

Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân
I) Giới thiệu chung
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành tựu nghệ thuật xuất sắc trong cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945.
- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân rất độc đáo. Văn chương của ông là thứ văn chương tài hoa, uyên bác. Ông là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước năm 1945, ông tìm về cái đẹp xưa cũ, cái đẹp đã từng vang bóng một thời, còn sau năm 1945, ông tìm thấy vẻ đẹp trong lao động - một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc và rất đỗi gần gũi với cuộc sống con người.
2. Tác phẩm
A) Hoàn cảnh ra đời
- "Người lái đò sông Đà" là một tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân, được in trong tập "Sông Đà", xuất bản năm 1960.
- Tùy bút "Sông Đà" là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng đầy hứng thú của nhà văn Nguyễn Tuân vào những năm 1958 - 1960 của thế kỉ trước. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao "xê dịch" của nhà văn. Ông đi để tìm kiếm cái "chất vàng" trong vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên rừng núi Tây Bắc. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn tìm ra được "thứ vàng mười đã qua thử lửa" trong con người Tây Bắc.
b) Lời đề từ
- "Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông" :
Câu thơ mang cấu trúc câu cảm thán. "Tiếng hát trên dòng sông" được hiểu theo hai nét nghĩa. Đầu tiên, đó là tiếng hát của những con người ngày đêm gắn bó với dòng sông. Theo nét nghĩa thứ hai thì "tiếng hát trên dòng sông" là tiếng hát của chính tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã bộc lộ niềm yêu, sự ngưỡng mộ với con người và thiên nhiên Tây Bắc. Thông qua câu thơ trên, cảm hứng chủ đạo của tùy bút đã được bộc lộ rõ nét. Đó là tình yêu, niềm say mê và sự ngưỡng mộ sâu sắc của một con người cả cuộc đời đều đi tìm cái đẹp. Bây giờ, khi đứng trước cái đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, ông đã không thể kiềm chế được niềm say mê và sự ngưỡng mộ của mình.
- "Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu"
Hai câu thơ này đã thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là luôn say mê khám phá những vẻ đẹp độc đáo, phi thường của thế giới. Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân cũng thể hiện được cá tính sáng tạo độc đáo của mình.
II) Phân tích đoạn trích
1. Hình tượng dòng sông Đà
A) Dòng sông hung bạo
- Cảnh đá bờ sông dựng vách thành:
Có thể xem "vách thành" là một hình ảnh ẩn dụ thú vị. Nhà văn đã gợi được sự vững trãi, thâm nghiêm, bí ẩn và hàm chứa biết bao nhiêu sức mạng đầy đe dọa qua hình ảnh này. Tác giả sử dụng một số chi tiết có vẻ như là bâng quơ hay ngẫu nhiên nhưng chính là một cách miêu tả gián tiếp, tài tình độ cao của vách đó cũng như độ hẹp của lòng sông. Độ hẹp của sông Đà tiếp tục được nhà văn miêu tả một cách thật tài hoa: "Vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu". Nhà văn đã miêu tả sự vật thông qua cảm giác, tạo ấn tượng sâu đạm cho người đọc. Ông đã tạo ra ấn tượng tương phản về xúc giác: "Mùa hè mà lại cảm thấy lạnh". Còn ấn tượng về thị giác là "một khung cửa sổ nào trên tầng thứ mấy này vừa tắt phụt điện", tạo một cảm giác chới với của thị giác.
- Cảnh ghềnh Hát Lóong:
Đó là một cảnh tượng đầy dữ dội: "Hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió..". Ở câu văn này, rất nhiều những thanh sắc đã gợi ra cái độ cao của sóng gió như vút cao trên mặt ghềnh Hát Lóong. Thêm vào đó là điệp cấu trúc và điệp từ nối các vế câu. Ngoài ra, động từ "xô" là một động từ mạnh đã gợi ra sức mạnh khủng khiếp của sóng, gió thiên nhiên trên mặt ghềnh Hát Lóong. Từ láy "gùn ghè" khiến con sông Đà trở nên vừa lì lợm, thách đó, vừa như hầm hè, đe dọa. Cách so sánh sóng gió của mặt ghềnh Hát Lóong như "đòi nợ xuýt", một so sánh nhân hóa khiến cho dòng sông Đà trở nên đe dọa và hung hãn hơn.
