

Những biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng trong xã hội
1. Sự hình thành và phát triển của văn minh công nghiệp
Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng xuất hiện với sứ mệnh làm đảo lộn
Những quan niệm sống cổ lỗ và mở ra một chân trời mới cho những hy vọng
Mới. Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng phải dựa vào một hình thái
Kinh tế xã hội mới, nghĩa là phải dựa vào nền văn minh mới - văn minh công
Nghiệp. Nói đến ảnh hưởng của một triết thuyết đối với sự phát triển con người
Tức là nói tới vai trò của lý luận, mở ra một triển vọng thực tiễn cho bước
Tiến mới của xã hội. Đây là thời kỳ mà "dưới ảnh hưởng của sự cải tạo tư tưởng, con người
Phương Tây đã thoát ly hẳn khỏi" cái bầu trời ảm đạm của đêm trường trung
Cổ "mà bước vào một đời sống mới, như được một luồng sinh khí mầu
Nhiệm vừa thổi vào trong mạch máu, bộ mặt châu Âu bỗng trẻ trung, hồng
Hào lại. Châu Âu từ ấy ngày càng tiến bộ và đã có cơ vượt hẳn các dân tộc
Khác để làm bá chủ thế giới suốt mấy thế kỷ ròng về tất cả các phương diện
Kinh tế - chính trị - văn hóa".
Bối cảnh lịch sử xã hội châu Âu thời kỳ Phục hưng có nhiều nét đặc
Thù. Đây là thời kỳ mà châu Âu thực hiện cuộc cách mạng to lớn, thay đổi về
Chất trong phương thức sản xuất. Nền sản xuất nhỏ manh mún, lạc hậu, năng
Suất thấp dưới chế độ phong kiến được thay thế bằng phương thức sản xuất
Tư bản chủ nghĩa mang tính công nghiệp, hiện đại, năng suất lao động cao. Sự
Ra đời của phương thức sản xuất mới được thúc đẩy mạnh mẽ bởi nhu cầu của
Tầng lớp cấp tiến trong xã hội phong kiến - tầng lớp tư sản. Những lái buôn,
Chủ tàu, chủ xưởng, thợ thủ công.. từ lâu đã tạo được một tiềm lực kinh tế
Khá vững trong lòng chế độ phong kiến. Khi tiềm lực kinh tế đã mạnh, họ
Muốn có các chính sách kinh tế, pháp luật, bộ máy nhà nước cũng như các
Chế tài - tức là một kiến trúc thượng tầng đồng bộ - đảm bảo cho sự phát
Triển ngày càng cao của họ. Mặt khác, chúng ta biết rằng, châu Âu những
Năm thế kỷ XV, XVI diễn ra hàng loạt các sự kiện lớn: Những phát minh ra
Máy dệt, máy hơi nước.. ; sự thành công của cách mạng tư sản Anh, Hà
Lan.. đã thổi bùng lên những khát khao giải phóng con người, cụ thể là
Thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe, vô nghĩa.
Yêu cầu đặt ra là làm sao nhà nước và chúa trời, tức là vua và giáo hội phải
Để cho nhân dân được tự do sản xuất, giảm thiểu các loại thuế. Cao hơn, tầng
Lớp tư sản còn đòi có nhiều quyền lực hơn, dù đã có một vai trò nhất định
Trong quốc hội. Cũng cần nói thêm, để đáp ứng cuộc sống vương giả của giai
Cấp quý tộc và tăng lữ nhà thờ, tư sản châu Âu có những đóng góp không
Nhỏ, nếu không nói là phần lớn, thậm chí mang tính quyết định đối với ngân
Sách nhà nước. Sự xa hoa của triều đình Anh, Pháp chỉ được duy trì khi có
Những khoản thuế khổng lồ thu từ tư sản và nông dân.
