Những Câu Chuyện Về Chín Chúa Mười Ba Vua Nhà Nguyễn

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Admin, 23 Tháng bảy 2016.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Vua Duy Tân

    Niên hiệu: Duy Tân

    Năm sanh, năm mất: 1900 - 1945

    Giai đoạn trị vì: 1907 - 1916

    Miếu hiệu:

    Tên Húy: Nguyễn Phúc Hoảng, Nguyễn Phúc Vĩnh San

    Vua Duy Tân sinh ngày 19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay.

    Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất «mệ Vĩnh San». Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.

    Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhát và đần độn, chắc dễ sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.

    Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày - 5-9-1907, vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là «...Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám».

    Ðể kiểm soát vua, Pháp đã bày ra những việc sau:

    -Lập một phụ chính gồm sáu ông đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.

    -Ðưa ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành động của Vua Duy Tân).

    Khoảng năm 1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu - đầu thế kỷ thứ 18 - trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức để tìm vàng và đào xới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.

    Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế. Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động bất nhân đó. Vua Duy Tân mới hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.

    Năm Vua Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giởra xem những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình, nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau, nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.

    Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.

    Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghỉ mát, người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho Vua một bức thư của 2 lãnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án.

    Ông Trần Cao Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đảo Réunion cùng với vua Thành Thái vào năm 1919.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng mười một 2016
  2. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Vua Khải Định

    Niên hiệu: Khải Ðịnh

    Năm sanh, năm mất: 1885 - 1933

    Giai đoạn trị vì: 1916 - 1925

    Miếu hiệu: Hoằng Tông Tuyên Hoàng Ðế

    Tên Húy: Nguyễn Phúc Tuấn, Nguyễn Phúc Bửu Ðảo

    Truất phế vua Duy Tân xong, triều đình Huế được sự chấp thuận của toà Khâm sứ đưa Hoàng tử cả Nguyễn Phúc Bửu Ðảo con của vua Ðồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Ðịnh.

    Theo các sách mà tôi có thì vua Khải Ðịnh chỉ là vị vua ăn chơi, chỉ lo cho mình chứ không lo cho nước, lại rất chuộng trang điểm và tự mình sáng chế ra những bộ y phục mới cho vua và cho cả quan hộ vệ (xin xem hình vua Khải Ðịnh thăm Paris). Năm 1922 khi Vua đi dự cuộc "thi đấu xảo thuộc địa" ở Marseille (Pháp) ông Phan Chu Trinh có gởi một bức thư trách Vua 7 tội trong đó có tội "ăn mặc lố lăng". Dưới thời của Ngài, trong triều đình không có chuyện xích mích với Pháp, theo sách thì gần như Ngài để cho Toà Khâm Sứ định đoạt mọi chuyện.

    Sách kể rằng vua Khải Ðịnh chỉ thích đàn ông, khi coi hát bội, vua đều bắt các "kép" giả "đào" để đóng ; nhưng sách lại nói rằng ông lại có một người con trai (Hoàng tử Vĩnh Thụy) với bà phi Từ Cung !

    Nếu xem cái site của vua Duy Tân (http://vinhsan.free.fr) làm bởi các con cháu của Ngài thì chúng ta lại có thêm được một "tiếng chuông" khác : Trong đó vua Khải Ðịnh được xem như một người vua muốn cải tiến đất nước, Ngài bỏ chuyện thi cử vì cho rằng cái học đó đã lổi thời, không còn thích hợp với cái xã hội hiện tại và khi Ngài qua Pháp (năm 1922) là để tìm cách giải thích cho Pháp hiểu sự ham muốn (đòi hỏi) tự trị của dân tộc Việt. Ở đây chúng ta cũng được biết thêm là Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi của vua Khải Ðịnh !

    Vua Khải Ðịnh có xây cất nhiều công trình mà cái nổi tiếng nhất là cái lăng của Ngài, nếu nhìn vào thì người ta sẽ nhận diện ra ngay là một công trình Á Châu nhưng nó hoàn toàn không giống những kiến trúc đương thời, từ vật liệu xây cất tới cách trang trí nội thất. Có người khen kẻ chê nhưng nhất định đây là lần đầu tiên trong lịch sử mà dân Việt Nam tìm cách tự tạo riêng cho mình một đường lối kiến trúc.