- Hình ảnh hút nước trên mặt sông:
Nguyễn Tuân đã sử dụng một loại những so sánh sống động và ấn tượng làm hiện ra hình ảnh của dòng sông, của những hút nước trên mặt sông. Hình ảnh của giếng bê tông đang xoáy tít. Có khi nhà văn còn sử dụng những so sánh làm hiện ra âm thanh của hút nước như cửa cống cái bị sặc. Bên cạnh đó, nhà năn còn sử dụng biện pháp nhân hóa. Theo đó, nước trong hút nước sông Đà thông qua cửa cống cái bị sặc này không còn vô tri nữa mà biết thở, biết kêu. Các so sánh của Nguyễn Tuân còn đồng thời làm hiện ra hình ảnh và âm thanh. Nhà văn đã tưởng tượng ra mặt nước 0 nơi có cái hút nước ấy giống như mặt nước bị rót dầu sôi. Nhà văn đã không dừng lại ở những thủ pháp so sánh hay nhân hóa, ông còn là bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ. Nguyễn Tuân sử dụng một loại các từ láy tượng thanh như "ặc ặc" và cách từ láy tượng hình như "lừ lừ". Để miêu tả sự vật thông qua cảm giác, ông đã đem đến phép liên tưởng so sánh. Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân còn tưởng tượng, hình dung ra những con thuyền, bè gỗ không may mắn bị hút nước lôi tuột xuống, phá tan tành làm đậm thêm cảm giác hãi hùng cho người đọc khi họ hình dung ra sức mạnh ghê gớm của hút nước. Không dừng lại trong liên tưởng, tưởng tượng, nhà văn còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ để dẫn dụ người đọc đến tận đáy hút nước.
- Thác đá sông Đà:
Khi thác đá ở xa, Nguyên Tuân đã sử dụng một số từ ngữ miêu tả cảm xúc, thái độ của con người để miêu tả âm thanh của tiếng nước thác nơi xa. Bản thân cách miêu tả này cũng hàm chứa nghệ thuật nhân hóa: "Còn xa lắm mới đến thác thì đã nghe thấy như oán trách.. van xin.. khiêu khích.. giọng gằn mà chế nhạo". Và cũng chính sắc thái nhân hóa này khiến cho sông Đà trở nên hung hãn hơn, đe dọa con người hơn. Trình tự âm thanh tăng dần, âm lượng và cảm xúc trong mỗi một từ ngữ miêu tả trên đều đem đến một cảm giác tăng dần lên. Có thể thấy, nhà văn đã tái hiện tài hoa và tinh tế vô cùng cái khoảng cách ngắn dần giữa nhà văn và dòng sông. Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những so sánh kỳ thú. Trong câu văn dài thứ nhất, đầy ắp những hình ảnh dữ dội "thế rồi nó rống lên.. như hàng ngàn con trâu mộng.. lửa.. gầm thét.. da cháy bùng bùng". Đây là cách so sánh vật hóa, nhà văn đã tạo ra những bình diện tương phản để so sánh. Ông dùng tiếng lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình ảnh một đàn trâu da cháy bùng bùng để gợi ra âm thanh tiếng nước tác. Sau tiếng reo thích thú "A tới rồi", nhà văn đã có một câu văn khá tài hoa để miêu tả sự hùng vĩ, choáng ngợp của thác đá sông Đà khi tới gần. Ông đã miêu tả "sóng bọt.. trắng xóa cả một chân trời đá" và sự miêu tả này cũng đem đến cho ta một cảm giác rằng thác đã ấy hùng vĩ, lớn lao đến choáng ngợp. Nhà năn đã sử dụng nghê thuật nhân hóa trong câu văn "đá ở đây.. nghìn năm mai phục và khi có một con thuyền nào xuất hiện.. đá nhổm cả dậy.. vồ lấy thuyền". Hình ảnh "nghìn năm mai phục" đã gợi đến cái bí ẩn đầy hiểm ác vĩnh hằng của thác đá. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt cách thuật ngữ của ngành quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả cả hình ảnh, âm thanh, hoạt động của thác đá sông Đà. Nhà văn miêu tả diện mạo, hình dáng của đá sông Đà qua những góc nhìn khác nhau. Ông miêu tả qua một loạt các từ láy tượng hình, dùng từ ngữ chỉ thái đọ, cảm xúc, hành động mà qua đó người đọc hình dung ra được diện mạo của hòn đá. Thông qua các hình ảnh như "dụ thuyền đối phương", "dàn sẵn trận địa", "bày thạch trận trên dòng sông", nhà văn đã gợi ra tâm địa hiểm ác của dòng sông Đà khi các sức mạnh thiên nhiên như sóng, gió, đá, nước sông Đà hòa với nhau đưa con thuyền và con người vào các tình huống nguy hiểm nhất để tấn công nó, tiêu diệt nó. Nhà năn đã sử dụng một loạt các nghệ thuật nhân hóa, từ láy, từ ngữ đặc sắc miêu tả hoạt động, thái độ, cảm xúc của con người và nhà văn cũng đã làm hiện lên phần khủng khiếp nhất của dòng sông Đà là thác đá dòng sông. Đá sông Đà không vô tri mà hiểm ác, không hề bất động mà hoạt động.