Cùng với những nền tảng thực tiễn ấy, những tiền đề về tư tưởng văn
Hóa, khoa học kỹ thuật cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Sự phát triển của
Những thành tựu ấy chủ yếu bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức để có căn cứ
Phản kháng lại sự chuyên chế của giáo hội. Mặt khác, những phát kiến địa
Lý, những phát minh về kỹ thuật, năng lượng đã làm sáng lên tinh thần đổi
Mới trong lòng xã hội châu Âu. Một phần rất quan trọng của những công
Trình xã hội ấy có nền tảng từ việc trở lại và làm hưng khởi những giá trị vốn
Có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. "Nói đến các tiền đề nhận thức của triết
Học châu Âu thời kỳ này, trước tiên, phải đề cập đến những thành tựu về tư
Tưởng và văn hóa cổ đại nói chung và văn hóa Hy Lạp nói riêng. Các phát
Kiến khoa học của nhân loại thời cổ như toán học của Talét, Pitago, hình
Học của Ơclit, vật lý của Acsimet.. được khôi phục lại sau đêm trường
Trung cổ. Nếu như thời trung cổ người ta đã Cơ đốc hóa, xuyên tạc các tư
Tưởng vĩ đại của Aritstote, Platon.. thì sang thời Phục hưng và cận đại,
Những tư tưởng đó được những nhà triết học thời kỳ này kế thừa và phát
Triển.. Ý nghĩa của những giá trị tư tưởng, văn hóa Hy Lạp, La Mã cổ đại
Đối với xã hội Tây Âu thời kỳ này lớn tới mức người ta gọi giai đoạn lịch sử
Từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVI là thời kỳ Phục hưng"
Chúng ta thấy những giá trị có được từ thời cổ đại có những ý nghĩa
To lớn: Một mặt, chúng có cơ sở từ việc quan sát, nghiên cứu tự nhiên, phản
Ánh những quy luật của tự nhiên, nó mang tính vĩnh cửu; mặt khác, những
Định đề của Talet, Pitago.. trở nên đắc dụng trong những đổi thay to lớn
Của xã hội. Những công trình kiến trúc, những áng sử thi, những giá trị văn
Hóa với tinh thần quật khởi và anh hùng được sống lại và mang những sinh
Khí mới sau giấc ngủ dài suốt nghìn năm của châu Âu trung cổ. Lúc này,
Người châu Âu khao khát sống một cuộc sống mãnh liệt. Họ mạnh mẽ đòi
Vứt bỏ cái trầm mặc yếu đuối cũng như sự lặng lẽ đến u uất của những cánh
Cửa nhà thờ. Họ không muốn phải chờ đến khi chết đi rồi mới được lên thiên
Đường với Chúa. Một thiên đường xa tít tắp không biết có dành cho họ hay
Không? Họ đoàn kết và quyết tâm làm nên một thiên đường thật sự nơi trần
Thế - nơi mà vợ con, anh em, bạn bè của họ đang sống. Họ muốn tình yêu
Của họ được công khai và tự do. Họ muốn cây trái, sản phẩm của họ làm ra,
Sau khi đã đóng góp phần nghĩa vụ công dân, phải thuộc về họ, là của họ và
Nó phải là phần lớn, phần nhiều, phần cơ bản, chứ không phải nộp cho ông
Chúa đất, ông vua nào xa lắc xa lơ cả. Sau những hồi chuông dài thê thiết
Suốt thời trung cổ nghìn năm, ánh bình minh của xã hội mới cùng những cơn
Gió mát lành của thời đại thổi đến làm bừng lên sinh khí mới trên khắp châu
Âu.
Sau cả ngàn năm đọc kinh cầu Chúa, sau giấc ngủ dài suốt thời kỳ
Trung cổ, người dân châu Âu trở dậy vươn mình trong ánh bình minh của
Nền văn minh công nghiệp. Trong suốt thời kỳ phong kiến, các thương nhân,
Thợ thủ công châu Âu dù có khéo tay đến mấy, giỏi nghề đến đâu thì sản
Phẩm làm ra sau khi trừ thuế nộp cho nhà nước, chỉ còn đủ ăn là may lắm.
