trước đó:" Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.

    Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.

    Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh "[6, Sđd, t. 4, tr. 56-57] .

    Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến nghị, đề đạt của nhân dân:" Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý "[7, Sđd, t. 4, tr. 47-48] .

    Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định:" Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối "[8, Sđd, t. 4, tr. 56] . Chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo Hồ Chí Minh" Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.

    Chúng ta phải thực hiện ngay:

    1. Làm cho dân có ăn.

    2. Làm cho dân có mặc.

    3. Làm cho dân có chỗ ở.

    4. Làm cho dân có học hành.

    Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập "[9, Sđd, t. 4, tr. 152] .

    Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước.

    Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho được định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho bộ máy thật sự trong sạch. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thoái hóa, biến chất thì nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân chủ nhân dân, trở thành một thế lực đối lập với nhân dân. Bằng nhạy cảm chính trị, chiêm nghiệm thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã phát hiện và cảnh báo ngay từ rất sớm những căn bệnh có thể phát sinh làm biến dạng, tha hóa nhà nước. Quán triệt phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh ý thức rằng, quản lý đất nước, xã hội là một việc làm khó, cán bộ, công chức của ta lại ít kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, chắc chắn có thiếu sót, sai lầm, nhưng nếu biết thành thật, học hỏi, đặt lợi ích nhân dân lên trên hết, trước hết thì có thể khắc phục, sửa chữa được.

    Theo Hồ Chí Minh, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền, một số cán bộ, công chức" đã vác mặt làm quan cách mạng ", kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã nảy sinh những" lỗi lầm rất nặng "làm biến dạng nhà nước. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người chỉ ra thực chất, hình thức biểu hiện phong phú của các căn bệnh này, gọi đó là" giặc nội xâm "hết sức nguy hiểm và gây hậu họa nghiêm trọng, làm thất thoát tiền của nhà nước, chậm tốc độ phát triển, nhất là làm xói mòn niềm tin của dân, làm cho dân xa nhà nước.

    Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, đảm bảo cho nhà nước thật sự là công bộc của dân. Nếu thấu hiểu và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, công chức có thể phòng tránh, ngăn ngừa, không phạm phải những lỗi lầm kể trên. Còn nếu" Ai đã phạm những lầm lỗi trên này thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung"[10, Sđd, t. 4, tr. 58] .

    Nhận thức và cảnh báo của Hồ Chí Minh về các nguy cơ, căn bệnh phát sinh trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước và cách phòng tránh, khắc phục chúng ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và có tính thời sự, soi đường chỉ lối cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt kết quả cao, đảm bảo cho Nhà nước ta thật sự phục vụ quyền lợi của nhân dân, trở thành công bộc, đầy tớ của dân. [11]
     
  3. Gill

    Bài viết:
    6,243
    1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1.2. 1 Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước Việt Nam

    Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó, nhà nước là sản phẩm tất yếu của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy, không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện nhà nước vì chưa có giai cấp. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản văn minh thì giai cấp dần dân không còn, đồng thời với quá trình đó là nhà nước của giai cấp cũng tự tiêu vong.

    Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được coi là nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên nó không phải là "nhà nước toàn dân", hiểu theo nghĩa nhà nước phi giai cấp. Nhà nước bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Vì:

    - Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:

    Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: "Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo". Trong quan điểm cơ bản xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

    Đảng lãnh đạo nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do Dó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nước ta trong thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung cho các thời kỳ, đó là:

    + Đảng lãnh đạo bằng đường lối quan điểm, chủ trương để nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.

    + Đảng lãnh đạo nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.

    + Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.

    - Bản chất giai cấp của nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. Điều này đã được thể hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời.

    - Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chư ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.

    1.2. 2 Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của nhà nước

    Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp – dân tộc trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới. Người đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:

    - Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà lãnh đạo tiền bối rất oanh liệt, tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ đầu năm 1930, Đảng ta ra đời, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông nam Á

    - Tính thống nhất còn biểu hiện ở chỗ nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc.

    - Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển, tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.
     
  4. Gill

    Bài viết:
    6,243
    1.3 Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của hiến pháp và pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Versaille năm 1919. Bản yêu sách đó đưa ra yêu cầu: "Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Châu Âu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;" thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật ". Trong Việt Nam yêu cầu ca, một bài thơ diễn ca ra văn vần tiếng Việt bản yêu sách đó có những câu:

    " Hai xin phép luật sửa sang,

    Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng,

    * * *

    Bảy xin hiến pháp ban hành,

    Trăm đề phải có thần linh pháp quyền "

    Sau này, khi trở thành người đứng đầu nhà nước Vệt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền.

    Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây: [12]

    1.3. 1 Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến

    Hồ Chí Minh luôn chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới. Người đã sớm thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam của nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp do Người thay mặt nhóm gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Bản Yêu sách đó nêu ra yêu cầu" cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách làm cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Châu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam ";" Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật ".

    Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc bảo đảm cho Nhà nước được tổ chức và vận hành phù hợp với pháp luật, đồng thời, căn cứ vào pháp luật để điều hành xã hội, làm cho tinh thần pháp quyền thấm sâu và điều chỉnh mọi quan hệ và hoạt động trong Nhà nước và xã hội.

    Chính vì thế, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị:" Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu "' để lập nên Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến, thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới có quan hệ quốc tế bình đẳng, mới thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.

    Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo.. đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc hội. Ngày 2-31946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.

    1.3. 2 Hoạt động quản lý nhà nước bằng hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống

    Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp – Đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản hiến pháp năm 1946 và 1959 đã để lại những dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của nhà nước mới.

    Song, có hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng di liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi hiến pháp và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Các cơ quan của nhà nước phải gương mẫu chấp hành một cách nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lới ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.

    " Thần linh pháp quyền"là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chư trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp.

    Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đói với nhà nước, biết thực hành dân chủ.

    Trong việc thực thi hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải đúng và đủ; tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân; người thực thi luật pháp trở thành cán cân công lý đối với tất cả mọi người, không có một trường hợp ngoại lệ nào; bất kỳ ai vi phạm pháp luật cũng đều bị trừng trị nghiêm khắc, đúng người, đúng tội.
     
  5. Gill

    Bài viết:
    6,243
    1.4 Xây dựng nhà nước trong sạch, hoạt động có hiệu quả

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1.4. 1 Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức và tài

    Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung "là cái gốc của mọi công việc", "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".

    Để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nó một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đọi ngũ này, theo Hồ Chí Minh, đó là những người vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.

    Đi vào những mặt cụ thể, Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:

    - Tuyệt đối trung thành với cách mạng.

    Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo về chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó không phải là những điều trừu tượng, chung chung, mà phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trong mọi lĩnh vực công tác, thể hiện trong kết quả thực tế. Lòng trung thành đó thể hiện hàng ngày, hàng giờ nhưng phải được thể hiện đặc biệt rõ trong những lúc đất nước gặp khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.

    - Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ

    Chỉ với lòng nhiệt tình thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây dược cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ cán bộ, công chức phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Đó là tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức. Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải luôn luôn học tập không ngưng nghỉ, học mọi lúc, moil nơi, học suốt đời. Hồ Chí Minh chính là con người điển hình của tự học. Người tự học những kiến thức về nhà nước trong cả cuộc đời mình.

    - Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân

    Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đọi ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách

    Mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, quan liêu, lãng phí.. Phải luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền.. đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu nhà nước, thậm chí làm biến chất nhà nước vì đã vi phạm một điều có tính chất quyết tử của cấu tạo quyền lực nhà nước là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

    - Cán bộ, công chức phải là người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, "thắng không kiêu, bại không nản"

    Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm "công bộc", "đầy tớ" cho dân, nhứng người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn có "chí tiến thủ", luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, ở bạn..

    - Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của nhà nước

    Với chức trách là những người phục vụ nhân dân, thì cán bộ, công chức phải tận tuỵ, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ, công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác, đồng thời, cán bộ, công chức phải chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

    Bộ máy nhà nước, theo quan điểm Hồ Chí Minh, cần gọn, nhẹ, có hiệu lực, phù hợp với từng giai đoạn để phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoạt động của nhà nước, tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của tổ quốc, của nhân dân không vì lợi ích của cá nhân nào. Chức vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là do dân uỷ thác, uỷ quyền để làm việc cho ích quốc lợi dân, không vì chủ nghĩa cá nhân.

    1.4. 2 Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước

    Xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt và những tiêu cực rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất nhà nước.

    Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những "ông quan cách mạng". Hồ Chí Minh chỉ ra 6 căn bệnh cần đề phòng: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: "Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những sai lầm trên này, thì nên chú ý tránh đi. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ" công bình, chính trực "vào lòng.

    Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ" công bộc "," đầy tớ "để chỉ ra một mặt trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong xây dựng một nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

    Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây va nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục.

    - Đặc quyền, đặc lợi

    Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

    - Tham ô, lãng phí, quan liêu

    Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là" giặc nội xâm "," giặc ở trong lòng ", thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người" lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức ". Quan điểm của Hồ Chí Minh là:" Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến.. tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám ". Ngày 27 -11 -1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ấn định tội đưa và nhận hối lộ với mức tù từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26 – 1 – 1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình.

    Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân Người luôn làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thì giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia.

    Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà còn ngay ở các cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn.. thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững.. thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho bệnh tham ô lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô, lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

    - Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo

    Những hành động trên gây mất đoàn kết gây rối cho công tác, Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách làm cho mọi người thuận hòa với nhau, còn có người" bênh vực lớp này, chống lại lớp khác ". Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo," tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi.. cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng ", làm mất uy tín của chính phủ.

    1.4. 3 Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh đạo đức cách mạng

    Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp của đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử.

    Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao giờ che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình dể cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục nhưng người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã dần hiểu ra và không" sẩy chân", phạm pháp hoặc không đi theo địch. [13]
     
  6. Gill

    Bài viết:
    6,243
    2. Kết luận những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích và làm sáng tỏ những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân với những nội dung như: Đó là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; là nhà nước có cơ chế tổ chức quyền lực đảm bảo sự phân công, phân quyền, kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; là nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình; là nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân; là nhà nước đề cao pháp luật trong quản lý xã hội, nhưng đồng thời cũng chú trọng giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng.. Như vậy, những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng những tính chất của nhà nước pháp quyền. Phải khẳng định rằng, những quan điểm ấy rất thực tiễn, không phải chỉ là lý thuyết mà nó đã trở thành hiện thực sinh động thông qua việc thiết lập, xây dựng và phát triển chính quyền nhân dân theo Hiến pháp 1946- bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Do đó, những quan điểm ấy sẽ có giá trị to lớn và ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. [14]

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân không chỉ ở những người trong bộ máy thật sự đại biểu cho Nhân dân, mà còn ở chỗ các đại biểu đó trong cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, vì độc lập của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của đồng bào. Trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện, làng ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

    "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.

    Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.

    Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.

    Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".

    Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gắn liền với mục tiêu cao cả: ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC. "Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".

    Mục đích cuối cùng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là vì độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Trong công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, Nhà nước đã phấn đấu hết sức mình để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của Nhân dân. Nhà nước Việt Nam đã thực hiện tốt nhất 8 mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc năm 2000 vì cuộc sống của Nhân dân. Với các Chương trình 135 (1998), 134 (2004), 30a (2008) đã hỗ trợ các hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo và hiện nay đang thực hiện Chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới. Cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 năm 2020 càng thể hiện bản chất vì dân của Nhà nước khi Chính phủ coi chống dịch như chống giặc với mục tiêu cao nhất là bảo vệ sức khỏe và tính mạng người dân. Vừa chống dịch vừa bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống mọi tầng lớp nhân dân, nhất là những người nghèo, yếu thế trong xã hội để không ai bị bỏ lại phía sau với gói chi 62.000 tỷ đồng hỗ trợ 7 nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch bệnh. [15]

     
  7. Gill

    Bài viết:
    6,243
    TỔNG KẾT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo quan điểm, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà nước do toàn dân lập nên; nó là một nhà nước hoàn toàn hợp hiến; Đó là một nhà nước mà quyền lực đến từ những người được ủy thác, chứ không phải từ quyền lực siêu nhiên của Thượng đế hay lý trí tối cao; đó là nhà nước lấy quyền và lợi ích của nhân dân, lấy tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và là lý do tồn tại của nó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ chính quyền này nếu chính quyền không mưu cầu và tạo ra quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.

    Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là nhà nước vĩnh cửu, bất biến, trái lại đó là nhà nước luôn vận động và phát triển để phục vụ ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Luôn đấu tranh để khắc phục và loại trừ những thói hư, tật xấu, những căn bệnh thường gặp như: Tham nhũng, hối lộ, quan liêu, lãng phí, lạm quyền.. dẫn đến sự suy yếu và đánh mất bản chất cách mạng của nhà nước.

    Chúng ta có thể khẳng định rằng, quan điểm và tư duy của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân chứa đựng pháp quyền và thực chất là tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Và ý nghĩa sâu xa hơn là mô hình nhà nước không tồn tại dưới dạng lý thuyết hay quan điểm, mà đã trở thành hiện thực sống động; Nhà nước này đã tập hợp nhân dân ta, tổ chức họ và đưa họ đến những chiến thắng vĩ đại.

    Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân làm chủ có giá trị lý luận và thực tiễn vì dân, có đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải kế thừa, vận dụng và phát triển, phát huy những giá trị này để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền hiện hành ở Việt Nam.
     
  8. Gill

    Bài viết:
    6,243
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    2. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb . Chính trị 3. Quốc gia, Hà Nội.

    4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.

    5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.

    6. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 56-57.

    8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 47-48.

    9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 56.

    10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 1

    11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 58.

    12. Nguyễn Văn Quang, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Trang Viện kiểm sát Quảng Nam, VKSND tỉnh Quảng Nam .

    13. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    15. Phạm Huy Văn (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

    16. PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ - Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước, (truy cập ngày 07 tháng 8 năm 2020.
     
    Diệp Minh Châu, Thùy MinhAstrid Chan thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...