    Vua Khải Ðịnh mất ngày 25 tháng 9 năm Ất Sửu - 6/11/1925.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng mười một 2016
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,094
    Vua Bảo Đại

    Niên hiệu: Bảo Ðại

    Năm sanh, năm mất: 1913 - 1997

    Giai đoạn trị vì: 1925 - 1945

    Miếu hiệu:

    Tên Húy: Nguyễn Phúc Thiển, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy

    Hoàng tử Vĩnh Thụy sanh ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu - 23/10/1913, khi vua Khải Ðịnh mất thì Hoàng tử Vĩnh Thụy còn đang học ở bên Pháp - từ năm 1922. Toàn quyền Pháp Monguillot ra lệnh thành lập hội đồng phụ chính mới do ông Tôn Thất Hân đứng đầu và đại diện cho chánh phủ Việt Nam để ký với Pháp một hiệp định mới. Theo hiệp định nầy thì Khâm sứ sẽ là chủ tịch hội đồng nội các của Việt Nam, và kể từ dây Triều đình Huế sẽ không còn ngân sách riêng như trước nữa.

    Ngày 14 tháng 11 năm Ất Sửu, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Bảo Ðại. Lên ngôi vua xong, Bảo Ðại giao công việc triều chánh cho hội đồng phụ chính rồi trở sang Pháp học cho đến năm 1932 mới trở về nước. Theo sách thì vua Bảo Ðại tính nắm lại quyền hành để cải tổ nước nhà nhưng gặp phải sự phản đối của các quan bảo thủ và bị chánh phủ Pháp cản trở, ông thất vọng vì thấy mình làm vua cũng như không nên đâm ra chán nản, lao mình vào các cuộc đi săn, chơi thể thao..

    Tháng 3-1945, Nhật đánh úp Pháp và tuyên bố là muốn giúp Việt Nam dành độc lập. Ngày 11-3-1945 viện Cơ Mật của Triều đình Huế tuyên bố Việt Nam dành lại chủ quyền, bải bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Ngày 17-3-1945 vua Bảo Ðại giải tán hội đồng Cơ Mật - lập từ thời Minh Mạng - và giao cho ông Trần Trọng Kim thành lập nội các mới, theo nguyên tắc "Dân vi quý", trong thành phần Nội Các phần lớn là các nhà Tây học như Hoàng Xuân Hãn.. nhưng từ khi thành lập Nội Các, ông Trần Trọng Kim chẳng làm gì được cả vì quyền hành đều nằm trong tay Nhật hết!

    Ngày 19-8-1945, Việt Minh chiếm chính quyền ở ngoài Bắc, biểu tình trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc Việt Minh. Cũng cùng ngày nầy trong Nam - theo Philippe Devilliers - đài phát thanh Việt Nam có truyền thanh một chiếu của vua Bảo Ðại gửi quốc dân, yêu cầu dân hy sinh để giữ độc lập và Vua sẵn sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ".

    Ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại nhận được một bức điện văn của Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng từ Bắc đánh vào nội dung như sau : "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà.". Sách chép là lúc đó ở Huế không ai biết Hồ Chí Minh là ai, sau khi điều tra biết được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì vua Bảo Ðại mới thốt ra câu tiếng Pháp: "Ca vaut bien le coup alors! - Như thế thì cũng đáng thoái vị!"

    Ngày 25/8/1945, vua Bảo Ðại cho công bố chiếu thoái vị. Ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ ở Thế Miếu và ngày 30/8/1945 đại điện chính phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận nhận ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn Huế.

    Triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm trị vì: 1802 - 1945.

    Sau đệ nhị thế chiến, Pháp trở lại Ðông Dương và tìm cách chiếm lại Việt Nam. Năm 1946, cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong bên Hồng Kông. Năm 1948, Pháp thấy không xong nên tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Ðại về lập chánh phủ để có "chánh nghĩa", cựu hoàng Bảo Ðại đòi Pháp phải xác nhập 3 kỳ - thống nhất - và cho Việt Nam độc lập, Pháp tỏ vẻ chịu nhượng bộ và ký với cựu hoàng Bảo Ðại hiệp ước Hạ-Long ngày 5-6-1948 - với ông Cao ủy Emile Bollaert, bầu cựu hoàng làm Quốc Trưởng nhưng trong hiệp định lại đòi điều khiển quân đội, tài chánh và ngoại giao! cựu hoàng Bảo Ðại không hài lòng nên bỏ sang Pháp nhưng vẫn điều hành từ xa.

    Tới năm 1954, sau hội nghị Genève chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến thứ 17, cựu hoàng Bảo Ðại mời ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng ở Sàigòn, cuối năm 1955 các viên chức Hoa Kỳ ở Sàigòn giúp ông Ngô Ðình Diệm tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" để lật đổ cựu hoàng Bảo Ðại và tôn ông Diệm lên làm Tổng Thống.

    Cựu hoàng Bảo Ðại mất tại Paris tháng 7 năm 1997.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng mười một 2016
Trả lời qua Facebook
Đang tải...