- Cảm xúc của nhà văn:
Nguyễn Tuân là nhà văn của các cảm giác mạnh, những cảnh trí phi thường như núi cao, vực sâu, gió bão, thách ghềnh dữ dội. Ông không giấu niềm say mê, phấn khích cao đọ khi miêu tả thác nước sông Đà. Khi miêu tả sông Đà nơi hạ nguồn "Dòng sông quãng này hững hờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi đã để lại trên thượng nguồn Tây Bắc", nhà văn đã đồng thời cho thấy tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ thương xao xuyến của bản thân khi ở hạ nguồn sông Đà rồi mà vẫn không thôi nhớ, tiếc, bâng khuâng hướng về thượng nguồn Tây Bắc. Với dòng sông Đà hung bạo, kẻ thù số một của con người, con thủy quái với cả diện mạo và tâm địa nơi thượng nguồn, ta thấy được sự hung hãn, hiểm ác với sóng, gió, đá, ghềnh, hút nước. Bên cạnh đó, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ta còn thấy được nó hiện lên như một công trình mỹ thuật kỳ vĩ, tuyệt vời của tạo hóa.
I) Giới thiệu chung
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành tựu nghệ thuật xuất sắc trong cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945.
- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân rất độc đáo. Văn chương của ông là thứ văn chương tài hoa, uyên bác. Ông là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước năm 1945, ông tìm về cái đẹp xưa cũ, cái đẹp đã từng vang bóng một thời, còn sau năm 1945, ông tìm thấy vẻ đẹp trong lao động - một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc và rất đỗi gần gũi với cuộc sống con người.
2. Tác phẩm
A) Hoàn cảnh ra đời
- "Người lái đò sông Đà" là một tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân, được in trong tập "Sông Đà", xuất bản năm 1960.
- Tùy bút "Sông Đà" là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng đầy hứng thú của nhà văn Nguyễn Tuân vào những năm 1958 - 1960 của thế kỉ trước. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao "xê dịch" của nhà văn. Ông đi để tìm kiếm cái "chất vàng" trong vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên rừng núi Tây Bắc. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn tìm ra được "thứ vàng mười đã qua thử lửa" trong con người Tây Bắc.
b) Lời đề từ
- "Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông" :
Câu thơ mang cấu trúc câu cảm thán. "Tiếng hát trên dòng sông" được hiểu theo hai nét nghĩa. Đầu tiên, đó là tiếng hát của những con người ngày đêm gắn bó với dòng sông. Theo nét nghĩa thứ hai thì "tiếng hát trên dòng sông" là tiếng hát của chính tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã bộc lộ niềm yêu, sự ngưỡng mộ với con người và thiên nhiên Tây Bắc. Thông qua câu thơ trên, cảm hứng chủ đạo của tùy bút đã được bộc lộ rõ nét. Đó là tình yêu, niềm say mê và sự ngưỡng mộ sâu sắc của một con người cả cuộc đời đều đi tìm cái đẹp. Bây giờ, khi đứng trước cái đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, ông đã không thể kiềm chế được niềm say mê và sự ngưỡng mộ của mình.
- "Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu"
Hai câu thơ này đã thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là luôn say mê khám phá những vẻ đẹp độc đáo, phi thường của thế giới. Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân cũng thể hiện được cá tính sáng tạo độc đáo của mình.
II) Phân tích đoạn trích
1. Hình tượng dòng sông Đà
A) Dòng sông hung bạo
- Cảnh đá bờ sông dựng vách thành:
Có thể xem "vách thành" là một hình ảnh ẩn dụ thú vị. Nhà văn đã gợi được sự vững trãi, thâm nghiêm, bí ẩn và hàm chứa biết bao nhiêu sức mạng đầy đe dọa qua hình ảnh này. Tác giả sử dụng một số chi tiết có vẻ như là bâng quơ hay ngẫu nhiên nhưng chính là một cách miêu tả gián tiếp, tài tình độ cao của vách đó cũng như độ hẹp của lòng sông. Độ hẹp của sông Đà tiếp tục được nhà văn miêu tả một cách thật tài hoa: "Vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu". Nhà văn đã miêu tả sự vật thông qua cảm giác, tạo ấn tượng sâu đạm cho người đọc. Ông đã tạo ra ấn tượng tương phản về xúc giác: "Mùa hè mà lại cảm thấy lạnh". Còn ấn tượng về thị giác là "một khung cửa sổ nào trên tầng thứ mấy này vừa tắt phụt điện", tạo một cảm giác chới với của thị giác.
- Cảnh ghềnh Hát Lóong:
Đó là một cảnh tượng đầy dữ dội: "Hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió..". Ở câu văn này, rất nhiều những thanh sắc đã gợi ra cái độ cao của sóng gió như vút cao trên mặt ghềnh Hát Lóong. Thêm vào đó là điệp cấu trúc và điệp từ nối các vế câu. Ngoài ra, động từ "xô" là một động từ mạnh đã gợi ra sức mạnh khủng khiếp của sóng, gió thiên nhiên trên mặt ghềnh Hát Lóong. Từ láy "gùn ghè" khiến con sông Đà trở nên vừa lì lợm, thách đó, vừa như hầm hè, đe dọa. Cách so sánh sóng gió của mặt ghềnh Hát Lóong như "đòi nợ xuýt", một so sánh nhân hóa khiến cho dòng sông Đà trở nên đe dọa và hung hãn hơn.
- Hình ảnh hút nước trên mặt sông:
Nguyễn Tuân đã sử dụng một loại những so sánh sống động và ấn tượng làm hiện ra hình ảnh của dòng sông, của những hút nước trên mặt sông. Hình ảnh của giếng bê tông đang xoáy tít. Có khi nhà văn còn sử dụng những so sánh làm hiện ra âm thanh của hút nước như cửa cống cái bị sặc. Bên cạnh đó, nhà năn còn sử dụng biện pháp nhân hóa. Theo đó, nước trong hút nước sông Đà thông qua cửa cống cái bị sặc này không còn vô tri nữa mà biết thở, biết kêu. Các so sánh của Nguyễn Tuân còn đồng thời làm hiện ra hình ảnh và âm thanh. Nhà văn đã tưởng tượng ra mặt nước 0 nơi có cái hút nước ấy giống như mặt nước bị rót dầu sôi. Nhà văn đã không dừng lại ở những thủ pháp so sánh hay nhân hóa, ông còn là bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ. Nguyễn Tuân sử dụng một loại các từ láy tượng thanh như "ặc ặc" và cách từ láy tượng hình như "lừ lừ". Để miêu tả sự vật thông qua cảm giác, ông đã đem đến phép liên tưởng so sánh. Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân còn tưởng tượng, hình dung ra những con thuyền, bè gỗ không may mắn bị hút nước lôi tuột xuống, phá tan tành làm đậm thêm cảm giác hãi hùng cho người đọc khi họ hình dung ra sức mạnh ghê gớm của hút nước. Không dừng lại trong liên tưởng, tưởng tượng, nhà văn còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ để dẫn dụ người đọc đến tận đáy hút nước.
- Thác đá sông Đà:
Khi thác đá ở xa, Nguyên Tuân đã sử dụng một số từ ngữ miêu tả cảm xúc, thái độ của con người để miêu tả âm thanh của tiếng nước thác nơi xa. Bản thân cách miêu tả này cũng hàm chứa nghệ thuật nhân hóa: "Còn xa lắm mới đến thác thì đã nghe thấy như oán trách.. van xin.. khiêu khích.. giọng gằn mà chế nhạo". Và cũng chính sắc thái nhân hóa này khiến cho sông Đà trở nên hung hãn hơn, đe dọa con người hơn. Trình tự âm thanh tăng dần, âm lượng và cảm xúc trong mỗi một từ ngữ miêu tả trên đều đem đến một cảm giác tăng dần lên. Có thể thấy, nhà văn đã tái hiện tài hoa và tinh tế vô cùng cái khoảng cách ngắn dần giữa nhà văn và dòng sông. Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những so sánh kỳ thú. Trong câu văn dài thứ nhất, đầy ắp những hình ảnh dữ dội "thế rồi nó rống lên.. như hàng ngàn con trâu mộng.. lửa.. gầm thét.. da cháy bùng bùng". Đây là cách so sánh vật hóa, nhà văn đã tạo ra những bình diện tương phản để so sánh. Ông dùng tiếng lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình ảnh một đàn trâu da cháy bùng bùng để gợi ra âm thanh tiếng nước tác. Sau tiếng reo thích thú "A tới rồi", nhà văn đã có một câu văn khá tài hoa để miêu tả sự hùng vĩ, choáng ngợp của thác đá sông Đà khi tới gần. Ông đã miêu tả "sóng bọt.. trắng xóa cả một chân trời đá" và sự miêu tả này cũng đem đến cho ta một cảm giác rằng thác đã ấy hùng vĩ, lớn lao đến choáng ngợp. Nhà năn đã sử dụng nghê thuật nhân hóa trong câu văn "đá ở đây.. nghìn năm mai phục và khi có một con thuyền nào xuất hiện.. đá nhổm cả dậy.. vồ lấy thuyền". Hình ảnh "nghìn năm mai phục" đã gợi đến cái bí ẩn đầy hiểm ác vĩnh hằng của thác đá. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt cách thuật ngữ của ngành quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả cả hình ảnh, âm thanh, hoạt động của thác đá sông Đà. Nhà văn miêu tả diện mạo, hình dáng của đá sông Đà qua những góc nhìn khác nhau. Ông miêu tả qua một loạt các từ láy tượng hình, dùng từ ngữ chỉ thái đọ, cảm xúc, hành động mà qua đó người đọc hình dung ra được diện mạo của hòn đá. Thông qua các hình ảnh như "dụ thuyền đối phương", "dàn sẵn trận địa", "bày thạch trận trên dòng sông", nhà văn đã gợi ra tâm địa hiểm ác của dòng sông Đà khi các sức mạnh thiên nhiên như sóng, gió, đá, nước sông Đà hòa với nhau đưa con thuyền và con người vào các tình huống nguy hiểm nhất để tấn công nó, tiêu diệt nó. Nhà năn đã sử dụng một loạt các nghệ thuật nhân hóa, từ láy, từ ngữ đặc sắc miêu tả hoạt động, thái độ, cảm xúc của con người và nhà văn cũng đã làm hiện lên phần khủng khiếp nhất của dòng sông Đà là thác đá dòng sông. Đá sông Đà không vô tri mà hiểm ác, không hề bất động mà hoạt động.
- Cảm xúc của nhà văn:
Nguyễn Tuân là nhà văn của các cảm giác mạnh, những cảnh trí phi thường như núi cao, vực sâu, gió bão, thách ghềnh dữ dội. Ông không giấu niềm say mê, phấn khích cao đọ khi miêu tả thác nước sông Đà. Khi miêu tả sông Đà nơi hạ nguồn "Dòng sông quãng này hững hờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi đã để lại trên thượng nguồn Tây Bắc", nhà văn đã đồng thời cho thấy tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ thương xao xuyến của bản thân khi ở hạ nguồn sông Đà rồi mà vẫn không thôi nhớ, tiếc, bâng khuâng hướng về thượng nguồn Tây Bắc. Với dòng sông Đà hung bạo, kẻ thù số một của con người, con thủy quái với cả diện mạo và tâm địa nơi thượng nguồn, ta thấy được sự hung hãn, hiểm ác với sóng, gió, đá, ghềnh, hút nước. Bên cạnh đó, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ta còn thấy được nó hiện lên như một công trình mỹ thuật kỳ vĩ, tuyệt vời của tạo hóa.
Chỉnh sửa cuối: