Bài viết: 43 



Nguyễn Du là một thiên tài văn học, danh nhân văn hóa thế giới. Ông là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn có đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm nhiều tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều là một kiệt tác văn học, dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc nhưng được Nguyễn Du sáng tạo bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát
Truyện Kiều được chia làm ba phần, đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm ở phần đầu của bài thơ. Đoạn trích giới thiệu về gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình nhà họ Vương, Nguyễn Du tập trung miêu tả tài sắc của hai chị em Thúy Kiều. Bằng nghệ thuật tả người đặc sắc có tính truyền thống của thơ cổ, với bút pháp ước lệ tượng trưng, đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt sắc hoàn hảo của hai chị em Thúy Kiều đồng thời cũng ngầm dự đoán số phận của họ. (Trong đó có đoạn thơ thật hay)
(Trích thơ)
Mở đầu đoạn trích nhà thơ đã giới thiệu chung về vẻ đẹp của hai chị em
Hai cô con gái đầu lòng trong gia đình họ Vương đều rất xinh đẹp "ả tố nga", chị là Thúy Kiều còn em là Thúy Vân.
Với bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh ẩn dụ, thành ngữ "mười phân vẹn mười" tác giả đã lấy vẻ đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên "mai, tuyết" để so sánh với vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng. Dáng thanh mảnh như cây mai, tinh thần trắng teong như tuyết, cả hai đều đẹp "mười phân vẹn mười" nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp riêng đều toàn vẹn và hoàn hảo
Kế tiếp đó, nhà thơ đưa bạn đọc đến với vẻ đẹp của Thúy Vân.
Câu thơ đã phần nào miêu tả khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân. Đó là vẻ đẹp nghiêm trang, đứng đắn, phúc hậu và quý phái. Ở ba câu thơ sau, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân cụ thể hơn, chi tiết hơn
Lẽ ra nhà thơ phải miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều trước bởi Thúy Kiều là chị nhưng ở đây Nguyễn Du lại chọn miều tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước mặc dù Thúy Vân là em. Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước chỉ là cái cớ để khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều. Tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy vân cụ thể sắc nét đến từng chi tiết khiến cho hình ảnh Thúy Vân cứ hiện lên trước mắt người đọc. Trong thiên nhiên có bao nhiêu cái đẹp Nguyễn Du đã chọn ra những cái đẹp nhất để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: "Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.." Từ những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng mà cụ thể đến từng chi tiết, kết hợp với biện pháp nghệ thuật nhân hóa "hoa cười, ngọc thốt" giúp người đọc hình dung ra một Thúy Vân với khuân mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng tròn, lông mày sắc nét đậm như con ngài, làn da trắng như tuyết, mái tóc óng mượt hơn mây trời, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc. Dung nhan của Thúy Vân qua nét tả thần tình của Nguyễn Du bỗng trở nên tươi đẹp và hấp dẫn. Đó là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, quý phái - một vẻ đẹp mà thiên nhiên sẵn sàng nhường nhịn. Với cách so sánh "thua, nhường" Nguyễn Du đã ngầm dự đoán số phận của Thúy Vân sẽ bình yên, suôn sẻ, phẳng lặng như chính vẻ tròn trịa, phúc hậu của nàng.
Tiếp theo đó Nguyễn Du đưa bạn đọc đến với vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều. Nếu như nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, quý phái thì khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều nhà thơ không chỉ tái hiện lại vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn đề cao tài năng của nàng. Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của Kiều:
Với biện pháp so sánh, gợi mà không tả "càng", "so bề", "phần hơn" cho ta thấy tuy mỗi người có một vẻ đẹp riêng nhưng Kiều đẹp và tài năng hơn hẳn Thúy Vân.
Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du không miêu tả đôi mắt nàng bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ và trong sáng của tâm hồn.
Với bút pháp ước lệ, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa, vẻ đẹp của Thúy Kiều hiện lên thật tuyệt mỹ. Đôi mắt đẹp của nàng trong xanh như nước hồ mùa thu, lông mày tươi xinh tràn trề sức sống như nét núi mùa xuân, dung nhan tươi thắm và rạng rỡ đến nỗi hoa phải ghen tị, dáng người tươi xinh mơn mởn đến liễu cũng phải hờn dỗi. Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ thông minh, chim sa cá lặn, hoa liễu hờn ghen, nghiêng nước nghiêng thành không ai sánh nổi. Nguyễn Du vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn. Từ "ghen" và "hờn" là sự đố kị của thanh niên, qua đó cũng phần nào ngầm đoán số phận của nàng sẽ không bình yên, suôn sẻ mà bấp bênh, trôi nổi.
Thúy Kiều không chỉ là một tuyệt thế giai nhân mà còn là một cô gái rất mực tài hoa, tinh thông cầm, kì, thi, họa. Thông minh và tài hoa bẩm sinh mà cha mẹ và trời đất phú cho nàng. Nàng có nhiều tài nghệ, đàn hay hát giỏi, biết họa và biết làm thơ:
[HIDETHANKS=1]Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức" lầu bậc ". Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn Hồ cầm, tiếng đàn của nàng thật hay" ăn đứt "bất cứ người nào đương thời. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, khúc đàn mà nàng sáng tác ra tên" Bạc mệnh "nghe buồn thê thiết" não nhân ", làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Mỗi khi cung đàn Bạc mệnh cất lên, ai ai cũng phải chau mày rơi lệ. Khúc Bạc mệnh ấy còn như là điều dự báo một tương lai ảm đạm, bất hạnh, một cuộc sống bất ổn sẽ đến với Thúy Kiều. Ở Thúy Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau, và không chỉ khi tả tài mới bộc lộ, mà ngay cả khi tả nhan sắc của Kiều, Nguyễn Du cũng đã dự báo cho người đọc biết rõ điều này qua những từ như" ghen "," hờn "," nghiêng nước "," nghiêng thành "đã tô đậm thêm sự bất an của nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều. Chân dung của Khiều là bức chân dung mang tình chất số phận, phải chăng Nguyễn Du đã gửi tới một quan niệm" hồng nhan bạc phận "," chữ tài gắn với chữ tai một vần ". Các từ ngữ: Sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
Kết thúc bức chân dung tuyệt mỹ của hai chị em Thúy Kiều là lời nhận xét của Nguyễn Du về đức hạnh và phẩm giá của họ:
Hai chị em có cuộc sống êm đềm, phong phú, khuôn phép, bình yên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, cả hai đều trắng trong và xinh đẹp. Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga. Tuy là khách" hồng quần ", đẹp thế, tài thế, lại" phong lưu rất mực ", đã tới tuần" cập kê "nhưng" hai ả tố nga "đã và đang sống một cuộc đời nề nếp, gia giáo. Câu thơ" Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê "là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm"... "
(xuân xanh xấp xỉ), phụ âm"... "
(tới tuần), phụ âm" c-k "(cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ khuê phòng.
Đoạn trích đã sử dụng thành công bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Ngoài ra, tác giả còn thành công khi ngầm dự
Đoán số phận của hai chị em, kết hợp với các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đòn bẩy.. đoạn trích đã làm nổi bật bức chân dung hai chị em, đã khắc họa được chân dung nhân vật có nhan sắc, tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ. Phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó là một số mệnh diễn tả những ý niệm triết học và thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu sắc của nhà thơ họ Nguyễn, qua đó cho ta thấy nghệ thuật tả người bậc thầy của Nguyễn Du. Từ đó khiến người đọc trân trọng, ngưỡng mộ và cảm thông trước vẻ đẹp ấy.
Đoạn trích" Chị em Thúy Kiều "là một mẫu mực của văn miêu tả, có giới thiệu chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh. Ngôn ngữ cô đúc,
Lời thơ giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, tương phản được sử dụng một cách tài tình. Các từ loại như các danh từ, động từ, phó từ, được sử dụng mang giá trị biểu đạt và biểu cảm cụ thể. Các điển cố, những thi liệu văn học Trung Quốc được sử dụng thích đáng nên mặc dù sử dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng nhưng bức chân dung của chị em Thúy Kiều vẫn hiện lên một cách cụ thể, sinh dộng, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc." Chị em Thúy Kiều "là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong" Truyện Kiều"được nhiều người yêu thích và thuộc. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm long quý mến trăn trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.[/HIDETHANKS]
Truyện Kiều được chia làm ba phần, đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm ở phần đầu của bài thơ. Đoạn trích giới thiệu về gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình nhà họ Vương, Nguyễn Du tập trung miêu tả tài sắc của hai chị em Thúy Kiều. Bằng nghệ thuật tả người đặc sắc có tính truyền thống của thơ cổ, với bút pháp ước lệ tượng trưng, đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt sắc hoàn hảo của hai chị em Thúy Kiều đồng thời cũng ngầm dự đoán số phận của họ. (Trong đó có đoạn thơ thật hay)
(Trích thơ)
Mở đầu đoạn trích nhà thơ đã giới thiệu chung về vẻ đẹp của hai chị em
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân"
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân"
Hai cô con gái đầu lòng trong gia đình họ Vương đều rất xinh đẹp "ả tố nga", chị là Thúy Kiều còn em là Thúy Vân.
"Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Với bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh ẩn dụ, thành ngữ "mười phân vẹn mười" tác giả đã lấy vẻ đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên "mai, tuyết" để so sánh với vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng. Dáng thanh mảnh như cây mai, tinh thần trắng teong như tuyết, cả hai đều đẹp "mười phân vẹn mười" nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp riêng đều toàn vẹn và hoàn hảo
Kế tiếp đó, nhà thơ đưa bạn đọc đến với vẻ đẹp của Thúy Vân.
"Vân xem trang trọng khác vời"
Câu thơ đã phần nào miêu tả khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân. Đó là vẻ đẹp nghiêm trang, đứng đắn, phúc hậu và quý phái. Ở ba câu thơ sau, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân cụ thể hơn, chi tiết hơn
"Khuân trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Lẽ ra nhà thơ phải miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều trước bởi Thúy Kiều là chị nhưng ở đây Nguyễn Du lại chọn miều tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước mặc dù Thúy Vân là em. Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước chỉ là cái cớ để khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều. Tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy vân cụ thể sắc nét đến từng chi tiết khiến cho hình ảnh Thúy Vân cứ hiện lên trước mắt người đọc. Trong thiên nhiên có bao nhiêu cái đẹp Nguyễn Du đã chọn ra những cái đẹp nhất để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: "Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.." Từ những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng mà cụ thể đến từng chi tiết, kết hợp với biện pháp nghệ thuật nhân hóa "hoa cười, ngọc thốt" giúp người đọc hình dung ra một Thúy Vân với khuân mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng tròn, lông mày sắc nét đậm như con ngài, làn da trắng như tuyết, mái tóc óng mượt hơn mây trời, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc. Dung nhan của Thúy Vân qua nét tả thần tình của Nguyễn Du bỗng trở nên tươi đẹp và hấp dẫn. Đó là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, quý phái - một vẻ đẹp mà thiên nhiên sẵn sàng nhường nhịn. Với cách so sánh "thua, nhường" Nguyễn Du đã ngầm dự đoán số phận của Thúy Vân sẽ bình yên, suôn sẻ, phẳng lặng như chính vẻ tròn trịa, phúc hậu của nàng.
Tiếp theo đó Nguyễn Du đưa bạn đọc đến với vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều. Nếu như nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, quý phái thì khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều nhà thơ không chỉ tái hiện lại vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn đề cao tài năng của nàng. Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của Kiều:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà"
Có nghĩa là Kiều không chỉ đẹp mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà trong tình cảm. Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du khẳng định Kiều hơn hẳn Thúy Vân cả về nhan sắc lẫn tài năng.
Với biện pháp so sánh, gợi mà không tả "càng", "so bề", "phần hơn" cho ta thấy tuy mỗi người có một vẻ đẹp riêng nhưng Kiều đẹp và tài năng hơn hẳn Thúy Vân.
Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du không miêu tả đôi mắt nàng bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ và trong sáng của tâm hồn.
"Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh"
Với bút pháp ước lệ, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa, vẻ đẹp của Thúy Kiều hiện lên thật tuyệt mỹ. Đôi mắt đẹp của nàng trong xanh như nước hồ mùa thu, lông mày tươi xinh tràn trề sức sống như nét núi mùa xuân, dung nhan tươi thắm và rạng rỡ đến nỗi hoa phải ghen tị, dáng người tươi xinh mơn mởn đến liễu cũng phải hờn dỗi. Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ thông minh, chim sa cá lặn, hoa liễu hờn ghen, nghiêng nước nghiêng thành không ai sánh nổi. Nguyễn Du vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn. Từ "ghen" và "hờn" là sự đố kị của thanh niên, qua đó cũng phần nào ngầm đoán số phận của nàng sẽ không bình yên, suôn sẻ mà bấp bênh, trôi nổi.
Thúy Kiều không chỉ là một tuyệt thế giai nhân mà còn là một cô gái rất mực tài hoa, tinh thông cầm, kì, thi, họa. Thông minh và tài hoa bẩm sinh mà cha mẹ và trời đất phú cho nàng. Nàng có nhiều tài nghệ, đàn hay hát giỏi, biết họa và biết làm thơ:
[HIDETHANKS=1]"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên" Bạc mệnh' lại càng não nhân. "[/HIDETHANKS]
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên" Bạc mệnh' lại càng não nhân. "[/HIDETHANKS]
[HIDETHANKS=1]Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức" lầu bậc ". Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn Hồ cầm, tiếng đàn của nàng thật hay" ăn đứt "bất cứ người nào đương thời. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, khúc đàn mà nàng sáng tác ra tên" Bạc mệnh "nghe buồn thê thiết" não nhân ", làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Mỗi khi cung đàn Bạc mệnh cất lên, ai ai cũng phải chau mày rơi lệ. Khúc Bạc mệnh ấy còn như là điều dự báo một tương lai ảm đạm, bất hạnh, một cuộc sống bất ổn sẽ đến với Thúy Kiều. Ở Thúy Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau, và không chỉ khi tả tài mới bộc lộ, mà ngay cả khi tả nhan sắc của Kiều, Nguyễn Du cũng đã dự báo cho người đọc biết rõ điều này qua những từ như" ghen "," hờn "," nghiêng nước "," nghiêng thành "đã tô đậm thêm sự bất an của nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều. Chân dung của Khiều là bức chân dung mang tình chất số phận, phải chăng Nguyễn Du đã gửi tới một quan niệm" hồng nhan bạc phận "," chữ tài gắn với chữ tai một vần ". Các từ ngữ: Sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
" Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen. "
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen. "
Kết thúc bức chân dung tuyệt mỹ của hai chị em Thúy Kiều là lời nhận xét của Nguyễn Du về đức hạnh và phẩm giá của họ:
" Phong lưu nhất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai. "
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai. "
Hai chị em có cuộc sống êm đềm, phong phú, khuôn phép, bình yên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, cả hai đều trắng trong và xinh đẹp. Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga. Tuy là khách" hồng quần ", đẹp thế, tài thế, lại" phong lưu rất mực ", đã tới tuần" cập kê "nhưng" hai ả tố nga "đã và đang sống một cuộc đời nề nếp, gia giáo. Câu thơ" Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê "là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm"... "
(xuân xanh xấp xỉ), phụ âm"... "
(tới tuần), phụ âm" c-k "(cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ khuê phòng.
Đoạn trích đã sử dụng thành công bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Ngoài ra, tác giả còn thành công khi ngầm dự
Đoán số phận của hai chị em, kết hợp với các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đòn bẩy.. đoạn trích đã làm nổi bật bức chân dung hai chị em, đã khắc họa được chân dung nhân vật có nhan sắc, tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ. Phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó là một số mệnh diễn tả những ý niệm triết học và thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu sắc của nhà thơ họ Nguyễn, qua đó cho ta thấy nghệ thuật tả người bậc thầy của Nguyễn Du. Từ đó khiến người đọc trân trọng, ngưỡng mộ và cảm thông trước vẻ đẹp ấy.
Đoạn trích" Chị em Thúy Kiều "là một mẫu mực của văn miêu tả, có giới thiệu chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh. Ngôn ngữ cô đúc,
Lời thơ giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, tương phản được sử dụng một cách tài tình. Các từ loại như các danh từ, động từ, phó từ, được sử dụng mang giá trị biểu đạt và biểu cảm cụ thể. Các điển cố, những thi liệu văn học Trung Quốc được sử dụng thích đáng nên mặc dù sử dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng nhưng bức chân dung của chị em Thúy Kiều vẫn hiện lên một cách cụ thể, sinh dộng, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc." Chị em Thúy Kiều "là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong" Truyện Kiều"được nhiều người yêu thích và thuộc. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm long quý mến trăn trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.[/HIDETHANKS]