Phương thức sản xuất phong kiến với năng suất lao động thấp và trình độ
Sản xuất hạn chế đã cản trở rất lớn sức sản xuất của xã hội. Bầu trời tươi đẹp
Mà không có tự do. Những vụ mùa bội thu mà cửa nhà sa sút. Các lãnh chúa
Quyền lực vô biên, của cải không biết cơ man nào mà kể, chỉ sống để thu
Thuế, hưởng thụ sự giàu sang; khi cần thì tổ chức chiến tranh để thỏa mãn
Lòng tham hay những lợi ích cá nhân đầy tính vị kỷ. Sau những trận chiến,
Vinh quang thuộc về quý tộc, tướng lĩnh và những người chỉ huy, còn mất
Mát hy sinh thì dân đen đưa mình hứng chịu. Những cuộc khởi nghĩa của nô
Lệ dưới sự lãnh đạo của giai cấp quý tộc làm nên các vương triều phong kiến.
Nhưng cả ngàn năm, giai cấp quý tộc phong kiến châu Âu cầu kinh, chỉ huy,
Hầu như sống để thu thuế rồi ăn chơi trong sự xa hoa; còn dân nghèo - lực
Lượng cơ bản làm nên những vương triều ấy bằng sự chiến đấu, hy sinh - có
Cuộc sống ra sao thì không ai quan tâm đến.
Những năm của thế kỷ XIV, XV, những bộ óc đầy tính trí tuệ và đôi
Tay khéo léo của Jame Hagrever và Jame Watt đã mở ra một cách nhìn mới,
Một hướng đi mới cho châu Âu. Những chiếc máy dệt đã thay thế chiếc xa
Kéo sợi. Những chiếc máy hơi nước đã thay thế cối xay gió và đem lại cho
Con người biết bao nhiêu lợi ích. Với sự ra đời của máy móc, gia súc chỉ còn
Được nuôi để mang lại nguồn thực phẩm cho con người chứ không còn phải
Cày kéo. Những con tàu ra khơi vào lộng trên sóng Đại Tây Dương hay biển
Địa Trung Hải không còn phải dùng sức của nô lệ mà bằng những cỗ máy
Hàng nghìn sức ngựa. Những công xưởng dệt ra đời khiến hàng trăm ngàn
Cái xa kéo sợi thành đổ cổ hoặc gỗ mục. Sự ra đời của máy hơi nước đã thực
Sự mang lại một nền văn minh tươi sáng và mới mẻ cho châu Âu.
"Bắt đầu từ thế kỷ XV ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
Nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ bước vào thời kỳ tan rã () thay thế
Cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là những công trường thủ công đem
Lại năng suất lao động cao hơn () Việc sáng chế ra máy tự kéo sợi () đã
Làm cho công nghiệp dệt () đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám
Phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ này
Sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động" (4,
Tr. 241).
"Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã
Hội Tây Âu thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư
Sản xuất hiện.. vai trò và vị trí của họ trong nền kinh tế và xã hội ngày càng
Lớn"
Không còn là những thợ thủ công hay thương nhân phải ăn nhờ ở đậu
Tại các thành bang như thời cổ đại. Không còn bị phong kiến và tăng lữ miệt
Thị như ở thời phong kiến. Lúc này thương nhân, thợ thủ công, tiểu tư sản trí
Thức đã thực sự vươn lên, tự khẳng định chính mình. Trí tuệ và tiềm lực của
Giai cấp tư sản đã làm nên uy tín và giá trị riêng cho họ. Họ không còn phải
Lép mình nộp thuế, chịu sự "dạy bảo" của những "đấng bề trên". Trái lại, với
Những đóng góp nhất định cho ngân sách nhà nước, giai cấp tư sản châu Âu
Bắt đầu bước vào chính trường. Các triều đình Anh, Pháp dần dần phải thỏa
Hiệp với tư sản để đảm bảo có được những nguồn tài chính duy trì cuộc sống
Xa hoa. Vương triều Bourbon (Buốc – bông) của nước Pháp ăn chơi xa xỉ,
Ngân sách bội chi, thâm hụt nặng nề khiến Vua và Hoàng gia phải im hơi
Lặng tiếng, nhắm mắt làm ngơ để Quốc hội - với phần lớn đại biểu là giai cấp
Tư sản - quyết định việc triều chính. Italia - nơi từng ngự trị của Julius Cesar,
Nơi đế chế La Mã một thời dọc ngang lừng lẫy thì cũng đồng thời là một
Trong những nơi đầu tiên trên thế giới sinh ra cuộc cách mạng tư sản, thức
Tỉnh toàn châu Âu ngắm nhìn mặt trời tự do, vươn lêngiành lấy thiên đường
Nơi trần thế. Sự bừng sinh mở ra và nền văn minh chính thức bắt đầu.
"Cùng với nhiều biến cố lịch sử khác, những sự kiện trên cho thấy,
Bước sang thời kỳ Phục hưng và cận đại, sự phát triển của phương thức sản
Xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế lịch sử không gì có thể ngăn
Cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản là nền tảng thực
Tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại".
Trong không khí tưng bừng của giai đoạn hồi sinh, người châu Âu tràn
Đầy khí thế đứng lên giành tự do. Với sự xuất hiện của máy móc, một
Phương thức sản xuất hoàn toàn mới đã ra đời. Sức người được giải phóng.
Sự điều khiển bằng máy móc, việc sử dụng năng lượng mới, cách nghĩ cách
Làm thay đổi hoàn toàn dẫn đến sự phát triển chóng mặt của năng suất lao
Động. Những chiếc tàu thuỷ hơi nước và những đoàn tàu hỏa lăn bánh trên
Đường ray đã biến châu Âu và nhất là nước Anh trở thành công xưởng của
Thế giới. Với trí tuệ và hàng loạt những phát minh, người ta sẵn sàng làm bất
Cứ thứ gì và có khả năng làm bất cứ thứ gì nếu người ta muốn. Hiệu quả
Kinh tế được đặt lên hàng đầu. Thông thương buôn bán là số một. Lợi nhuận
Kinh doanh là trên hết. Những cơ sở ấy khiến người ta nghĩ đến những điều
Xa xôi, to lớn và hoàn toàn có thật. Những ước muốn ấy người ta không chờ
Đến ngày mai khi không còn sự sống nữa hay lúc được lên thiên đường; mà
Người ta quyết tâm làm ngay lúc ấy, cho cuộc sống lúc bấy giờ và được hiện
Thực hóa nơi trần thế. Những thiên thần, Đức Mẹ hay các thánh phải là
Những thiếu nữ, em bé, phụ nữ, đàn ông khoẻ mạnh, sáng tươi và quyến rũ!
Vẻ đẹp ấy không nên ở mãi trong Kinh thánh, nhà thờ mà phải biểu lộ ở
Trong cuộc sống trần tục này. Vẻ đẹp ấy phải có hương thơm, trắng trẻo,
Khoẻ mạnh! Phải ăn, ngủ, cảm nhận, xúc giác được! Phải là thứ mắt nhìn, tai
Nghe, tay chạm, chân đi đến được. Hạnh phúc, tự do, thiên đường, vườn địa
Đàng phải là sung sướng, chạy nhảy, no nê, thơm ngát, giàu có, ngất ngây và
Thỏa mãn! Người ta nhớ đến Chúa sau những vụ mùa bội thu hay những
Chuyến tàu buôn dài ngày trên biển. Người ta cầu Chúa khi muốn những cỗ
Máy mới được xuất hiện và có thêm những tính năng mới. Tức là lúc ấy
Chúa có vai trò giúp người ta thư giãn, làm cho người ta nghĩ ra và làm được
Thêm nhiều những cái mới mà thôi. F. Engels đã chỉ ra một đặc điểm rất quan
Trọng của thời đại:
"Đó là một thời đại cần có những con người khổng lồ và đã sinh ra những
Con người khổng lồ. Khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính
Cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng."
Những quan niệm sống cổ lỗ và mở ra một chân trời mới cho những hy vọng
Mới. Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng phải dựa vào một hình thái
Kinh tế xã hội mới, nghĩa là phải dựa vào nền văn minh mới - văn minh công
Nghiệp. Nói đến ảnh hưởng của một triết thuyết đối với sự phát triển con người
Tức là nói tới vai trò của lý luận, mở ra một triển vọng thực tiễn cho bước
Tiến mới của xã hội. Đây là thời kỳ mà "dưới ảnh hưởng của sự cải tạo tư tưởng, con người
Phương Tây đã thoát ly hẳn khỏi" cái bầu trời ảm đạm của đêm trường trung
Cổ "mà bước vào một đời sống mới, như được một luồng sinh khí mầu
Nhiệm vừa thổi vào trong mạch máu, bộ mặt châu Âu bỗng trẻ trung, hồng
Hào lại. Châu Âu từ ấy ngày càng tiến bộ và đã có cơ vượt hẳn các dân tộc
Khác để làm bá chủ thế giới suốt mấy thế kỷ ròng về tất cả các phương diện
Kinh tế - chính trị - văn hóa".
Bối cảnh lịch sử xã hội châu Âu thời kỳ Phục hưng có nhiều nét đặc
Thù. Đây là thời kỳ mà châu Âu thực hiện cuộc cách mạng to lớn, thay đổi về
Chất trong phương thức sản xuất. Nền sản xuất nhỏ manh mún, lạc hậu, năng
Suất thấp dưới chế độ phong kiến được thay thế bằng phương thức sản xuất
Tư bản chủ nghĩa mang tính công nghiệp, hiện đại, năng suất lao động cao. Sự
Ra đời của phương thức sản xuất mới được thúc đẩy mạnh mẽ bởi nhu cầu của
Tầng lớp cấp tiến trong xã hội phong kiến - tầng lớp tư sản. Những lái buôn,
Chủ tàu, chủ xưởng, thợ thủ công.. từ lâu đã tạo được một tiềm lực kinh tế
Khá vững trong lòng chế độ phong kiến. Khi tiềm lực kinh tế đã mạnh, họ
Muốn có các chính sách kinh tế, pháp luật, bộ máy nhà nước cũng như các
Chế tài - tức là một kiến trúc thượng tầng đồng bộ - đảm bảo cho sự phát
Triển ngày càng cao của họ. Mặt khác, chúng ta biết rằng, châu Âu những
Năm thế kỷ XV, XVI diễn ra hàng loạt các sự kiện lớn: Những phát minh ra
Máy dệt, máy hơi nước.. ; sự thành công của cách mạng tư sản Anh, Hà
Lan.. đã thổi bùng lên những khát khao giải phóng con người, cụ thể là
Thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe, vô nghĩa.
Yêu cầu đặt ra là làm sao nhà nước và chúa trời, tức là vua và giáo hội phải
Để cho nhân dân được tự do sản xuất, giảm thiểu các loại thuế. Cao hơn, tầng
Lớp tư sản còn đòi có nhiều quyền lực hơn, dù đã có một vai trò nhất định
Trong quốc hội. Cũng cần nói thêm, để đáp ứng cuộc sống vương giả của giai
Cấp quý tộc và tăng lữ nhà thờ, tư sản châu Âu có những đóng góp không
Nhỏ, nếu không nói là phần lớn, thậm chí mang tính quyết định đối với ngân
Sách nhà nước. Sự xa hoa của triều đình Anh, Pháp chỉ được duy trì khi có
Những khoản thuế khổng lồ thu từ tư sản và nông dân.
Cùng với những nền tảng thực tiễn ấy, những tiền đề về tư tưởng văn
Hóa, khoa học kỹ thuật cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Sự phát triển của
Những thành tựu ấy chủ yếu bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức để có căn cứ
Phản kháng lại sự chuyên chế của giáo hội. Mặt khác, những phát kiến địa
Lý, những phát minh về kỹ thuật, năng lượng đã làm sáng lên tinh thần đổi
Mới trong lòng xã hội châu Âu. Một phần rất quan trọng của những công
Trình xã hội ấy có nền tảng từ việc trở lại và làm hưng khởi những giá trị vốn
Có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. "Nói đến các tiền đề nhận thức của triết
Học châu Âu thời kỳ này, trước tiên, phải đề cập đến những thành tựu về tư
Tưởng và văn hóa cổ đại nói chung và văn hóa Hy Lạp nói riêng. Các phát
Kiến khoa học của nhân loại thời cổ như toán học của Talét, Pitago, hình
Học của Ơclit, vật lý của Acsimet.. được khôi phục lại sau đêm trường
Trung cổ. Nếu như thời trung cổ người ta đã Cơ đốc hóa, xuyên tạc các tư
Tưởng vĩ đại của Aritstote, Platon.. thì sang thời Phục hưng và cận đại,
Những tư tưởng đó được những nhà triết học thời kỳ này kế thừa và phát
Triển.. Ý nghĩa của những giá trị tư tưởng, văn hóa Hy Lạp, La Mã cổ đại
Đối với xã hội Tây Âu thời kỳ này lớn tới mức người ta gọi giai đoạn lịch sử
Từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVI là thời kỳ Phục hưng"
Chúng ta thấy những giá trị có được từ thời cổ đại có những ý nghĩa
To lớn: Một mặt, chúng có cơ sở từ việc quan sát, nghiên cứu tự nhiên, phản
Ánh những quy luật của tự nhiên, nó mang tính vĩnh cửu; mặt khác, những
Định đề của Talet, Pitago.. trở nên đắc dụng trong những đổi thay to lớn
Của xã hội. Những công trình kiến trúc, những áng sử thi, những giá trị văn
Hóa với tinh thần quật khởi và anh hùng được sống lại và mang những sinh
Khí mới sau giấc ngủ dài suốt nghìn năm của châu Âu trung cổ. Lúc này,
Người châu Âu khao khát sống một cuộc sống mãnh liệt. Họ mạnh mẽ đòi
Vứt bỏ cái trầm mặc yếu đuối cũng như sự lặng lẽ đến u uất của những cánh
Cửa nhà thờ. Họ không muốn phải chờ đến khi chết đi rồi mới được lên thiên
Đường với Chúa. Một thiên đường xa tít tắp không biết có dành cho họ hay
Không? Họ đoàn kết và quyết tâm làm nên một thiên đường thật sự nơi trần
Thế - nơi mà vợ con, anh em, bạn bè của họ đang sống. Họ muốn tình yêu
Của họ được công khai và tự do. Họ muốn cây trái, sản phẩm của họ làm ra,
Sau khi đã đóng góp phần nghĩa vụ công dân, phải thuộc về họ, là của họ và
Nó phải là phần lớn, phần nhiều, phần cơ bản, chứ không phải nộp cho ông
Chúa đất, ông vua nào xa lắc xa lơ cả. Sau những hồi chuông dài thê thiết
Suốt thời trung cổ nghìn năm, ánh bình minh của xã hội mới cùng những cơn
Gió mát lành của thời đại thổi đến làm bừng lên sinh khí mới trên khắp châu
Âu.
Sau cả ngàn năm đọc kinh cầu Chúa, sau giấc ngủ dài suốt thời kỳ
Trung cổ, người dân châu Âu trở dậy vươn mình trong ánh bình minh của
Nền văn minh công nghiệp. Trong suốt thời kỳ phong kiến, các thương nhân,
Thợ thủ công châu Âu dù có khéo tay đến mấy, giỏi nghề đến đâu thì sản
Phẩm làm ra sau khi trừ thuế nộp cho nhà nước, chỉ còn đủ ăn là may lắm.
Phương thức sản xuất phong kiến với năng suất lao động thấp và trình độ
Sản xuất hạn chế đã cản trở rất lớn sức sản xuất của xã hội. Bầu trời tươi đẹp
Mà không có tự do. Những vụ mùa bội thu mà cửa nhà sa sút. Các lãnh chúa
Quyền lực vô biên, của cải không biết cơ man nào mà kể, chỉ sống để thu
Thuế, hưởng thụ sự giàu sang; khi cần thì tổ chức chiến tranh để thỏa mãn
Lòng tham hay những lợi ích cá nhân đầy tính vị kỷ. Sau những trận chiến,
Vinh quang thuộc về quý tộc, tướng lĩnh và những người chỉ huy, còn mất
Mát hy sinh thì dân đen đưa mình hứng chịu. Những cuộc khởi nghĩa của nô
Lệ dưới sự lãnh đạo của giai cấp quý tộc làm nên các vương triều phong kiến.
Nhưng cả ngàn năm, giai cấp quý tộc phong kiến châu Âu cầu kinh, chỉ huy,
Hầu như sống để thu thuế rồi ăn chơi trong sự xa hoa; còn dân nghèo - lực
Lượng cơ bản làm nên những vương triều ấy bằng sự chiến đấu, hy sinh - có
Cuộc sống ra sao thì không ai quan tâm đến.
Những năm của thế kỷ XIV, XV, những bộ óc đầy tính trí tuệ và đôi
Tay khéo léo của Jame Hagrever và Jame Watt đã mở ra một cách nhìn mới,
Một hướng đi mới cho châu Âu. Những chiếc máy dệt đã thay thế chiếc xa
Kéo sợi. Những chiếc máy hơi nước đã thay thế cối xay gió và đem lại cho
Con người biết bao nhiêu lợi ích. Với sự ra đời của máy móc, gia súc chỉ còn
Được nuôi để mang lại nguồn thực phẩm cho con người chứ không còn phải
Cày kéo. Những con tàu ra khơi vào lộng trên sóng Đại Tây Dương hay biển
Địa Trung Hải không còn phải dùng sức của nô lệ mà bằng những cỗ máy
Hàng nghìn sức ngựa. Những công xưởng dệt ra đời khiến hàng trăm ngàn
Cái xa kéo sợi thành đổ cổ hoặc gỗ mục. Sự ra đời của máy hơi nước đã thực
Sự mang lại một nền văn minh tươi sáng và mới mẻ cho châu Âu.
"Bắt đầu từ thế kỷ XV ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
Nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ bước vào thời kỳ tan rã () thay thế
Cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là những công trường thủ công đem
Lại năng suất lao động cao hơn () Việc sáng chế ra máy tự kéo sợi () đã
Làm cho công nghiệp dệt () đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám
Phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ này
Sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động" (4,
Tr. 241).
"Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã
Hội Tây Âu thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư
Sản xuất hiện.. vai trò và vị trí của họ trong nền kinh tế và xã hội ngày càng
Lớn"
Không còn là những thợ thủ công hay thương nhân phải ăn nhờ ở đậu
Tại các thành bang như thời cổ đại. Không còn bị phong kiến và tăng lữ miệt
Thị như ở thời phong kiến. Lúc này thương nhân, thợ thủ công, tiểu tư sản trí
Thức đã thực sự vươn lên, tự khẳng định chính mình. Trí tuệ và tiềm lực của
Giai cấp tư sản đã làm nên uy tín và giá trị riêng cho họ. Họ không còn phải
Lép mình nộp thuế, chịu sự "dạy bảo" của những "đấng bề trên". Trái lại, với
Những đóng góp nhất định cho ngân sách nhà nước, giai cấp tư sản châu Âu
Bắt đầu bước vào chính trường. Các triều đình Anh, Pháp dần dần phải thỏa
Hiệp với tư sản để đảm bảo có được những nguồn tài chính duy trì cuộc sống
Xa hoa. Vương triều Bourbon (Buốc – bông) của nước Pháp ăn chơi xa xỉ,
Ngân sách bội chi, thâm hụt nặng nề khiến Vua và Hoàng gia phải im hơi
Lặng tiếng, nhắm mắt làm ngơ để Quốc hội - với phần lớn đại biểu là giai cấp
Tư sản - quyết định việc triều chính. Italia - nơi từng ngự trị của Julius Cesar,
Nơi đế chế La Mã một thời dọc ngang lừng lẫy thì cũng đồng thời là một
Trong những nơi đầu tiên trên thế giới sinh ra cuộc cách mạng tư sản, thức
Tỉnh toàn châu Âu ngắm nhìn mặt trời tự do, vươn lêngiành lấy thiên đường
Nơi trần thế. Sự bừng sinh mở ra và nền văn minh chính thức bắt đầu.
"Cùng với nhiều biến cố lịch sử khác, những sự kiện trên cho thấy,
Bước sang thời kỳ Phục hưng và cận đại, sự phát triển của phương thức sản
Xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế lịch sử không gì có thể ngăn
Cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản là nền tảng thực
Tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại".
Trong không khí tưng bừng của giai đoạn hồi sinh, người châu Âu tràn
Đầy khí thế đứng lên giành tự do. Với sự xuất hiện của máy móc, một
Phương thức sản xuất hoàn toàn mới đã ra đời. Sức người được giải phóng.
Sự điều khiển bằng máy móc, việc sử dụng năng lượng mới, cách nghĩ cách
Làm thay đổi hoàn toàn dẫn đến sự phát triển chóng mặt của năng suất lao
Động. Những chiếc tàu thuỷ hơi nước và những đoàn tàu hỏa lăn bánh trên
Đường ray đã biến châu Âu và nhất là nước Anh trở thành công xưởng của
Thế giới. Với trí tuệ và hàng loạt những phát minh, người ta sẵn sàng làm bất
Cứ thứ gì và có khả năng làm bất cứ thứ gì nếu người ta muốn. Hiệu quả
Kinh tế được đặt lên hàng đầu. Thông thương buôn bán là số một. Lợi nhuận
Kinh doanh là trên hết. Những cơ sở ấy khiến người ta nghĩ đến những điều
Xa xôi, to lớn và hoàn toàn có thật. Những ước muốn ấy người ta không chờ
Đến ngày mai khi không còn sự sống nữa hay lúc được lên thiên đường; mà
Người ta quyết tâm làm ngay lúc ấy, cho cuộc sống lúc bấy giờ và được hiện
Thực hóa nơi trần thế. Những thiên thần, Đức Mẹ hay các thánh phải là
Những thiếu nữ, em bé, phụ nữ, đàn ông khoẻ mạnh, sáng tươi và quyến rũ!
Vẻ đẹp ấy không nên ở mãi trong Kinh thánh, nhà thờ mà phải biểu lộ ở
Trong cuộc sống trần tục này. Vẻ đẹp ấy phải có hương thơm, trắng trẻo,
Khoẻ mạnh! Phải ăn, ngủ, cảm nhận, xúc giác được! Phải là thứ mắt nhìn, tai
Nghe, tay chạm, chân đi đến được. Hạnh phúc, tự do, thiên đường, vườn địa
Đàng phải là sung sướng, chạy nhảy, no nê, thơm ngát, giàu có, ngất ngây và
Thỏa mãn! Người ta nhớ đến Chúa sau những vụ mùa bội thu hay những
Chuyến tàu buôn dài ngày trên biển. Người ta cầu Chúa khi muốn những cỗ
Máy mới được xuất hiện và có thêm những tính năng mới. Tức là lúc ấy
Chúa có vai trò giúp người ta thư giãn, làm cho người ta nghĩ ra và làm được
Thêm nhiều những cái mới mà thôi. F. Engels đã chỉ ra một đặc điểm rất quan
Trọng của thời đại:
"Đó là một thời đại cần có những con người khổng lồ và đã sinh ra những
Con người khổng lồ. Khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính
Cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng."