Nhị Triều Hoàng Hậu - Dương Vân Nga - Hương Iris

Thảo luận trong 'Truyện Hay' bắt đầu bởi huongiris, 24 Tháng bảy 2020.

  1. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XX. VĨNH BIỆT TỨ TRỤ

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tưởng mọi chuyện đến đó là xong, dù bằng mặt chứ không bằng lòng thì các vị cũng sẽ cho qua đi mà cùng nhau lo việc nước. Ai ngờ cuối tháng Tư, cả bốn vị lần lượt xin cáo lão về quê để an hưởng tuổi già. Các vị nói đất nước đã qua cơn sóng gió, tuổi già cũng đã ập đến rồi, các vị không có mong muốn gì hơn là dành những tháng ngày cuối đời – chắc chắn cũng không còn dài nữa ở nơi quê hương, bản quán của mình cho trọn tâm nguyện.

    Đến nước đó thì không ai cản các vị được nữa. Đành để các vị đi.

    Suy cho cùng các vị ấy cũng không còn lựa chọn nào khác. Họ Đinh cùng Nam Việt Vương là những người đã vào sinh ra tử với họ để lập nên nghiệp lớn, giờ đã không còn nữa. Toàn Nhi chỉ là một đứa trẻ. Can gián ta không được giờ phải ngày ngày nhìn Lê Hoàn đi đi lại lại lo liệu mọi việc lớn nhỏ trong triều đình họ chắc cảm thấy mất hết cả động lực, chí khí. Nếu là ta, chắc ta cũng chẳng có lựa chọn nào tốt hơn các vị.

    Lại nói về Lê Hoàn. Khi trước phong Vương, ta cứ sợ rằng lúc từ mặt trận trở về sẽ gặp ta mà phản đối hoặc có ý kiến gì về việc ấy. Sợ nhất là khi phải đối mặt với ánh nhìn khinh khi của con người ấy. Ta đã chuẩn bị tâm thế để bất chấp tất cả mà đối diện rồi. Nhưng đến khi trở về cũng không nói một lời nào về những việc đó. Cứ đúng phận sự của Phó Vương mà cùng Hoàng thượng và các vị đại thần bàn bạc công việc. Đến thì chào, đi thì hỏi kính cẩn, đúng phép tắc. Không một ánh nhìn ẩn ý, không một cái nhíu mày. Đôi mắt lúc nào cũng chỉ là một ánh nhìn phẳng lặng và sâu như nước, không ai có thể đoán đọc được điều gì. Ngay cả khi Hoàng thượng ra Thánh chỉ ban đất ở thành Đông để lập Vương phủ, cũng cứ cúi đầu đa tạ rồi kính cẩn đưa tay mà đỡ lấy Thánh chỉ, không nói thêm một lời nào.

    Thái độ đó một mặt làm cho ta nhẹ nhõm. Ít ra ta cũng không phải đối mặt với chất vấn. Nhưng mặt khác lại giấy lên hàng ngàn câu hỏi, băn khoăn. Thực ra trong đầu con người ấy đang nghĩ suy điều gì? Căm hờn? Tức giận? Khinh bỉ? Bi ai? Thờ ơ? Trách móc? Không ai co thể đoán đọc được. Có cảm giác như người đứng trước mặt ta đó, mà giữa ta và người đã có một bức tường dày hàng chục tấc ngăn cách. Cảm giác như đó là một con người khác, chứ không phải là Lê Hoàn mà ta đã quen biết ngày xưa.

    Mà có lẽ cũng phải thôi. Những chuyện xưa đã là chuyện cũ. Chắc người đã khép lại rồi. Bây giờ là con người ở hiện tại, sống cho những lo toan hiện tại. Hơn chục năm đã trôi qua rồi, ta cũng đâu còn là Vân Nga của ngày ấy nữa hà cớ gì bắt người vẫn phải như xưa? Từ bến sông Càu Chày khi xưa, ta cũng đã đi xa quá rồi, vậy mà ta vẫn muốn người không thay đổi, vẫn đứng ở đó chờ mình hay sao?

    Những ngày mùa hạ về xanh mướt Hoa Lư.

    Nhưng mùa hạ năm nay mưa nhiều. Thê lương và ảo não.

    Hoặc mùa hạ vẫn như thế, mưa nhiều, nắng lắm, náo nhiệt, rực rỡ. Chỉ có lòng người là ủ dột?

    Sau khi các vị đại thần đi rồi, mọi thứ tạm thời lắng xuống. Tưởng như ta sẽ được yên lòng một chút, thì lại một người nữa bỏ ta mà đi. Sau cái chết của họ Đinh thì sự ra đi của người ấy khiến ta đau lòng nhất.

    Hôm đó trời bỗng ngớt mưa sau bốn, năm ngày mưa liên tiếp. Văn thư, tấu chương ít hơn thường ngày nên ta trở về cung Cồ Quốc sớm, ra vườn đi dạo.

    Tuy đã tạnh mưa rồi nhưng đường đi lối lại, thân cây tán lá và khắp cả không đều ướt rượt. Một màn hơi nước mỏng, mềm từ dưới đất nhẹ nhẹ bay lên trời.

    Đang đứng bên mấy bụi hoa ngâu trắng đợi Lan Nhi hái một ít mang về ủ trà, thì một bóng dáng quen thuộc thướt tha đi tới. Đó chính là Trinh Minh Nương nương. Lâu lắm rồi nàng mới ghé tới cung Cồ Quốc như thế này. Sau bao nhiêu biến cố xảy ra, bóng dáng quen thuộc ấy làm ta xúc động vô cùng.

    Nàng bước lại gần thi lễ, ta vội đỡ nàng dậy rồi hỏi han sức khỏe, nói chuyện.

    Từ khi Toàn Nhi lên ngôi, ta làm Thái hậu cùng con nhiếp chính tới nay giờ chúng ta mới có dịp ở riêng cùng nhau như thế này, nhận thấy câu chuyện không tránh khỏi phần khách khí. Nàng nói gì cũng thưa bẩm, một câu Thái hậu hai câu thần thiếp, còn bản thân ta cũng không thể tự nhiên mà chị em với nàng như trước được nữa, đâm ra cũng thấy không được tự nhiên. Mới thấy quyền lực thật là thứ ghê gớm, có thể đẩy con người ta tới chỗ mà chính người ta cũng không thể kiểm soát nổi mình. Nghĩ thế ta không thể không cảm thấy đau lòng, nén một tiếng thở dài, định bảo nàng không cần phải khách khí, ta với nàng vẫn là chị em thân thiết như bao năm qua mà chưa kịp cất lời thì đã nghe nàng bảo:

    - Thần thiếp mạo muội đến tận đây xin gặp Thái hậu hôm nay cũng là vì muốn xin với người một việc.

    - Có việc gì xin Nương nương cứ nói, không cần khách khí như vậy.

    - Mẹ con thần thiếp đã nghĩ tới việc này sau khi tổ chức lễ Tốt khốc cho Tiên Đế xong xuôi, mà không ngờ xảy ra nhiều biến cố nên phải trì hoãn lại. Nay mọi việc đã đi vào quy củ mới đến xin với Thái hậu cho hai mẹ con được trở về quê hương sống cuộc đời thôn dã. Bao năm nay ở Hoa Lư, thần thiếp cũng chỉ có một ước nguyện như vậy mà thôi. Giờ đây chính là khi thích hợp để thực hiện việc này.

    Câu nói của Đinh nương nhẹ như gió thoảng bên tai, mà ta lại thấy như đất sụp ở dưới chân mình. Ta nghẹn ngào, không giữ nổi trang nghiêm nữa, chụp vội lấy cánh tay nàng:

    - Trinh Minh Nương nương! Sao chứ! Sao Nương nương cũng định bỏ em mà đi! Không thể thế được, em nhất định không để người đi được!

    Nghe ta nói nàng không kìm được nước mắt, nhưng vẫn từ tốn, nhẹ nhàng bảo:

    - Thần thiếp biết Thái hậu và Hoàng thượng rất mực yêu thương hai mẹ con thần thiếp. Nhưng đây thực sự là tâm nguyện cả đời của thần thiếp, xin Thái hậu và Hoàng thượng hãy vì yêu chiều mà đáp ứng nguyện vọng này.

    Nói rồi ngừng một lúc cho bớt xúc động, nàng mới tiếp:

    - Thái hậu còn lạ gì chuyện khi xưa, chính là vì mối giao hảo giữa các bên mà thần thiếp về Hoa Lư làm vợ lẽ của Tiến Đế. Thuở bé cùng các anh vùng vẫn sơn thủy, tự do tự tại trên lưng ngựa đã quen, cũng chỉ vì nghĩ tới đại cục chung nên mới chịu giam chân ở nơi này bao nhiêu năm, hết lòng thờ kính Tiên Đế. Giờ Tiên Đế đã mất, những trọng trách khi xưa cũng theo đó mà không còn nữa. Vậy nên cũng chỉ có một mong muốn là được trở về quê nhà thờ cúng mẹ cha, sống cuộc đời thôn dã thanh đạm.

    "Nàng tàn nhẫn như vậy sao! Họ Đinh đi rồi không còn gì ràng buộc nữa, nên nàng muốn trở về quê hương bản quán để được tự tại hưởng thanh nhàn. Vậy còn ta, ta không mong muốn như vậy hay sao? Sao nàng nỡ bỏ ta đi mà vui thú một mình!" Ta định hét lên với nàng như thế. Nhưng nàng đã lấy cả những chuyện khi xưa ra mà phân tích phải trái như vậy thì ai còn có thể nói được gì? Hơn nữa cũng chẳng thể so sánh địa vị của ta với nàng bây giờ để mà nói thế. Ta và nàng cùng là vì sắp đặt mà về Hoa Lư này, mà gắn bó gian khổ hoạn nạn bên nhau. Nhưng con ta giờ là đương kim Hoàng Thượng, ta trở thành Thái hậu cùng con buông rèm nhiếp chính; còn nàng, họ Đinh mất rồi, không cớ gì mà nàng phải ở lại đây để luồn cúi dưới trướng mẹ con ta cả. Tranh giành quyền lực với mẹ con ta nàng càng không ham – nếu nàng đúng là Trinh Minh Nương nương mà ta biết. Vậy thì hà cớ gì mà bắt nàng phải ở lại. Có lẽ nàng đi cũng là để tránh cho Toàn Nhi và Tuệ nhi những tranh đoạt tương tàn nếu có về sau.

    Nghĩ thế ta không còn biết nói sao nữa cả. Chỉ đứng đó, nước mắt tuôn dài trên má. Định nói nốt một câu "đến Nương nương mà cũng bỏ em đi thì còn ai ở bên em nữa đây" nhưng lại sợ nàng phải suy nghĩ, phải đau lòng, nên lại thôi, chỉ bảo:

    - Vậy hai mẹ con hãy bảo trọng. Ngày mai em sẽ cho thông báo trước triều đình. Ngày đi khi nào Nương nương nhớ báo trước, em sẽ bảo người hầu kẻ hạ chuẩn bị chu tất.

    - Đa tạ Thái hậu!

    Nàng lau khô nước mắt, nói. Rồi vội vã rời đi.

    Còn ta đứng lại một mình giữa vườn. Mưa xuống lúc nào không biết. Đến khi giật mình như người tỉnh mộng thì thấy chỉ còn Lan Nhi đứng xòe ô bên cạnh che cho ta. Đưa mắt nhìn xuống thấy gấu váy đã bị nước mưa hắt ướt sũng tự bao giờ. Lúc ấy Lan Nhi mới khẽ bảo:

    - Về thôi Thái hậu! Kẻo ngấm nước mưa vào người ốm bây giờ!

    Ba ngày sau Trinh Minh Nương nương và Thân Vương mang theo vài người hầu kẻ hạ thân cận và rất ít đồ đạc rời đi. Ta không đến tiễn nàng. Đi nhanh chóng như thế mới thấy, đúng là nàng đã chuẩn bị cho việc này rất kỹ càng rồi. Dẫu ta có không muốn thì cũng chẳng có cách nào ngăn cản được nàng.

    Nhớ năm xưa chân ướt chân ráo về Hoa Lư, chính là nàng đã lo lắng, chăm sóc cho ta từng miếng ăn, giấc ngủ. Nhờ có nàng mà những ngày tháng ấy bớt cô quạnh và đau thương.

    Sau khi chiến tranh kết thúc, từ Động Hoa Lư chuyển về kinh thành cho tới khi hai tiểu Hoàng tử ra đời, đến lúc bị cuốn vào những sóng gió ngấm ngầm trong cuộc tranh quyền đoạt vị, chúng ta đều là có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Tưởng như không thể chia rời. Thế mà rồi, khi mọi sóng gió đã đi qua, khi tưởng rằng bình yên sẽ đến thì lại chính là lúc tan đàn xẻ nghé. Không ngờ hai chữ "Hoàng vị" lại có sức mạnh ghê gớm đến như vậy. Dù không tranh đoạt, không đầu rơi máu chảy thì nó cũng khiến cho những mối quan hệ xunh quanh mình không bao giờ nguyên vẹn được nữa, nó cũng khiến cho người bên cạnh ta, nghĩ là không thể rời xa, mà vẫn bị đẩy ra xa mãi mãi.

    Ngoảnh đi ngoảnh lại, nếu không phải là ta còn có Toàn Nhi, thì ta quả thực cũng chẳng khác nào Đan Gia hay Kiểu Quốc Nương nương, chẳng còn lại một tấm chân tình nào ở lại bên mình hay sao? Hóa ra, kẻ thắng hay kẻ thua, người thành hay người bại, cũng đều có những lúc phải đứng trơ chọi một mình vậy.

    - Bẩm Thái hậu, có quân lính ở Đạo Ái vừa đi hỏa tốc về, xin vào gặp gấp, có việc hệ trọng cần trình báo.

    Một buổi chiều nhá nhem tối đầu tháng Sáu, khi ta cùng gia nhân vừa từ Ngự thư phòng trở về cung Cồ Quốc thì có thị vệ vào bẩm báo.

    Đoán chắc phải có việc gì hệ trọng lắm thị vệ mới dám vào làm phiền ta vào lúc này, ta liền cho vào.

    Thị vệ trở ra cổng Cung rồi mau chóng trở vào cùng hai tráng sỹ mang theo thẻ bài của Tri phủ Ái Châu. Sau khi thỉnh an sức khỏe của Hoàng thượng, Thái hậu, hai người nhanh chóng trình bày:

    - Bọn hạ thần về cấp báo, để Hoàng thượng, Thái hậu cùng các vị đại thần triều đình kịp thời tìm cách đối phó. Ấy là việc Phạm Hạp, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ đang chiêu quân, mộ lính để kéo về kinh thành đòi tiêu diệt Phó Vương. Hiện con số thanh niên trai tráng theo bốn người này cũng đã lên tới gần một nghìn. Vì vậy xin Hoàng thượng cùng triều đình mau chóng tìm đối sách hợp lý.

    Ta giật nảy mình, bảo:

    - Sao lại có chuyện đó! Sao bỗng dưng lại mang quân về tiêu diệt Phó Vương? Các vị ấy mất trí rồi hay sao? Đầu đuôi như thế nào, ngài Tri phủ đã nghe ngóng được những gì, các người hãy thuật lại cho rõ!

    - Bẩm Thái hậu, chẳng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ sau khi cáo quan trở về đều lập ấp ở trong vùng để an dưỡng tuổi già. Vừa rồi nghe tin Trinh Minh Nương nương cùng Thân Vương rời kinh thành trở về nguyên quán ba vị đã hết sức tức giận. Lại có tin đồn rằng..

    - Rằng sao? Nói!

    - Rằng.. chính là Thái hậu và Phó Vương có tư tình dan díu, định cùng nhau thâu tóm mọi quyền lực trong tay nên đã ép Trinh Minh Nương nương và Thân Vương phải rời kinh thành để tiện cho việc mưu tính về sau. Vì thế các vị ấy, đã liên lạc với Phạm Hạp ở bên vùng An Sách, cùng nhau dựng cờ tuyển mộ trai tráng để tiến về Hoa Lư tiêu diệt Phó Vương, lấy lại công bằng cho Thân Vương và Trinh Minh Nương nương.

    - Láo toét! Ngậm máu phun người! Ta không thể giữ nổi bình tĩnh mà hất đổ luôn ly trà Lan Nhi vừa đặt lên trên bàn. Người hầu kẻ hạ trong Cung cùng hai tráng sỹ ở Đạo Ái về thấy vậy đều hết sức run sợ, quỳ rạp cả xuống. Chỉ có Lan Nhi bình tĩnh dọn dẹp chiếc chén và lau sạch trà đổ ở trên bàn.

    Tại sao lại có chuyện như thế truyền về tận Đạo Ái được? Ai? Vì mục đích gì mà lại loan tin như thế? Ta giận run người mà nhất thời không thể nghĩ ra nổi. Lại quay sang bảo với hai tráng sỹ đưa tin:

    - Tri Phủ ở Đạo Ái còn nghe ngóng được gì nữa không?

    - Dạ tất cả chỉ có vậy. Ngài Tri phủ xin triều đình hãy nhanh chóng có biện pháp đối phó kịp thời. Bởi nếu để lâu sẽ gây ra những diễn biến không tốt cho tình hình địa phương.

    - Được rồi. Ta sẽ cho triệu tập Phó Vương cùng các vị đại thần để bàn bạc cách giải quyết. Các vị hãy theo thị vệ tới nhà khách nghỉ ngơi, đi hỏa tốc đường dài về đây cũng đã mệt rồi. Các vị hãy nghỉ ngơi một vài hôm cho lại sức, rồi ta sẽ bảo chuẩn bị ngựa xe để hai tráng sỹ về nhà an toàn.

    Hai người đi rồi liền bảo Lan Nhi chuẩn bị xe kiệu để tới Ngự thư phòng, đồng thời cho thị vệ đi triệu tập gấp Phó Vương Lên Hoàn cùng Tâm phúc Tướng quân Phạm Cự Lượng.

    Một loáng hai người đã có mặt, trên khuôn mặt cũng không dấu nổi sự bất ngờ, băn khoăn vì ta triệu tập gấp gáp vào buổi tối như thế này.

    Đợi thỉnh lễ xong, không để hai người phải đợi lâu, ta chủ động mở lời luôn:

    - Vừa có tin ở Đạo Ái báo về các vị Phạm Hạp, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ đang dương cờ tuyển mộ trai tráng hòng tiến về Hoa Lư tiêu diệt Phó Vương, đòi lại công bằng cho Thân Vương và Trinh Minh Nương nương. Vậy hai ngài hãy mau nghĩ kế sách đối phó, nhanh chóng dẹp yên chuyện này, kẻo đến lúc lớn chuyện, đất nước rơi vào nạn can qua thì trăm họ lại phải chịu cơ cực.

    Nói rồi không khỏi bối rối, không biết nói sao với hai vị về cái tin đồn ta cùng Phó Vương dan díu với nhau. Đằng nào thì các vị cũng sẽ biết, cần phải biết. Mà nói ra chuyện ấy thì thật là tệ hại.

    Đang suy nghĩ như thế thì Tâm phúc Tướng quân lên tiếng, từng lời từng chữ như gỡ cho ta thế bí vậy:

    - Thần cũng không bất ngờ về việc này. Thần nghĩ cái chính là các vị ấy rắp tâm tiêu diệt Phó Vương, chứ việc đòi lại công bằng cho Thân Vương và Trinh Minh Nương nương cũng chẳng qua chỉ là cái cớ họ dựng lên để thu phục nhân tâm mà thôi. Khi Tiên Đế vừa qua đời, triều đình đang hết sức rệu rã, giặc Chiêm Thành thì rình rập ngoài biên ải, Thái hậu phong Lê thập đạo Tướng quân làm Phó Vương để thay mặt hoàng tộc, triều đình lãnh đạo ba quân sẵn sàng đối phó, các vị ấy không hề nghĩ tới đại cục chung mà chỉ khăng khăng một lòng trung thành với họ Đinh, nên nhất mực phản đối. Rồi đến khi Hoàng thượng ban chỉ cấp đất để Phó Vương lập Vương phủ, họ cũng phản đối ra mặt và lập tức cùng nhau cáo quan về quê. Tư tưởng chống đối, muốn tiêu diệt cho được Phó Vương chính là đã nhen nhóm từ lâu vậy. Giờ chỉ là họ kiếm cái cớ để thực hiện việc đó mà thôi.

    - Vậy các ngài định thế nào?

    - Đạo Ái báo về bọn họ đã chiêu mộ được bao nhiêu quân lính? Phó Vương Lê Hoàn vẫn im lặng từ lúc đến, giờ mới lên tiếng.

    - Khoảng gần một ngàn người.

    - Thái hậu đừng lo, thần sẽ đích thân mang ba ngàn quân tiến về Đạo Ái để tiêu diệt bọn họ. Thiết nghĩ nhổ cỏ cần nhổ tận gốc, kẻo về sau cỏ dại lan ra, lúc ấy mới thật là đại họa.

    - Phó Vương lại một phen vất vả rồi! Mọi việc xin giao ngài lo liệu.

    Hai người thỉnh lễ rồi cáo lui. Họ vừa ra tới cửa thì ý nghĩ "còn nước còn tát" chợt chạy qua đầu ta, bèn gọi họ quay trở lại và bảo:

    - Bản cung thực sự không biết nói sao về chuyện này, không hiểu sao lại có chuyện như vậy đồn đại về tận Đạo Ái, nhưng người ở Đạo Ái báo về, các vị ấy nổi dậy là vì tin rằng ta và Phó Vương đây đang dan díu tư tình, vậy nên mới ép hai mẹ con Trinh Minh Nương nương về quê để dễ bề thâu tóm quyền lực ở triều đình. Vậy Phó Vương hãy cố gắng thuyết phục các ngài ấy rằng không có chuyện này, tránh hết sức để cảnh đầu rơi máu chảy xảy ra. Dù sao các ngài ấy cũng đều là những người có công lớn với đất nước..

    Phó Vương Lê Hoàn cùng Tâm Phúc Tướng quân khấu đầu tuân lệnh rồi trở về Phủ thất.

    Chỉ còn lại ta cùng Lan Nhi trong bóng tối tịch mịch u sầu của Ngự điện.

    Thế mới thấy làm Đế Vương của thiên hạ đâu phải là chuyện gì đáng vui mừng. Phú quý sang giàu thì cũng chỉ có thể nem công, chả phượng ngày ăn ba bữa. Ngọc ngà châu báu dát lên người thì khi đi ngủ cũng phải cởi bỏ, lúc nằm xuống có chắc mang theo được! Thế mà phải lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ và lúc nào cũng như ngồi trên lưng cọp. Thế mà sao phải vì những điều đó để mà tranh đấu, giết hại ần nhau? Sau khi họ Đinh mất, mới chưa đầy nửa năm mà không biết bao nhiêu chuyện xảy ra, thật khiến người ta mệt mỏi. Rồi đây không biết sẽ còn xảy ra những chuyện gì? Hai mẹ con ta khác nào hai chiếc lá cuốn theo dòng nước. Chẳng biết rồi đây sẽ ra sao?

    Mấy ngày sau buổi bàn bạc tại Ngự điện, Lê Hoàn đích thân dẫn theo ba ngàn lính tinh nhuệ tiến về Đạo Ái. Chừng giữa tháng Sáu thì có tin báo về, trên đường tiến về Đạo Ái, quân của Lê Hoàn đã đụng độ trực tiếp với quân đội của Lưu Cơ, Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Do nghe ngóng được tin Lê Hoàn dẫn quân về tiêu diệt, nên các vị đã chủ động bày binh bố trận tấn công trước để dành thế chủ động. Chừng ngày hai mươi tháng Sáu thì nghe tin báo về cả ba vị đều bị tiêu diệt. Quân của Phạm Hạp ở Nam Sách nghe tin ấy tự tan, nhưng Lê Hoàn vẫn không chịu buông tha, quyết tiến quân về Nam Sách để nhổ cỏ tận gốc. Phạm Hạp bị bắt rồi bị chặt đầu.

    Không biết họ Đinh bây giờ thì vui hay buồn? Vui mừng vì cuối cùng thì cũng được hội ngộ với những người tâm phúc đã cùng mình bao năm vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật, lúc nào cũng hết lòng vì mình? Hay sẽ đau lòng vì tất cả giờ lại thành ra thế này? Vì sao lại có tin đưa về Đạo Ái như thế? Tại sao các vị không nghe giải thích? Tại sao các vị không chịu tin? Tại sao cứ nhất quyết đòi tiêu diệt cho bằng được Lê Hoàn các vị mới thỏa? Không phải chính lòng trung thành mù quáng với dòng họ Đinh đã giết họ hay sao? Không những thế còn kéo theo biết bao sinh mạng vô tội vào cuộc nồi da, nấu thịt vô nghĩa này.

    Họ Đinh ở trên núi Mã Yên nghĩ sao về việc này, ta không bao giờ biết được. Còn ta, từ khi nghe tin Phạm Hạp, người cuối cùng trong bọn họ, đã từng sát cánh cùng họ Đinh gây dựng cơ đồ khi xưa nằm xuống thì không sao cầm nổi nước mắt. Đau đớn như rụng rời cả chân tay!

    Khi xưa xông pha trận mạc, oai phong lẫm liệt là thế! Khi xưa chính bàn tay các vị đã cùng cha con họ Đinh tạo dựng nên cơ đồ này, xây dựng nên đất nước này, xây dựng nên Hoa Lư như ngày nay! Thế mà nay các vị ấy chết như những kẻ tội đồ! Là vì ai? Vì cái gì? Rốt cuộc vì sao phải như vậy chứ?

    Bốn tượng đài quá khứ ấy đổ xuống, ta biết rằng mọi chuyện mãi mãi không bao giờ được như xưa nữa rồi.

    Họ Đinh đi. Nam Việt Vương đi.

    Đan Gia Hoàng hậu đi.

    Kiểu Quốc Và Trinh Minh Nương nương tìm nơi ở ẩn.

    Bốn ngài công lao như núi, kiêu phong lẫm liệt, kết cục cũng không tránh khỏi tang thương.

    Hoa Lư giờ đây cũng như trở nên xa lạ.

    Chẳng còn ai nhớ, ai quen..

    Nước ở dòng Sào Khê vẫn xanh một màu thăm thẳm.

    Ngọn Mã Yên vẫn ở đó nơi họ Đinh an nghỉ.

    Nhưng ánh sáng hào hùng thuở hồng hoang mở cõi của họ đã khép lại mã mãi rồi!
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  2. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXI. NHƯỜNG NGÔI. CHỐNG TỐNG

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thấm thoắt cũng đến rằm tháng Bảy.

    Ngày Mười lăm, ta cùng Lan Nhi lên chùa Am Tiên cầu siêu cho cha con họ Đinh và bốn hạ bộ trung thành.

    Từ khi cùng Toàn Nhi nhiếp chính, ta thực ra mà nói không còn thời gian để đi chùa lễ Phật nữa. Nhưng giờ ta lại muốn đi. Dù sao rằm tháng Bảy vừa là ngày lễ Vu Lan, vừa là ngày xá tội vong nhân.

    Sau khi đã dâng hương lễ Phật, đọc kinh cầu siêu xong, chủ tớ lục tục đi về. Đi đến cổng chùa thì một ý nghĩ lướt qua đầu ta.

    Ta đứng lại bên dưới tán cây keo đang nở hoa vàng rực rỡ suy nghĩ trong một chốc rồi quay lại bảo với Lan Nhi lúc này đang đứng sững nhìn ta chờ đợi:

    - Ta muốn ở lại đây mấy hôm để ăn chay niệm Phật, cầu độ siêu thoát cho họ Đinh và những người đã khuất. Em hãy về báo để Phó Vương cùng Hoàng Thượng lo liệu mọi việc triều chính. Cũng không cần nói rõ lý do, chỉ cần báo ta sẽ ở lại chùa tĩnh dưỡng mấy hôm rồi ta sẽ về là được. Rồi em qua cung Cồ Quốc mang một số vật dụng cá nhân cần thiết lên đây cho ta. Nhớ chọn những đồ thanh đạm và đơn giản thôi rồi trở lên đây cho sớm.

    - Như vậy có được không Thái hậu? Bỏ bê hết tất cả mà ở lại chùa như vậy thật sao? Em nghĩ..

    Lan Nhi bỏ lửng câu nói khi thấy ta đã dứt khoát quay lưng đi trở lại chùa. Nhưng nàng ta vẫn lừng khừng chưa muốn rời, khiến ta phải cất tiếng bảo:

    - Em không đi nhanh cho kịp, rồi quay trở lại đây trước lúc trời tối, còn định đứng đó đến bao giờ?

    Đến lúc ấy nàng ta mới ba chân bốn cẳng trở xuống núi.

    Lúc ấy trời đã gần trưa rồi.

    Đến chiều tối nàng ta với hai thị nữ khác mới xách theo một số vật dụng cơ bản lên. Chuyển đồ vào phòng, xếp dọn xong ta cho hai nàng ấy về lại Cung luôn. Thế là chỉ còn lại ta cùng Lan Nhi ở lại chùa.

    Sáng sáng chúng ta dậy sớm cùng ni cô Giác Huệ tụng kinh, ăn cơm sáng rồi giúp nhà chùa nhặt cỏ, trồng rau trong những khoảnh vườn nhỏ xung quanh chùa. Buổi chiều thì dọn dẹp và tung kinh chiều. Buổi tối thì tụng kinh và thiền định trước khi đi ngủ. Những lúc rảnh rỗi thì ngồi uống trà nhài, trà cúc đàm đạo sự đời, hay nghe ni cô Giác Huệ giảng giải kinh sách. Cuộc sống thanh đạm và yên bình đến không ngờ. Nếu không phải là Toàn Nhi vẫn còn thơ ấu mà phải một mình gánh vác giang sơn ở dưới kia, thì có khi ta cũng chẳng thiết hồng trần nữa, ở lại luôn nơi này cũng nên.

    Vào buổi chiều sau khi đã ở lại chùa được ba ngày, lúc ta đang đứng tưới cây ở bên hiên chùa, không chủ định mà lơ đãng nhìn ra cổng chùa thì thấy Lê Hoàn đang đứng đó, dưới tán cây keo có những bông hoa vàng ruộm mà hương thơm đưa đi khắp cả một vạt núi rừng. Mặt trời đang xuống. Bóng núi hắt xuống con đường nhỏ. Sương khói dâng lên bảng lảng tứ bề. Bấy giờ ta chỉ nghĩ đó là một ảo ảnh. Sương khói quá mà ta đâm ra quáng gà chăng? Chắc chắn là một ảo ảnh! Bởi gương mặt của Lê Hoàn trông hết sức dịu dàng, và ánh mắt hết sức ấm áp đang hướng về phía ta. Làm sao có thể có chuyện đó! Chỉ có thể là ảo ảnh thôi!

    Thế mà ảo ảnh ấy vẫn khiến ta giật nảy mình! Vội vã quay đi! Tâm trí rối bời! Một lúc sau mới dám từ từ quay lại nhìn. Không khỏi giật mình lần nữa! Vì đó không phải là ảo ảnh, mà là Lê Hoàn bằng xương bằng thịt đang bước theo những bậc tam cấp tiến dần về phía ta. Chỉ có điều không còn khuôn mặt dịu dàng như ban nãy, mà thay vào đó là vẻ hững hờ với ánh mắt sâu lạnh như nước hồ mùa đông. Cứ như thể chỉ trong một sát na mà con người ấy đã kịp thay một chiếc mặt nạ vậy.

    Hay ban nãy ta chính là ta nhầm, chính là ảo ảnh?

    Tại sao Lê Hoàn lại một mình xuất hiện ở đây? Đến tìm ta ư? Có việc gì? Đã bao giờ chúng ta gặp nhau một đối một mà lại ở chốn vắng vẻ, tịch liêu như thế này đâu? Ta nên nói gì? Ta biết nói gì đây? Ta cứ đứng đó với những ý nghĩ rối bời ở trong đầu, nhìn Lê Hoàn đang dần đi tới. Ta có cảm giác như ta là một con chuột nhỏ đã bị một con rắn thôi miên, cứ đứng tê liệt ở đó chờ con rắn độc trườn đến và tiêu diệt vậy..

    Ta chỉ như bừng tỉnh khi thấy Lê Hoàn dừng lại trước mặt ta, khẽ cúi đầu thi lẽ rồi chậm rãi bảo:

    - Thần lên tận đây mời Thái hậu về lại Cung vì có việc rất hệ trọng cần bàn bạc. Thái hậu hãy bảo thị nữ thu dọn đồ đạc rồi trở về luôn thôi!

    Ta buông rơi chiếc gáo dừa trên mặt đất. Một tiếng "cộc" khô khốc vang lên. Nước bắn tung tóe ướt hết cả chân váy.

    - Việc gì vậy? Phải chăng là Toàn Nhi bị làm sao?

    Lê Hoàn đưa mắt nhìn chằm chằm vào chân váy bị ướt một lúc, nhưng cũng không có biểu hiện gì. Chỉ từ tốn bảo:

    - Hoàng Thượng rất khỏe mạnh. Là việc liên quan tới bang giao tế thế. Xin Thái hậu đừng quá lo lắng – Nói rồi quay sang bảo với Lan Nhi, lúc này đã xách một thùng nước tới gần đó tự bao giờ: Nhà ngươi hãy hầu Thái hậu thu dọn đồ đạc. Ta cùng thị vệ sẽ đợi ở dưới chân núi. Hai người hãy mau lên kẻo trời tối.

    Tuy đồ đạc mang lên đây không nhiều, nhưng vì chỉ có một chủ, một tớ lại đang lo lắng nên chúng ta cứ luống cuống như gà mắc tóc. Rốt cục một lúc lâu sau mới sắp xếp xong xuôi.

    Ngày tháng Bảy ngắn chẳng tày gang. Đến khi ta và Lan Nhi xuống đến chân núi nơi Lê Hoàn cùng một chiếc xe ngựa nhỏ đang đứng đợi thì trời đã nhá nhem tối.

    Xếp sắp xong xuôi, Lê Hoàn đi ngựa phía trước, hai thị vệ triều đình đánh xe theo sau, cứ thế đi thẳng một mạch tới Ngự điện.

    Xuống xe đi vào trong, thấy đèn đuốc sáng trưng, có Tâm phúc tướng Phạm Cự Lượng, Từ Mục Tướng quân, Đinh Thừa Chính, và Khuông Việt đại sư đang chờ sẵn.

    Sau khi thi lễ thỉnh an xong xuôi, Tâm Phúc Tướng quân Phạm Cự Lượng đưa mắt nhìn Phó Vương Lê Hoàn như thể tìm kiếm sự đồng thuận, sau đó mới kính cẩn trình bày:

    - Bẩm thái hậu, vừa nãy có quân lính ở Châu Lạng đưa thư hỏa tốc về báo, hiện quân Tống đang triệu tập tướng lĩnh, chuẩn bị lực lượng để xâm lược Đại Cồ Việt. Dự kiến chỉ chừng một, hai tháng nữa là phát binh. Vì vậy chúng thần phải vời người về gấp để bàn đối sách là như vậy.

    Ta cầm thư từ Châu Lạng gửi về lên đọc, đọc từng câu từng chữ mà đọc đến đâu như rụng rời cả chân tay tới đó. Mồ hôi toát ra lạnh ớn khắp người. Rồi có cảm giác như tất cả những sợ tóc ở trên đầu đều dựng đứng cả lên vậy. Nghe tin họ Đinh bị ám sát, rồi tin Ngô Nhật Khánh Phò mã dẫn một ngàn chiến thuyền Chiêm Thành tiến về Đại Cồ Việt cũng không làm ta kinh hoàng đến thế. Bởi đây là giặc phương Bắc! Là bè lũ nhà Tống!

    Giặc phương Bắc đã ngót ngàn ngăm đô hộ Đại Cồ Việt. Vừa mấy chục năm qua, nhờ Ngô Tiên Đế giết Kiều Công Tiễn mà dựng nên nền độc lập dân tộc. Lại thêm bao nhiêu năm cát cứ phân tranh, giờ đất nước mới bình yên thì chúng lại rình rập nơi bờ cõi. Nếu không có chiến lược kháng chiến phù hợp, đất nước lại rơi vào tay chúng, thì Hoa Lư này sẽ bị giày nát dưới gót quân thù. Rồi cảnh nô lệ, lầm than, cơ cực! Chao ơi!

    - Sau khi Đinh Tiên Đế cùng Nam Việt Vương qua đời, sứ thần phương Bắc vội vã xin trở về nước thì ra chính là vì việc này. Chính ta đã phê duyệt tấu chương đó.. - Ta chỉ nói được có thế rồi bỏ lửng câu nói.

    Tâm Phúc Tướng quân thấy vậy lại lên tiếng:

    - Thưa Thái hậu, sau khi Ngô Tiên Đế giành lại độc lập, nước Nam ta chính là một cái gai trong mắt nhà Tống vậy. Nhưng vì thời gian qua nội bộ nhà Tống cũng có nhiều lục đục nên tạm thời chưa thể làm gì được. Tới nay tình hình đã bình ổn trở lại, lại thấy nước ta Đinh Tiên Đế cùng con trai lớn đã băng hà, con trai nhỏ lên nối ngôi còn thơ dại, các đại thần thì tạo phản. Vì thế sớm muộn cũng sẽ tìm cách để nhổ cái gai trong mắt họ, trở lại đô hộ nước ta. Mọi việc chính là thế thời. Chúng ta chỉ còn cách là đánh tan cuộc xâm lược của chúng mới mong được hưởng thái bình về sau.

    - Đúng vậy! Đúng là chỉ còn cách đó. Và việc này cũng chỉ có thể trông cậy vào các ngài đây thôi! Nội trong đêm nay các ngài hãy thông báo tới văn, võ bá quan trong Triều đình cũng như tướng lĩnh ba quân, đồng thời triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại Ngự điện vào sáng sớm mai. Phần ta sẽ cho gấp rút soạn Thánh chỉ, sáng mai thiết triều sẽ chính thức phong Tâm phúc Tướng quân làm Đại tướng để trực tiếp hỗ trợ Phó Vương chỉ huy kháng chiến. Rồi các ngài hãy giữa Ngự điện mà chọn lấy những tướng giỏi binh tài để chuẩn bị lực lượng đi thôi! Con dân Đại Cồ Việt đều trông cậy hết vào các ngài!

    Tâm phúc Tướng quân đưa mắt nhìn Lê Hoàn. Hai người nhìn nhau trong giây lát rồi cùng nói "Tuân lệnh". Sau đó tất cả cùng khấu đầu xin phép cáo lui.

    Họ Đinh vừa mới mất chưa đầy chín tháng. Giỗ đầu còn hơn ba tháng nữa mới tới. Vậy mà đất nước đã xảy ra không biết bao nhiêu là chuyện. Thế mới thấy họ Đinh, Nam Việt Vương cùng bốn vị đại thần, họ chính là giường cột của nước nhà. Họ đã gánh cho đất nước bao tai ương. Giờ họ đi rồi thì quả nhiên sóng gió ập tới. Mà Toàn Nhi thì còn nhỏ bé quá. Ta lại là đàn bà. Sóng to gió lớn thế này làm sao ta gánh vác được đây?

    Nằm mãi với những ý nghĩ ngổn ngang không thể nào giải đáp nổi ấy, ta không thể nào chợp mắt. Vừa trở dậy với lấy chiếc áo choàng khoác lên vai định đi ra ngoài thì nghe tiếng Lan Nhi ở phía sau:

    - Thái hậu định đi đâu vậy? Không ngủ được hay sao?

    - Ừ, nằm mãi mà không ngủ được, ta định ra ngoài đi dạo cho dễ chịu thôi. Em cứ ngủ tiếp đi.

    Nàng ta không thèm để ý đến câu nói đó, cũng ngồi dậy bên giường, với lấy chiếc áo choàng khoác lên người rồi đi theo ta. Lúc đó nàng ta mới chậm dãi bảo:

    - Em cũng không ngủ được. Nào ta cùng đi thôi!

    Hai người lặng lẽ bước ra ngoài cửa thật nhẹ nhàng để các thị nữ ngủ ở nhà ngoài không bị tỉnh giấc. Đẩy cửa bước ra hiên. Một không gian bát ngát ánh trăng ùa vào người mát lạnh. Hôm nay là tối Mười tám rồi thì phải. Trăng sáng trong thật là đẹp quá! Gặp lại trăng như gặp lại người bạn thân cũ đã lâu rồi không gặp vậy!

    Thế mà cũng đã bao lâu rồi ta không có tâm trí và thời gian để mà ngắm trăng? Bận bịu hết việc nọ tới việc kia, ngay cả nghĩ tới trăng cũng chả có thời gian nữa chưa biết chừng.

    Một chủ một tớ cứ thế bước nhẹ nhàng trên lối đi ra vườn. Xung quanh cành cây, kẽ lá đều sóng sánh ánh trăng. Chợt ta này ra một ý định. Ý định ấy quá phấn khích khiến ta dừng sững lại. Lan Nhi một tẹo nữa thì đâm sầm vào ta. Nàng hoảng hốt:

    - Sao thế Thái hậu?

    - Không sao cả! Ta chợt muốn đi ra lầu Vọng Nguyệt chơi. Giờ ngoài đó vẫn còn hoa sen đấy!

    - Nhưng bây giờ đi gọi xe và thị vệ có sợ muộn quá rồi không? Giờ cũng là cuối canh hai rồi đấy Thái hậu.. Mọi người đã ngủ lâu rồi?

    - Chúng ta hãy đi bộ ra chứ. Chỉ còn một đêm nay để mà thư thả ngắm trăng thôi. Từ mai còn có thể như thế được không? Rồi đây giặc giã đến, đầu rơi máu chảy, chẳng biết ai còn ai mất. Em còn sợ cái gì?

    Nàng ta không trả lời. Thế là hai người quay gót đi ra phía cổng cung Cồ Quốc. Hai người lính gác cổng đang đứng như tượng đá hai bên thấy bóng người đi tới thì giật thột. Tuy biết là người ở trong Cung đi ra vẫn hết sức thủ thế, thanh mác sắc nhọn cầm lăm lăm trên tay. Đến khi Lan Nhi khẽ bảo là "Là Thái hậu!" thì như bừng tỉnh, vội vàng quỳ thụp xuống. Ta liền xua tay nói:

    - Hai ngươi hãy đứng dậy đi rồi mau mở cửa, chúng ta muốn ra ngoài đi dạo!

    - Thưa Thái hậu đêm đã khuya rồi lại không có người hộ giá người không nên ra khỏi Cung. Để bọn thần đi gọi xe và thị vệ cho người chứ!

    - Thành lúc nào cũng được canh phòng nghiêm ngặt, lại luôn có thị vệ đi tuần thì sợ gì nữa chứ! Đã khuya rồi nên hai người đừng để Thái hậu phải nhiều lời nữa.

    Lan Nhi nói với hai người, giọng nhỏ nhưng hết sức cương quyết.

    Họ có vẻ biết thân biết phận, lui lại và nhẹ nhàng mở cửa. Cánh cửa mở ra làm hai người lính canh gác ở bên ngoài cũng không khỏi giật mình. Họ trao đổi thì thầm với nhau trong lúc chúng ta đi qua cổng. Đi một đoạn thì một người chạy với theo, đưa cho chúng ta một chiếc đèn lồng và bảo:

    - Thái hậu và cô nương hãy mang theo chiếc đèn lồng này cho tiện đi lại. Lính tuần nhìn thấy từ xa nghĩ là người đi lại đàng hoàng sẽ không quát nạt. Chứ đêm hôm khuya khoắt mà hai người cứ lặng lẽ đi thì sẽ bị nghi là đang định lén lút làm gì mờ ám. Tới lúc lại gần thấy ra là Thái hậu thì đã đắc tội mất rồi.

    Lan Nhi liền đón lấy chiếc đèn lồng, cảm ơn chàng trai tốt bụng rồi chúng ta lại lặng lẽ đi.

    Không muốn làm buồn lòng hai chàng trai trẻ tốt bụng vừa đưa đèn cho chúng ta, đi được một đoạn xa xa, chừng đã khuất tầm mắt của họ thì ta bảo Lan Nhi ta tắt đèn lồng đi, vì trăng càng về khuya càng sáng đẹp quá mà cầm đèn lồng thì làm sao còn nhìn thấy ánh trăng nữa.

    May mà dọc dường không gặp đội lính tuần tra nào, không thì lại làm phiền đến họ.

    Đi một hồi thì con đường mòn men theo triền núi đá đã hiện ra ngút ngát dưới ánh trăng. Ban ngày đi qua con đường này tuy có treo leo, khúc khuỷu nhưng cũng không có gì là đáng sợ. Thế mà trong đêm, dưới ánh trăng sáng nó mang một vẻ huyền bí, ma mị đến ngạt thở. Ai biết bên cạnh những mỏm đá nhấp nhô hai bên đường đang dấu diếm điều gì? Một con rắn độc? Những con rết hay là nhện độc? Nhưng thây kệ! Chúng ta cứ nhìn thẳng con đường mà đi tới.

    Chẳng mấy chốc lầu Vọng Nguyệt đã hiện ra trước mặt. Những núi đá sắc nhọn bao quanh hồ như tạc lên bầu trời. Những tán cây rủ rỉ bên hồ. Mái ngói lầu cong vút. Và những bông hoa sen nở muộn chen chúc với lá sen hãy còn dày đặc ở dưới hồ. Tất cả đều hiện ra rõ mồn một dưới ánh trăng. Bát ngát. Lồng lộng. Gió từ dưới hồ đưa tới mát rượi, thơm ngào ngạt hương sen.

    Khung cảnh tươi đẹp quá khiến người ta như ngừng thở. Và trong một khoảnh khắc, con người chợt thấy mình sao mà nhỏ bé và phù du trước vũ trụ bao la. À thì ra bao tháng ngày qua chúng ta mải mốt với những tranh đoạt hơn thua trong khi vũ trụ, đất trời thì vẫn ngạo nghễ như thế. Đất trời, vũ trụ cười nhạo chúng ta. Một ngàn năm trước cảnh sắc này vẫn vậy, vẫn bày ra lồng lộng dưới ánh trăng. Một ngàn năm sau cũng vẫn thế. Chỉ có chúng ta rồi sẽ như họ Đinh, như Nam Việt Vương, như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, như Phạm Hạp, Lưu Cơ, như Phất Kim, như Ngô Nhật Khánh, như Đan Gia Hoàng hậu.. cứ thế lần lượt ra đi. Tất cả sẽ không còn một dấu vết gì. Tất cả sẽ tan giữa thinh không như những bụi trăng này!

    Thế mà bao lâu nay chúng ta quay cuồng vội vã quá!

    - Đi thôi Thái hậu!

    Lan Nhi thấy ta đứng ngẩn ra trên con đường nhỏ thì cất lời giục giã, vừa giục vừa không ngừng lo lắng nhìn vào những mỏm đá xung quanh. Có lẽ nàng ta hơi sợ. Cứ đứng nhìn mãi vào những tảng đá đen sì ấy thì hơi sợ thật. Những bóng đen hắt về một bên của chúng do ánh trăng tạo nên nhìn một lúc thì dường như chuyển động.

    Thế là chúng ta lại bước tiếp.

    Nhưng đúng khi đó có tiêng sáo nhè nhẹ vang lên từ dưới hồ.

    Người ta như đông cứng lại. Phải vịn vội vào cánh tay lan Nhi mới có thể đứng vững.

    Đó chính là tiếng sao của Lê Hoàn. Tiếng sao của Phó Vương Lê Hoàn.

    Tuy tiếng sáo có lẫn những âm điệu là lùng với những tiếu tấu mới mẻ, nhưng nó vẫn chất chứa những sắc màu, những giai điệu thân quen. Như tiếng sáo ta đã nghe những đêm trăng nào trên sông Cầu Chày.

    Đứng ở trên này chỉ nhìn thấy mái ngói của lầu Vọng Nguyệt hiện ra lấp lánh dưới ánh trăng. Không thể nhìn thấy người. Nhưng ta có thể hình dung ra hình dáng của người ấy lúc chăm chú thổi sáo. Những đường nét rắn rỏi của cơ thể. Khuôn mặt tập trung tới mức nghiêm nghị. Sống mũi cao thẳng như tạc. Những hình ảnh ấy hiện lên sống động tới nỗi ta cảm thấy như nghẹt thở, không thốt nên lời.

    Lan Nhi đứng cạnh buông một tiếng thở dài.

    Nhưng không! Đó là hình ảnh của Lê Hoàn ngày xưa. Của Lê Hoàn năm nào thổi sáo cho ta nghe bên sông Cầu Chày. Còn Phó Vương Lê Hoàn ngày nay, với áo bào nhung đỏ thêu chỉ vàng, ngồi thổi sáo trên lầu Vọng Nguyệt. Ta nào đâu biết. Ta chợt thấy hiện lên trong tâm trí mình ánh mắt sâu lạnh như nước, cùng sắc mặt không ai có thể đoán định. Đôi mắt đó trên khuôn mặt đó, dưới ánh trăng vằng vặc như thế này ta đâu hề biết. Ta không hề biết.

    Nghĩ thế quay sang Lan Nhi khẽ bảo "Về thôi, kẻo Phó Vương trở lên mà thấy chúng ta ở đây thì không biết làm sao nữa". Thế là hai người lại quay trở lại.

    Đường về như xa và gập ghềnh hơn.

    Hình ảnh con người ấy với áo bào đỏ bay phấp phới dưới ánh trăng cứ ẩn hiện trong đầu ta.

    Một ý nghĩ cũng theo đó mà chập chờn, ẩn hiện..

    Sáng hôm sau tất cả quan lại triều đình cùng tất cả các tướng lĩnh chỉ huy quân đội đều được triệu tập, đứng kín cả sân Ngự điện. Phó Vương Lê Hoàn thay mặt triều đình thông báo rõ nội dung tấu trình của quan trấn thủ Châu Lạng, tuyên bố đất nước vào tình trạng khẩn cấp, ra chỉ thị tới các địa phương thực hiện điểm đinh tuyển lính, thu gom lương thực, gấp rút chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Tiếp đó đọc Thánh chỉ phong Tâm phúc Tương quân Phạm Cự Lượng làm Đại tướng cùng Phó Vương Lê hoàn lãnh đạo ba quân kháng chiến.

    Xong xuôi lại chọn lấy các tướng giỏi giao cho nhiệm vụ chỉnh đốn quân lính cũ, tuyển lựa và rèn luyện lính mới, chờ ngày phát binh.

    Cả sân Ngự điện hừng hực khí thế. Ai nhận nhiệm vụ cũng dõng dạc tuyên thệ, thề đem máu xương của mình để giữ gìn nền độc lập của Đại Cồ Việt. Nghe mà háo hức, mà ấm lòng.

    Người Việt ta xưa nay vẫn thế. Khi giặc giã đến nhà thì già trẻ, gái trai như một, cùng một lòng đoàn kết đánh đuổi quân thù.

    Mọi việc xong xuôi thì bỗng nhiên Đại tướng quân Phạm Cự Lượng cùng các tướng Phùng Phường, Đào Trực, Hoàng Vĩnh Chu, Đào Công Mỹ, Phạm Quảng, Đào Thành, Phạm Minh và một số tướng lĩnh nữa nhất loạt tiến lên phía trước, quỳ xuống mà tâu rằng:

    - Hiện nay giặc Tống đã lâm le ngoài bờ cõi, thế giặc như nước vỡ bờ. Cuộc kháng chiến lần này của nhân dân Đại Cồ Việt đối với các tướng sỹ mà nói chính là một mất, một còn. Vậy mà Hoàng Thượng thì còn nhỏ tuổi, thơ dại, lấy ai là người ghi công, luận tội quần thần. Thêm nữa Hoàng Thượng cũng không thể cùng tướng sỹ sống chết ngoài xa trường, vì vậy khó mà an ổn, thu phục được lòng người. Vì vậy, chi bằng hãy tôn Phó Vương lên làm Thiên tử để trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến cùng ba quân thì hơn.

    Đại tướng Phạm Cự Lượng vừa dứt lời thì tất cả các quan lại, tướng lĩnh và binh sỹ có mặt ở sân Ngự điện nhất loạt quỳ xuống hô vang:

    - Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

    Ta đưa mắt nhìn sang Lê Hoàn, vẫn thấy đứng yên, trên mặt không có biểu hiện gì. Không ngờ tình thế là xoay chuyển nhanh thế này. Nhưng đó cũng chính là cái ý nghĩ đã lởn vởn trong đầu ta tối hôm qua, khi đứng trên con đường nhỏ dẫn ra lầu Vọng Nguyệt: Chỉ có con người ấy, chỉ có cái oai nghiêm của con người đang khoác bào đỏ ngồi nơi đó mới có thể trùm phủ hết bờ cõi và nhân tâm nơi này. Nhưng lúc ấy ta đã không dám nghĩ thêm nữa, chỉ sợ gặp phải những ý kiến phản đối của quan lại triều đình.

    Giờ nhìn sân Ngự điện cả ngàn người đã quỳ rập xuống, thì không còn có cớ gì để chần chừa nữa. Ta bèn quay sang bảo Lý Công Công:

    - Hãy lấy ngay cho ta một chiếc Hoàng bào ra đây.

    Rồi quay sang bảo tất cả các quan quân đang quỳ rạp ở đó bảo:

    - Các khanh hãy đứng dậy cả đi! Phạm Đại tướng quân nói hoàn toàn hợp lòng người. Cuộc chiến này, nước Đại Cồ Việt mất hay còn, Hoa Lư này bị giầy xéo hay được bảo toàn, muôn dân lầm than nô lệ hay vẫn có thể được muôn đời hưởng thái bình, tất cả chỉ có thể trông cậy vào Phó Vương. Nay tất cả triều đình cùng tướng lĩnh đã muôn lòng như một thì ta không còn mong gì hơn nữa.

    Liền đó đỡ lấy chiếc Hoàng bào từ tay Lý Công công tiến tới trước mặt Lê Hoàn.

    - Thuận teo ý trời, lòng dân, xin ngài Phó Vương hãy lên ngôi Hoàng Đế, từ nay gánh vác trọng trách lãnh đạo cuộc kháng chiến trống Tống, đem lại hòa bình cho Đại Cồ Việt.

    Dứt lời mà Lê Hoàn vẫn đứng yên không nhúc nhích. Ta bối rối chưa biết làm sao thì Đại Tướng quân Phạm Cự Lượng cất lời bảo:

    - Khoác Hoàng bào này trên người phải không phải là vì vinh hoa, phú quý, mà chính là phải gánh vác trên vai sinh mạng của hàng vạn người dân Đại Cồ Việt vậy. Xin Phó Vương đừng chần chừ nữa.

    Lúc đó Lê Hoàn mới nhúc nhích tiến về phía trước. Ta khoác Hoàng bào lên vai Lê Hoàn.

    Vừa xong thì tất cả quan lại và tướng quân đều cúi rạp cả xuống mà hô vang:

    - Hoàng thượng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

    Ta lùi lại phía ghế Ngự đặt giữa sân Điện, dắt tay Toàn Nhi đi xuống, rồi hai mẹ con cùng quỳ xuống với các quần thần.

    Sau ngày đăng quang, Lê Hoàn liền ban Thánh chỉ, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm thứ Nhất. Giáng phong Toàn Nhi làm Vệ Vương. Tiếp đó ngày đêm cùng các tướng lĩnh bàn bạc việc tuyển mộ binh lính, thu gom lương thảo, xây dựng nhiều chiến lũy. Lại cho cắm cọc trên sông Bạch Đằng, bài binh bố trận khắp nơi để chờ quân địch tới.

    Về phần Toàn Nhi, sau khi nhường ngôi thì hai mẹ con thấy bội phần thư thả. Cũng mất một vài hôm để giải thích cho Toàn Nhi hiểu từ nay nó sẽ không còn là Hoàng Đế nữa và đất nước đang đứng trước thử thách to lớn nhất từ khi lập quốc tới nay, nếu không vượt qua được thử thách này rồi đây chúng ta chưa biết sẽ phải phơi xác nơi đâu hay phải làm nô lên dưới chân quân thù như thế nào. Toàn Nhi chỉ lo sợ quân giặc tràn về Hoa Lư, còn lại làm Hoàng Đế hay không với Toàn Nhi thực sự không có ý nghĩa gì nhiều. Chỉ cần nghĩ rằng từ nay không phải ngồi bó gối ở Ngự điện mỗi khi thiết triều hay ngồi quanh quẩn ở Ngự thư phòng nữa là vui rồi.

    Con ta còn quá nhỏ để hiểu mọi chuyện. Nhưng thực ra như vậy chẳng phải tốt hơn sao?

    Tháng Tám, nghe tin từ triều đình đưa ra, quân Tống gửi chiếu sang tuyên chiến. Trong thư nói nếu chúng ta chịu ra hàng thì sẽ được tha, còn không thì sẽ bị trừng trị nghiêm minh.

    Mấy bữa sau đó Thái sư Hồng Hiến – vốn trước kia là quân sư tâm phúc dưới trướng của Lê Hoàn, nay đã được thụ phong Thái sư, đích thân tới cung Cồ Quốc xin vào gặp ta, rồi trình bày muốn xin bút tích của Toàn Nhi để gửi cho nhà Tống điều đình, hòng có thêm thời gian cho quân Đại Cồ Việt chuẩn bị lực lượng. Có lẽ lúc này nhà Tống vẫn chưa biết là Toàn Nhi đã nhường ngôi cho Lê Hoàn. Thái sư Hồng Hiến cũng mang theo chỉ dụ của Lê Hoàn nói rõ, đầu tháng Mười quân Đại Cồ Việt sẽ phát binh. Khi đó việc trông coi mọi sự ở triều đình, các công việc hàng ngày ở trong nước lại phải nhờ đến Vệ Vương và Dương Nương nương lo liệu. Ta nhận lời rồi bảo, việc gì mẹ con ta giúp được thì chúng ta sẵn sàng, chỉ tiếc là không ra trận được cùng các tướng sĩ mà thôi.

    Đúng như dự định, tháng Mười Lê Hoàn cho quân đội tiến về vùng biên giới và cửa bể để chủ động nghênh chiến khi quân địch tiến đến, một mặt vẫn tiếp tục xây dựng các phòng tuyến và phát triển lực lượng.

    Thời gian này có nhận được thư của nhà Tống đòi ta và Toàn Nhi phải sang Tống quy phục. Nhưng cũng không ai quan tâm nữa, vì lực lượng quân Đại Cồ Việt đã được chuẩn bị về cơ bản rồi.

    Ngày Mười sáu tháng Chạp năm Thuận Thiên thứ Nhất, quân thủy của nhà Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy ồ ạt tiến vào sông Bạch Đằng. Vì quân giặc đông và vẫn còn khỏe, thế địch như chẻ tre nên quân ta đã bị thua nặng. Lê Hoàn phải rút về vùng Xạ Sơn, Hải Dương để củng cố lại lực lượng, một mặt viết thư trá hàng để kéo dài thời gian.

    Năm ngày sau, nhằm ngày Hai mươi tháng Chạp, lục quân Tống do Tôn Toàn Hưng chỉ huy đã tiến vào và đánh chiếm được Hoa Bộ.

    Tin quân Tống chiếm được sông Bạch Đằng và Hoa Bộ còn quân Đại Cồ Việt bị thương vong nhiều liên tiếp đưa về Hoa Lư khiến ai ai cũng như ngồi trên đống lửa. Lực lượng cấm vệ quân triều đình ở lại kinh thành đã ít, nay càng phải tăng cường canh gác đề phòng trường hợp xấu nhất.

    Ngày mồng Một và mồng Hai Tết, năm Thuận Thiên thứ Hai, liên tiếp có tin đưa về quân Đại Cồ Việt đã thắng trận đầu tiên ở sông Lục Đầu, tiêu diệt nhiều quân địch. Giặc Tống vốn định tiến về Lục Đầu để đánh chiếm Đại La, rồi tư đây làm bàn đạp tiến đánh Hoa Lư. Nghe ngóng được hướng tiến công của địch, Lê Hoàn đã đích thân cùng với Trần Công Tích, Trần Bảo Trung và Trần Minh Khiết chỉ huy trận đánh. Lại thêm có trận tuyến cọc ngầm được bố trí dưới sông từ trước, nên thuyền bè của quân địch bị tiêu diệt hàng ngàn. Quân Tống đành lui về cố thủ ở Bạch Đằng.

    Qua tháng Ba năm Thuận Thiên thứ Hai, nhờ có tiếp viện, quân Tống lại mở một đợt tiến công mới do Trần Khâm Tộ chỉ huy và chiếm được Tây Kết. Thành Tây Kết chỉ cách Đại La chừng tám trăm dặm, nên nghe tin ấy người ở Hoa Lư lại thêm một lần nữa như ngồi trên đống lửa. Các phương án di tản người khỏi kinh thành và kháng chiến chống Tống đã được tính đến.

    May sao chỉ ít lâu sau đã nghe tin báo về, quân địch do Hầu Nhân Bảo chỉ huy đã bị tiêu diệt phần lớn trong trận đánh ở phòng tuyến Bình Lỗ bên chân núi Sóc. Hầu Nhân Bảo dùng lực lượng còn lại lùi về sông Bạch Đằng cố thủ chờ tiếp viện. Tại đây Lê Hoàn đã cho bài binh bố trận quyết đánh trận tổng lực cuối cùng. Ban đầu quân Đại Cồ Việt giả thua tháo chạy, quân Tống bèn đuổi theo, không ngờ rơi vào trận địa mai phục, trận địa cọc ngầm của quân Đại Cồ Việt. Hầu Nhân Bảo bị tiêu diệt, quân Tống bị đánh tan. Nghe tin Hầu Nhân Bảo chết, Tôn Toàn Hưng dẫn quân bỏ chạy. Đạo quân Trần Khâm Tộ ở Tây Kết cũng bị tiêu diệt quá nửa. May mà Trần Khâm Tộ vẫn bảo toàn được tính mạng, chạy về được tới Phương Bắc.

    Vậy là đất nước sạch bóng quân thù!

    Nhờ thắng lợi này mà nhiều năm sau đó, quân Tống không dám trở lại nước ta. Đồng thời phải thừa nhận Đại Cồ Việt là một quốc gia độc lập và thiết lập quan hệ bang giao trở lại với nước ta một vài năm sau đó.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  3. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXII. TRỞ LẠI QUÊ NHÀ

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Giữa tháng Ba, tin đoàn quân chiến thắng do Lê Hoàn dẫn đầu trở về đưa đến Kinh thành làm cho người ở Hoa Lưu vui như mở hội. Còn nghe tin đoàn quân chiến thắng về đến đâu cũng được người dân tiến ra hai bên đường chào đón. Bầy tôi dâng tôn hiệu cho Lê Hoàn là "Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế". Đi đến đâu muôn dân ở đó cũng cứ theo đó mà nhất nhất hô vang.

    Nhiều người thân của các tướng lĩnh, binh sỹ còn dắt díu nhau đi mấy ngày đường để đón đoàn quân chiến thắng trở về.

    Còn ta, vui mừng vì bọn giặc phương Bắc đã bị đập tan là việc đương nhiên, nhưng bản thân không tránh khỏi khó xử. Mỗi ngày nghe tin đoàn quân chiến thắng trở về một gần mà càng bứt rứt, khó ở. Lê Hoàn đã về. Hoàng Đế mới của nước Đại Cồ Việt đã về. Vậy ta ở đây với danh phận gì? Dòng họ Lê đã đến ngày danh chính ngôn thuận lên trị vì đất nước, lại được ủng hộ của người dân Đại Cồ Việt như thế thì ta, người vợ góa của dòng họ Đinh còn ở lại đây làm gì?

    Đang ngày đêm băn khoăn chưa biết xử trí ra sao thì chợt nhớ ra tháng Ba cũng chính là Giỗ đầu của Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu. Từ khi hai người mất tới nay, biết bao nhiêu chuyện xảy ra, ta chưa về để tang được. Nhân thời điểm này cũng cần phải về một chuyến. Thế là ta cùng Toàn Nhi, Lan Nhi và vài người hậu kẻ hạ thân cận vội vã chuẩn bị xe ngựa trở về Đạo Ái.

    Bao sóng gió đã đi qua, cuối cùng cũng đã có thể trở về Đông Lỗ, chỉ tiếc rằng Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu đều đã không còn. Ta lại một mình trơ trọi. May mà còn có Toàn Nhi và Lan Nhi.

    Tổ chức giỗ chạp chu tất cho Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu xong xuôi, ta bèn biên một thư tấu trình rằng, trang Đông Lỗ giờ không còn ai trông nom, Nghĩa mẫu và Nghĩa phụ đã không còn, ta thì mẹ góa con côi không nơi nương tựa, nên cúi xin Hoàng Đế Đại Cồ Việt cho hai mẹ con ta được ở lại quê hương bản quán, sớm tối quây quần bên nhau.

    Xét cho cùng thì ta và Toàn Nhi đâu còn lý do gì để ở lại Hoa Lư. Giang sơn giờ đã là của họ Lê, những người họ Đinh ở lại Hoa Lư để làm gì? Một bà vợ góa của ông vua đã chết thì có danh phận gì ở Kinh thành nữa mà trở lại. Tuy Toàn Nhi vẫn là Vệ Vương đấy, nhưng thiết nghĩ đó chẳng qua cũng chỉ là cái tước vị hữu danh vô thực cuối cùng của một ông vua đã nhường ngôi cho người khác mà thôi. Ở lại nơi này vui vầy sớm tối có phải là vui hơn không? Chỉ tiếc là Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu đã không còn ở đây nữa mà thôi.

    Nửa tháng sau thì nhận được Thánh chỉ gửi tới phê chuẩn việc cho ta ở lại quê hương bản quán. Với Toàn Nhi thì Thánh chỉ nói rõ, Vệ Vương vẫn sẽ được hưởng những bổng lộc theo quy định của triều đình đối với tước Vương. Hiện thời còn nhỏ thì có thể ở lại quê nhà cùng Dương Nương nương, nhưng tới khi trưởng thành cần trở lại Hoa Lư cùng Hoàng Thượng và các vị đại thần trị vì đất nước.

    Nhưng đó là chuyện của lúc trưởng thành. Ta cũng chẳng quan tâm tới. Bởi đến khi Toàn Nhi trưởng thành, chắc người ở Hoa Lư đã lãng quên mẹ con chúng ta rồi.

    Thế là hai mẹ con ta cùng Lan Nhi sớm tối quây quần bên nhau ở trang Đông Lỗ.

    Cứ ngỡ rằng sẽ bình yên như thế mà đi đến hết cuộc đời. Nhưng rồi rốt cuộc, mình tính toán sao lại với trời?

    Về Đông Lỗ được chừng hai tháng thì mọi sinh hoạt đi vào quy củ.

    Hàng ngày, sáng ra Toàn Nhi sẽ sang Võ đường học võ và học chữ rồi tối trở về nhà. Bình thường các môn sinh ở Dương Xá phải ở nội trú, rồi ăn ở, sinh hoạt, tham gia lao động sản xuất tại Võ đường. Nhưng vì Trang ở ngay cạnh Võ đường, lại thêm thấy ta giờ cũng chỉ còn vò võ một mình nên Trưởng tràng Dương Nhị Thuần muốn tạo điều kiện để Toàn Nhi trở về trang vào buổi tối cho ta đỡ cô quạnh.

    Dương Nhị Thuần chính là cháu họ ta, là cháu nội của nhị thúc Dương Nhị Kha, nhị thúc của Nghĩa phụ ta, nên mọi việc hết sức dễ dàng.

    Năm xưa khi ta rời Đông Lỗ, Nhị Thuần mới chỉ chừng mười, mười một tuổi và cũng không mấy hứng thú với võ biền, còn tưởng rằng sẽ không có ai nối dõi họ Dương làm chủ võ đường Dương Xá, thế mà không ngờ giờ đây trở lại đã trở thành một chàng trai giỏi giang, tuấn tú, lại là Trưởng tràng của Võ đường rồi.

    Chiến tranh chống Tống vừa rồi Nhị Thuần và nhiều thanh niên ở Võ đường có tham gia tòng lính, viết tiếp những trang sử hào hùng của Võ đường từ thời tổ phụ Dương Đình Nghệ: Bất cứ khi nào có chiến tranh, có xâm lược, những người ở Võ đường sẵn sàng lên đường vì chính nghĩa, vì độc lập dân tộc. Đến khi chiến tranh kết thúc đã xin về quê hương bản quán để lãnh đạo Võ đường.

    Toàn Nhi đi học rồi, ta và Lan Nhi ở nhà hết sức nhàn nhã, thảnh thơi. Sáng dậy sớm uống trà. Ban ngày, khi thì trồng rau, trồng hoa, trồng ngô, trồng cà, khi thì thả cá, nuôi gà. Tối thì hóng trăng thanh, gió mát. Cuộc sống hết sức bình yên tự tại.

    Thế nên một buổi, sau khi cơm trưa xong, khi Lan Nhi chợt nảy ra ý kiến vào Thành Tư Phố chơi ta đã không mấy mặn mà, bèn bảo nàng:

    - Em muốn đi thì sai người ở trong Trang đánh xe đưa em đi. Ta không có hứng thú lắm. Ta giờ đây chả còn hứng thú với cái gì nữa hết. Em đi rồi ta lên giường ngủ một giấc chờ cơm tiêu rồi chiều đi dạo ngoài vườn là thích nhất.

    - Thì em cũng muốn bon chen làm gì đâu. Chẳng qua bỗng muốn vào xem hơn chục năm qua Thành có đổi thay như thế nào mà thôi. Nhớ khi xưa hay cùng Phu nhân vào đó mua bán, ngồi trong xe nhìn ra thật là tráng lệ. Bây giờ thì có thể tự do mà đi lại rồi, nên muốn biết thành thay đổi ra sao, có gì vui vẻ hay không?

    - Sao tự nhiên em lại thích vui vẻ thế? Không phải là em muốn lấy chồng rồi đấy chứ?

    Ý tứ đó đột nhiên vụt qua đầu ta, ta không suy nghĩ cho kỹ và cũng chỉ định nói cho vui, vậy mà không ngờ làm nàng ta dỗi, không thèm đi vào Thành nữa và vùng vằng giận ta suốt cả buổi chiều.

    Ngẫm ra thì cũng còn sống ở đây bao năm nữa ai mà biết được? Cũng không thể cứ quanh quẩn trong Trang mãi. Về sau cần thiết thứ gì cũng đều phải vào Thành mới có được. Thế là sáng hôm sau một chủ, một tớ mang theo hai gia nhân khỏe mạnh đánh xe, thúc ngựa rồi chúng ta đi vào thành.

    Mười lăm, mười sáu năm đã trôi qua. Thành quả có nhiều đổi khác. Nhà cửa mọc lên san sát. Dân cư đông đúc và sầm uất hơn. Đèn lồng xanh đỏ giăng ngang khắp phố. Chỗ này bán hàng chỗ kia bán quán. Góc này mùi rượu chỗ kia lại hương bánh. Tiếng rao tiếng mõ, tiếng vó ngựa và tiếng người qua lại rất vui vẻ, rộn ràng. Mọi âm thanh, màu sắc và cả mùi vị hết sức sống động cứ liên hồi ùa tới, đánh thức các giác quan của mình.

    Ngẫm ra ở Hoa Lư, tuy phú quý, giàu sang là vậy, nhưng vì trong thành không có người dân sinh sống, nên chẳng thể có được khung cảnh tươi vui, bình dị và sống động như thế này.

    Vừa khi đó ta nhìn thấy hiệu vải khi xưa Nghĩa mẫu hay đưa chúng ta tới, bèn bảo gia nhân dừng xe để chúng ta vào xem. Vừa hay chúng ta cũng đang cần thêm ít vải vóc để may quần áo mùa hè. Khi từ Kinh thành về, chúng ta đã đi rất gọn nhẹ nên không mang theo nhiều quần áo.

    Tiệm vải vẫn không thay đổi nhiều. Chỉ cơi nới, mở rộng một chút và có thêm nhiều sạp hàng mới. Mới thấy gia tộc tiệm vải đây đúng là gặp thời gặp vận. Bao năm qua vẫn phú quý vững bền.

    Thấy chúng ta đến, một phu nhân trạc ngoài bốn mươi, năm mươi đon đả ra chào mời. Đây chính là người con dâu của ông chủ tiệm vải khi xưa. Chắc giờ đây đã kế thừa cơ ngơi rồi.

    Chủ hàng dắt chúng ta vào bên trong để cho xem vải lụa mùa hè. Lại thấy chúng ta có vẻ là người lạ nên mới hỏi:

    - Quý Phu nhân đây ở đâu sao giờ mới thấy ghé tệ xá đây?

    - Chúng ta ở vùng gần đây, vốn tính không thích ồn ào, mua bán nên bấy lâu là gia nhân đi mua sắm cả, nay mới chợt nổi hứng vậy thôi – Lan Nhi vừa nguýt bà chủ một cái vừa trả lời.

    - Chà ra là vậy! Thể nào tôi đã đứng bán ở đây mấy năm mà không gặp Quý Phu nhân. Hôm nay đã cất công đến đây rồi thì để tôi giới thiệu cho Quý Phu nhân đây một loại lụa mùa hè cực phẩm, do chính tay một thơ dệt, xưa vốn là cung nữ ở cung Ca Ông dệt nên. Cung Ca Ông chính là cung chăm lo phục trang, vải vóc, lụa là cho Triều đình chắc Phu nhân đã biết rồi. Hết tuổi hầu hạ trong Cung, nàng ta được ân điển ra khỏi cung để lấy chồng, rồi về sống ở đây, hành nghề dệt lụa. Loại lụa này vốn chỉ có Hoàng Thượng, Hoàng hậu, Vương gia cùng các quan Đại thần quyền cao chức trọng mới được dùng thôi. Rất đẹp mà lại nhẹ, mùa hè nóng mặc vào người thì mát lạnh ngay! Số lượng ít lắm vì dệt rất khó, thấy Quý Phu nhân đây là người sang trọng nên tôi mới giới thiệu đấy!

    Ta chút nữa thì phì cười vì cái ý nghĩ, giờ đây về quê nhà sinh sống lại phải tranh thủ đi mua cái thứ lụa là vốn chúng ta vẫn dùng thừa mứa ở trong Cung. Mà nghe nói như vậy khéo phải bán cả trang Đông Lỗ đi mới đủ tiền mua được vài súc không biết chừng. Nhưng chưa kịp nói gì thì ở buồng bên đã vang lên một giọng nói mát ra chiều giận dỗi:

    - Vợ Gia Hưng nhà ngươi gớm nhỉ! Có lụa quý mà không giới thiệu với ta! Chắc nhà ngươi cho ta là người phàm phu tục tử nghèo hèn đây mà.

    Bà chủ tiệm vải nghe thấy thế thì giật nảy mình, chẳng kịp nói với chúng ta một câu vội chạy ào sang buồng bên. Chúng ta cũng chỉ kịp nghe vọng lại câu được câu chăng rằng "xin lỗi Lưu Phu nhân.. tiện nữ không có ý đó..", liền đó vẫn là giọng nói ban nãy tiếp tục vang lên đáp trả:

    - Ta đã mua lụa của nhà ngươi bao nhiêu năm, giúp đỡ nhà ngươi những khi làm ăn khó khăn, thất bát, thế mà cũng không bằng một Quý Phu nhân sang trọng mới từ phương xa đến lần đầu hay sao?

    Giờ thì chủ hàng rối rít nói những gì chúng ta không nghe rõ nữa. Nhưng nghe giọng điệu Lưu Phu nhân nọ cố tình nói vọng sang bên này như vậy, áng chừng rằng nàng ta đang chĩa mũi nhọn về phía chúng ta hơn là về phía chủ hàng vải.

    Nghĩ vậy ta liền kéo áo Lan Nhi nói khẽ "về thôi" rồi hai người nhanh chóng đi ra phía cửa.

    Vụ chạm trán với Lưu tiểu thư trong đêm trung thu năm nào chợt lướt qua đầu ta. Cái nơi này thật là kỳ lạ! Không hiểu ta có ân oán gì, mà cả hai lần muốn vui chơi một chút thì đều xảy ra chuyện!

    Ra đến cửa thì thấy một Quan gia ăn mặc sang trọng đang đứng đó gọi với vào bên trong "Phu nhân chúng ta mau về thôi!". Chắc đây là đức lang quân của phu nhân gây sự buồng bên. Ta nghĩ vậy khi đi lướt qua chàng ra phía cửa.

    Đang ngó nghiêng để nhìn xem gia nhân đứng đợi ở hướng nào thì nghe tiếng gọi với lại ở phía sau:

    - Xin hãy dừng chân!

    Quay lại nhìn thì chính là Quan gia ban nãy đang tiến về phía chúng ta. Chàng tiến từng bước một tập tệch, hơi chậm chạm. Có vẻ chàng bị thương tật gì đó ở chân.

    - Đây không phải chính là Dương Nương nương hay sao! Hạ thần thật là hồ đồ quá đi qua mà không nhận ra Nương nương!

    Chúng ta ngỡ ngàng nhìn quan gia đang tiến tới. Ai mà lại có thể nhận ra chúng ta giữa thành Tư Phố heo hút này? Chúng ta đã đi xa Hoa Lư cả ngàn dặm mà vẫn có người biết đến chúng ta được sao?

    Vị Quan gia đó tiến lại gần, kính cẩn cúi đầu thi lễ, sau đó cười rất tươi bảo:

    - Hạ thần chính à Trịnh Hàm, khi xưa từng là bạn đồng môn với Hoàng Thượng và Phạm Đại tướng quân, Nương nương còn nhớ không?

    À, ta đã nhớ ra chàng! Chính là một trong hai huynh đệ thân thiết của Lê Hoàn khi còn ở Võ đường. Cũng chính là người đã giải vây giúp chúng ta trong vụ động độ với Lưu tiểu như nhà Lưu Bao năm nào! Nhưng không ngờ lại gặp chàng ở xứ này! Tưởng rằng chàng đang cùng Lê Hoàn và Phạm Cự Lượng tung hoành ngang dọc rồi chứ?

    Thấy ta ngây người ra như vậy, Trịnh Hàm cười hiền rồi bảo:

    - Chắc Nương nương bất ngờ vì gặp hạ thần ở đây? Năm xưa có cùng Hoàng thượng và Phạm Đại tướng quân theo chân Đinh Tiên Đế bình định thiên hạ. Nhưng rồi bị thương ở chân thành tật, không lên xuống ngựa được nên phải ôm hận trở về quê nhà. Vừa rồi có nghe tiểu tử nói chuyện rằng có học võ cùng một Thiếu gia người bên trang Đông Lỗ, thì đoán ngay ra chính là Vệ Vương. Hạ thần chưa kịp gửi thiệp tới thỉnh an Nương Nương và Vệ Vương thì đã gặp người ở đây rồi!

    Vừa nói tới đó thì một Phu nhân xinh đẹp tuyệt trần với mày ngài, mắt phượng, môi đỏ, má hồng, tóc dài ngang lưng, châm ngọc lấp lánh, váy lụa tha thướt bước ra, theo sau là một nàng hầu và bên cạnh là chủ hàng lụa dáng vẻ xun xoe, khúm núm. Có lẽ chính là Lưu Phu nhân ban nãy vừa cất tiếng.

    Năm sáu cặp mắt đan chéo vào nhau. Một ánh bực bội lướt qua trên gương mặt của Phu nhân xinh đẹp. Nhưng nàng chưa kịp nói gì thì Trịnh Hàm đã tươi cười bảo:

    - Phu nhân hãy mau lại đây thỉnh an Nương nương! Đây chính là Dương Nương nương, nguyên là Hoàng hậu của Đinh Tiên Đế, là mẹ của Vệ Vương đang học cùng tiểu tử nhà ta ở bên Võ đường đấy!

    Nghe đến đó thì màu phớt đỏ trên hai gò má của nàng liền chuyển sang màu tái xanh. Nàng luýnh quýnh cùng thị nữ vội vàng quỳ sụp xuống, miệng ríu rít:

    - Bọn tiện nữ xin thỉnh an Nương nương! Chúc Nương nương vạn thọ vô cương!

    Chủ hàng lụa nghe thấy thế cũng hồn siêu phách lạc thủ phục xuống lắp bắp không thành tiếng.

    - Các người hãy đứng dậy đi, không cần phải đa lễ!

    Ta nói rồi ra hiệu cho Lan Nhi lại đỡ hai nàng dậy. Chủ hàng vải cũng tự lồm cồm đứng lên ở bên cạnh những vẫn không dám ngẩng đầu lên.

    - Ta về đây sống cốt muốn an nhàn ẩn dật, xin các vị đừng quá lễ nghi cung kính kẻo người xung quanh biết được lại gây phiền nhiễu tới đời sống hàng ngày của mẹ con ta!

    Mấy người nghe thế gật đầu xin vâng. Ta nhìn Phu nhân xinh đẹp bên cạnh bảo:

    - Vậy ra đây chính là Phu nhân của Trịnh Khanh gia?

    - Đúng vậy! Lưu Phu nhân và Trịnh Hàm không hẹn mà cùng cất lời. Trịnh Hàm chợt phì cười rồi nói thêm: Nàng ta chính là Lưu Ỷ Ngọc, tiểu thư nhà họ Lưu, khi xưa đã từng chạm trán với Nương nương trong đêm trung thu năm nào đấy! May mà ngày đó không xảy ra việc gì, chứ không thì giờ đây đã đắc tội với Nương nương rồi!

    Mọi việc trong đêm trung thu đó lướt qua đầu ta như một chiếc đèn kéo quân. Lại đưa mắt nhìn Phu nhân xinh đẹp đang lúng túng đứng trước mặt mình giờ đây đã trở thành vợ của Trịnh Hàm thì không khỏi phì cười. Chính là khi đó nàng định cậy quyền cậy thế bắt nạt ta. Mà vừa hồi nãy cũng chính là nàng định gây ghi dễ. Nhẽ nào tính tình con người này bao năm qua không hề thay đổi hay sao? Chạm trán với nhau như vậy, nhẽ nào chúng ta có nợ nần, là oan gia từ khiếp trước? Nghĩ vậy nhưng cũng chỉ khẽ bảo:

    - Có gì mà đắc tội hay không. Chuyện xưa đã là chuyện cũ rồi. Ta chỉ không ngờ giờ đây hai người lại nên vợ nên chồng như vậy. Lúc nào phải kể lại đầu đuôi sự tình cho ta nghe mới được.

    - Nhất định rồi! Hôm nào mời Nương nương ghé qua tệ xá, bọn hạ thần nhất định sẽ đem chuyện kể mua vui cho Nương nương bên chén trà!

    Nói tới đó thì thấy hai vị khách đang dắt díu nhau bước vào tiệm vải. Không muốn gây chú ý với họ, ta vội bảo:

    - Có lẽ chúng ta nên rời đi thôi, khi nào mời hai vị qua trang Đông Lỗ uống chén trà lạt rồi chúng ta tiếp tục hàn huyên nhé!

    Hai người họ biết ý, chỉ khẽ cúi đầu chào trong khi ta cùng Lan Nhi nhanh chóng rời đi.

    Vậy là không mua được vải như đã định. Chúng ta ghé qua tiệm tạp phẩm mua vài thứ hàng linh tinh khác rồi ghé vào hàng bạc mua ít đồ dùng, vật dụng và nhanh chóng ra về.

    Ngồi trên xe suốt dọc đường về, những ký ức thuở trước lại đua nhau trở về trong đầu. Cố xua đi mà một lúc lại ẩn ẩn hiện hiện..

    Chừng nửa tháng sau thì vợ chồng Trịnh Hàm đưa thiệp đến xin gặp mặt. Ta hết sức vui mừng mời hai người tới Trang chơi. Lại sai gia nhân bày cỗ thết đãi, pha trà ngon tiếp chuyện, rồi cùng dạo chơi trong Trang ngắm hoa trái, cây cỏ. Dù sao đã xa quê hương bao năm, nay trở về có người làm bầu làm bạn cũng là một chuyện đáng mừng. Hai người còn mang theo rất nhiều lụa quý để tặng. Ta từ chối mãi không được cũng đành nhận cho hai người vui.

    Thì ra chuyện tình duyên của Lưu Phu nhân và Trịnh Công tử cũng không thiếu điều ly kỳ trắc trở.

    Sau cái lần gặp gỡ trong đêm Trung thu ấy, Trịnh Hàm còn gặp Lưu tiểu thư một lần nữa ở ngoại ô thành Tư Phố. Chính là nàng ta cùng hai thị nữ của mình tự tiện lấy xe ngựa ra vùng ngoại thành chơi. Cũng chỉ định là ra ngoài Thành ngắm cảnh, hóng gió cho thoải mái, không ngờ gặp ngay đám trai làng bất hảo, thấy ba tiểu thư xinh đẹp lại ngồi xe ngựa quý đi qua, bèn dừng lại trêu ghẹo. Không biết chúng định dở trò gì nữa nếu không gặp Trịnh Công tử khi đó đang cưỡi ngựa từ Võ đường trở về thăm gia đình, gặp chuyện bất bình mà ra tay cứu giúp.

    Đúng là oan gia thì hay gặp mặt! Đến lúc nhận ra chính là đã thấy mặt nhau trong đêm Trung thu hôm đó thì không khỏi ngượng ngùng. Nhưng Trịnh Công tử vẫn quyết tâm hộ tống theo xe của các nàng về tận Lưu phủ vì sợ dọc đường đi có chuyện gì bất trắc xảy ra. Sau lần ấy thì Trịnh Công tử không khỏi lắc đầu, nhăn mặt vì cái cô tiểu thư nhà giàu mà hay phách lối và gây phiền hà này. Nhưng nàng Lưu ta thì phải lòng chàng mất rồi. Thế là nàng ta ngày đêm bắt gia nhân canh chừng ở ngoài Trịnh phủ, hễ thấy Trịnh Công tử trở về là lăn vào theo đuổi. Trịnh Công tử càng thêm sợ cái người con gái nhỏ bé mà đã muốn làm gì thì cũng phải "dày mặt" làm cho bằng được này.

    Vừa khi đó thì Công tử Đinh Liễn về Võ đường để mộ binh, thế là Lê Hoàn cùng Phạm Cự Lượng, Trịnh Hàm và nhiều môn sinh nữa ở Dương Xá lên đường.

    Lưu Tiểu thư biết tin chạy theo khóc lóc, thề nguyền sẽ đợi Trịnh Công tử về. Trịnh Công tử nghe thế vừa ái ngại vừa buồn cười. Ái ngại vì đã nhận lời yêu thương gì đâu mà thề bồi hẹn ước, nếu nàng ta đợi thật thì chàng biết sau này xử trí ra sao? Nhưng cũng chính vì thế mà buồn cười, nào đâu đã hứa hẹn gì với nhau đâu mà thề bồi? Rồi sau gặp ai ưng ý, nàng ta theo người ấy, thế không phải là tự mình thề nguyền rồi tự mình bội ước, rất là buồn cười hay sao? Ấy vậy mà Lưu tiểu thư quyết đợi Trịnh Công tử cho bằng được thật. Thời gian sau đó có nhiều nhà gia thế đến xin làm thông gia với họ Lưu mà nàng nhất mực từ chối, chỉ một điều đợi Trịnh Hàm Công tử. Nhà họ Lưu không phải không điên đầu vì nàng, nhưng nàng là con một nên cũng đành chịu.

    Đầu năm Năm Mậu Thìn, ngay trước khi chiến tranh kết thúc, Trịnh Công tử bị thương ở chân không thể tham gia trận mạc được nữa, phải đưa về nhà chữa trị. Sau khi hỏi thì chân cũng thành tật, đi tập tệch như bây giờ.

    - Sau khi trở về quê, hạ thần thấy mình như vô dụng, lại bị thương tật như vậy nên chí khí nam nhi cũng bị thương tổn ít nhiều. Hạ thật tính rút vào sống ẩn dật, định rằng cứ thế, ngày câu cá, tối câu trăng. Nhưng chính là Phu nhân đã quyết thuyết phục cho bằng được. Cảm kích vì tấm chân tình của nàng, hạ thần cuối cùng cũng chấp nhận.

    Lúc đó chúng ta đang đi dạo ở trong vườn. Vườn được những tán cây cổ thụ che chở nên râm mát và trong lành. Nói đến đó Trịnh Hàm đưa bàn tay xiết chặt lấy bàn tay của Lưu phu nhân. Nàng ngượng ngùng khẽ rút bàn tay ra, chàng mỉm cười ấu yếm nhìn nàng. Ánh hồng phơn phớt trên gò má Lưu Phu nhân. Cái khoảnh khắc đó, ngắn ngủi thôi mà yêu thương ngập tràn. Ta có thể cảm nhận được yêu thương đó như khi xưa ta nhìn Thân phụ và Thân mẫu ta bên nhau vậy. Ta nhìn thấy ở đó hạnh phúc và chân tình.

    Ngẫm nghĩ cũng kỳ lạ! Đúng là oan gia thì khéo gặp nhau! Không ngờ nàng Lưu ương bướng đó giờ đây lại trở thành phu nhân của Trịnh Hàm Công tử. Và chúng ta lại có ngày trở thành bầu bạn của nhau như thế này.

    Bản thân ta nhìn nàng Lưu không phải không có chút cảm thấy tự hổ thẹn. Cùng là thề bồi, nguyền ước, mà cuối cùng họ được ở bên nhau. Còn ta.. Rốt cục chính ta là một người yếu đuối, nhu nhược, không dám chiến đấu vì tình yêu của mình, hay là ngay từ đầu mọi việc đã được an bài như thế? Nghĩ thế rồi nhìn cảnh họ kề vai âu yếm đi bên nhau mà không khỏi cảm thấy chạnh lòng.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  4. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXIII. GẶP LẠI

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đầu tháng Bảy, vợ chồng Trịnh Hàm mời ta tới tư gia chơi ít hôm. Thứ nhất là cho biết nhà biết cửa, thứ hai cũng chính là sinh nhật của Lưu Phu nhân. Hôm đó nàng Lưu có mời một đoàn hát sướng và diễn xiếc đến biểu diễn ở sân nhà, nên rất muốn mời ta tới xem cho vui. Ngẫm ở nơi thôn dã này có vợ chồng nàng làm bầu làm bạn cũng bớt phần quạnh hiu, lại thêm sinh nhật của nàng Lưu nên chẳng thể nào từ chối được, ta và Lan Nhi bèn chuẩn bị quà cáp, mang theo một số gia nhân thân tín vào Thành.

    Đến rồi mới biết phủ thất của nhà họ Lưu đúng là thiên hạ đệ nhất ở thành Tư Phố này. Vì Lưu Ỷ Ngọc là con một của họ Lưu, mà nay cả hai vợ chồng nhà Lưu Bao đều đã qua đời nên đương nhiên nàng Lưu và chồng trở thành người tiếp quản cơ ngơi này.

    Nếu mang ra so sánh với Hoa Lư, nhiều chỗ ở Lưu phủ có khi còn tráng lệ hơn nhiều. Cũng phải thôi, họ Lưu đã mua may, bán đắt, thịnh vượng bao nhiêu năm qua, nên gia tư bề thế, phú quý là điều dễ hiểu.

    Bước qua cổng Tam quan đi vào Phủ, gia nhân dẫn ta và Lan Nhi đi qua tầng tầng lớp lớp các gian nhà, lại đi qua nhiều hàng lang có mái che, các lầu hóng gió không khỏi khiến chúng ta thấy chóng mặt. Vốn là người sống trong Cung với thành quách trong ngoài bao nhiêu năm, vậy mà vẫn thấy như bước vào mê cung vậy. Cuối cùng chúng ta cũng được dẫn tới một gian lầu nhỏ xây giữa mặt hồ, nơi Lưu Phu nhân đang ngồi uống trà.

    Đây là một chiếc Hồ nhỏ, có lẽ chừng nửa xào. Hồ nhân tao thì đúng hơn là hồ tự nhiên. Xunh quang hồ có nhiều nhà cửa, lối đi, vườn hoa, cây cảnh. Những thân liễu xanh mềm rủ xuống mặt hồ mang lại cho khung cảnh nét thướt tha, kiều diễm. Con chim oanh trong chiếc lồng sơn treo trên mái nhà cất những tiếng lỏnh lót trong vắt như nước dưới mặt hồ.

    Thấy ta tới Lưu Phu nhân vui vẻ chạy ra, thi lễ cung kính rồi dắt tay ta lên lầu, miệng không ngừng líu lo như chim hót. Ngẫm cũng thấy thật lạ, khi chưa quen thì thấy nàng ta là người hay ra oai và rất thích gây phiền hà, quen rồi thì thấy nàng ta thực ra lại rất tốt bụng, chẳng qua nàng ta cứ hay thích làm loạn lên cho vui mà thôi. Hay gây sự, chắc là thú vui của những người giàu có đôi khi thấy cuộc sống quá nhàm chán chăng?

    - Thấy Nương nương nhận lời tiện thiếp vui mừng quá! Không ngờ lại được Nương nương hạ cố tới dự sinh nhật của mình như thế này!

    - Ta mới là người vinh dự khi được Phu nhân mời tới đây. Lưu phủ quả thật là nơi tráng lệ bậc nhất ở Đạo Ái này rồi!

    - Không phải là Nương nương đang cười chúng thần đấy chứ! So với Kinh thành thì tệ xá của bọn chúng thần chẳng đáng để Nương nương quan tâm rồi!

    Ta phì cười, nếu cứ khen qua khen lại như vậy thì e rằng đến chiều vẫn chưa hết câu chuyện, bèn bảo nàng:

    - Thôi chúng ta không cần khách khí nữa. Lưu phu nhân đang uống trà gì xin cho ta thưởng thức với!

    Nàng vội vã kéo ghế cho ta ngồi, rồi rót cho ta một chén trà. Rồi chúng ta cùng ngồi xuống thưởng thức.

    Đưa chén trà thơm mùi hoa cúc lên miệng, phóng tầm mắt nhìn ra khung cảnh hữu tình xung quanh, bỗng lại chạnh lòng nhớ những ngày cùng Trinh Minh Nương nương ngồi uống trà thưởng hoa ở trong Cung. Mới đó mà giờ đã xa ngàn dặm. Tri kỉ đó mà nay bặt tin nhạn rồi.

    Hóa ra đời người, ai cũng chỉ có thể cùng ta đi cùng một đoạn đường, còn lại phần lớn chính là chỉ một mình ta suốt chặng đường dài mà thôi.

    Nay ta ngồi đây với Lưu phu nhân, tuy không phải là tri kỉ mà cũng không khỏi ngậm ngùi, rồi mai sau có còn được ngồi với nhau như thế này nữa chăng?

    Chà! Bỗng hiên ta lại bi lụy quá! Ta đặt chén trà xuống, bảo:

    - Sao không thấy Trịnh khanh gia đâu? Phải chăng hôm nay bận chuyện gì?

    - Quả đúng thế! Mấy hôm nay có một vị quan gia từ phương xa tới tệ xá của chúng thần tá túc, nên tướng công thần thiếp hơi bận một chút. Nhưng buổi tối có tiệc rượu diễn sướng, nhất định sẽ tới để hầu hạ Nương nương.

    - Vị quan gia từ vùng nào sao không tới Tri phủ thết đãi, mà lại phải qua đây tá túc?

    - Thần thiếp cũng không rõ là từ phương nào. Chỉ nghe nói là ngài ấy đi giải quyết việc riêng nên không muốn làm phiền đến cửa quan. Tướng công thần thiếp có bảo, khi xưa chính là có quen biết nhau nên ngài ấy muốn tới đây ở sẽ tiện hơn.

    - Ra là vậy.

    Buổi trưa, sau khi dùng bữa xong, Lưu phu nhân xếp cho ta một phòng khách để nghỉ ngơi.

    Buổi chiều, sau ngủ trưa dậy thì một cơn mưa lớn kéo về làm nàng Lưu buồn thiu. Vì tiệc sinh nhật nàng định tổ chức ngoài trời, từ trước một vài ngày đã cho dựng rạp và sân khấu để diễn sướng ở sân lớn trong Phủ. Vậy mà mưa thì chưa biết làm thế nào. Nàng lo quá, chẳng còn tâm trí đâu mà dẫn ta đi vãn cảnh, bèn sai một nàng hầu nhỏ tới dẫn chúng ta đi.

    Càng đi dạo xung quanh càng thấy, Lưu phủ đúng là rất nguy nga tráng lệ, tầng tầng lớp lớp tường trắng mái đỏ ủy nghiêm, lầu son gác tía nối tiếp. Những khu vườn được tạo lập rất công phu với những cây tùng, cúc, trúc, mai được cắt tỉa tinh tế, đẹp mắt. Đây đó một vài hồ nước tiểu cảnh điểm xuyết với liễu buông mành, với hoa soi bóng hết sức thảnh thơi, tao nhã. Nói thì có vẻ có lỗi với nỗi lo lắng của Lưu Phu nhân, nhưng trời mưa như thế này, đi men theo những hành lang mà ngắm cảnh vườn yên ả trong cơn mưa thật ra rất thú. Đôi khi một vài giọt nước bắn vào làm ướt váy áo, nhưng không sao.

    Có một mùi hương từ một loài hoa gì không rõ, rất dịu ngọt quẩn quít khắp lối đi.

    Đi một hồi cũng tới được hồ Thủy Nguyệt, nơi được nàng hầu nhỏ giới thiệu là hồ lớn nhất và có cảnh quan hữu tình nhất trong Lưu phủ.

    Hồ bạt ngàn sen nở. Lá xanh chen bông trắng, bông hồng trông thật là đẹp mắt! Hương sen quện vào với mùi mưa cuối hạ đưa lên thơm ngào ngạt và thanh tao.

    Hồ rất rộng, nhưng được bao quanh bởi những hành lang và lối đi với bao lơn đỏ, tạo cảm giác xa mà gần, mênh mông đó mà lại hết sức gần gũi. Đây đó là các dãy nhà lầu mái ngỏ có cửa lớn và cửa sổ hướng ra phía hồ, cho thấy nhà họ Lưu rất biết tận dụng cảnh quan của hồ để làm phong phú tầm nhìn cho phòng ở.

    Một số nơi lại có những bậc tam cấp dẫn xuống hồ để các thị nữ rửa chân, hái sen chơi. Lại có một cây cầu sơn đỏ, thếp vàng cong cong bắc qua hồ. Xa xa có dáng một vài thị nữ váy đỏ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện trong màn mưa nơi hành lang liễu rủ làm cho phong cảnh thêm mơ màng như ở chốn bồng lai.

    Ta với Lan Nhi rất muốn đi lên phía cây cầu để ngắm hoa sen từ trên cao, nhưng nàng hầu nhỏ bảo, cây cầu này dẫn thẳng tới khu nhà mà vị quan gia phương xa đang ở, mà Trịnh Gia gia có dặn, không ai được lại gần khu đó nếu không được phép. Thế là chúng ta lại thôi. Chẳng muốn kinh động tới dù đó là ai đi nữa.

    Đành lững thững kẻ đứng, người ngồi bên lan can ngắm những đài sen im lặng ngửa mặt đón những hạt mưa trời. Nàng hầu nhỏ lôi tay Lan nhi lại bậch tam cấp lên xuống hồ gần đó, hai người định khều hoa sen vào để hái chơi.

    Ta ngồi xuống tràng kỷ đặt bên lan can ngó ra hồ. Buông lơi tâm trí theo những hạt mưa rơi xuống lá sen, tụ thành những hạt nước rất to rồi rớt xuống hồ.

    Đúng lúc đó thì ta nhìn thấy con người ấy!

    Xuyên qua làn mưa trắng mờ. Ở một phía hồ, nơi khung cửa sổ tròn sơn son thếp vàng. Người đang đứng đó, hai tay bắt chéo sau lưng, lặng thinh nhìn ra hồ sen, nhìn ra màn mưa trắng.

    Nét mặt tựa một áng mây mùa thu. Có một chút hững hờ. Có một chút bình thản.

    Ánh mắt tựa hồ nước cuối mùa hè. Trong vắt. Có một chút dịu dàng. Lại phảng phất một chút buồn mang mác.

    Người đó chính là đương kim Hoàng đế Đại Cồ Việt: Lê Hoàn!

    Ta chết lặng trong một chốc.

    Sen. Mưa. Lê Hoàn.

    Những kỷ niệm xa xăm chợt ùa về như những giọt mưa rơi ở trong lòng.

    Chưa kịp quay mặt đi để tránh thì Lê Hoàn đã đưa mắt nhìn ta. Ta lại càng không biết nên làm thế nào. Cứ đứng im như tượng, mắt không rời đi được.

    Một chút ngỡ ngàng nhẹ như sương khói lướt qua trên mặt Lê Hoàn nhưng nhanh chóng biến mất. Liền đó khuôn mặt lại trở về với trạng thái không thể đoán định hàng ngày. Lê Hoàn sẽ gật đầu chào ta. Ta vội vã cúi người chào lại. Đang chưa biết nên làm gì tiếp theo thì Lan Nhi và nàng hầu nhỏ ùa tới, trên tay năm, sáu bông hoa sen mà các nàng vừa hái được. Mấy giọt nước ở trên cánh hoa rớt vào váy ta. Rót cả vào lòng ta. Lành lạnh..

    - Có gì mà Nương nương đứng ngẩn người ra thế? Vẫn chằm chằm nhìn vào mấy bông hoa, Lan Nhi hỏi cho có câu chuyện.

    - Không có gì. Đến đây cũng đã hết đường rồi, chúng ta cũng nên về nghỉ ngơi một chút để chuẩn bị cho tiệc chiều thôi.

    Các nàng đều cho là phải, cùng gật đầu rồi tất cả lững thững ra về. Lan Nhi líu ríu như trẻ nhỏ chạy theo nàng hầu đùa nghịch với mấy bông hoa. Ta xoay người đi, không thể không đưa mắt nhìn về phía khung cửa sổ ban nãy. Nhưng người đã không còn ở đó. Một chút nhẹ nhõm cùng một chút trống trải vô cớ dâng lên ở trong lòng.

    Ra là quan khách phương xa đang ở tại Lưu gia chính là Đương kim Hoàng Thượng! Cũng phải thôi, khi xưa Lê Hoàn, Trịnh Hàm, Phạm Cự Lượng chính là những anh em thân tín tại Võ Đường.

    Nhưng có việc gì mà Lê Hoàn phải vi hành về đây? Có lẽ là giỗ Thân phụ, Thân mẫu chăng? Nghe nói sau khi trở về, ngoài việc bổ nhiệm một số quan lại thân tín vào các vị trí trọng yếu trong triều đình. Lê Hoàn còn truy phong cho cha mẹ lần lượt là Trường Hưng Vương và Hoàng Thái hậu. Nên dịp giỗ chạp năm nay về là phải. Còn phải lập bài vị mới cho cha mẹ. Có lẽ vì không muốn rình rang và kinh động đến mọi người nên vi hành cho gọn nhẹ.

    Khi trông thấy ta Lê Hoàn có vẻ bất ngờ. Có lẽ đã không được Trịnh Hàm báo trước về việc này. Có lẽ Trịnh Hàm thấy việc này không quan trọng, hoặc cũng là một sự cư xử rất ý tứ.

    Buổi chiều tối mưa tạnh. Việc chuẩn bị sinh nhật cho Lưu Phu nhân được gấp rút hoàn thành. Sân khấu đã được trang trí rực rỡ, những gian rạp nhỏ được bắc hướng về phía sân khấu giờ cũng đã được trang hoàng và buông rèm kín đáo. Có lẽ mỗi gian là giành cho một gia đình hoặc một vị Phu nhân sang trọng là bạn của nàng Lưu để các nàng có thẻ ăn uống, xem hát thoải mái mà không sợ ai dòm ngó.

    Ta cũng được xếp cho một gian ở ngay chính giữa sân, rất gần sân khấu, tiện cho việc xem kịch. Nhưng đến giờ thì ta không còn một chút hứng thú nào nữa.

    Từ lúc nhìn thấy và biết Lê Hoàn đang ở trong Lưu phủ ta đã mất hết cả nhuệ khí rồi. Rượu nhạc cũng không còn ý nghĩa gì hết. Không muốn làm gì nữa cả. Chỉ muốn nhanh chóng về lại trang Đông Lỗ.

    Tiệc rượu đã bày ra, nhã nhạc đã vang lên, nàng Lưu và Trịnh Hàm đi khắp các nơi cảm ơn, mời rượu. Ta cũng chỉ cười nói qua loa gọi là. Rồi cứ đưa mắt nhìn lên những tầng lầu tôi tối ở những gian nhà bao xung quanh sân là lại băn khoăn không biết liệu Lê Hoàn có đang đứng đâu đó nhìn ra và cười nhạo ta không? Nghĩ thế rồi lại tự cười mình, tại sao Lê Hoàn lại phải làm cái việc lén lút như thế? Mà tại sao ta lại nghĩ là sẽ cười nhạo ta? Ta có làm gì sai đâu, có làm gì đáng xấu hổ đâu? Tại sao lại cười nhạo? Ta chỉ đến đây dự sinh nhật một người bạn, chỉ là muốn vui vẻ một chút thôi mà.

    Nhưng những ý nghĩ như thế không giúp ích được gì, càng làm ta bứt dứt ở trong lòng. Chỉ muốn đứng bật dậy và chạy đi ngay. Như khi xưa còn bé chạy trốn một điều gì sợ hãi.

    - Nương nương! Người làm sao mà trông thất thần ra như thế? Lại còn toát hết cả mồ hôi ra nữa! Lan Nhi một tay nắm lấy tay ta, tay kia thì dờ lên chán rồi tiếp: Nương nương, người bị sốt rồi, người ốm đau ở đâu sao?

    Ta chỉ đợi có thế, liền bảo với Lan Nhi:

    - Ta bỗng thấy trong người rất khó chịu, em hãy đi báo với Trịnh Gia và Lưu Phu nhân chúng ta sẽ về nhà ngay bây giờ!

    Trịnh Hàm và Lưu Ỷ Ngọc thấy ta đột ngột muốn về Giáp Mau ngay trong đêm thì hết sức lo lắng và can ngăn. Sợ rằng đã có gì không hay xảy ra làm mất lòng ta, lại không muốn ta về giữa đêm lỡ sinh chuyện rắc rối thì họ mất mạng. Nhưng ta nói mệt và chỉ muốn về. Mãi rồi họ cũng đành chịu. Lại cho cả chục gia nhân khỏe mạnh áp tải theo xe về.

    Xe ra khỏi Lưu phủ, ra khỏi thành Tư Phố, đi trên những con đường đồng quê hướng về Giáp Mau, ta mới thấy dễ chịu trong người. Buông lòng chân tay, dựa vào thành xe, thở dài ra một tiếng.

    Lan Nhi thấy vậy quay sang nhìn ta, bảo:

    - Nương nương, thực ra là có chuyện gì? Tại sao bỗng dưng lại muốn về nhà ngay? Đã có chuyện gì xảy ra sao? Người đã trông thấy gì mà em không biết?

    Quả không hổ danh là nàng thị nữ thân cận đã theo hầu ta hai chục năm nay. Ta có muốn dấu nàng cũng không được. Mà cũng có gì đâu mà phải dấu nàng! Mới liền bảo:

    - Quan gia tới tá túc tại Lưu phủ chính là Đương kim Hoàng Thượng. Khi chúng ta tới hồ Thủy Nguyệt ngắm cảnh chính ta đã nhìn thấy. Vì thế ta không muốn ở lại Lưu phủ nữa.

    - Ra là vậy.. Lan Nhi buông lửng câu nói vẻ trầm ngâm.

    Chẳng hiểu nàng ta nghĩ gì về việc ấy mà tỏ ra suy tư như vậy. Nhưng ta cũng kệ chẳng buồn nói thêm gì nữa. Hai người cứ im lặng như thế cho tới tận Trang.

    Việc gặp Lê Hoàn ở thành Tư Phố tưởng chẳng có gì đáng kể, vậy mà chẳng hiểu sao lại xáo động cuộc sống của ta đến như thế. Ta thấy trong lòng không được bình an như trước nữa.

    Những ngày tháng khi chúng ta còn bên nhau ở Càu Chày này, nhưng ngày tháng cùng đuổi bướm, hái hoa, cùng ngắm cảnh trăng thanh gió mát, những ngày ta cùng đi hái sen, dạo chơi trên cánh đồng, hay những buổi chiều tà cùng nằm dài trên triền đê nghe chàng thổi sáo chập chờn trở về trong trí nhớ. Khi mới từ Hoa Lư về đây, ta đã ngăn không để cho những kỷ niệm đó ùa về. Thì nay con đê mỏng manh ấy đã vỡ tan, để nước lũ vỡ bờ trào ra tung tóe. Không sao ngăn lại được.

    Rồng cả những ngày tháng sống ở Hoa Lư cũng trở về. Như vừa mới đây thôi mà đã xa xôi quá rồi. Họ Đinh, Trinh Minh Nương nương, Nam Việt Vương, Kiểu Quốc, Đan Gia, thậm chí cả Phất Kim, Liên Hoa.. những khuôn mặt ấy cứ không ngừng ám ảnh giấc mơ của ta. Rồi hình ảnh Ngự điện, Ngự thư phòng, lầu Vọng Nguyệt, chùa Am Tiên.. và tất cả những ngóc ngách ở cung Cồ Quốc cũng cứ lúc ẩn, lúc hiện.

    Không ngờ những cảnh lâu đài thành quách cũ ấy, giờ đây lại khiến ta nhớ nhung đến thế. Nhớ đến quay quắt! Đến đau lòng!

    Không phải là cảnh giàu sang phú quý, lầu son gác tía làm ta nhớ. Mà chính là những năm tháng tuổi trẻ với tất cả những hỉ nộ ái ố ở nơi đó làm người ta nhớ. Chính là nơi ấy đã ghi lại bao dấu ấn, bao kỷ niệm trong cuộc đời ta. Thế mà đã mãi xa rồi..

    Đau đớn! Nhớ nhung! Chập chờn! Mơ tỉnh!

    Thế là ta ốm một trận. Người lại lúc thì nóng, lúc thì lạnh, lúc thì mê mê, lúc thì tỉnh tỉnh. Nhưng đã không còn Nghĩa mẫu hay Trinh Minh Nương nương ở bên chăm sóc cho ta nữa. Chỉ còn lại một mình Lan Nhi. Nghĩ thế lại càng thêm buồn. Ốm đau cứ kéo dài ra mãi.

    Khoảng mười ngày sau, lúc ta đã khỏi bệnh, đang đòi ra vườn ngồi cho thoáng thì Lưu phu nhân tới thăm.

    Thì ra Trịnh Ân – Tiểu tử nhà họ Trịnh có nghe Toàn Nhi nhà ta tâm sự về việc này nên nàng biết mà tới thăm. Hai đứa trẻ là huynh đệ rất tốt ở bên Võ đường làm hai gia đình chúng ta rất vui vẻ, nở mày nở mặt.

    Lưu Phu nhân đến còn mang theo bao nhiêu là quà cáp, thuốc bổ biếu tặng khiến ta cảm thấy rất phiền hà. Nhưng nàng nhất định không chịu mang về nên ta cũng đành chịu. Đã thế còn xắn tay áo vào bếp tự nấu cho ta một nồi nước xông giải cảm khiến ta không khỏi xúc động. Cứ nhìn nàng mà rớt nước mắt.

    Ta cũng không thể hiểu nổi ta nữa. Có lẽ ốm đau không có mẹ, có chị ở bên khiến ta tủi thân quá mà ra thế chăng?

    Rồi ta cũng dần dần bình phục. Mọi chuyện tưởng cứ thế rồi cũng sẽ qua, rồi cũng sẽ yên bình trở lại thì đến tháng Tám, ta nhận được một bức thư.

    Lúc đó ta với Lan Nhi vừa dùng bữa sáng xong, đang ngồi bên chiếc bàn dài kê dưới gốc khế ngoài sân để uống trà hoa cúc.

    Mùa này hoa Cúc vừa chớm vụ, sáng sớm tinh mơ dậy sớm, hái lấy những nụ hoa tròn, mẩy nhất đang chờ ánh mặt trời lên để bung ra, đem về phơi khô dần trong bóng dâm rồi dùng uống dần là thơm nhất.

    Gió sớm mùa thu mát mẻ.

    Một vài bông hoa khế chẳng rõ là nở sớm hay nở muộn rơi lả tả trên mặt bàn. Tim tím, trăng trắng hết sức hồn nhiên.

    Đúng lúc ấy thì một gia nhân lực lưỡng, thuộc đội gác cổng, bảo vệ trong Trang đi vào chuyển cho ta một bức thư. Bên ngoài thư không đề tên người nhận cũng không có dấu triện của người viết.

    Thấy người gác cổng đích thân đi chuyển thư, lại nhìn bức thư lạ lùng như vậy ta không tránh khỏi băn khoăn:

    - Thư này từ đâu tới, sao lại kỳ lạ vậy?

    - Bẩm Nương nương, vừa nãy có một quan gia ăn mặc rất sang trọng, ngồi xe ngựa đi tới cổng Trang, không xin gặp mà chỉ xin chuyển tận tay lá thư này cho Nương nương rồi đi. Trước khi đi còn dặn, nếu để lọt bức thư ra ngoài hoặc không tới được tay Nương nương thì họa đâu do hạ thần chịu. Bởi vậy hạ thần mới phải đích thân mang tới đây.

    - Quan gia từ đâu tới, không xưng danh gì sao?

    - Hạ thần có hỏi nhưng vị quan gia đó chỉ bảo, danh xưng quan trọng gì đâu, nội dung trong thư mới là quan trọng. Nói rồi đi luôn nên hạ thần cũng không hỏi được thông tin gì khác nữa.

    Biết là có hỏi nữa cũng vô ích, ta cho người lui rồi bóc thư ra xem.

    Giấy viết thư là loại giấy cực phẩm mà ta hay dùng ở trong cung ngày trước. Giấy này vốn chỉ có Hoàng thượng và quan lại cấp cao triều đình mới được sử dụng. Lại thoang thoảng mùi hương hoa nhài rất dễ chịu.

    Lật giở hai nếp gấp thì nhìn thấy giữa trang giấy trắng mấy dòng chữ:

    "Nga Nhi

    Tối nay ta muốn gặp nàng bên sông Càu Chày, chỗ cây gạo lớn.

    Lê Hoàn"

    Ta thực sự không còn tin vào mắt mình. Cứ thế nhìn trân trối vào tờ giấy. Ta lật giở tờ giấy lên xuống mấy lần, rồi ngó nhìn vào trong bao thư, rồi lại nhìn vào mấy dòng chữ ấy một lần nữa. Không phải là ta không hiểu được những dòng chữ ấy, mà chính là ta không thể tin nổi vào cái nội dung mà ba dòng chữ ấy truyền tải. Ta không lĩnh hội được.

    Lê Hoàn muốn gặp ta? Tại sao? Vì sao lại là bên sông Càu Chày, nơi chúng ta từng hẹn hò thuở trước? Tại sao lại xưng hô như vậy? Có lý nào Lê Hoàn muốn.. Không! Không thể có chuyện như thế được! Nhưng nếu không phải như thế thì là thế nào?

    Thấy ta cứ loay hoay với tờ giấy trên tay và mặt thì nghệt ra thất thần, Lan Nhi không khỏi tò mò cũng ghé mắt nhìn vào tờ giấy. Đọc xong nàng ta cũng chỉ im lặng. Có lẽ nàng ta cũng đang cố hiểu cho đúng những điều viết trong đó.

    Có ba dòng chữ. Rất ngắn gọn, rõ ràng. Nhưng chính vì nó quá ngắn gọn, rõ ràng, hiển nhiên nên lại càng khó tin, khó hiểu, khó lý giải.

    - Có lẽ Hoàng thượng.. Hay là ai đó nặc danh? Sau một hồi suy nghĩ nàng ta cuối cùng cũng cất tiếng.

    - Có lẽ vậy chăng.. Ta buông một tiếng thở dài mà không thể dứt ra khỏi những ý nghĩ hỗn độn ở trong đầu.

    Nét chữ thực chất chính là nét chữ của Lê Hoàn. Ta nhận ra nét chữ này. Nhưng nếu có ai cố tình giả nét chữ thì sao? Nhưng như thế để làm gì? Còn có ai định hại ta vào thời điểm này để làm gì nữa hay sao? Được cái gì và vì cái gì chứ? Hơn nữa cái lối xưng Nga Nhi, lại biết điểm hẹn khi xưa chúng ta hay gặp mặt thì không phải là ngẫu nhiên..

    Loại giấy viết thư vốn chỉ trong Triều đình mới có. Nhưng cũng không phải không có trường hợp kẻ xấu nào đó có được..

    Cứ nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ đúng rồi lại nghĩ sai, nghĩ trái rồi lại nghĩ phải như thế, mà ngày dài lê thê mãi chẳng chịu qua.

    Lúc chúng ta đang đi dạo trong vườn sau bữa trưa cho nhẹ bụng, tưởng đã cố tình mà quên cái bức thư và cuộc hẹn vào buổi tối rồi thì Lan Nhi bất giác hỏi ta:

    - Vậy Nương nương sẽ đi gặp Hoàng thượng chứ?

    Ta suy nghĩ một hồi mà không thể tìm ra được câu trả lời. Chẳng kể đến chuyện bức thư đó là thật hay là giả, thì việc ta nên đi hay không nên đi mới thực sự là vấn đề. Lê Hoàn gọi ta bằng cái tên cũ Nga Nhi ấy, cách gọi mà dân gian vốn chỉ dùng để gọi những thiếu nữ chưa lấy chồng, lại hẹn ta ra nơi cũ ấy làm gì? Cũng không lấy Tôn hiệu Ngọc tỷ ra mà đóng vào thư, mà chỉ đơn giản là viết hai chữ Lê Hoàn như vậy là có ý gì?

    Thực ra ta cũng có một phỏng đoán lờ mờ ở trong đầu. Nó lý giải cho việc bao năm nay, dù đất nước đã hòa bình, cuộc sống an nhàn phú quý nhưng Lê Hoàn vẫn không chịu lập thất. Ngay cả khi họ Đinh muốn kén làm Phò mã cho Tiểu thư Liên Hoa thì Lê Hoàn cũng không chấp nhận. Rồi sau đó một vài quan lại, đại thần thấy mối tốt cũng muốn mai mối cho con, em mà cũng một mực từ chối. Lại đem chuyện khi xưa đã lỡ từ chối Liên Hoa Tiểu thư ra nhắc nhở, giờ lại đi kết thân với con em các vị đại thần, thế chẳng phải là vuốt mặt không nể mũi thì là gì? Các vị đại thần nghe lý ấy thì về sau thôi, không còn ai đả động tới chuyện hôn sự ấy nữa.

    Mà nay Lê Hoàn như thế, phải chăng..

    Không! Có lẽ ta đã quá hoang đường rồi!

    Nhưng nếu như vậy thì có thể vì việc gì? Sao không danh chính ngôn thuận mà gửi một bức thư tới với dấu Ngọc tỷ đàng hoàng, như thế có phải hơn không? Và sao lại muốn hẹn hò ở đúng chỗ đó?

    Cứ nghĩ ngợi như thế cũng chẳng thể trả lời được câu hỏi của Lan Nhi. Cũng chính là câu hỏi của chính mình, nên đi hay nên ở.

    Buổi tối, lúc ta đang ngồi bần thần ngoài hiên nhà thì gia nhân vào báo, có một quan gia tự xưng là Vương Công công, là người hầu hạ Hoàng Thượng xin vào gặp mặt.

    Nghe tới chữ Công công và Hoàng Thượng ta xây xẩm hết cả mặt mày. Nhưng vẫn phải cho mời vào.

    Vương Công công đi vào, cung kính thi lễ rồi xuất trình thẻ bài bằng ngọc quý để chứng minh mình là Thái giám ở trong Cung, chuyên hầu hạ Hoàng thượng. Vương Công công thì ta không quen mặt, vì từ khi Lê Hoàn lên cai quản Hoa Lư đã cắt đặt bổ nhiệm những ai ta không thể biết. Nhưng tấm thẻ bài bằng ngọc quý chạm khắc tinh tế chỉ cần nhìn qua đã biết là đồ ở trong Cung. Thấy vậy liền bảo:

    - Vương Công công hôm nay có việc gì lại đích thân về tận đây gặp ta như vậy?

    - Thưa Nương nương, thần đến để chuyển lời của Hoàng thượng rằng, Nương nương tối nay không cần tới gặp Hoàng thượng nữa. Hoàng thượng đã trở về kinh thành gấp rồi. Có tin từ triều đình báo xuống, hai sứ giả Từ Mục và Ngô Tử Canh được Hoàng thượng cử sang Chiêm Thành đã bị vua Chiêm bắt giữ, vì vậy Hoàng thượng phải trở về gấp để giải quyết công việc.

    - Có biết vì sao vua Chiêm Thành lại bắt hai sứ giả của ta không?

    - Thưa Nương nương, Hoàng thượng hồi Cung rất gấp nên cũng chỉ kịp dặn lại như vậy. Do đó hạ thần cũng không biết gì hơn.

    Ta khẽ gật đầu. Nước Chiêm xưa nay là một nước nhỏ, nhưng luôn có dã tâm đánh chiếm Đại Cồ Việt. Khi xưa Ngô Nhật Khánh nghe tin họ Đinh mất sang đó cầu viện, vua Chiêm đã lập tức cho ngàn chiến thuyền sang xâm lược. May ông trời có mắt, mà cả ngàn thuyền đều bỏ mạng ngoài khơi. Vua Chiêm nhờ mệnh to phúc lớn mà sống sót trở về. Tưởng đã đổi ý tu chí làm ăn, thế mà thấy Đại Cồ Việt gửi sứ giả sang thiết lập quan hệ bang giao trở lại, lại bắt nhốt như vậy thì ý là gì? Phải chăng muốn ngấm ngầm tuyên chiến? Phải chăng muốn nhân cơ hội nước Việt vừa bị hao tổn trong cuộc kháng chiến chống Tống mà định thừa nước đục thả câu?

    Đất nước vừa qua cơn binh đao, khói lửa, nay lại tiếp tục đối mặt với khó khăn. Quả thật làm bậc Đế Vương quá đỗi mệt mỏi. May là mẹ con ta giờ đã không còn phải gánh vác những trọng trách đó nữa. Không thì mẹ góa con côi, chẳng biết xoay sở thế nào. Hết đợt sóng to này lại tới đợt gió lớn kia!

    Hi vọng Lê Hoàn sẽ tìm ra đối sách hợp lý nhất để tránh cho đất nước khỏi cơn can qua này.

    Quay sang nhìn Vương Công công vẫn thấy đang đứng lom khom ở bên cạnh, ta liền bảo:

    - Công công, trời cũng sắp tối rồi, ngài hãy ở lại tệ xá của ta nghỉ ngơi rồi mai hãy về Hoa Lư chứ?

    - Thưa Nương nương, hạ thần xin phép cáo lui thôi! Chỉ vì muốn đích thân hạ thần tới thông báo cho Nương nương nên Hoàng thượng mới lệnh cho hạ thần đi sau một lúc, chứ công việc bận bịu không thể lưu lại được. Được Nương nương yêu quý hạ thần xin đa tạ! Hẹn khi khác có dịp sẽ về Trang xin ân sủng của Nương nương!

    Nói vậy thì ta không giữ nữa. Suy cho cùng cũng phải thôi. Công công còn phải lo hầu hạ Hoàng thượng, làm sao có thể la cà chốn thôn dã này được? Thế là để cho Vương Công công lui.

    Chẳng biết điều gì đang chờ ta phía trước, nhưng có một linh cảm lờ mờ rằng, cuộc đời của ta có lẽ không bao giờ còn có thể bình yên nhàn tản được nữa rồi.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  5. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXIV. BÊN SÔNG CẦU CHÀY

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mấy hôm sau Lưu Phu nhân lại ghé qua Trang chơi với chúng ta. Ta nửa vui đùa nửa dò hỏi xem mấy ngày rồi nhà nàng có quan gia phương xa nào tới tá túc không? Nàng bảo rằng không có.

    Như vậy có nghĩa là vừa rồi về đây, Lê Hoàn đã không ở tại Lưu phủ. Không hiểu là ở đâu mà lại hẹn gặp ta bên bờ sông? Có lẽ nào chính là cải trang, tá túc quanh đây chăng?

    Ba ngày sau một thị vệ triều đình phi ngựa về tận Đông Lỗ, chuyển cho ta một chiếc túi lụa, bên trong chứa hai bao thư. Trên một bao thư có dòng chữ nhỏ "Đọc thư này trước" và trên bao còn lại là dòng chữ "Đọc thư này sau", còn lại đều không có tên đề hay dấu triện. Cách viết ngộ nghĩnh như trẻ con ấy không thể không khiến người nhận bật cười. Tuy nhiên cũng chỉ là một chút cười thoáng qua, bởi ta biết đây là thư của Lê Hoàn. Bức thư trước theo đó mà suy ra, cũng đích thị là do Lê Hoàn viết. Chưa biết được nội dung thư là gì, nhưng sau tất cả những gì đã xảy ra vừa rồi, thì ta có quyền lo lắng về những gì được viết trong đó.

    Thị vệ đi rồi ta vẫn ngồi ở bên bàn. Chần chừ mãi không muốn mở thư ra. Nếu mở ra là ta sẽ phải suy nghĩ về những gì được viết trong đó. Phải đối diện với nội dung của nó. Ta thực sự không muốn một chút nào. Hai bức thư mỏng manh như vậy, mà có thể chứa biết bao giông bão ở bên trong chưa biết chừng.

    Nâng lên đặt xuống mấy lần vẫn không đủ dũng khí để mở ra, thế là ta cứ bỏ mặc đó, rủ Lan Nhi đi dạo.

    Ba ngày sau mới dám mở thư ra xem.

    Chẳng phải là lúc đó đã thu đủ can đảm để mở. Mà chỉ đơn giản là việc cần làm thì phải làm mà thôi.

    Thực ra ta còn không định mở thư ra, định cứ thế mà trả lại Lê Hoàn. Nhưng thấy ta bảo thế, Lan Nhi thở dài đánh thượt một cái, lắc đầu rồi bảo:

    - Như thế sao được chứ! Em biết Nương nương lo sợ điều gì, nhưng đó chỉ là phỏng đoán của người thôi. Dù sao cũng là thư của Hoàng thượng, còn Nương nương đường đường từng là Quốc mẫu của thiên hạ. Nếu đó là một bức thư bàn bạc, xin ý kiến về việc trị quốc bình dân thì sao? Thế mà Nương nương không đọc đem trả lại, không phải là rất thất thố, là trở thành trò cười cho thiên hạ hay sao? Chi bằng cứ mở ra, biết rõ ràng nội dung ý tứ, rồi mình tìm cách giải quyết có phải là hay hơn không? Dù sao cũng đều là người lớn cả rồi, cư xử như trẻ con như vậy có được hay không?

    Nói thế rồi nàng bỏ đi tắm, để mặc ta ngồi ở bên bàn. Đành kéo cây nến lại và bóc thư ra.

    "Hoa Lư không có nàng vạn lần sầu thảm!

    Ta vốn chưa bao giờ nghĩ rằng không có nàng ở đây mọi thứ lại buồn thảm đến vậy!

    Khi ta trở về nàng đã đi rồi!

    Ban đầu ta chỉ thấy một sự trống rỗng đến khó tả. Ta không hiểu vì sao Hoa Lư kẻ ra người vào tấp nập là vậy, thành cao, nhà rộng là thế, mà với ta cứ như chốn không người.

    Đến khi ta tình cờ nhìn thấy bóng dáng nàng ở Lưu phủ trong buổi chiều mưa hôm đó, bên hồ sen rực rỡ đó, ta chợt hiểu rằng thì ra mọi náo nhiệt, tươi vui của Hoa Lư chính là đã theo nàng mà đi cả rồi!

    Ngay cả những bông hoa sen ở Lưu phủ hôm đó cũng hướng về phía nàng mà nở.

    Ngay cả những nhụy hoa thơm cũng hướng về nàng mà tỏa hương.

    Ngay cả những giọt mưa cuối hạ cũng theo những bước chân của nàng mà nhảy nhót.

    Và tâm hồn của ta cũng theo những nếp gấp tà áo nàng mà bỏ đi rồi!

    Vì thế ta đã tìm về Giáp Mau, tìm về sông Cầu Chày. Mấy đêm liền ta đứng dưới gốc cây gạo già để suy nghĩ. Ta thấy tuổi trẻ của ta ở đó, thấy trái tim của ta ở đó, thấy những ngày chúng ta bên nhau trở về..

    Hoa Lư. Ngai báu. Giang sơn. Tất cả đều không có nghĩa gì cả nếu không có Nga Nhi ở bên ta, dõi theo những bước đường ta đi, những thành công ta đạt được.

    Xin nàng hãy về Hoa Lư với ta và làm vợ ta! Ta biết bốn chữ" Mẫu nghi thiên hạ "chưa bao giờ có ý nghĩa gì với nàng. Ta chỉ mong được cùng nàng sớm tối bên nhau. Lúc nhàn thì chờ hoa nở, lúc nhã thì đợi trăng lên. Có như thế may ra thiên hạ này còn có chút ý nghĩa!

    Lê Hoàn"

    Tay ta run bần bật sau khi đọc xong bức thư! Không ngờ có thể thẳng thắn và rõ ràng đến thế!

    Như thể bị thôi miên, ta tiếp tục bóc vội lá thư thư hai ra đọc.

    "Bởi vì Nga Nhi vẫn luôn ở đó, trong trái tim ta!

    Ta biết mọi thứ có thể quá đường đột với nàng! Mười lăm năm qua không biết tâm ý của nàng có còn như xưa không, nhưng ta chưa bao giờ thay đổi. Nàng vẫn mãi là Nga Nhi bé nhỏ xinh đẹp của ta. Vẫn là cô tiểu thư nghịch ngợm mà ta đã nắm tay thề thốt, là người con gái mà ta muốn lấy làm vợ khi vinh quy bái tổ.

    Những năm qua ta đã hết sức tránh mặt nàng ở Hoa Lư, chỉ bởi mỗi khi thấy nàng lòng ta quá đau đớn. Khi nhìn thấy nàng, ta luôn nghĩ, nếu không phải là những trớ trêu của số phận thì giờ đây nàng chính là vợ ta và con của nàng chính là con của chúng ta..

    Xin đừng băn khoăn về những tháng ngày đã qua. Họ Đinh giờ đã mất. Những ân oán đã trả xong rồi! Toàn nhi ta nhất định sẽ coi như con mình. Xin nàng hãy về Hoa Lư với ta!

    Lê Hoàn"

    Bỏ lơi hai bức thư ngổn ngang trên bàn, ta thấy nước mắt đã lăn dài trên má tự lúc nào.

    Làm sao ta có thể không băn khoăn về những tháng ngày đã qua? Làm sao ta có thể vẫn là Nga Nhi của những ngày nào đã cùng chàng thề thốt? Ta đã đi xa quá mất rồi!

    Chàng vẫn là chàng? Mà chàng có phải là chàng không? Còn ta thì chắc chắn là không! Ta đã phụ chàng, đã sống trong nhung lụa bao nhiêu năm qua. Ta đã là vị Hoàng hậu được họ Đinh sủng ái, đã trải qua bao nhiêu đêm ân ái mặn nồng, đã vì con mình mà toan tính không ít chuyện! Làm sao lại có thể còn là cô gái nhỏ bé, nghịch ngợm đã e thẹn dựa vào chàng trong cái ôm đầu tiên, đã rụt rè trao cho chàng nụ hôn đầu tiên. Làm sao lại có thể là cô gái nhỏ hồn nhiên, cười khúc khích như chuông như khánh với đôi mắt trong veo như nước, chạy theo chàng trên cánh đồng mùa hạ năm nào?

    Sao chàng không quên ta đi?

    Xung quanh chàng thiếu gì những người con gái xinh đẹp toàn tài! Sao lại cứ phải là Nga Nhi này? Chàng có thù ghét ta, lãng quên ta ta cũng không bao giờ có quyền trách móc chàng. Bởi chính là ta, là ta đã không giữ lời. Bởi cùng đó là những thề nguyền, đính ước, người ta thì giữ gìn được, chàng thì còn canh cánh bên lòng thế mà ta thì đã bội bạc. Vậy mà giờ chàng vẫn còn yêu thương ta, vẫn muốn ta trở về là Nga Nhi ngày nào, thì ta càng không còn mặt mũi nào mà gặp chàng.

    Ta không xứng đáng! Ta chính là không xứng đáng với ngay cả bản thân mình năm mười bốn, mười lăm tuổi chứ đừng nói là xứng đáng với chàng. Làm sao ta lại có thể quay trở về bên chàng và bình thản như chưa có chuyện gì xảy ra?

    Bảy ngày sau thì có tin từ Hoa Lư đưa về, Lê Hoàn đã mang ngăm ngàn quân tinh nhuệ tiến thẳng sang Chiêm Thành để chinh phạt.

    Trước đó đã gửi thư thượng khẩn yêu cầu vua Chiêm thả sứ thần của Đại Cồ Việt, nhưng Chiêm Thành không chịu nghe theo. Hành động ngông cuồng đó khác nào tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đại Cồ Việt? Nên không còn cách nào hơn là triều đình Hoa Lư phải mang quân sang Chiêm Thành. Danh nghĩa là đòi lại sứ thần, nhưng thực chất là dạy cho vua Chiêm một bài học, đập tan ý định gây hấn của họ.

    Tin vừa đưa về Đông Lỗ như thế thì ngay ngày hôm sau ta lại nhận được một bức thư của Lê Hoàn do thị vệ triều đình chuyển tới. Thư viết rất vội, có lẽ là viết trước lúc chuẩn bị sang nước Chiêm. Cũng chỉ vỏn vẹn mấy dòng mà như sấm vang chớp nổ trên bầu trời Đông Lỗ:

    "Ta vẫn định chờ hồi âm để xem ý tứ của nàng. Nhưng giặc Chiêm Thành ngông cuồng quá nên Đại Cồ Việt không còn cách nào khác! Ta phải đích thân dẫn quân sang đó dạy cho chúng một bài học, cảnh cáo những mưu đồ của chúng và đòi lại sứ thần – cũng chính là đòi lại uy tín, danh dự cho nước Đại Cồ Việt.

    Ta nhất định sẽ dành chiến thắng trở về! Nàng hãy chờ ta! Khi từ Chiêm Thành mã đáo trở về, ta sẽ qua Đông Lỗ đón nàng về Hoa Lư.

    Lê Hoàn"

    Bức thư chỉ vỏn vẹn vài chục chữ mà khiến người ta như sống dở chết dở, chẳng biết nên thế nào cho đành.

    Những lúc tối lửa tắt đèn, ngồi một mình thanh vắng thì nước mắt đầm đìa, lòng đau đớn hổ thẹn khôn nguôi. Ta không xứng với chàng! Ngàn lần không xứng! Mà sao chàng cứ phải nhất nhất muốn ta ở bên chàng? Tấm chân tình của chàng làm sao ta dám nhận, sao lại có thể thản nhiên nắm tay chàng mà đi giữa nhân gian nữa đây?

    Những buổi sáng sớm khi tỉnh ngủ dậy thì lo lắng bồn chồn. Chỉ sợ sáng nay từ Chiêm Thành về Lê Hoàn sẽ tới Đông Lỗ. Ôi ta còn mặt mũi nào mà đối diện với chàng? Làm sao ta có thể đứng trước mặt chàng, làm sao có thể lại là Nga Nhi ngày nào chờ chàng về qua đón rước? Ta chỉ muốn mình có thể biến mất, có thể trốn đi đâu đó để chuyện ấy không bao giờ xảy ra, để ta không bao giờ phải đối mặt! Mà ta biết trốn đi đâu bây giờ? Ta biết làm gì đây?

    Nhưng khi trưa nắng im ắng, vắng lặng, thì lại thấy bực dọc trong người. Nhìn vào bức thư lại thấy không giữ nổi bình tĩnh. Sao lại không cần biết ý tứ của ta mà có thể tự mình quyết định khi trở về sẽ qua đây đón ta? Có phải Lê Hoàn coi ta như một thứ đồ vật, muốn tới lấy lúc nào thì lấy? Dù thế nào ta cũng là con người, cũng có những tâm tư, nguyện vọng. Sao có thể không cần biết tâm tư ấy mà tự mình quyết định như thế!

    Thế rồi khi chiều xuống, lại hối hận vì những bực dọc của mình ban trưa. Mình còn có thể trách móc người khác hay sao? Giá lại có thể trở lại mười mấy năm trước, chắc ta sẽ hạnh phúc vô bờ chờ chàng về đón. Nhưng mưa dập gió vùi mười mấy năm rồi, chỉ còn thấy lòng hổ thẹn trước tấm chân tình của chàng.

    Cuối tháng Chín có tin báo về, quân Đại Cồ Việt đã thắng lớn ở Chiêm Thành. Vua Chiêm bị chém đầu ngay tại trận, nhiều thành trì đã bị san phẳng. Quân Đại Cồ Việt bắt sống được nhiều tướng sỹ, mỹ nữ, thu được nhiều đồ châu báu, lụa là và đang trên đường trở về Hoa Lư.

    Ta nhận được tin thì luỳnh quýnh như gà mắc tóc. Thấy mình như một con thú đã bị dính bẫy, càng chạy quanh thì càng sợ hãi càng quay cuồng.

    Thấy thế Lan Nhi mới bảo:

    - Nương nương đừng có cuống lên như trẻ con vậy! Giờ em chỉ hỏi người một câu thôi: Người có muốn về hoa Lư hay không? Người hãy trả lời đi rồi tính!

    Ta ngồi thẫn thờ bên bàn phấn cho nàng chải tóc. Ta nhìn vào mặt mình ở trong gương rồi lẩm bẩm, chẳng rõ là với nàng hay với chính mình:

    - Ta lại còn có thể về Hoa Lư nữa hay sao?

    - Nếu vậy thì việc gì người phải rối hết cả lên! Hãy biên ngay một bức thư, sai người đón đầu đoàn quân mà đưa cho Hoàng Thượng. Thế là xong! Không lẽ người đã viết thư từ chối mà Hoàng Thượng vẫn vào Đông Lỗ đón người hay sao?

    Ta gật đầu cho là phải, thế là suốt cả ngày ngồi biên một bức thư. Viết rồi lại xé, xé rồi lại viết không biết bao nhiêu lần cuối cùng cũng xong một bức thư ngắn ngủi. Ta bảo Lê Hoàn rằng ta thực sự không còn là Nga Nhi của ngày xưa nữa. Ta không có mặt mũi nào để đối diện với chàng, không thể nào làm vợ của chàng được. Giờ ta chỉ có một ước muốn là được sống thanh đạm nơi thôn dã quê nhà. Tấm chân tình của chàng, món nợ thề bồi kết tóc xe tơ với chàng, nếu có kiếp sau ta nguyện làm trâu ngựa để đền đáp, phục vụ chàng.

    Thư gửi đi rồi càng thêm phần mất ăn mất ngủ. Không biết Lê Hoàn nhận được thư rồi suy nghĩ ra sao?

    Đầu tháng Mười có tin đoàn quân Đại Cồ Việt đang tiến gần về Đạo Ái.

    Mỗi tin tức đoàn quân về gần hơn càng làm ta thêm một phần sầu muộn, không còn thiết tha gì nữa. Khi ngồi, khi nằm, khi đứng, khi đi đều hết sức bứt rứt ở trong lòng. Cảm giác như thời gian thì đông cứng mà nỗi lo lắng, muộn phiền thì bủa vây khắp xung quanh vậy.

    Một ngày giữa tháng Mười thì nhận được tin đoàn quân đã đi qua Đạo Ái, tiến thẳng về Đạo Đại Hoàng rồi. Nghe xong ta thở ra một cái.

    Thấy lòng nhẹ nhõm.

    Nhẹ nhõm đến trống trải.

    Và đau đớn!

    Không còn lo lắng nữa. Không còn muộn phiền nữa. Chỉ còn một nỗi buồn thật dài, thật sâu ở trong lòng.

    Buổi tối sau khi và qua loa bát cơm cho có lệ, ta bảo Lan Nhi ta muốn đi ra sông Cầu Chày. Chỗ cây gạo già. Nàng nhìn mặt ta, đặt tay lên trán ta rồi bảo:

    - Nương nương đang hâm hấp nóng như thế này, ngoài bờ sông gió máy lạnh lắm, sương muối lại xuống nữa, nên ở nhà thôi.

    Ta im lặng không thèm nói lại nàng. Ta muốn ra đó, thế thôi! Nàng không đi ta sẽ tự đi! Thấy thái độ ta như vậy, nàng thở dài đánh thượt một cái rồi cũng và nốt bát cơm đang ăn dở, xong đi lấy áo choàng cho ta. Rồi bảo gia nhân đốt chiếc đèn lồng, nàng xách trên tay rồi hai chúng ta đi ra.

    Bên ngoài trăng sáng vằng vặc nhưng trời rất gió và lạnh. Sương đêm theo gió thấm vào người buốt thấu tới xương. Mới hay chìm trong những lo lắng và suy nghĩ, mà mùa đông đã đến tự lúc nào không hay biết.

    Càng gần bờ sông gió càng mạnh hơn. Gió đưa hơi nước và sương đêm từ mặt sông lên táp vào người khiến ta và Lan Nhi không khỏi run từng đợt. Ngay cả ánh trăng cũng sắc lạnh như thể cứa được vào người.

    Ta đi đến rồi đứng đó ở gốc cây gạo già.

    Im lặng.

    Ta thấy lòng quặn đau.

    Thế là chúng ta lại đi qua nhau một lần nữa. Lần này thì chắc chắn là mãi mãi rồi! Chắc chắn là sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa!

    Suốt những ngày qua ta không dám đối diện, ta vẫn cố dấu diếm điều này, nhưng sự thực là vẫn có một hi vọng, một mong chờ nhỏ nhoi như một ánh nến leo lét giữa đêm trường vô thức len lỏi vào những tranh đấu trong lòng ta, hi vọng rằng ông trời sẽ có một cách nào đó để hóa giải mọi chuyện, để cho ta có cơ hội bên chàng một lần nữa. Nhưng giờ thì đã hết rồi! Hết thật rồi! Hết thật rồi..

    Nhưng cũng phải thôi, còn có thể làm khác được chăng? Còn có thể khác đi được chăng?

    Bóng cây gạo già nhòe đi.

    Bóng lấp lánh của dòng Càu Chày nhòe đi.

    Bóng vầng trăng cũng nhòe đi.

    Tất cả quện với nhau thành một thứ nước đặc quánh, sóng sánh ánh bạc. Trào ra. Cuốn trôi đi mọi u buồn, sầu muộn, mọi mong chờ, thất vọng, mọi đau đớn khổ sở.

    Nó càng trào ra, càng cuốn trôi đi, ta càng thấy nhẹ nhàng, dễ chịu.

    Ta cứ đứng như thế. Chẳng biết bao lâu.

    Có bóng trăng chứng dám cho tấm lòng của ta!

    Có cây gạo già chứng dám cho những suy tư của ta.

    Có dòng sông vỗ về những tâm sự không thể nói của ta.

    Đúng lúc đó thì bên cạnh ta, cách chừng hai, ba thước một giọng nói chầm chậm và dịu dàng vang lên:

    - Nàng có biết hồi tháng Tám, khi đứng ở đây ta đã nghĩ điều gì không?

    Ta liền ngưng khóc. Trong giây lát tưởng như máu đã đông cứng hết trong huyết quản, tưởng như mình đã hóa đá. Lê Hoàn!

    Vội vã đưa tay lên quệt đi những giọt nước mắt còn đọng trên má, rồi ta đứng như trời trồng ở đó. Không dám cả quay mặt sang bên cạnh để nhìn. Là thật hay là ảo ảnh? Sao Lê Hoàn lại có thể xuất hiện ở đây? Không phải đoàn quân đã đi qua Đạo Ái về Hoa Lư rồi sao? Có lẽ nào..

    - Khi đó trăng rất sáng – Vẫn giọng dịu dàng ấy vang lên bên cạnh ta – Ánh trăng soi rõ từng phiến lá của cây gạo, soi rõ từng tảng đá bên bờ sông, soi rõ từng bụi lau sậy ở bên dòng nước. Ta đã đứng đó rất lâu, chìm ngập trong ánh trăng im phăng phắc đó. Rồi ta tự hỏi, một ngàn năm trước ánh trăng này đõ có chưa? Có rồi. Một ngàn năm sau ánh trăng này còn không? Vẫn còn. Còn ta? Một ngàn năm trước ta chỉ là một hạt bụi. Một ngàn năm sau nữa cũng chỉ là một hạt bụi. Mũ áo này cũng không còn gì. Phú quý này cũng không còn gì. Danh vọng tót vời cũng không còn gì. Ta chỉ ở đây, khoảnh khắc này thôi. Chính là khoảnh khắc này khi ta đang ngắm nhìn vầng trăng, ngắm nhìn cây gạo, ngắm nhìn bụi lau sậy, ngắm nhìn cả những dãy núi đá in lên nền trời đêm ở phía xa kia. Trước đó ta cứ nghĩ mãi về chuyện của ta và nàng. Ta và nàng có thể lại như xưa không? Chúng ta lại có thể nắm tay nhau đi giữa nhân gian này hay không? Đinh Bộ Lĩnh đã không còn. Nàng đã tự do rồi. Nhưng còn Toàn Nhi, còn mười lăm năm xa cách. Còn đó bốn chữ "Hoàng hậu nhà Đinh" vẫn treo lơ lửng trên đầu. Liệu ta có thể vượt qua được không? Thế rồi khoảnh khắc đó ta chợt nhận ra, chúng ta chỉ có một kiếp người ngắn ngủi này thôi, mà sao phải nghĩ suy nhiều đến thế. Mà sao phải tính toán nhiều đến thế! Giờ có chúng ta ở đây. Nàng vẫn là Nga Nhi ta luôn yêu thương nhung nhớ, vậy thì hà cớ gì phải đắn đo, suy nghĩ mãi. Chính khi đó ta mới hẹn nàng tới nơi này để nói cho nàng biết điều ta vừa ngộ ra được.

    Nói rồi lại im lặng một lúc. Rồi tiếp:

    - Những điều ta muốn nói với nàng chính là những điều đã viết hết ở trong thư. Ý của ta bao năm qua chưa hề thay đổi. Xin nàng hãy về Hoa Lư cùng ta!

    Ta lau vội những giọt nước mắt đã đua nhau lăn dài trên má tự lúc nào không biết rồi bảo:

    - Hoàng Thượng, những điều cần nói thần thiếp cũng đã nói cả trong thư. Thần thiếp xin cáo lui.

    Nói rồi vội vã quay người rời đi.

    Nhưng Lê Hoàn đã túm chặt lấy cổ tay ta, hạ giọng bảo:

    - Ta hôm nay chỉ là vì quá đau buồn mà đưa chân tới nơi này. Nhưng không ngờ, không hẹn mà lại gặp nhau ở đây. Chứng tỏ trong lòng nàng vẫn còn có chỗ cho ta. Là trong lòng nàng vẫn còn có ta. Đã đến rồi thì xin hãy ở lại. Ở lại bên cạnh ta. Ta yêu nàng!

    Ta đưa bàn tay lên ôm lấy mặt khóc. Ta muốn giật tay chàng ra rồi chạy đi thật nhanh! Thế mà đôi chân không thể nào nhấc nổi. Lê Hoàn đã từ từ buông bàn tay của ta ra. Nhưng ta vẫn không thể nào cất bước, cứ đứng ở đó mà ôm mặt khóc.

    Rồi ta thấy hai cánh tay chắc khỏe vòng qua ôm lấy vai mình. Rồi ta thấy vòm ngực rộng lớn, ấm áp đã áp sát vào mình. Rồi một cái xiết chặt.

    Thế là chẳng ngăn nổi mình nữa. Ta gục luôn vào vòm ngực ấy mà khóc nức nở. Nước mắt có lẽ đã chảy thành sông. Gột rửa đi bao uất ức, đớn đâu, muộn phiền.

    Chàng không nói gì, chỉ ôm xiết ta mỗi lúc thêm chặt.

    Chúng ta đứng như vậy bao lâu? Chẳng rõ nữa! Có lẽ thời gian đã ngừng trôi rồi! Hoặc cũng có thể thời gian đã trôi ngược về những ngày tháng chúng ta còn trẻ, những ngày tháng chúng ta chẳng ngại ngần ở trong vòng tay nhau. Khi ta thấy chàng khẽ đẩy ta ra, nắm lấy bàn tay ta rồi dắt ta đi, thì hai người cứ như thế mà sánh bước bên nhau đi dạo khắp cánh đồng. Như những ngày chúng ta còn bên nhau mười bốn, mười lăm năm trước. Như những ngày chúng ta còn mông mơ và vô lo vô nghĩ.

    Mặc kệ trời lạnh!

    Mặc kệ sương muối xuống!

    Mặc kệ đêm đã về khuya!

    Chúng ta cứ nắm chặt tay nhau, thong thả đi khắp nơi. Dọc bờ sông. Cánh đồng phủ ánh trăng trắng xóa. Lang thang tất cả những nơi thân quen khi xưa chúng ta từng dạo bước.

    Chúng ta cứ đi như thế, mải mê. Đến khi mặt trời lên cao bằng con xào thì chúng ta quay về trại của chàng và ngủ.

    Đó là một trại dã chiến đã được dừng lên từ chiều tối qua bên bờ sông, được binh lính canh phòng cẩn mật.

    Mặt trời lên cao chiếu vào gian trại làm bên trong ấm nực. Thế là chúng ta cứ thế, năm tay nhau và ngủ ngon lành sau một đêm mệt nhoài.

    Khi ta tỉnh ngủ dậy thì trời đã nhá nhem tối. Không thấy Lê Hoàn ở bên cạnh, thoạt tiên ta tưởng tất cả chỉ là một giấc mơ. Nhưng nhìn ra xung quanh thấy khung cảnh lạ lẫm, những đường viền vải của căn lều dã chiến hiện lên lờ mờ trong ánh chiều tà thay cho khung cảnh phòng ngủ quen thuộc hàng ngày, ở một góc phòng có một chiếc bàn thấp đặt trên một tấm thảm dày bằng lông thú để cho các bậc quý nhân làm việc, lại thêm cảm giác về một cơn đau đầu nhẹ nhẹ hiện lên càng lúc càng rõ ràng, thì ta mới dần tin là mình đang ở thực tại chứ không phải trong một giấc mơ.

    Còn đang miên man như thế thì thấy bước chân người đi vào. Ngẩng lên nhìn thì chính là Lê Hoàn. Nhìn Lê Hoàn từ xa đi lại, ta không khỏi cảm thấy ngượng ngùng. Hai má bất giác đỏ bừng lên. Vội đứng bật dậy ở bên giường nhìn chằm chằm xuống mũi giầy của mình mà không biết phải nói gì cho phải.

    Trong khi đó Lê Hoàn hết sức thoải mái, tiến lại gần nắm lấy cánh tay ta rồi hỏi hết sức dịu dàng:

    - Dậy rồi sao? Nàng có mệt không?

    - Thần thiếp vẫn hơi mệt một chút. Ta vẫn không thể tự nhiên được, vẫn cúi gằm mặt xuống đất.

    - Ta cũng đoán vậy nên đã bảo gia nhân chuẩn bị một bồn nước nóng cho nàng tắm rồi. Hãy đi tắm cho dễ chịu rồi trở lại chúng ta cùng dùng bữa tối.

    Liền đó gọi gia nhân vào đưa ta đi tắm.

    Nước nóng làm thư giãn các cơ bắp, khiến toàn thân ta hết sức khoan khoái, dễ chịu. Cơn đau đầu nhẹ lúc nãy đã tan đi tự lúc nào.

    Tắm táp xong, người thị nữ theo hầu đưa quần áo vào cho ta mặc. Đều là những quần áo quen thuộc ta vẫn mặc hàng ngày. Hỏi ra mới biết trong lúc ta ngủ, Lê Hoàn đã sai thị vệ về Đông Lỗ yêu cầu Lan Nhi chuẩn bị cho ta.

    Tắm táp xong ta trở lại gian trại lớn, là nơi ta vừa ngủ lúc nãy, cũng chính là buồng ngủ và nơi làm việc của Lê Hoàn.

    Đẩy tấm vải dày dùng làm cửa bước vào, bỗng thấy chút ngượng ngùng không được thoải mái. Nhìn thấy Lê Hoàn đang lúi húi viết lách gì đó ở bên bàn, bỗng nhiên thấy dường như có cái gì đó không phải chăng khi ở lại một mình nơi đây cùng với Lê Hoàn. Trời đã tối rồi! Đang ngập ngừng thì đã thấy tiếng Lê Hoàn nói vọng lại, dù mắt vẫn chắm chú nhìn vào đống giấy tờ ở trên bàn:

    - Nàng tắm xong rồi sao? Lại đây chờ ta một chút rồi ta gọi thị vệ dọn cơm!

    Ta bước lại, ngồi ghé ở bên giường chờ đợi. Cảm giác không thoải mái càng tăng lên. Có lẽ tắm táp xong khiến đầu óc ta trở nên tỉnh táo, những thăng hoa của buổi tối hôm qua đã dịu đi rồi. Chợt thấy dường như mình đã hơi bốc đồng, dường như đã hành động không hợp với lứa tuổi của mình lắm thì phải..

    Đang loay hoay với những ý nghĩ ấy cùng với câu hỏi nên về Đông Lỗ bây giờ hay ở lại, thì Lê Hoàn đã tiến lại ngay sát bên ta tự lúc nào. Giật mình đứng lên thì đã thành đối diện ngay sát trước mặt chàng. Lê Hoàn thấy thế khẽ mỉm cười, cúi sát khuôn mặt chàng vào cổ, vào vai ta rồi thì thầm:

    - Thị nữ vừa cho nàng tắm bằng hương liệu gì mà thơm quá vậy?

    Ta lẩm bẩm nói không ra hơi:

    - Thần thiếp.. không biết.

    Lê Hoàn khẽ phì cười rồi tiếp:

    - Không ngờ lại có ngày chúng ta được thân thiện như thế này bên nhau. Ta cảm giác như chúng ta trở lại thời trẻ, cảm giác như chúng ta chưa từng xa nhau vậy. Nàng có thấy thế không?

    "Thiếp thực sự không biết" – ta đang định trả lời như vậy. Nhưng chữ "Thiếp" vừa thoát ra thì liền bị chặn lại vì Lê Hoàn đã áp lại định hôn ta. Ta thoáng chút giật mình nên khi khuôn miệng mềm và ấm của chàng vừa lướt qua môi ta, ta liền lùi lại. Chiếc thành giường ngáng vào chân ta, làm ta chới với ngã về phía sau. Nhưng Lê Hoàn đã kịp vòng tay ra. Đến khi ta định thần lại thì đã thấy mình nằm gọn trong vòng tay chàng. Mặt áp chặt vào khuôn ngực chàng. Tim ta đập loạn xạ. Chẳng rõ vì được gần chàng đến thế, hay vì cú giật mình ban nãy. Chưa kịp động tĩnh gì thì Lê Hoàn đã từ từ xiết chặt ta hơn rồi dịch chuyển đôi môi của mình chạm vào má ta, vào mang tai ta rồi thì thầm vô cùng dịu dàng:

    - May quá ta đã giữ được nàng rồi.. Cuối cùng chúng ta cũng được ở bên nhau như thế này..

    Liền đó chàng từ từ đưa đôi môi của mình tìm đến, khẽ chạm vào bờ môi ta. Dừng lại một lúc. Rồi lại từ từ dịch chuyển tới, khẽ ngậm lấy bờ môi ta. Cái chạm môi quá đỗi ngọt ngào và dịu dàng ấy mở bung mọi cảm xúc, xóa tan mọi e dè, nghi ngại. Ta vòng tay ôm lấy chàng. Tim ta như nhảy khỏi lồng ngực. Người như mê đi. Thế rồi từ từ mở rộng miệng đón nhận đôi môi chàng. Thế là môi cuốn lấy môi! Chúng ta cuốn chặt lấy nhau trong một cơn lốc mạnh mẽ, dại cuồng.

    Thế rồi chân không đứng vững được nữa. Chúng ta dìu nhau nằm xuống giường. Thế rồi bao nhiêu sức lực còn lại từ tối hôm qua, tới giờ chúng ta dốc hết ra để quấn lấy nhau! Để xiết chặt nhau! Để áp mãi vào nhau! Để đẩy nhau vút lên tận mây ngàn của vùng đê mê hoan lạc..

    Thế rồi chúng ta cứ như thế ở lì trong trại năm, sáu ngày liền. Quấn quít lấy nhau không rời. Chúng ta chẳng thèm quan tâm tới ngày tháng. Chúng ta chẳng thèm quan tâm tới tương lai hay quá khứ. Chúng ta chẳng thèm quan tâm tới sớm tối. Chẳng thèm quan tâm tới xã tắc, sơn hà. Chúng ta cứ như thế bên nhau. Nhìn nhau! Cười! Ôm ấp! Vuốt ve! Âu yếm! Yêu! Ăn! Rồi ngủ!

    Chẳng thể nghĩ là sau tất cả mọi bão giông, chúng ta lại có những ngày hạnh phúc đến vậy. Lại có thể thắp sáng mình đến như vậy! Lại có thể hân hoan, đê mê đến như vậy! Ta ước gì thời gian ngừng trôi. Thời gian cứ mãi dừng lại ở nơi này.

    Nhưng ngày vui có bao giờ kéo dài! Đến ngày thứ sáu, thứ bảy gì đó thì chúng ta trở lại mặt đất. Cũng phải thôi, dù bắc rạp dài ngàn dặm thì cuộc vui nào chả đến lúc tàn. Huống hồ trong hai kẻ định yêu nhau quên đời, quên ngày tháng này lại có một người là Đế Vương, là người đứng đầu thiên hạ.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  6. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXV. HOA LƯ NGÀY TRỞ LẠI

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Buổi sáng hôm đó, khi ta tỉnh ngủ dậy thì không thấy chàng ở bên. Suốt mấy ngày liền lúc nào cũng quấn quít bên nhau không rời, nên giờ không thấy chàng bên cạnh bỗng thấy hụt hẫng lạ. Ta kéo chăn lên người, cố nấn ná hơi ấm, rồi nằm nghĩ về những ân ái đã cùng nhau những ngày qua mà không khỏi đỏ mặt.

    Không biết chàng đi đâu mà sớm thế? Phải chăng triều đình có tin gì báo xuống hay sao? Mà cũng phải thôi! Đã ở đây sáu, bảy ngày rồi còn gì! Chắc Hoa Lư cũng tồn đọng không biết bao nhiêu là việc. Có lẽ cũng đã đến lúc nên trở về rồi! Nghĩ thế không khỏi cảm thấy chút buồn dâng lên trong lòng. Ta vừa kéo chăn trùm lên đầu như thể không muốn đối mặt với sự thật thì nghe thấy tiếng chàng cười ở bên cạnh:

    - Giờ này mà còn định kéo chăn lên ngủ tiếp hay sao? Nàng dậy đi ta có chuyện muốn nói.

    Ta vẫn nằm im chẳng thèm động đậy. Chàng thấy thế lại cất tiếng cười vang. Chàng lật một góc chăn lên rồi cúi xuống hôn vào má ta và tiếp:

    - Ta biết nàng dậy rồi mà! Hãy dạy mặc ấm vào đi rồi ta nói chuyện!

    Môi và mặt chàng áp vào cổ ta lạnh toát làm ta không khỏi rùng mình. Lạnh như vậy chứng tỏ chàng đã ra ngoài được một lúc rồi mới trở lại.

    Chàng nói rồi đứng dậy lại bàn ngồi viết. Ta vờ ngoan cố, nấn ná một lúc ở trên giường rồi mới tỉnh dậy, khoác chiếc áo choàng cho ấm rồi lại ngồi bên chàng trên chiếc thảm. Ta gục mặt vào lưng chàng, hai tay ôm lấy eo chàng, lắng nghe tiếng tim chàng đập, tiếng hơi thở của chàng và cảm nhận cơ thể chàng rung lên khe khẽ sau mỗi nhịp đưa bút. Thấy cõi nhân gian sao mà bình yên đến thế! Mong sao khoảnh khác này cứ kéo dài ra mãi. Mãi mãi cứ thế này thôi. Chàng ở đây và ta dựa vào chàng cho đến hết đời..

    - Triều đình báo tin xuống nhiều việc cấp bách quá rồi. Có lẽ chúng ta cũng phải về thôi! – Đúng như ta dự đoán, chàng cất tiếng. Nói rồi đặt bút xuống, quay lại ôm ta vào lòng, chàng tiếp: Ta ước gì cứ mãi được ở bên nàng như thế này mà quên đi tất cả. Nhưng còn giang sơn xã tắc đó. Biết tính làm sao đây!

    Ta chẳng nói gì. Chỉ lẳng lặng ôm lấy khuôn mặt chàng rồi hôn vào má chàng, vào mang tai chàng. Chúng ta nhanh chóng chìm vào một nụ hôn thật dài, thật sau ướt rượt và đê mê. Ta buông lơi áo choàng. Ta cuốn lấy chàng. Ta chỉ muốn được ân ái cùng chàng. Ta chẳng cần quan tâm tới điều gì khác nữa! Nhưng mặc cho nhịp độ của ta càng lúc càng cuồng nhiệt, thì chàng lại dần dần chậm lại rồi dừng hẳn. Xong chàng nâng khuôn mặt ta lên và bảo:

    - Nga Nhi, ta đang định ngày mai sẽ trở về Hoa Lư! Nàng hãy xem có đồ đạc gì cần mang theo rồi chúng ta cùng đi luôn chứ!

    Ta giật nảy mình như mỗi khi nằm mơ thấy mình vừa rơi từ trên cao xuống đất! Chàng về Hoa Lư thì đã đành, nhưng ta cũng phải về Hoa Lư hay sao? Ta thực tình chưa nghĩ đến việc ấy! Dù biết là không thể không về nếu muốn được ở bên chàng. Thế mà.. đã đến lúc rồi sao?

    Ta ngẩn ra, trong đầu rối như một mớ tơ vò. Mãi rồi mới lẩm bẩm bảo:

    - Thần thiếp cứ nhất định phải về Hoa Lư sao?

    Lê Hoàn nãy giờ im lặng nhìn ta, khi nghe thấy câu nói ấy không tránh khỏi ngạc nhiên:

    - Nàng nói vậy là sao Nga Nhi? Có lẽ nào..

    - Không phải như vậy! Chỉ là thiếp.. thiếp chưa sẵn sàng trở lại Hoa Lư.

    - Vì sao chưa sẵn sàng chứ? Có điều gì cản trở nàng nữa chứ? Lê Hoàn nắm chặt lấy hai bàn tay ta, nhìn thẳng vào mắt ta.

    Ta cúi xuống để lảng tránh ánh nhìn của chàng. Miệng lí nhí:

    - Không có gì cản trở thiếp. Chỉ là thiếp muốn có thêm thời gian..

    - Tại sao nàng lại phải cần thêm thời gian? Để làm gì và bao lâu chứ?

    - Thiếp muốn.. qua tháng Mười năm sau sẽ về Hoa Lư.

    Lê Hoàn nghe như thế nhảy dựng lên:

    - Qua tháng Mười năm sau! Là một năm liền ư? Tại sao nàng lại cần nhiều thời gian thế? Sao không theo ta về Hoa Lư luôn?

    - Vì tháng Ba tới đây là hết tang của Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu, và tháng Mười là hết tang của Đinh Bộ Lĩnh.. Thần thiếp..

    - Như vậy thì không được! Ta vừa nói đến đó Lê Hoàn liền thay đổi thái độ, dứt khoát nói rồi đứng dậy ở bên bàn và trong một lúc lâu không nói thêm một lời nào nữa.

    Thực ra ta có thể hiểu được chàng. Chúng ta chẳng còn trẻ trung gì nữa. Hơn nữa thời gian một năm là quá dài! Ai mà biết được liệu chuyện gì có thể xảy ra. Mãn tang Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu thì đã đành, nhưng đợi cho hết tang họ Đinh rồi mới về với chàng, đối với Lê Hoàn mà nói, khác nào chạm vào lòng tự ái. Nhưng ta cũng có cái lý riêng của mình. Liền đứng dậy, tiến lại phía sau chàng, bảo:

    - Thần thiếp biết việc này là vô lý, nhưng cũng chỉ là vì thần thiếp muốn cho trọn vẹn nghĩa tình với người đã chết nên mới đề xuất như vậy. Chẳng gì cũng nghĩa vợ chồng hơn mười năm nay. Thêm nữa Đinh Bộ Lĩnh từng là Hoàng Đế, thần thiếp cũng từng là mẫu nghi của thiên hạ. Bách dân trăm họ nhìn vào.. Nếu không giữ lề lối, phép tắc thì e rằng..

    - Ta không muốn như vậy! Ta không muốn chúng ta vì Đinh Bộ Lĩnh mà trì hoãn thêm bất cứ điều gì nữa! Ân oán giữa chúng ta đã dứt rồi! Khi xưa Đinh Bộ Lĩnh có được nàng thì nay ta có được giang sơn. Giờ đây Đinh Bộ Lĩnh đã chết, chỉ còn ta và nàng, không thể nào một người đã chết lại vẫn có thể lần thứ hai cướp mất cơ hội hạnh phúc của ta được!

    Ta vòng tay ôm lấy lưng chàng, nước mắt đã lưng tròng, bảo:

    - Thần thiếp cũng không muốn như vậy. Nhưng nỗi khổ của thần thiếp mong Hoàng thượng hãy hiểu cho. Nếu không phải thần thiếp đã từng là vợ của một vị Hoàng Đế và nay lại về Hoa Lư để làm vợ của một vị Hoàng Đế thì thiếp không quản ngại. Nhưng hoàn cảnh trớ trêu như vậy thần thiếp không thể không e dè..

    Nói rồi cứ thế đứng ôm chặt lấy chàng từ phía sau mà khóc. Chàng lặng im. Những tưởng ta đã làm cho chàng xuôi lòng rồi. Nhưng không ngờ, chàng nuốt ực một cái rồi hét lên:

    - Không! Ta không muốn trì hoãn thêm nữa! Ta muốn nàng phải về Hoa Lư ngay cùng ta! Ta cũng không muốn nói thêm về việc này nữa! Nàng hãy suy nghĩ cho kỹ đi!

    Nói rồi vùng ra khỏi hai cánh tay ta, lao ra khỏi trại. Ta chạy theo ra ngoài thì đã thấy chàng nhảy lên lưng ngựa và phi ra cánh đồng. Ta nhìn theo tấm áo choàng nhung màu đỏ thêu rồng phượng bằng chỉ vàng bay phất phơ trong gió đang xa dần mà lòng không khỏi quặn đau, ngồi xụp xuống bên cửa trại bưng mặt khóc. Nàng thị nữ hàng ngày vẫn hầu hạ bên trại từ đâu đi tới đỡ ta dậy. Ta mới nức nở bảo nàng:

    - Hãy cho thị vệ về Đông Lỗ, gọi người mang kiệu tới đón ta.

    Nàng thị nữ mặt cắt không ra giọt máu, bảo vâng rồi dìu ta vào trong lều, đặt ta ngồi ở giường sau đó vội vã chạy đi.

    Một lúc sau thì Lan Nhi cùng bốn gia nhân từ Đông Lỗ mang theo kiệu tay hớt hải đi tới. Các gia nhân đứng đợi ngoài còn Lan Nhi theo thị nữ đi vào trong lều. Nhìn thấy ta đang nước mắt đầm đìa ngồi bên giường nàng ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng chẳng để nàng kịp mở miệng, ta liền quệt nước mắt đứng dây bảo "Chúng ta đi thôi!" rồi vội vã đi ra sân, lên kiệu để gia nhân khiêng về tận Trang mà không kịp nói thêm với nàng một câu nào nữa.

    Về đến Trang ta mới từ từ kể lại cho Lan Nhi nghe đầu đuôi sự việc. Nghe xong nàng cả cười rồi bảo:

    - Cứ nghĩ Hoàng thượng và Nương nương đã trải chiếu ngọc, buông rèm châu giữa cánh đồng mà ân ái mặn nồng mấy ngày qua nên mới không thèm trở về Đông Lỗ. Ai dè lại hóa ra cãi vã, rồi thì giận dỗi, mỗi người một hướng như vậy sao! Người xem như vậy có khác gì trẻ con không?

    Ta ngồi lún vào tấm thảm ông trên tràng kỷ, chẳng thèm để ý đến lời nàng. Ta vẫn còn ngỡ ngàng trước phản ứng của Lê Hoàn lúc ấy! Không ngờ việc ta muốn hoàn thành chút tâm ý cuối với họ Đinh rồi mới về Hoa Lư lại làm chàng phật ý như vậy. Chẳng còn thiết đúng sai gì nữa! Thông thường theo lệ, khi người chồng mất thì người vợ phải để tang chồng ba năm mới được tài giá. Dân gian từ bắc chí nam đều phải tuân theo như vậy, huống hồ ta từng là Hoàng hậu của họ Đinh, từng là mẫu nghi của thiên hạ. Nay chưa hết tang mà lại trở thành Hoàng hậu của nhà Lê không phải là sẽ trở thành chuyện đàm tiếu cho thiên hạ hay sao? Thế mà chẳng chịu nghe ta nói đúng sai, phải trái, đùng đùng hất ta ra rồi bỏ đi.

    Mà suy cho cùng ta cũng vẫn chưa sẵn sàng để về Hoa Lư. Ta chưa chuẩn bị cho việc ấy! Yêu chàng, muốn ở bên chàng mà ái ân quên ngày tháng là một chuyện. Nhưng về Hoa Lư ngay với chàng lại là chuyện khác..

    - Nhưng em nghĩ, lẽ ra người nên ở lại bên trại để giải quyết cho rõ trắng đen mọi chuyện với Hoàng thượng rồi hãy ở thì ở, về thì về chứ. Tự dưng bỏ về Đông Lỗ khi mọi chuyện chưa ngã ngũ như vậy chẳng phải hay đâu. Lát nữa Hoàng thượng trở về không thấy người đâu thì sẽ như thế nào? Rồi hai người định làm thế nào để giải quyết mọi chuyện đây? Hay hai người định cứ thế mà lại mỗi người một nơi?

    Câu nói ấy của Lan Nhi quả nhiên làm ta như bị dội gáo nước lạnh. Thật tình ta đã không nghĩ đến việc ấy! Khi chàng quay lại không thấy ta thì tính sao đây? Rồi sáng mai cứ thế thu dọn trở về Hoa Lư không nói một lời nào, rồi cứ thế mà xa nhau thật thì ta tính sao đây?

    Nghĩ thế phút chốc lòng lại phừng phừng như lửa đốt, đúng ngồi không yên! Nhưng thực tình ta cũng chẳng biết nên thế nào cho phải bây giờ! Ta chẳng thể lại trở sang bên đó mà làm lành với chàng! Mà làm lành rồi thì thế nào tiếp theo? Đi hay là ở chứ? Chưa quyết định được việc ấy thì rồi lại cãi nhau như lúc nãy chứ tránh sao được đây! Vậy thì sang làm gì?

    Ta càng lúc càng không yên ở trong lòng, không ngừng đi đi lại lại trong nhà như đã hóa điên. Lan Nhi chỉ còn biết ngồi nhìn ta rồi thở dài não nuột.

    Buổi chiều trời bỗng sầm sì. Mây bỗng kéo về không báo trước.

    Sâm sẩm tối lại có chút mưa phùn lất phất làm bóng tối kéo về thêm thê lương và lạnh lẽo!

    Thế mà ta cứ thấy như lửa đốt phừng phừng ở trong lòng! Chẳng rõ mưa gió lạnh lẽo thế này chàng có rời về Hoa Lư sớm không? Có khi là không? Vì nếu đi rồi chắc phải cho người qua báo ta chứ! Chứ cứ như thế mà đi thật hay sao?

    Buổi tối ngồi bên bàn nghe tiếng mưa rơi lộp độp từng hạt ngoài vườn, bên hiên nhà thì càng thêm não nề. Không phải là mưa lớn, chỉ là mưa lây phây thôi. Nhưng mưa đọng lại trên các tàu lá, mái ngói rồi rơi xuống thưa nhặt, rời rạc. Cứ từng giọt, từng giọt như xoáy vào nỗi sầu muộn trong lòng ta!

    Tối muộn, sau khi ăn cơm xong, ta đang ngồi bên bàn đếm tiếng mưa rơi, chờ Lan Nhi chuẩn bị cho ta đi ngủ thì trong nhà ngoài ngõ tiếng người xôn xao dạ ran hết cả lên.

    Liền đó một gia nhân gác cửa xô vào phòng, nói không ra hơi:

    - Bẩm Nương nương, có Hoàng thượng..

    Chưa kịp nói hết câu thì đã thấy Lê Hoàn cứ thế mà tiến thẳng vào phòng như một cơn gió.

    Ta còn đang sững sờ, chưa kịp nói gì thì đã quát ầm lên với các thị nữ vừa kịp quỳ mọp xuống dưới sàn nhà "Các ngươi mau ra ngoài hết cho ta!". Xong xuôi thì tiến thẳng lại ôm chầm lấy tao, bảo:

    - Lúc quay lại lều không thấy nàng đâu ta giận quá! Định cứ thế mà sáng mai về Hoa Lư luôn! Thế mà đến giờ thì nhớ nàng không thể chịu nổi nữa! Xin nàng hãy tha lỗi cho ta!

    Ta vòng tay ôm lấy chàng, cảm nhận từng hạt mưa lạnh đọng lại trên khuôn mặt chàng chạm vào cổ ta, chạm vào mang tai lạnh toát. Có lẽ chàng đã đi vội quá mà không kịp mang nón. Không cầm nổi xúc động, thế là nước mắt đua nhau lan dài trên má. Mà cảm giác tan nát cả cõi lòng. Không biết phải làm gì cho phải bây giờ!

    Chàng thấy thế khẽ đẩy ta ra, lấy hai ngón tay cái gạt nước mắt cho ta rồi bảo:

    - Thôi nàng đừng khóc nữa! Nước mắt của nàng làm ta đau lòng! Ta vừa nãy đi trên đường đã nghĩ ra một cách thế này, ta sẽ về kinh thành trước, còn nàng, hãy đợi qua Giỗ hết Nghĩa phụ và Nghĩa mẫu, qua Tiết Thanh minh đến cuối tháng Ba thì về Hoa Lư với ta có được không? Tuy tính ngày tính tháng thì vẫn chưa tròn ba năm, nhưng mà tính năm thì cũng đã đủ rồi. Như thế cũng đã gọi là hết tình hết nghĩa với Đinh Bộ Lĩnh, mà ta cũng không phải chờ nàng quá lâu! Nàng hãy nghĩ cho ta một chút chứ!

    Ta ngẫm nghĩ trong một lát, thấy không thể còn có phương án nào tốt hơn cả. Thêm nữa chính ta cũng không muốn xa chàng lâu hơn! Thế là vội vã gật đầu! Chàng thấy thế không giấu nổi nụ cười hạnh phúc, vòng tay ôm lấy ta. Đến đó thì chúng ta không nói chẳng rằng, không hẹn mà hai lòng một ý, cứ thế tìm lấy môi nhau mà quấn quít đắm đuối. Rồi cứ thế mà cuốn lấy nhau trong căn phòng ấm áp ở trang Đông Lỗ.

    Ngày hôm sau chàng định về Hoa Lư, thế mà chẳng nỡ rời. Chúng ta lại nấn ná thêm hai ngày nữa bên nhau rồi mới có thể chia tay. Lúc đi còn xem lịch chọn ngày, chừng qua tiết Thanh minh tới cuối tháng ba thì chàng sẽ cho kiệu về đón.

    Chàng đi rồi còn mình ta ở lại trang Đông Lỗ mong cho ngày tháng mau qua để tới ngày trở về Hoa Lư.

    Nhưng lúc đó ta đâu biết rằng, những tháng ngày say đắm của chúng ta có lẽ đã khép lại từ đây rồi. Và cơ hội phất cờ đến tay mà không phất, thì chưa chắc ta đã có cơ hội ấy lần thứ hai.

    Chờ đợi đằng đẵng cuối cùng cũng qua tiết Thanh minh.

    Mấy tháng xa chàng mà dài đằng đẵng như mấy năm! Không ngừng nhớ nhung những ngày tháng mặn nồng ở bên sông.

    Sau khi trở về Hoa Lư, chàng có biên một bức thư nói rằng cũng rất nhớ nhung ta và mong ngày gặp lại. Thư càng làm cho ta thêm quay quắt. Chỉ ước gì mình có thể bay ngay về Hoa Lư!

    Mong ngóng làm vậy thế mà đến cuối tháng Ba vẫn không thấy chàng cho kiệu về Đông Lỗ đón làm ta không khỏi đứng ngồi không yên!

    Không thấy chàng biên thư về. Cũng không nhận được tin tức gì từ Hoa Lư. Nên càng lo lắng! Không biết ở Hoa Lư đã xảy ra chuyện gì? Không biết chàng có được khỏe không? Tại sao lại im hơi lặng tiếng như vậy?

    Nhiều lần định cho người về Hoa Lư dò hỏi. Nhưng nghĩ dù sao đây cũng là chuyện hôn nhân, vợ chồng, mình là phận nữ, cũng nên kiên nhẫn một chút thì vẫn hơn.

    Lại tiếp tục chờ đợi!

    Đúng ngày mùng Năm tháng Tư thì có kiệu từ Hoa Lư về đón! Ta thở phào nhẹ nhõm! Hỏi han ra thì mới biết, mọi sự ở Hoa Lư vẫn bình an. Chỉ là công việc bận bịu quá nên tới giờ mới bố trí được kiệu về đón.

    Hai lần ngồi kiệu về Hoa Lư mà hai tâm thế hoàn toàn khác nhau! Cuối cùng thì ta cũng được một lần ngồi kiệu về với người mà mình yêu thương! Thế mà đến ngày cùng Toàn Nhi và Lan Nhi rời Đông Lỗ đi, bỗng thấy lòng quyến luyến lạ. Bịn rịn không muốn rời. Lúc lên kiệu rồi thì không khỏi dùng dằng, ngậm ngùi. Lần này đi rồi chẳng biết khi nào mới có ngày trở lại Đông Lỗ. Yêu thương, mong mỏi là thế, mà cũng chẳng thể biết trước được điều gì đang chờ mình ở Hoa Lư cả. Thành quách sâu thăm thẳm còn có thể đi hết chứ lòng người Hoa Lư sao mà dò cho đặng?

    Thế là cũng thành ra khóc lóc suốt dọc đường về Hoa Lư!

    Lan Nhi ngồi bên cạnh không khỏi càu nhàu "Thật không thể hiểu nổi Nương nương!". Nhưng rồi nàng ta cũng ngồi lặng thinh không nói gì nữa. Có lẽ nàng cũng cảm thấy những ngổn ngang ở trong lòng..

    Nếu biết rằng mọi chuyện sau này sẽ đưa tới kết cục ấy, thì ta không bao giờ về Hoa Lư!

    Nhưng ở đời từ cổ chí kim, đâu có ai biết trước được chữ ngờ! Bởi vậy ta khi ấy cũng cứ ngây dại mà về thôi! Ta cứ vì tình yêu mà về. Trong tâm trí ta lúc đó chỉ có tình yêu! Nào đâu có điều gì khác!

    Về Hoa Lư, ta lại sống ở Cung Cồ Quốc. "Cung Cồ Quốc" ấy là gọi theo cái tên cũ khi xưa. Còn giờ đây bảng tên hiệu đã bị gỡ đi rồi. Ở chỗ treo bảng hiệu vẫn còn để trống. Có lẽ sau khi ta được phong hậu, sẽ là biển tên hiệu mới được treo lên.

    Đứng ở nơi cái bảng tên hiệu để trống, thấy lòng nôn nao một cảm giác khó tả! Thì ra "hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" là cái cảm giác như thế này! Người cũ trở lại chốn xưa, lâu đài thành quách vẫn còn đó, cây hoa đào năm cũ vẫn khỏe sắc đỏ; nhưng mọi thứ đã thay đổi cả rồi, người xưa đã đã không ai còn nữa, cả một thế hệ, cả một đế chế đã ra đi như cái bảng tên hiệu đã mất ấy rồi..

    Cung Cồ Quốc về cơ bản vẫn được giữ như xưa. Hàng ngày vẫn có người quét dọn, lau chùi, chăm sóc cây cối nên mọi thứ vẫn được giữ sạch sẽ, ngăn nắp. Tuy nhiên hơn một năm không có người ở, nên không khỏi khiến cho khung cảnh dù vậy vẫn thấm chút tiêu điều, hoang vắng.

    Hi vọng thời gian tới có chúng ta sinh sống, cảnh sắc sẽ lấy lại được phần sống động.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  7. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXVI. HAI LẦN LÀM HẬU ĐẤT HOA LƯ

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Về Hoa Lư mới biết tại sao thời gian này Lê Hoàn lại bận rộn đến vậy. Chính là đang cho xây thêm rất nhiều thành quách và cung điện.

    Ở chân núi Đại Vân, Lê Hoàn cho dựng điện Bách Thảo Thiên Tuế để làm nơi coi chầu. Nơi này có cột được dát vàng, dát bạc, khắc rồng, chạm phượng vô cùng tinh xảo, tráng lệ và xa hoa. Bên Đông là điện Phong Lưu, bên Tây cho dựng điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc. Lại cho dựng lầu Đại Vân để ngắm cảnh. Bên cạnh có điện Trường Xuân và Long Lộc đều được lợp bằng ngói bạc. Trong đó điện Trường Xuân chính là nơi đặt long sàng để Hoàng Đế nghỉ ngơi hàng ngày.

    Trong số các cung điện này, điện Trường Xuân đã được hoàn thiện trước nhất để phục vụ cho vua ngủ nghỉ, còn các điện khác vẫn đang gấp rút được xây dựng. Dự kiến chừng một, hai năm nữa tất cả mới được hoàn tất.

    Đoàn người và xe về Hoa Lư vào giữa buổi chiều. Sau khi sắp đặt, dọn dẹp, ăn uống xong thì cũng đã đến tối. Đang thắc mắc sao không thấy Lê Hoàn đến đón mừng ta thì liền nhận được khẩu dụ của Lê Hoàn chuyển tới, theo đó Lê Hoàn tỏ ý vui mừng vì chúng ta đã về tới Hoa Lư an toàn, rồi nhắc nhở chúng ta nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe, đến ngày Mười bảy tháng Tư, vào giờ Hoàng đạo sẽ tiến hành lễ sắc phong Hoàng hậu.

    Nhận khẩu dụ xong không khỏi có chút hụt hẫng trong lòng!

    Ta cứ tưởng tượng rằng khi về Hoa Lư, chúng ta sẽ mừng mừng tủi tủi mà gặp nhau cho thỏa bao ngày chờ đợi. Cứ tưởng rằng sẽ vồ vập lấy nhau mà âu yếm, ái ân cho bõ bao đêm cô quanh. Thế mà ngờ đâu lại chỉ cho truyền khẩu dụ sang như thế! Lê Hoàn không nhớ nhung, không muốn gặp ta sao? Bao nhiêu lâu xa cách là thế mà không mong mỏi ta sao! Hôm nào trên bờ sông thì quyến luyến không muốn rời là thế, vậy mà đến khi người đã về tận đây thì lại chỉ cho truyền khẩu dụ chúc mừng! Tại sao lại như vậy chứ? Lại nhớ khi xưa họ Đinh còn sống, khi ta từ Đông Lỗ trở lại Hoa Lư, họ Đinh vì sủng ái Kiểu Quốc Hoàng hậu mà tiếp đón ta rất lạnh nhạt, cũng chỉ cho truyền khẩu dụ chúc mừng. Có lẽ nào giờ đây..

    Nghĩ qua nghĩ lại vặn vẹo một hồi, rồi ta lại tự an ủi mình, có lẽ ta nhạy cảm quá rồi! Dù sao đây cũng là Hoa Lư, Lê Hoàn còn bận trăm công ngàn việc, thêm nữa là triều đình còn có quy củ, phép tắc của triều đình, chứ đâu như những ngày nào tự do phóng khoáng bên sông Cầu Chày. Làm gì có chuyện muốn đến là đến, muốn qua là qua ngay được!

    Nghĩ thế rồi thôi, không vặn vẹo mình nữa.

    Nhưng dù sao cũng có những dự cảm mơ hồ, khó nói ở trong lòng..

    Thế mà rồi ba ngày sau Lê Hoàn cũng không tới! Đến lúc này thì ta không thể dấu nổi sự sốt ruột, bèn cho gọi Phạm Công công vào hỏi chuyện.

    Khác với thời họ Đinh còn trị vì, hiện nay việc đưa tin, cai quản ở Hậu cung cũng được giao cho các thái giám tín cẩn do chính Lê Hoàn cắt đặt. Phụ trách ở cung Cồ Quốc hiện giờ chính là Phạm Công công. Thấy ta hỏi vậy, Phạm Công công liền cười mà rằng:

    - Nương nương mới trở lại Cung nên chưa biết, chứ hiện nay quy chế ở trong Cung đã khác trước nhiều, không còn như khi Đinh tiên Đế tại vị nữa. Hiện nay Hoàng Thượng không còn tùy tiện tới qua đêm ở các Cung của Hoàng hậu, Phi tần như trước nữa, mà các nàng sẽ được vời vào điện Trường Xuân để hầu hạ bên Long Sàng. Cho vời ai, đó là theo chủ ý của Hoàng thượng, nhưng cũng có tham khảo Vương Công công ở bên đó để tính toán chu kỳ kinh nguyệt, tính toán thời điểm thụ thai cho phù hợp nữa.

    - Ra là vậy..

    Ta ậm ừ mà trong đầu rối như mớ bòng bong. Ra là giờ đây muốn được gặp Hoàng Thượng thì phải chờ ân sủng. Vậy hiện tại phải chăng là Lê Hoàn đã đón khá nhiều nữ nhân vào đây để chuẩn bị phong Hậu? Buồn cười thay ta lại chưa từng nghĩ tới việc này! Từ lúc về đây lại cứ ngu ngơ nghĩ là chỉ có một mình mình! Sao ta lại có thể nghĩ như vậy được nhỉ! Nhưng ta tưởng.. Lê Hoàn bao lâu nay chính là vì ta mà chưa lập thất. Vậy mà sao giờ đây..

    Nhưng cũng phải thôi! Lê Hoàn bây giờ đã khác Lê Hoàn của trước kia rồi! Lê Hoàn giờ đã là Hoàng Đế, mà Hoàng Đế thì trăm cung tần, ngàn mỹ nữ là đương nhiên rồi. Hơn nữa Hoàng đế cần tuân theo quy chế ở trong Cung, mà chính họ Đinh khi xưa lên ngôi, đã phong liền năm Hoàng hậu và giao cho cai quản hậu cung. Quy chế này đã được bộ lễ ghi lại và được duy trì hơn chục năm nay, không có cớ gì mà giờ đây Lê Hoàn lại chỉ lập có một mình ta! Chính là ta chưa suy nghĩ cho thấu đáo về việc này mà thôi!

    Thấy ta ậm ừ rồi ngẩn ra đó, Phạm Công công mới bảo:

    - Hiện tại Hoàng thượng, theo lệ cũ của nhà Đinh cũng đã đưa về đây năm nữ nhân để chờ tới ngày phong hậu. Nương nương chính là người cuối cùng về đây vậy! Nên chắc Nương nương cũng phải chờ đợi một chút..

    Phạm Công công nói đến đó rồi ngượng ngiụ quay đi. Ta biết ý của Công công là chờ đợi cái gì. Nhưng lúc này ta chẳng quan tâm tới việc đó lắm. Lòng ta đang ngổn ngang chẳng khác nào tơ vò vậy!

    Tiện thấy Công công có vẻ cởi mở, ta bèn tranh thủ hỏi cho rõ sự tình:

    - Vậy các nữ nhân mà Hoàng thượng đưa về Cung là những ai Công công có biết không?

    - Người thứ nhất phải kể đến, được Hoàng thượng nể trọng nhất chính là cháu gái của Thái sư Hồng Hiến, nàng tên là Hồng Ngữ Yến. Người thứ hai chính là em gái yêu của Phạm Cự Lượng, nàng tên là Phạm Chi Mai, người thứ ba là Vương Nguyệt cô nương. Nàng từng cùng ba anh trai và chị gái tham gia kháng chiến chống Tống, các anh trai của Vương Nguyệt chính là các tướng lĩnh thân cận dưới trướng của Hoàng thượng. Người thứ tư là Phạm Thị Hến, là một người con gái được Hoàng Thượng mang về từ vùng phía Bắc khi đi đánh giặc Tống. Nghe nói nàng ta từng giúp đỡ cho quân kháng chiến rất nhiều, lại xinh đẹp nên Hoàng thượng tỏ lòng yêu, đã cho vời về Cung. Cùng với Nương nương nữa là năm người mà Hoàng thượng dự định phong Hậu trong thời gian tới.

    Phạm Công công nói xong rồi cúi đầu đứng bên cạnh, thư thoảng đưa mắt thăm dò ý tứ của ta. Có lẽ sau khi nói hết mọi thông tin, ngài đang chờ xem phản ứng của ta để xem rồi đây vị Hoàng hậu mà ngài được phân công hầu hạ có thể xoay chuyển trời đất, trở thành chỗ dựa cho ngài được hay không. Không biết ngài chờ đợi ta sẽ phản ứng như thế nào, còn ta bỗng thấy mệt rã rời. Có lẽ đi đường dài bây giờ mới ngấm hay là tại ta quá chán nản ở trong lòng?

    Tại sao khi ở Đông Lỗ ta không nghĩ tới chuyện này nhỉ? Ta lại chỉ tới việc sẽ được ở bên Lê Hoàn mà không hề nghĩ tới việc Lê Hoàn cũng sẽ có năm thê bảy thiếp chẳng khác gì Đinh Bộ Lĩnh. Mà cái cảnh chồng chung thì ta đã chán ngán quá rồi!

    Nhưng giờ đã về đây rồi thì còn có thể làm gì nữa đây?

    Mải nghĩ ngợi mà khi quay sang vẫn thấy Phạm Công công đang đứng lom khom ở bên cạnh, bèn bảo Công công hãy lui về nghỉ. Nghe vậy Công công có phần tiu nghỉu đi ra.

    Ta gọi Lan Nhi chuẩn bị cho mình đi ngủ. Thế mà rồi cũng chằn chọc cả một đêm không chợp mắt được chút nào.

    Cho vời ai vào điện Trường Xuân đều là theo chủ ý của Lê Hoàn! Vậy mà từ khi ta về Hoa Lư tới nay tính ra cũng đã năm ngày, thế mà, ngay cả việc gặp Lê Hoàn cũng không có chứ đừng nói là được vời vào "hầu hạ bên Long sàng"! Thế là sao? Ta cứ nghĩ rằng Lê Hoàn phải sốt sắng gặp ta lắm chứ? Ta, khi ở Đông Lỗ đã mong chờ từng ngày. Còn có lúc tự trách mình sao không cùng Lê Hoàn về Hoa Lư từ dạo mùa đông năm trước để không phải xa cách nhớ nhung. Thế mà trong khi ta hao tổn bao tâm huyết, thì ở nơi này phải chăng Lê Hoàn không hề nghĩ tới ta, dù chỉ là một khoảnh khắc, chứ đừng nói là nhớ nhung, mong mỏi. Nay đã về đây rồi cũng không thấy đoái hoài..

    Khi ngày ngày quấn quít nhau ở bên sông Càu Chày, ta đã mong ước gì chứ? Ước sao chúng ta sẽ sớm tối nắm tay, cùng nhau uống trà, thưởng nguyệt, cùng đi dạo, cùng cười đùa, sống cuộc sống thanh nhàn, hạnh phúc, suốt đời suốt kiếp có nhau. Về đến Hoa Lư rồi mới thấy, ta ngần này tuổi đầu, đã có hơn mười năm sống ở trong Cung mà vẫn hoang đường và hồ đồ đến vậy!

    Ta có thể mơ giấc mơ như thế ở bên sông Càu Chày!

    Nhưng ta không bao giờ có thể mơ giấc mơ như thế ở Hoa Lư này!

    Nghĩ thế, rồi ta cứ ngồi đó tự cười mình, tự giễu mình. Cười rồi, giễu rồi lại tự mình chuyển buồn thành vui, ngày ngày cùng Lan Nhi hết đi dạo lại ngắm hoa, uống trà, thưởng nguyệt, khi rảnh rỗi lại tụng kinh niệm phật, đan lát, thêu thùa.

    Mấy bữa nay Toàn Nhi đã sang thành Tràng An, theo chân các tướng sỹ ở bên đó luyện tập binh pháp, nên ta lại càng thong thả, tự do mà hưởng thanh nhàn.

    Bảy ngày sau thì ta được Lê Hoàn cho vời vào hầu hạ ở điện Trường Xuân.

    Phạm Công công nghe tin báo thì hồ hởi, phấn khở ra mặt. Sai người mau chóng chuẩn bị nước tắm cho ta. Xong xuôi thì đích thân tự mình đi bộ xách đèn lồng đi trước dẫn lối để bốn thị vệ khỏe mạnh khiêng kiệu đưa ta vào điện Trường Xuân.

    Vẫn biết là cung vàng, điện ngọc phú quỳ, xa hoa thì nhất là Hoa Lư mà nhì thì chắc chắn cũng vẫn là Hoa Lư, thế mà khi đi vào điện Trường Xuân vẫn không tránh khỏi bị choáng ngợp!

    Những cột nhà được dát vàng hoặc dát bạc, được chạm rồng cuốn, khắc phượng ngồi vừa uy nghiêm, vừa rực rỡ. Những khung cửa, bình phong được chạm trổ tùng, cúc, trúc, mai vô cùng tinh xảo. Tất cả đều được sơn son, thếp vàng choáng lộn. Những đồ dùng, vật dụng đều được làm từ vàng, bạc hay ngọc quý. Đây đó những đồ gốm tráng men ngọc xanh đặt rải rác để trang trí hết sức tao nhã. Các loại rèm bằng lụa quí treo cao tít từ trên trần nhà, buông xuống tới tận sàn lượn nhịp nhàng theo gió. Màn đêm cùng ánh nến, ánh đuốc chập chờn càng làm cho khung cảnh thêm lấp lánh, rực rỡ! Bước chân vào mà không thể phân biệt nổi là mình đang ở cõi trần hay ở chốn thần tiên nào!

    Khi xưa còn nhớ từng ví Lưu phủ của Trịnh Hàm và Lưu Ỷ Ngọc trông xa hoa chẳng khác nào Hoa Lư. Nay mà đem so sánh với điện Trường Xuân thì thấy thật nực cười..

    Đang ngẩn người ngắm nghía và suy nghĩ miên man thì một tiếng nói vang lên phía sau, nghe qua đã biết là của Vương công công trông nom trong Điện. Chính là người mà ta đã gặp ở Đông Lỗ dạo trước.

    - Nương nương đã đến rồi thì xin mời vào! Hoàng thượng đã đợi Nương nương nãy giờ rồi!

    Nói rồi tiến lên phía trước dẫn lối đưa ta đi.

    Bước vào phòng ngủ nơi đặt Long sàng, là nơi Lê Hoàn nghỉ ngơi mới thấy càng choáng ngợp. Toàn bộ nội thất, trang trí đều được làm từ vàng, bạc, ngọc quý. Lại thêm lụa vàng, lụa đỏ giăng mắc khắp nơi tạo nên khung cảnh chưa từng thấy.

    Chợt hình ảnh về Ngự thư phòng cùng phòng ngủ tuy đã được bài trí công phu mà vẫn khá đơn giản của họ Đinh khi xưa hiện về trong đầu khiến ta không khỏi có chút ngậm ngùi.

    Bước chân vào phòng thì thấy Lê Hoàn đang lúi húi gì đó ở bên bàn đặt ở cuối phòng. Tuy nói là phòng ngủ mà vẫn đặt bàn làm việc, mới thấy Lê Hoàn thật là tham công, tiếc việc tới mức nào!

    Thấy ta bước vào Lê Hoàn liền ngừng bút, mỉm cười rồi vội vã đi lại phía ta, nắm lấy hai bàn tay ta rồi bảo:

    - Cuối cùng cũng được gặp nàng rồi! Về Hoa Lư quả thực không thể thoải mái như những ngày ở Đông Lỗ được nữa! Ta những muốn vời nàng vào ngay, nhưng trong Cung giờ đây có những quy định riêng phải theo, thực không thể hấp tấp được!

    Câu nói hết sức tự nhiên ấy của Lê Hoàn khiến ta vừa ngỡ ngàng, vừa chạnh lòng. Vẫn biết sự thật là như thế, đã biết trước là như thế mà khi nghe cái điều ấy nói ra từ miệng Lê Hoàn vẫn không thể bình thường cho được.

    Thấy ta im lặng Lê Hoàn cúi xuống nhìn vặt mặt ta, hỏi:

    - Nàng sao thế? Giận dỗi ta vì hôm nay mới gặp nhau hay sao?

    Lướt qua trong đầu câu nói khi xưa Trinh Minh Nương nương đã nói với ta, rằng mọi suy nghĩ của nó nó đều hiện hết lên trên mặt. Ta mới giật mình liệu Lê Hoàn có đọc được những ý nghĩ trên mặt ta hay không? Nghĩ thế vội vã lắc đầu bảo:

    - Không! Chỉ là nhìn Trường Xuân cung vàng điện ngọc lộng lẫy làm thần thiếp choáng ngợp quá! Thêm nữa cũng vẫn chưa hoàn toàn lại sức sau chuyến đi đường dài vừa qua.

    - Cũng chính vì thế nên ta cũng cứ lần lữa, để cho nàng có thêm thời gian nghỉ ngơi mà!

    Lê Hoàn nói rồi liền cúi xuống hôn ta. Ta dẫu trong lòng có phần tê tái, vẫn phải cung kính và cuồng nhiệt đáp trả.

    Đêm đó chúng ta ân ái ở điện Trường Xuân.

    Ngày Mười bảy tháng Tư, Thiên Phúc năm Thứ Ba, đúng theo lịch đã định, Lê Hoàn tổ chức lễ sắc phong cho năm Hoàng hậu. Lại ban lệnh đại xá khắp thiên hạ để người dân tổ chức lễ hội, ăn mừng, chúc phúc cho Hoàng Đế mau chóng sinh được Hoàng tử nối dõi.

    Lúc bấy giờ mới có dịp thấy hết mặt các Hoàng hậu, phi tần của Lê Hoàn.

    Hồng Ngữ Yến được phong làm Phụng Càn Chí lý Hoàng hậu. Nàng năm nay đã hai tư, hai nhăm tuổi rồi, là người lớn tuổi nhất trong số các Hoàng hậu của Lê Hoàn – nếu không kể ta.

    Tuy lớn tuổi nhất nhưng lại có vẻ được cung kính, trọng vọng nhất, có lẽ chính là vì nàng là cháu yêu của Thái sư Hồng Hiến.

    Hai tư, hai nhăm tuổi rồi mới lập gia đình, trong khi người bình thường thì mười sáu, mười bảy đã phải yên bề gia thất, lại một bước lên hẳn mẫu nghi của thiên hạ. Có cảm giác như việc nàng trở thành Hoàng hậu đã được tính toán sẵn rồi, nàng chỉ việc ung dung tự tại mà ngồi đợi..

    Phạm Chi Mai được phong làm Thuận thánh Minh đạo Hoàng hậu. Nàng là người nhỏ tuổi nhất trong số các Hoàng hậu của Lê Hoàn. Năm nay nàng chừng mười sáu, mười bảy gì đó.

    Vương Nguyệt được phong làm Trịnh Quốc Hoàng hậu. Nàng chính là từng cùng ba anh trai và chị gái tham gia chiến tranh chống Tống. Các anh nàng đều là những người thân cận dưới chướng, còn nàng thì xinh đẹp nên được tuyển vào Cung làm Hoàng hậu. Nhìn nàng ta lại nhớ tới mối duyên giữa họ Đinh và Đinh nương khi xưa. Chỉ có điều nàng trẻ trung hơn so với Đinh nương, hay ít ra là so với Đinh nương khi ta gặp, nên sức sống tràn trề và mãnh liệt hơn.

    Ta và Phạm Thị Hến không rõ vì sao không đặt tên hiệu, chỉ đơn giản gọi là Dương Hoàng hậu và Phạm Hoàng hậu. Tuy vậy việc này đã được Bộ Lễ thông báo từ trước nên tại lễ sắc phong cũng không có gì bất ngờ.

    Xét về mặt nhan sắc mà nói, thì các nàng đều một chín, một mười, mỗi người một vẻ khó mà phân định thắng thua được.

    Nếu Phụng Càn Hoàng hậu mang nét thanh tao, nhỏ nhắn của người con gái đến từ phương Bắc, thì Thuận thánh Hoàng hậu mang vẻ tươi tắn, căng tràn của tuổi trẻ, trong khi đó Trịnh Quốc Hoàng hậu mang vẻ rắn rỏi, săn chắc, tràn trề thanh xuân và sự sống, còn Phạm Hoàng hậu là vẻ tròn đầy, sôi nổi, hồn nhiên của một cô gái quê ở vùng núi phía Bắc Đại Cồ Việt.

    Xét về tuổi trẻ và sắc đẹp, ta chắc chắn không thể nào sánh kịp các nàng. Năm đó ta đã ngoài ba mươi tuổi rồi. Đấy là còn chưa kể ta đã từng làm Hoàng hậu dưới triều Đinh. Vậy mà khi làm lễ không hiểu sao các nàng vẫn không ngừng lén lút liếc mắt nhìn ta. Không hiểu các nàng thắc mắc điều gì, muốn biết điều gì ở ta? Phải chăng các nàng đang tự hỏi, vì sao bà Hoàng hậu của một ông vua đã băng Hà lại có thể chen chân vào đây cùng các nàng? Chắc các nàng nghĩ ta ắt hẳn phải có ma thuật gì đó? Các nàng đang băn khoăn rồi đây có cần phải đề phòng ta điều gì hay không?

    Phải chăng các nàng đang nghĩ thế?

    Ta tự mình nghĩ vậy rồi tự cười vì những ý nghĩ ấy.

    Ta chẳng có gì có thể đánh bại các nàng cả. Cả tuổi trẻ lẫn sắc đẹp đều không. Ta không có gì. Đấy là còn chưa kể tới xuất thân, gốc gác cao quý của các nàng mà ngay cả Lê Hoàn cũng phải nể sợ! Ta làm sao mà so sánh được?

    Huống hồ ta cũng chẳng định toan tính điều gì!

    Xưa nay ở Hoa Lư này ta đâu dám toan tính điều gì?

    Sau lễ sắc phong, cuộc sống của ta giờ đây chính là như vậy. Ngày ngày cùng thị nữ của mình uống trà, trồng hoa, nuôi cá. Sáng dậy sớm đón bình minh, đi dạo ngoài vườn, chiều đến thì chờ hoàng hôn xuống. Những hôm trời mưa thì lấy kinh sách ra đọc hoặc cùng nhau thêu thùa.

    Cứ tưởng rằng những việc ấy chính là ta và Lê Hoàn sẽ cùng nhau làm. Cứ tưởng ngày ngày, sớm tối sẽ quấn quít bên nhau. Thế mà.. Vì yêu hay là không yêu, thì khi về Hoa Lư này cũng đều là phải đợi để được hưởng ân sủng của Hoàng Đế vậy!

    Tháng Sáu, Thiên Phúc năm thứ Ba, cả triều đình hay tin Phụng càn Hoàng hậu mang thai rồng.

    Nàng là vị Hoàng hậu được yêu chiều nhất của Lê Hoàn, được nhiều người nể sợ bởi nàng chính là cháu của Thái sư Hồng Hiến. Hồng Thái sư lại chính là đại thần thân cận bậc nhất của Lê Hoàn. Bởi vậy cả triều đình Hoa Lư vui như mở hội. Lê Hoàn cũng không giấu nổi vui mừng. Dù sao ở tuổi này mới được lần đầu làm cha thì vui mừng là điều dễ hiểu. Người ta vẫn chẳng bảo, có thể có cả thiên hạ trong tay, nhưng chỉ đến khi mình có con cái, mình mới thấy rằng đó là thứ duy nhất trên cuộc đời này thực sự thuộc về mình đấy sao?

    Tuy nhiên có một điều lạ là sau khi Phụng càn mang thai rồng, thì liền không được cho vời vào điện Trường Xuân nữa. Lí do được đưa ra là để đảm bảo sức khỏe cho Hoàng hậu và Long thai.

    Ban đầu ta nghĩ là do Lê Hoàn quá cẩn thận! Có lẽ đến giờ này mới có con, nên hết sức hồi hộp, vui mừng, khó tránh khỏi những việc quá cẩn trọng.

    Nhưng đến tháng Chín, khi Thuận thánh Hoàng hậu có mang và lệ ấy được tiếp tục áp dụng thì ta hiểu đó là quy định chung đối với các Hoàng hậu và phi tần của Lê triều.

    Lại nhớ khi xưa ta, Trinh minh hay các nàng khác mang thai rồng, họ Đinh đều rất phấn khởi, không ngừng qua thăm luôn. Chẳng phải vì cái chuyện ái ân. Theo như ta được biết thì tùy từng người mà khi có bầu nhu cầu sẽ tăng hoặc giảm. Nhưng quan trọng là việc ấy mang lại cảm giác gắn kết gia đình, giữa cha, con, vợ chồng, làm khuây khỏa tinh thần của người có mang rất nhiều.

    Vậy mà nay các nàng vừa mang thai rồng là liền không được vời vào Trường Xuân nữa thì thật là một sự thiệt thòi cho các nàng.

    Sao ta cứ cảm thấy không yên với ý nghĩ rằng các nàng cũng chỉ là một thứ công cụ để thỏa mãn, để duy trì nòi giống vậy. Còn lại tâm tư, cảm xúc của các nàng thì thực sự chẳng ai quan tâm. Nghĩ tới đó lại chạnh lòng nghĩ sang mình. Vậy rốt cuộc thì mình là như thế nào?

    Những ý nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu khiến ta không sao ăn ngon, ngủ kỹ được. Lan Nhi cũng không khỏi thắc mắc khi nhìn thấy tâm trạng bứt rứt của ta. Nhưng ta khó lòng giải thích với nàng mọi chuyện được.

    Thời gian gần đây vì các nàng có mang, nên ta được vời vào điện Trường Xuân nhiều hơn.

    Có những đêm ta cùng Lê Hoàn ân ái mặn nồng.

    Cũng có những khi ta nằm chờ Lê Hoàn duyệt tấu chương mà ngủ quên, Lê Hoàn đi ngủ lúc nào không hay biết. Đến sáng ra tỉnh dậy, đã thấy người đi sang Ngự điện coi chầu sáng rồi. Thế là lại lững thững tự mình trở ra cửa, nơi Phạm Công công đã đứng đợi sẵn, lên kiệu rồi trở về Cung.

    Lại nhớ khi xưa họ Đinh vẫn còn sống, mỗi lần qua Cung Cồ Quốc đều qua từ chiều, hoặc xong việc sẽ qua ngay để có thể cùng uống trà, đi dạo, ăn cơm, nói chuyện. Có những khi mải kể việc nọ, việc kia, việc triều chính việc bang giao; đôi lúc còn cao hứng lôi cả chuyện binh đao ngày xưa ra mà kể, rồi đắc chí cười ha hả tới quên cả ngủ. Chính những khi ấy mà thấy tình cảm thêm mật thiết và gắn bó.

    Thế mà giờ đây, dù có được sủng ái, nhưng vẫn là, khi được vời vào Trường Xuân thì vào. Đã vào rồi thì cũng chỉ có một việc là ái ân. Không làm gì có chuyện cùng nhau dùng một bữa cơm, càng không có chuyện cùng nhau thoải mái đi dạo, thưởng hoa, thưởng trà.

    Lê Hoàn cũng không mấy khi kể chuyện triều đình, chính sự. Những chuyện đã qua không bao giờ nói. Mà những chuyện hàng ngày bàn bạc ở Ngự điện thì ta không bao giờ hỏi. Lê Hoàn không chủ động kể, nên ta chẳng biết chàng có thoải mái không nếu ta hỏi về những chuyện ấy. Ta cũng đã từng cùng con trai mình buông rèm mà nhiếp chính, nên e rằng việc ta hỏi những chuyện ấy sẽ khiến cho chàng bực mình.

    Thế là dần dần, có khi gặp nhau mà chẳng nói với nhau một điều gì.

    Ta không biết trong đầu Lê Hoàn đang nghĩ điều gì, không biết chàng đang phải đối mặt với những khó khăn gì, không biết chàng có tâm tư, nguyện vọng gì? Không biết chàng có còn yêu thương ta hay không? Đôi khi cũng muốn cất tiếng hỏi mà thấy chàng im lặng nên lại thôi. Một vài lần sau những cuộc ái ân, ta nằm đằng sau nhìn vào tấm lưng trần của chàng dưới ánh nến leo lét. Ta thực sự muốn ôm chầm lấy mà hỏi xem chàng đang buồn hay đang vui, mà nói những lời yêu thương, âu yếm với chàng. Thế mà ta giơ bàn tay ra lưỡng lự một lúc rồi lại rụt lại.

    Lê Hoàn này có còn là Lê Hoàn đã nắm tay ta, nói lời yêu ta ở bên sông Càu Chày nữa hay không? Sao ta thấy giữa chúng ta như có cả một vực thẳm ngăn cách vậy.

    Rồi ta chợt nhớ tới vợ chồng người bạn cố trí Trịnh Hàm và Lưu Ỷ Ngọc. Mỗi lần hai người bọn họ tới Đông Lỗ chơi, cùng ta dạo chơi trong vườn, lúc nào cũng tay trong tay không rời, ánh mắt nhìn nhau chan chứa tình. Nhớ ngày sinh nhật năm nào của Nàng Ỷ Ngọc, Trịnh Hàm đã vì nàng mà lao tâm khổ tứ chuẩn bị bao nhiêu thứ cốt để nàng được vui.

    Rồi lại nhớ cả những ngày xa xưa khi ta tình cờ gặp ánh mắt chan chứa tình yêu mà thân phụ và thân mẫu trao nhau. Chao ơi! Cũng là vì tình yêu mà đến, mà sao giờ đây ta, ngay cả việc ôm lấy người mình yêu thương mà nói những câu âu yếm, ân cần cũng cảm thấy ngăn trở. Là vì đâu?

    Là vì Hao Lư không phải là mảnh đất của mơ mộng?

    Nhưng khi xưa cũng chính là ở Hoa Lư này họ Đinh với ta cũng có biết bao nhiêu ngày vui vẻ đấy thôi? Có những buổi chiều hè ngồi ở sân cung Cồ Quốc ngắm bọn chuồn chuồn bay ngang bay dọc, cùng chia nhau vài chén trà lạt. Hay những buổi chiều cùng đi dạo ở ngoài vườn hoa. Có những hôm cao hứng còn mang cả mâm cơm bầy dưới gốc cây lựu để ăn cho mát mẻ.

    Cũng là Hoa Lư đấy thôi!

    Không phải là Hoa Lư đã đánh cắp giấc mơ của người ta!

    Chính là vì lòng người ở Hoa Lư mà thôi..

    Nghĩ thế lòng không khỏi thấy sầu muộn.

    Một nỗi sầu muộn thật dài..
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  8. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXVII. CHẲNG CHIA LÌA MÀ CŨNG XA CÁCH

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mùa Xuân và mùa Hạ Thiên Phúc thứ Tư, Phụng Càn và Thuận Thánh Hoàng hậu lần lượt sinh hạ hai Hoàng Tử, đặt tên là Lê Long Thâu và Lê Long Tích. Triều đình và muôn dân ai cũng vui mừng vì nhà Lê đã có được người nối dõi. Bèn liên tục mở tiệc lớn để khao mừng.

    Yến tiệc liên miên lại thêm những ngày cuối tháng Năm nóng nực, khi mưa, khi nắng thất thường, thế là ta ốm một trận lê nhê liền nửa tháng. Có những hôm sốt mê man nửa ngày rồi tỉnh lại, người hết sức mệt mỏi. Nhưng ta lại lấy đó làm thoải mái trong lòng. Như thế tránh được cho ta bao nhiêu phiền toái từ những bữa yến tiệc long trọng, rườm rà.

    Chỉ có điều ốm lâu ngày quá. Chưa có lần nào ta bị ốm dai dẳng như vậy. Mới thấy mình đã có tuổi thật rồi, không còn trẻ trung nữa. Lòng không tránh khỏi chút tái tê và u sầu.

    Suốt nửa tháng ta nằm trên giường, Lê Hoàn không tới thăm lấy một lần mà chỉ truyền Ngự y đến thăm khám. Lại ban cho thuốc bổ, nhân sâm để bồi dưỡng cơ thể. Vẫn biết rằng quy định của Lê triều giờ đây hết sức nghiêm ngặt, mọi thứ không còn tùy tiện như khi họ Đinh trị vì. Nhưng tình nghĩa vợ chồng, mà đến khi ốm đau cũng không thể ghé qua an ủi, đông viên nhau một lời, thì thực tình lòng người ở đây quá đỗi lạnh lẽo.

    Càng nghĩ thế ta đâm ra u uất. Ốm càng thêm ốm.

    Những dạo gần đây ta cứ mơ thấy họ Đinh luôn. Hình như cả trong lúc mê man cũng mơ thấy họ Đinh thì phải.

    Những ngày tháng bên nhau đã qua, ta thực sự đã sống như cây cỏ vậy. Cứ hồn nhiên mà hưởng ánh nắng mặt trời, chẳng suy nghĩ về mọi thứ cho thấu đáo. Giờ đây những kỷ niệm sống động ngày đó trở về, mới thấy xúc động về mối quan hệ giữa chúng ta, xúc động về những gì Đinh Bộ Lĩnh đã dành cho mình.

    Ngẫm nghĩ lại mới thấy, những tháng ngày ấy ta quả thực đã nhận quá nhiều ân huệ của Đinh Bộ Lĩnh. Và chúng ta không phải là không có những ngày đầm ầm hạnh phúc bên nhau.

    Còn nhớ cái lần vì ta mà cho làm hàng trăm con diều sáo thả vang Động Hoa Lư.

    Nhớ cái lần vì chiều ta, mà một người cục cằn, nóng nảy như Đinh Bộ Lĩnh cũng phải giong thuyền đi ngắm hoa sen nở.

    Nhớ nhất là cái lần cho làm hẳn một con thuyền lớn để chúng ta có thể đi thưởng ngoạn trên sông Sào Khê tháng Ba năm nào.

    Tưởng chỉ là một câu nói đùa lúc cao hứng, mà không ngờ Đinh Bộ Lĩnh cho làm thật. Thế rồi chúng ta bất chấp tất cả mà ngao du trên con thuyền mộng tưởng đó.

    Xuôi theo dòng Sào Khê chúng ta đã ngắm bao nhiêu là cảnh đẹp.

    Những xóm làng trù phú hai bên. Những núi đồi trùng điệp. Những cánh đồng bát ngát. Có đoạn sông Sào Khê mở rộng. Thuyền đi giữa dòng nhìn ra, thấy xóm làng hai bên trông lúp xúp, bé xíu như những món đồ chơi tiểu cảnh. Có đoạn dòng sông thu hẹp lại, thuyền lướt đi giữa đôi bờ rậm rạp, um tùm những cây cổ thụ ngàn năm. Có lúc ta tưởng chỉ cần dơ tay ra là có thể hái được những quả dại mọc trên cành.

    Những núi đá vôi ở hai bên sông cũng tạo nên những cảnh quan vô cùng kỳ thú. Khi thì chúng đứng ở xa xa, tạo nên những đường viền như răng cưa nơi chân trời; lúc chúng tiến lại sát với dòng sông, tạo nên những vách đá dựng đứng. Chiều chiều từng đàn chim rừng, đàn dơi bay về làm tổ trên các vách đá. Sáng sáng lại có thể nhìn thấy những đàn sóc, cáo hay chồn gì đó không rõ, với bộ lông đỏ rực, thoăn thoắt ẩn hiện giữa lùm cây.

    Ta với Đinh Bộ Lĩnh hết ăn, uống rượu lại nghe hát. Có những sáng sớm, chúng ta đứng tựa vào nhau ở mũi thuyền nhìn mặt trời lên. Mặt trời mùa xuân tuy không chói lòa nhưng vẫn đủ rực rỡ, đủ ánh nắng ấm áp để nhuộm hồng cả mặt sông, nhuộm hồng cả góc trời và dát vàng lên khắp núi đồi, làng xóm. Chao ơi những buổi sáng tinh sương đó, trong lành và bình yên thế.

    Cùng là mặt trời đó mà khi lên thì hồng hào, tươi tắn, mà khi xuống lại đỏ lên gắt gỏng trước khi tắt lịm đi trước bóng đêm.

    Dạo ấy đi vào giữa tháng, nên đêm nào chúng ta cũng cùng nhau ngắm trăng lên.

    Đêm rằm tháng Ba, họ Đinh còn bắt người bày một mâm tiệc rượu, rồi chúng ta cùng ngồi bên cửa sổ lớn ở mạn thuyền, vừa uống rượu, vừa ngắm trăng lên.

    Mọi cảnh tượng của đêm rằm hôm đó bỗng trở về rõ mồn một trong tâm trí của ta..

    Ban đầu, khi bóng đêm vừa trùm phủ, mặt trăng còn chưa lên thì bốn bề tối đen như mực. Chỉ có bầu trời rất trong báo hiệu một đêm vằng vặc ánh trăng. Thuyền trôi lững lờ giữa dòng Sào Khê. Có thể nghe vẳng lại ở ven sông, bên bìa rừng tiếng những con chim, con cuốc, hay ếch nhái kêu lên chậc chậc, quắc quắc từng hồi.

    Thế rồi bóng đêm cũng dần tản ra. Trăng dần dần nhô lên. Đầu tiên, trăng to như cái mâm nhô ra từ ngọn núi. Sau dần nó lên cao và sáng rõ hơn, dải thứ ánh sáng mờ ảo như ánh bạc lên vạn vật xung quanh.

    Càng về khuya khung cảnh càng im lặng như tờ. Có lẽ lũ chim, cuốc, ếch nhái cũng đã đi ngủ cả rồi. Chỉ còn ánh trăng mênh mông bao phủ lấy toàn bộ núi non, sông hồ. Ánh trăng phản chiếu xuống mặt sông tạo nên một cảnh tượng huy hoàng rực rỡ, mà lại tĩnh lặng trang nghiêm.

    Cảnh đẹp tưởng như vĩnh cửu ấy của thiên nhiên thốt nhiên làm người ta không thể nói nên lời. Sự im lặng mà quá đỗi tráng lệ của núi rừng hoang sơ, của mặt sông xunh quanh làm người ta không dám cả thở mạnh.

    Đinh Bộ Lĩnh dường như cũng bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp đó. Đứng lặng đi bên cạnh ta. Không nói năng gì. Thế rồi một lúc sau mới đột nhiên như người tỉnh mộng, đưa bàn tay ra lần tìm bàn tay ta rồi xiết chặt.

    Khi đó ta không mấy để tâm đến điều dó, vì ta còn mải mê chìm đắm vào không gian bát ngát, mê hoặc bên ngoài. Giờ ngẫm nghĩ lại bỗng thấy thấm thía cái xiết tay ấy. Cái xiết tay khao khát sẻ chia với người mình yêu thương những điều đẹp đẽ trong đời.

    Chao ơi sao lúc này đây ta thèm một cái xiết tay như thế đến vậy! Thèm đến muốn khóc! Mà ta biết là không bao giờ có thể được như thế nữa rồi..

    Đứng nắm tay nhau một lúc thì Đinh Bộ Lĩnh từ từ ôm lấy vai ta từ phía sau rồi thì thầm:

    - Có nàng ở đây thật là tuyệt quá, Vân Nga!

    Liền sau đó cúi xuống hôn vào cổ ta, tai ta. Ta khẽ xoay người lại rồi chúng ta chìm trong một nụ hôn đắm đuối.

    Nụ hôn cứ dài, cứ dài ra mãi. Và sâu. Như thể muốn nuốt trọn nhau! Đê mê! Rồi chúng ta cùng dìu nhau ngồi xuống dưới khung cửa tràn ngập ánh trăng. Rồi tự lúc nào ta đã thấy mình trần trụi nằm trên tấm thảm lông ấm áp lấp lánh áng trăng.

    Ánh trăng lành lạnh và dịu dàng mơn trớn trên làn da ta. Ta rùng mình nhè nhẹ. Rồi ta thấy ánh trăng và ta hòa vào nhau làm một trong một cơn khoái cảm đê mê. Rồi ánh trăng nhòe đi. Tan ra.

    Ngày đó ta chính là cây cỏ hồn nhiên đón mưa rào không tư lự. Giờ nghĩ lại mới nhận ra rằng khi ấy ta quả thực đã rất say mê.

    Thời gian này ta cũng hay nhớ tới Đinh Nương. Có khi ta mơ thấy ta cùng nàng cưỡi ngựa đùa vui như ở Động Hoa Lư khi xưa. Có khi lại nhớ lúc chúng ta bơi thuyền ngắm cảnh trên Đầm Cút. Khi đó nàng đã vì chiều chuộng ta mà bày ra biết bao nhiêu trò vui, giải trí.

    Dưới gầm trời này chiều chuộng ta nhất chắc chắn chỉ có nàng.

    Lại nhớ cả những ngày dù ngắn ngủi, chúng ta nhàn tản, vui vẻ ngồi bên nhau uống trà, ngắm hai Hoàng tử nô đùa ở trong vườn.

    Thế mà giờ đây đã bóng chim, tăm cá xa ngái tận chân trời. Nàng đã đi đâu, về đâu rồi Trinh Minh Nương nương? Ngày đó nàng nói trở lại quê nhà, vậy mà bặt tin nhạn mấy năm không một ai nghe nói thêm về nàng. Chẳng biết có thực sự trở lại quê nhà hay đã mai danh ẩn tích nơi nào? Giờ nàng sống bình an chứ Đinh Nương? Chắc là như vậy! Rời Hoa Lư chắc chắn sẽ bình an. Mong sao cho nàng luôn được bình an! Đừng như ta, cô quạnh nơi này.

    Thời gian này có tin đồn lan truyền trong đám gia nhân, thị vệ rằng Lê Hoàn đang mê mẩn một nàng hầu ở Đông cung. Nàng ta tên là Nguyễn Thị Diệu, vốn là người chuyên làm các công việc nặng nhọc như bổ củi, gánh nước, quét dọn sân vườn. Thân lại là con một người hầu gái già chuyên làm công việc chăm sóc, xén tỉa vườn tược, xuất thân hết sức thấp kém, nên chẳng mấy ai để ý đến nàng. Không hiểu Lê Hoàn đã trông thấy nàng ta ở đâu, lúc nào mà đâm ra mê mẩn, liền chuyển nàng lên hầu hạ việc nước nôi, tắm táp pha trà ở điện Trường Xuân. Thế rồi bông hoa đẹp bên cạnh, chủ nhân đưa tay ra hái lúc nào mà chả được!

    Đám người hầu kẻ hạ còn rỉ tai nhau, không rõ nàng ta đã bỏ loại bùa ngải gì mà khiến Lê Hoàn mê mệt, quấn quít nàng ta chẳng rời.

    Chuyện này Lan Nhi nghe từ đám người hầu kẻ hạ rồi kể lại với ta. Lúc ấy chúng ta đang ở trong vườn. Nàng ta đang hái ít hoa ngâu để uớp trà. Còn ta đang ngồi trên ghế đá gần đó nhìn nàng.

    Nghe nàng nói xong ta bảo:

    - Tình yêu của bậc đế vương thì trải khắp thiên hạ. Ta quan tâm gì việc ấy. Nói rồi ngồi đó thản nhiên đưa mắt nhìn theo một cánh bướm sặc sỡ sắc màu vừa bay qua vườn hoa.

    Nàng ngước mắt nhìn lên, thấy ta có phần hững hờ như vậy thì nguýt dài một cái rồi lại hăm hở cúi xuống tiếp tục công việc.

    Thực ra nói là không quan tâm thì không phải. Chỉ là ta quân tâm cũng không nổi nữa mà thôi.

    Nghĩ vậy nhưng khi phải tận mắt chứng kiến cảnh ấy vẫn không khỏi đau lòng.

    Hôm đó là vào một ngày hè cuối tháng Sáu.

    Từ ngày trở lại Cung, ta vốn đã nghe nói tới việc, từ lâu Lê Hoàn đã ban bố lệnh cấm người lui tới Lầu Thủy Nguyệt. Không người qua lại, không kẻ chăm sóc, đường đi lối lại, lầu son gác tía bị bỏ hoang, cỏ dại, rêu phong, lau sậy đã mọc đầy. Hết sức hoang vắng và ma mị. Từ lâu đã không còn ai dám bén mảng tới.

    Ta vốn dĩ cũng không định ra đấy làm gì nếu không phải gần đây những kỷ niệm về Đinh Nương cứ thôi thúc trong lòng.

    Chính là chúng ta, khi chuyển từ Động Hoa Lư về đã cho xây dựng Lầu Thủy Nguyệt dựa trên chính mái lầu khi xưa nàng đã xây trên Đầm Cút. Vậy mà, xảy ra bao nhiêu chuyện, hình như cũng chưa có một lần nào được cùng nhau thảnh thơi ngắm sen nở ở nơi này như nguyện ước của mình.

    Thế nên giờ ta muốn ra đó. Biết đâu thấy cảnh cũ lại chẳng gặp hồn phách người xưa? Bỏ hoang, lau sậy mọc đầy thì càng hay! Như thế ta càng thoải mái mà sống với các ký ức của mình.

    Thấy ta mới ốm dậy, lại đòi ra nơi hoang lạnh đó, Lan Nhi cho rằng quái gở. Nhưng can ngăn không được, nàng cũng đành chiều ta.

    Buổi chiều hè, khi cái nóng nực vừa tan, một chủ, một tớ dắt díu nhau theo hướng ấy mà tới.

    Quả là lau sậy mọc đầy, cỏ trùm kín lối! Những tảng đá ở hai trên lối đi đều phủ một lớp rêu xanh rì. Quả thực phải lâu lắm không có ai tới đây thì cây cỏ mới mọc tự nhiên và mạnh mẽ đến vậy. Bỗng chốc thấy không kìm được xúc động. Ngoài kia là lầu son gác tía, mà nơi đây như một ngàn năm đã trôi qua vậy. Làm sao thấy được bóng cũ, người xưa đây? Quả thực quá đau lòng!

    Tuy nhiên lần theo những lớp cỏ dầy, hình như có dấu vết dập nát mới. Những lớp rêu trên các phiến đá lâu ngày dường như có dấu hiệu bong tróc vẫn còn tươi nguyên. Có vẻ gần đây bỗng có người trở lại nơi này. Chắc là.. đám kẻ hầu người hạ mới vào cung coi thường luật lệ trốn ra đây chơi bời hoặc hẹn hò tình tứ.

    Nghĩ thế ta lại định không đi nữa. Ta không muốn kẻ lạ mặt nào đó phá vỡ sự riêng tư này của ta. Nhưng lại nghĩ nếu là kẻ lén lút, chắc chắn chúng chỉ dám ra đây buổi đêm hay sáng sớm, không thể nào ngang nhiên giữa ban ngày, ban mặt được. Thế nên lại cứ dợm bước tiến lên.

    Đi qua con đường mòn men theo triền núi đá treo leo quen thuộc, thì hồ Thủy Nguyệt cùng mái lầu xưa đã hiện ra trước mắt. Hồ có vẻ bị thu hẹp do lau sậy mọc đầy. Mái lầu rêu phong như chìm lút giữa bốn bề là cây cỏ, lau sậy trùm phủ. Nhưng hoa sen vẫn còn rất nhiều. Bạt ngàn hồng, trắng quanh hồ. Có những nơi lá sen, nụ sen luồn lách qua đám lau sậy mà vươn lên đầy kiêu hãnh, nở bung ra những bông hoa tinh khiết, thanh tao.

    Lần cuối cùng ta tới đây là vào giữa tháng Bảy Thái Bình năm thứ Mười một. Khi đó họ Đinh vừa mói băng hà mà vận nước thì đang lâm nguy. Chính nơi này ta đã đứng nghe tiếng sáo của Lê Hoàn vào cái đêm trước khi nhường ngôi.. Khi đó sen nở muộn vẫn còn rực rỡ, bạt ngàn lắm, dù đã sang đầu thu.

    Sau đó thì chiến tranh liên miên. Rồi ta trở về Đông Lỗ. Rồi lệnh cấm của Lê Hoàn. Tính ra cũng đến ba, bốn năm không có người lui tới. Bảo sao không đổ nát, hoang tàn.

    Đang đứng trên những phiến đá rêu phủ từng lớp đen xì của chiếc cầu dẫn ra Lầu, miên man nghĩ về cả những chuyện cũ lẫn chuyện mới thì ta chợt nghe văng vẳng bên tai tiếng cười khúc khích, tình tứ vọng lên từ một góc hồ. Không rõ là từ hướng nào. Vì cây cối rậm rạp và tứ bề núi đá bao quanh làm âm thanh rất khó đoán định. Nhưng chắc chắn đó là tiếng cười của một cô gái trẻ. Có lẽ cô cùng bạn trai bí mật lẻn ra đây, thả thuyền trốn giữa những lùm sen bát ngát để tự tình?

    Một chút nghi ngại, một chút bực mình dâng lên trong người. Ta khoát tay ra hiệu cho Lan Nhi rồi dợm bước định quay về thì liền đó nghe thấy giọng người con gái ấy cất lên thủ thỉ:

    - Hoàng thượng! Sẵn tiện thần thiếp đã mang theo một cây sáo ở đây, Hoàng Thượng hãy tấu cho thần thiếp nghe một bản chứ! Hoàng Thượng còn định từ chối thần thiếp đến bao giờ nữa? Tiếng sao của Người không định tấu lên cho một người nào khác hay sao? Gió mát sen thơm thế này mà được nghe tiếng sáo của Người, thần thiếp về sau có chết cũng cam lòng!

    Rồi những tiếng thủ thỉ gì nữa ta nghe không rõ. Vì hai chữ "Hoàng thượng" đã khiến tai ta ù đi rồi.

    Tiếp đó là những tràng cười tình tứ của Lê Hoàn, của người con gái vẳng lên. Sau cùng là tiếng sao. Tiếng sáo vút lên từ một lùm sen um tùm nào gió. Du dương. Tiếng sao của Lê Hoàn.

    Một luồn choáng váng chạy dọc sống lưng khiến ta chút nữa thì ngã khụy xuống. May thay kịp nắm vào cánh tay của Lan Nhi.

    Khi định thần lại, chỉ kịp bảo với nàng ta "Chúng ta về thôi", rồi đi như ma đuổi trở về Cung, chẳng cần biết nàng ta có theo kịp hay không.

    Thì ra đó chính là nàng Diệu đấy. Ta không nhìn thấy mặt, nhưng chắc chắn đó là nàng. Phải được sủng ái tới mức nào mới được cùng Lê Hoàn tới đây vui chơi, hái hoa, thưởng nguyệt như đôi thanh mai, trúc mã, thanh nhàn, thảnh thơi như vậy! Phải được yêu chiều tới mức nào mới được cùng Đương kim Hoàng Thượng vô tư lự thả thuyền ngắm sen giữa Hoa Lư trập trùng này. Và chắc chắn đó chỉ có thể là nàng Diệu, người mà Lê Hoàn đang hết mực sủng ái mà thôi.

    Hình ảnh hai người tựa vào nhau trên con thuyền lá mong manh núp dưới bóng hoa sen cứ quay mòng mòng trong đầu ta. Nàng mỉm cười, dựa đầu nũng nịu lên cánh tay Lê Hoàn. Lê Hoàn ngồi lặng lẽ thổi sáo. Nàng ngồi nghe, mơ màng ngắm hoa sen. Đến khi tiếng sáo dừng lại thì họ quện lấy nhau trên con thuyền lững lờ thả giữa hồ.

    Hương sen thơm nồng nàn như tình. Mà tình cũng thắm đượm như hương sen..

    Nhưng những nụ sen sắc nhọn thì đâm vào lòng ta đau nhói! Hàng trăm ngàn cái gai trên thân sen sao cứng sần, cứa vào tay ta như tứa máu!

    Chẳng biết ta đã đi hay chạy về đến cung Cồ Quốc. Chẳng biết ta đã dốc hết bao nhiêu sức lực để về đến phòng như thế nào. Đến khi ta vừa bước vào phòng thì liền lăn ra bất tỉnh. Rồi khi tỉnh dậy thì lại ốm bốn, năm ngày. Nằm trên giường, vừa ốm mệt, vừa thấy chua chát ở trong lòng.

    Hẳn nhiên là phải yêu thương lắm Lê Hoàn mới thổi sáo cho nàng nghe. Tiếng sáo ấy là tiếng lòng của Lê Hoàn, vốn dĩ không dễ dàng gì bày ra cho người khác thấy. Nay đã vì nàng Diệu mà cất lên du dương đến vậy. Mới hay chuyện nàng được sủng ái, yêu thương không đơn giản là việc Hoàng Đế sủng ái phi tần. Đó còn là tâm giao, tri kỷ.

    Chợt nhớ ra đã từ lâu lắm rồi tiêng sáo ấy đã không còn vì ta mà cất lên nữa. Từ khi chúng ta cùng rời Ái Châu về Hoa Lư với những tư cách khác nhau. Từ khi ta trở thành vợ lẽ Họ Đinh, ba chìm bảy nổi ở Hoa Lư này. Từ khi Lê Hoàn lên ngôi. Ngay cả khi Lê Hoàn trở lại Đông Lỗ để đưa ta về Hoa Lư. Ngay cả trên cánh đồng, bên dòng sông năm trước, tiếng sáo ấy cũng không cất lên một lần nào nữa.

    Buổi chiều ấy, khi nghe Lê Hoàn tấu lên cho nàng Diệu, ta không còn có thể cảm nhận được tâm tư của Lê Hoàn trong tiếng sao ấy nữa. Ta như một kẻ đứng ngoài.

    Cũng phải thôi! Vì Lê Hoàn thổi cho nàng Diệu cơ mà. Đó là tiếng nói mà Lê Hoàn gửi tới nàng ta. Sao ta có thể hiểu được đây!

    Hóa ra từ lâu ta vốn dĩ đã không còn ở trong lòng Lê Hoàn nữa rồi! Chỉ là không biết tự bao giờ mà thôi!

    Nghĩ ngợi đau đớn thì vần vụ như vũ bão vậy. Mà khi bão đã đi rồi thì bầu trời lập tức trở lại trong xanh.

    Khỏi ốm dậy ta bỗng thấy lòng bằng an và tĩnh lặng.

    Suy cho cùng ta có định mưu cầu gì nữa đâu mà phải ghen ghét, ganh đua? Giờ đây ta không phải chính là thanh nhàn được ngày nào thì thanh nhàn ngày đó, vui mừng được ngày nào thì hãy cứ vui mừng ngày đó hay sao? Sáng thì cùng Lan Nhi đi hái hoa, chế làm son, phấn và phơi khô làm trà. Chiều thì ngồi ở sân ngắm chuồn chuồn bay qua bay lại. Chờ cho hết một ngày. Chờ cho hết một đời.

    Tháng Tám, một người họ Dương từ vùng Đạo Ái lên kinh thành mang thư từ trang Đông Lỗ xin vào gặp ta. Thì ra là Dương Vĩnh Khang, chính là cháu họ của Quản gia Dương Thuần mới lên tòng lính. Quản gia Dương Thuần biên thư cho ta, xin hãy cho cháu được theo hầu Vệ Vương Đinh Toàn, một mặt để học hỏi thêm, một mặt để bảo vệ Vệ Vương theo di nguyện của Chương Dương Công.

    Dương Vĩnh Khang năm nay đã mười tám, mười chín tuổi, lại có võ nghệ cao cường nên ta hết sức yên tâm.

    Thời gian gần đây Toàn Nhi đã ở hẳn bên thành Nam để luyện tập, chỉ thư thoảng mới về thăm nhà. Ta thấy đó quả là việc hay. Con trai ta vì thời thế thay đổi, từ chỗ đứng trên thiên hạ nay phải luẩn quẩn trong Cấm cung của họ Lê thì thật là trớ trêu. Chi bằng hãy để nó sang Tràng An bắn cung, cưỡi ngựa vẫy vùng sông nước. Giờ có Vĩnh Khang, hai huynh đệ theo nhau quan tâm, săn sóc cho nhau thì còn gì bằng!

    Mùa xuân Thiên Phúc năm thứ Sáu. Nàng Diệu mang thai rồng. Lê Hoàn rất mực yêu chiều. Ban cho một gian phòng lớn trang hoàng lộng lẫy ngay cạng Long Sàng trong điện Trường Xuân để nàng ta tiện nghỉ ngơi, an dưỡng, mà Lê Hoàn cũng tiện lui tới, hỏi han. Ấy quả là một sự bất ngờ lớn với tất cả mọi người ở Hoa Lư.

    Sau khi họ Đinh băng hà vì bị hạ độc trong đêm, Lê Hoàn lên ngôi chính là rút kinh nghiệm từ đó nên không bao giờ lui tới Hậu cung của các Hoàng hậu, phi tần để nghỉ ngơi, dùng bữa. Mọi việc sinh hoạt, ăn uống đều thực hiện ở Điện Trường Xuân dưới sự dám sát hết sức chặt chẽ của những người thân tín. Việc vào hầu hạ bên Long sàng của các Hoàng hậu, phi tần cũng phải theo lệnh mà vào, theo lịch, theo thứ tự mà tới. Được yêu chiều thì thường xuyên được gọi vời, còn không thì cũng chỉ có thể ngồi oán trách thân mình hẩm hiu ở nơi Hậu cung sâu thăm thẳm mà thôi. Đến khi mang thai rồng thì lại phải hết sức giữ gìn, kiêng cữ, nên không được vào hầu hạ bên Long sàng nữa. Chín tháng, mười ngày Hoàng đế sẽ ghé thăm dăm ba bận. Còn lại thì phải vò võ một mình với kẻ hầu người hạ xung quanh thôi.

    Ấy là số phận chung của các Hoàng hậu, phi tần của Lê Hoàn, mà ngay cả Thuận Thánh Hoàng hậu, vốn là cháu gái của Tể tướng cũng không thể tránh khỏi.

    Vậy mà nàng ta thì lại khác. Nàng ta lại được ở luôn trong Điện Trường Xuân, ngay cạnh Long sàng. Phải yêu chiều thế nào Lê Hoàn mới vì nàng mà phá bỏ mọi nguyên tắc của bản thân như vậy. Người con gái ấy hẳn phải làm cho Lê Hoàn say mê đến mức dại cuồng!

    Các vị Hoàng hậu khác thế nào ta không rõ, về phần ta, sau khi ốm dậy, sau khi ma đưa lối quỷ dẫn đường ta đến Lầu Thủy Nguyệt trở về, bỗng không được vời vào Điện Trường Xuân nữa. Ấy ta chính là vị Hoàng hậu bị thất sủng vậy. Nhưng ta lại lấy đó làm may. Chứ nếu được vời vào ta không biết sẽ làm gì với Hoàng Đế, nhất là khi biết rằng ngay gian phòng bên cạnh nàng Diệu đang ở đó.

    Không biết có phải ta sắp mãn kinh rồi không mà thành ra lãnh đạm? Hay chính là lòng đã nguội lạnh rồi?

    Dạo gần đây trong Hậu cung xuất hiện tin đồn thổi rằng, có vị Hoàng hậu, cung tần vì bị thất sủng mà tỏ ra ganh ghét và đang tìm cách hãm hại Diệu cô nương.

    Ta nghe Lan nhi kể lại sau khi nàng nghe được từ đám hầu nhỏ bên ngoài mà chỉ còn biết ngồi cười. Chuyện hoang đường như vậy mà người ta cũng thêu dệt ra được. Lê Hoàn giữ nàng ta bên người còn hơn cả giữ ngọc quý, nhất là sau khi nàng ta mang Long thai, như vậy mà cũng có người tìm cách hãm hại được nàng ta hay sao? Từ thành Đông cho tới Điện Trường Xuân trùng trùng lớp lớp, một con chim bay từ Hậu cung sang chắc cũng khó sống sót được tới cửa Điện, chứ nói gì tới thích khách, kẻ gian? Các Hoàng hậu, phi tần cũng đâu phải muốn ra vào Điện Trường Xuân là được? Không phải là chỉ chờ ân sủng mới được vào hay sao, mà vào rồi cũng chỉ có thể hầu hạ bên Long sàng, vậy thì hãm hại nàng ta như thế nào đây?

    Như ta đây thậm chí nghe sắc nghe hương đã nhiều, vậy mà hơn một năm nay nào đâu đã được nhìn thấy mặt nàng! Giả trước kia có nhìn thấy nàng trong đám người hầu kẻ hạ khi vào điện Trường Xuân thì cũng không để ý. Lúc đó nàng ta chưa được sủng ái, chắc khó mà phân biệt được nàng giữa đám người hầu kẻ hạ. Vậy nên ta có muốn hãm hại hàng thì cũng biết tìm cách nào mà hãm hại được!

    Nghĩ thế rồi lại ngồi cười. Miệng lưỡi thiên hạ thật đáng sợ! May mà ta đã ở bên ngoài cái vòng tranh đoạt mệt mỏi đó rồi!

    Ngày ấy ta chỉ nghĩ được có vậy, không nghĩ được gì sâu xa hơn. Sau này mới hay, lòng người khó lường. Thì lúc đó cũng đã quá muộn rồi..

    Tháng Mười Thiên Phúc năm thứ sáu, nàng Diệu hạ sinh được hai Hoàng tử. Được đặt tên là Long Việt và Long Đĩnh. Vì sinh đôi nên sức khỏe nàng rất yếu. Lúc sinh còn tưởng nàng ta không sống nổi, thế mà may mắn thay cuối cùng vẫn bảo toàn được tính mạng cho cả mẹ và con.

    Suốt từ mùa Xuân, để chuẩn bị cho việc nàng sinh nở, Lê Hoàn đã cho vời rất nhiều thợ giỏi từ khắp nơi về, xây dựng cung tẩm riêng cho nàng ở thành Tây, để tiện cho nàng và con về sinh sống. Đến khi nàng vừa sinh xong thì hoàn thành. Được đặt tên là Diệu nữ Cung. Ta nghe đâu chữ Diệu này ý tứ từ trong chữ tuyệt diệu, kỳ diệu mà ra. Vừa ám chỉ một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, vừa chơi chữ với tên Diệu của nàng.

    Quả đúng là yêu chiều nên mới lắm công phu!

    Diệu nữ cung tuy vẫn nằm ở thành Tây nhưng lại được làm sát ngay cổng thành nối với thành Đông, nên hết sức thuận tiện cho việc Lê Hoàn thăm nom, lui tới với nàng.

    Sau khi nàng Diệu chuyển về đó sinh sống, khác với những Hoàng hậu và Hoàng tử khác, Lê Hoàn phá bỏ mọi quy tắc, đến thăm hai Tiểu Hoàng tử luôn, quấn quít không rời.

    Thế là từ quan lại quần thần cho tới người hầu kẻ hạ, khắp nơi lại được dịp xì xào, bàn tán. Liệu Lê Hoàn có đi theo vết xe đổ của họ Đinh, vì quá yêu chiều mà bỏ trưởng lập thứ, để rồi đẩy con cái mình đi tới đường chết, đẩy muôn dân vào cảnh binh đao khói lửa hay không?

    Mùa xuân, Thiên Phúc Năm thứ Bảy. Ngày Mùng một Tết. Đáp lại những lời xì xào đang ngày càng nổi lên khắp Hoa Lư, Lê Hoàn xuống chiếu phong Hoàng tử Thau làm Thái thử, chính thức là người kế vị khi vua băng hà.

    Nghe chiếu ấy khắp Hoa Lư và muôn dân trăm họ ai ai cũng vui mừng như cởi bỏ được gánh nặng bấy lâu trên vai.

    Lập người kế vị lấy con đích mà lập, ấy là thuận lẽ xưa nay. Có tuân theo lẽ ấy mới hợp với ý trời, mới mong tránh được tranh quyền đoạt vị, mới hợp với lòng dân. Có như vậy thiên hạ mới an vui và thái bình đời đời được.
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
  9. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXVIII. TAI HỌA

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một ngày cuối xuân, ta bỗng được cho vời vào hầu hạ ở Điện Trường Xuân.

    Lúc nghe Phạm Công công thông báo, ta phải hỏi lại mấy lần xem có nhầm lẫn ở đâu không! Không phải là từ mùa hè trước tới giờ ta không còn được vời vào đó, không còn được sủng ái nữa hay sao? Lê Hoàn cũng chính là lâu lắm rồi ta không được nhìn thấy mặt vậy. Thực ra thấy thì có thấy, nhưng chủ yếu là trong các buổi yến tiệc, thết đãi của triều đình. Cũng chỉ là có mặt cho có vậy. Vậy mà không phải là ta đã bị lãng quên rồi hay sao! Chắc là một sự nhầm lẫn nào ở đây chăng? Vừa ngồi kiệu đi vào Điện Trường Xuân vừa không khỏi băn khoăn như vậy.

    Thì quả đúng là nhầm lẫn thật!

    Ta vừa bước vào phòng, dưới ánh nến leo lét đã thấy Lê Hoàn đang nằm vật trên giường. Ta bước lại, ngồi ghé bên Long Sàng thì thấy nồng nặc mùi rượu. Có lẽ Lê Hoàn say rượu. Vừa thấy ta ngồi xuống bên cạnh, Lê Hoàn liền xoay người ôm chầm lấy ta, dụi đầu vào lòng ta rồi bảo:

    - Phụng Càn Hoàng hậu! Trẫm nhớ nàng quá! Chúng ta đã lâu rồi không gặp. Hôm nay nàng nhất định phải trổ các ngón nghề của nàng để chiều Trẫm mới được!

    Nghe đến đó ta chết lặng như tượng đá! Mà tê tái cả cõi lòng!

    Nhớ Phụng Càn Hoàng hậu tại sao lại có thể gọi nhầm ta? Là do Lê Hoàn say quá mà nhầm, hay do người hậu kẻ hạ nghe không thủng mà nên nỗi ê chề thế này! Trong Cung vốn không phải rất chặt chẽ sao? Sao lại để xảy ra chuyện như thế? Sao cuộc đời cứ phải trêu người người ta như vậy? Lại cứ phải làm người ta đau lòng mới hả hay sao!

    Mà Phụng Càn Hoàng hậu, nàng có món nghề gì mà Lê Hoàn mê mẩn, nên nỗi giờ đây ta phải dở khóc, dở cười thế này!

    Đang nghĩ vậy thì đã lấy Lê Hoàn dụi khuôn mặt vào cổ ta, vào ngực ta nũng nịu như trẻ nhỏ:

    - Nàng không nhớ Trẫm chút nào sao? Sao lại im lặng như vậy?

    Giọng nói mềm nhũn cùng đôi mắt nhắm nghiền chứng tỏ Lê Hoàn đã uống rất nhiều. Ta nhất thời không biết mình nên làm gì đây? Nói rằng ta không phải là Phụng Càn Hoàng hậu rồi cáo lui về, hay cứ thế lờ đi, lấy danh nghĩa nàng ta mà hưởng ân sủng?

    Đang đắn đo như vậy thì Lê Hoàn lại gào lên như một đứa trẻ giận dỗi:

    - Nàng không nhớ Trẫm chút nào sao? Sao nàng lạnh lùng như vây!

    Nói rồi nằm vật ra giường: Nàng làm ta đau lòng quá!

    Ta không khỏi thấy lòng đau đớn, ê chề, nước mắt đã trực tuôn ra mà cố nuốt ngược trở lại, lấy giọng dịu dàng bảo:

    - Có chứ! Thần thiếp nhớ Hoàng thượng! Cuối cùng cũng được gặp Người rồi!

    Nói rồi cúi xuống nằm sấp trên vòm ngực của Lê Hoàn, lau vộ hai giọt nước mắt vào đó. Vòm ngực của người ta yêu! Vòm ngực của người không còn sủng ái ta nữa! Vòm ngực nửa thân quen, nửa xa lạ!

    Lê Hoàn đưa tay ôm lấy ta rồi cười vang:

    - Phải vậy chứ, phải vậy chứ! Hôm nay nàng nhất định phải chiều Trẫm mới được! Hahaha..

    Ta vội trườn trên người Lê Hoàn, tiến lên để mặt đối mặt, rồi cúi xuống hôn.

    Ẩn ức!

    Tái tê!

    Mùi rượu nồng khó chịu!

    Đám râu ria ở cằm và ở mép Lê Hoàn làm ta rất khó chủ động hôn trong khi Lê Hoàn đáp lại một cách hờ hững.

    À giờ ta mới để ý, Lê Hoàn cũng để râu. Nhưng râu dài, chứ không ngắn và chĩa ra tua tủa như râu ria Đinh Bộ Lĩnh. Khi hôn Đinh Bộ Lĩnh, râu ria chọc vào mặt rất rát..

    Thấy Lê Hoàn vẫn nằm đuỗn ra và đáp lại rất hờ hững, ta dừng lại rồi bảo:

    - Hoang Thượng mệt rồi hay sao? Sao không đáp lại thần thiếp?

    Lê Hoàn lúc đấy mới giật mình:

    - Ta không có! Ta không có!

    Nói rồi dùng hai bàn tay kéo mặt ta xuống và hôn. Nụ hôn lúc đầu rời rạc, nhấm nhẳng, như dỗi, như hờn. Một hồi thì tựa như những dỗi hờn đã bị nuốt hết vào trong, chỉ còn lại những say mê, cuồng nhiệt kéo dài. Một lúc sau, ta dùng tay, tự mình cởi Hoàng bào cho Lê Hoàn. Cởi đến đâu lại hôn lên chỗ đó. Có lúc lại cắn mạnh như muốn trút bao bực dọc lên chàng. Lê Hoàn thấy thế hết sức phấn khích, không thể nằm yên. Có lúc cong người lên định kéo ghì ta xuống thì ta ngăn lại. Xong xuôi ta lại dùng bàn tay mơn trớn khắp cơ thể chàng. Đến khi chàng không thể chờ thêm được nữa, ta bèn trèo lên hông chàng như cưỡi ngựa. Rồi chúng ta hòa vào nhau trong nhịp điệu của ái tình.

    Đêm ấy, Lê Hoàn nghĩ ta là Phụng Càn Hoàng hậu, còn ta như trút mọi bực dọc, tủi hơn lên chàng. Thế mà thành ra hương lửa nồng đượm không biết bao nhiêu mà kể! Khi thì ta như cắn xé, vò nát chàng; lúc thì vuốt ve mơn trớn. Khi thì chàng âu yếm từng đường gân, thớ thịt trên cơ thể ta; lúc bế bổng ta lên, khi lại đè nghiến ta xuống như muốn nghiền nát ta ra thành trăm mảnh. Lúc thì chúng ta nhẹ nhàng chậm rãi. Lúc lại ào ào như vũ bão cuồng si! Có những khi ta đã thiếp ngủ đi rồi lại tỉnh dậy cùng chàng ái ân không biết mệt! Gà gáy canh bốn, canh năm rồi, vẫn mê dại cuốn chặt lấy nhau!

    Đã lâu lắm rồi từ, từ ngày bên sông Càu Chày tới giờ, chúng ta mới lại có một đêm dài như vậy. Chúng ta như thể đã tan ra..

    Sáng sớm hôm sau khi ta tỉnh dậy mặt trời đã lên cao bằng con xào. Lê Hoàn đã lên Điện thiết triều buổi sáng. Không biết là đi tự lúc nào.

    Còn lại ta nằm một mình trên giường không khỏi có chút giật mình. Không biết sáng nay tỉnh dậy, rượu đã tan, mặt trời đã tỏ, nhìn thấy ta thì Lê Hoàn nghĩ gì? Nghĩ tới đó, tự tưởng tượng ra khuôn mặt ngỡ ngàng của Lê Hoàn, mà cảm thấy ê chề tăng lên gấp bội. Những sầu muộn dồn về như mưa bão ở trong lòng. Bao ân ái say nồng đêm qua bỗng chốc biến thành nỗi hổ thẹn. Ta cuốn mình vào trong chăn, cố lưu giữ những hơi ấm người còn phảng phất mà không kìm nổi nước mắt. Nằm khóc một lúc, rồi tự mình gạt nước mắt, lục cục ngồi dậy mặc xiêm y, trở về Hậu cung.

    Sau đếm ấy cũng chẳng thấy ai bàn tán, nhắc nhỏm gì chuyện nhầm lẫn ấy. Lê Hoàn không cho vời ta vào nữa và dường như cũng không để ý tới việc này. Nên ta cũng quên lãng đi và dần bình tâm trở lại.

    Đúng khi thấy thì phát hiện ra mình có mang.

    Đó là vào một buổi chiều giữa tháng Năm. Cũng vào một buổi chiều hè. Nhưng năm nay mưa bão nhiều, nên ẩm ướt và ủ dột. Những cảm giác xáo trộn, nộn nạo trong người giống hệt như khi ta phát hiện mình mang thai Toàn Nhi trước đó. Ta cũng bị nôn ói liên tục và mệt mỏi nhiều. Những cảm giác khó chịu đến cùng cực này ta chỉ trải qua một lần duy nhất trong đời khi mang thai Toàn Nhi. Và giờ là lần thứ hai. Nên chẳng cần cho vời ngự y ta cũng đã đoán biết được.

    Chẳng biết trời cao có dụng ý gì mà để ta vào hầu hạ ở Điện Trường Xuân trong cái đêm chớ trêu ấy. Chẳng biết trời cao định chơi trò gì mà mấy năm liền thì không sao, vậy mà đúng cái đêm ấy thôi nhụy hoa lại đậu quả. Để ta giờ đây dở khóc, dở cười thế này!

    Nhớ năm xưa hay tin ta có mang Toàn Nhi thì mọi người vui vẻ hạnh phúc bao nhiêu, mà giờ đây lòng rối như tơ vò.

    Vui thì cũng có vui. Bởi thời gian gần đây Toàn Nhi đã lớn khôn, suốt ngày mải mê tập võ, luyện cung ở bên thành Tràng An, thư thoảng mới về thăm ta. Có được đứa con này ta cũng đỡ phần cô quạnh.

    Nhưng mặt khác cũng không khỏi lo lắng và e ngại, bởi vì nó là con của Lê Hoàn. Là con của Đương kim Hoàng thượng. Giờ đây khi ta không được sủng ái nữa thì đứa con này sẽ như thế nào? Rồi đây cuộc chiến tranh quyền đoạt vị có cuốn nó theo hay không? Ta vốn dĩ đã định lánh đời mà ăn chay niệm Phật ở giữa chốn Hậu cung này, thì nay việc ta có thai Rồng có khiến cho những người khác nhòm ngó, đề phòng ta? Ai biết được rồi đây sẽ có chuyện gì!

    Ta ước sao nó sẽ là một Công chúa. Có như thế cuộc đời nó may ra mới được bình an..

    - Hoàng hậu vẫn nên cho truyền Ngự y tới bắt mạch cho chính xác chứ! Thêm nữa năm nay sức khỏe người cũng đã yếu hơn nhiều rồi, không còn như năm xưa nữa, cũng nên để Ngự y kê thuốc tẩm bổ, an thai chứ!

    Lan Nhi bảo ta như vậy khi ta báo cho nàng biết chuyện mình có mang.

    Ta ngồi trên ghế, dưới gốc cây lựu chậm dãi bảo:

    - Có chính xác hay không một, hai tháng nữa sẽ biết rõ ngay, cần gì phải cho truyền Ngự ý! Rủi thay mà không phải, người ta lại nghĩ ta vin cớ này để nũng nịu nhằm lấy lòng Hoàng Thượng. Như thế thì có gì hay! Thêm nữa lúc này ta cũng không muốn cho Hoàng Thượng biết mình có mang.

    Lan Nhi sửng sốt:

    - Tại sao lại thế? Làm sao có thể giấu mãi được? Với cả sao Hoàng hậu phải làm vậy chứ?

    - Không phải ta định giấu mãi. Chỉ là ta chưa muốn cho Hoàng thượng biết bây giờ mà thôi.

    - Vậy Hoàng hậu định khi nào thì cho biết chứ!

    - Ta cũng chưa biết nữa.. Mà cũng chưa muốn nghĩ tới chuyện đó! Thôi hãy mặc kệ mọi chuyện muốn đến đâu thì đến đi!

    Lan Nhi thở dài đánh thượt một cái rồi lẩm bẩm:

    - Những người không yêu nhau cũng khổ. Mà những người yêu nhau cũng khổ. Rốt cuộc không hiểu ái tình là cái thứ chi chi mà phức tạp vậy cơ chứ!

    Nói rồi nàng ta phe phẩy cái quạt đi loăng quăng trong vườn, mặc kệ ta ngồi đó dưới gốc cây Lựu.

    Mùa hè năm nay thật là kỳ lạ! Mưa bão nhiều, rất ảo não và thê lương.

    Mùa hè ở nước Việt này vốn dĩ nóng nôi như đổ lửa, lại thêm cái không khí oi nồng, ẩm ướt, hết sức khó chịu. Vậy mà năm nay, chỉ nắng trong vòng nửa tháng đầu mùa, còn sau đó chủ yếu là mưa. Khi mưa ngừng thì trời cũng hểnh nắng một, hai ngày, nhưng đó cũng không phải là cái nắng nóng thường thấy của mùa hè.

    Mà mưa thì lê thê.

    Có khi kéo dài chục ngày tới cả nửa tháng liên tục. Mưa thối đất thối cát. Nhiều vùng dân cư ở Đạo Ái, Hoan Châu bị ngập lụt nặng, tình cảnh hết sức thê lương. Ngồi bó gối trong nhà nhìn mưa mãi, lòng cũng không khỏi thấy não nề.

    Một ngày cuối tháng Sáu, sau một đợt mưa kéo dài chừng hơn mười ngày, buổi chiều trời bỗng hửng nắng. Ta bèn rủ Lan Nhi ra vườn đi dạo.

    Khi này ta đã biết chính xác mình có mang. Đã gần ba tháng rồi, nên bụng đã có thể nhìn thấy được nếu để ý kỹ. Nhưng ngoài ta và Lan Nhi vẫn không ai biết việc này. Ta đã cố tình mặc áo khoác ngoài rộng, hơn nữa thời gian gần đây ta đã bị thiên hạ lãng quên rồi, không ai còn quan tâm, để ý đến ta nữa.

    Mưa kéo dài, ngồi bó gối trong nhà rất là bức bí, lại thêm luẩn quẩn với cái ý nghĩ nửa muốn dấu diếm, nửa lo sợ, sớm muộn gì cũng phải báo cho Lê Hoàn việc ta mang bầu, nếu không sẽ rất khó xử về sau, khiến cho ta rất muốn ra ngoài đi dạo.

    Mặc Lan Nhi can ngăn, rằng vừa mưa xong mà nắng lên thì rất độc, ta vẫn đi ra vườn.

    Mưa nhiều khiến những khóm hoa thủy tiên hồng và trắng đã nở bung tự lúc nào. Loài hoa ưa ẩm này đã tranh thủ những ngày người ta lãng quên mình mà mọc lan khắp vườn. Giờ đây thì phủ một tấm thảm hoa trắng, hồng trên nền lá xanh mướt mát. Mùi hoa tuy không sắc rõ, nhưng dìu dịu thanh tao khắp khu vườn.

    Đi dạo một hồi, đang ngồi nghỉ trên ghế đá thì chúng ta nhìn thấy một vú già đang lang thang trong vườn, tay cầm một chiếc giỏ nan, lần mò tìm kiếm gì đó quanh quất giữa các bụi cây. Vú già này không phải là người trong Dương cung, nên không khỏi khiến chúng ta ngạc nhiên. Chưa kịp gọi lại hỏi thì vú già nhìn thấy chúng ta đang ngồi bên ghế đã vội vàng chạy lại trình báo:

    - Thần xin khấu kiến Hoàng hậu! Thần là người bên Diệu nữ Cung, đã xin phép với thị vệ ở đây cho thần đi loanh quanh tìm các cây cỏ dại trong vườn làm vị thuốc. Mong Hoàng hậu và cô nương đây chiếu cố!

    - Vì sao phải đi kiếm thuốc vậy? Thuốc cho ai?

    Người vú già nghe ta hỏi, dơm dớm nước mắt bảo:

    Chính là kiếm cho Diệu cô nương thưa Hoàng hậu. Vì mang song thai nên sau khi sinh xong sức khỏe rất yếu. Năm nay thời tiết thất thường nên lại càng đau ốm liên miên. Diệu cô nương giờ đây chính là chỉ còn da bọc xương thôi vậy. Hết sức là đáng thương!

    - Nếu vậy đã có Ngự y lo, tại sao nhà người phải lang thang kiếm cây cỏ như vậy.

    - Thần cũng là theo lời Thái y, hái thêm các cây cỏ trong vườn uống để bồi bổ thêm thôi. Hơn nữa Hoàng hậu không biết, chứ Diệu cô nương vì ốm đau không hầu hạ Hoàng thượng được nhiều, nên cũng đã giảm đi sáu, bảy phần sủng ái rồi. Bản thân lại không có chức vị gì, bổng lộc không nhiều nên cũng chịu nhiều thiệt thòi lắm.

    Nói rồi vú già xin phép tiếp tục công việc. Lủi thủi kiếm cây cỏ gì đó trong vườn rồi đi mất lúc nào ta cũng không rõ.

    Buổi chiều ngồi bên hiên nhà uống trà chờ cơm, nhớ lại cuộc gặp gỡ với vú già lúc chiều, nghĩ đến nàng Diệu, người con gái ta chưa từng gặp mặt, cũng cảm thấy có chút xót thương. Được yêu chiều sủng ái là thế, mà đến khi không còn giá trị nữa thì cũng đều là bị ra rìa hay sao? Nếu quả vậy thì thật quá buồn! Thân phận người con gái dù có xinh đẹp đến mấy cũng chỉ như một đóa phù dung, sớm nở tối tàn vậy!

    Nghĩ thế rồi ta bảo Lan Nhi:

    - Thúc thúc ta ở Ái châu vừa gửi ra cho một số sản vật địa phương, trong đó ta nhớ có ít hạt sen đầu mùa đã phơi khô, ta đã bảo bọn người hầu cất kỹ dùng dần. Nay em hãy lấy năm lạng mang sang tặng cho Diệu cô nương. Bảo người nhà ninh cháo cho nàng ăn thêm. Hạt sen giúp ngủ ngon lại có tác dụng bồi bổ cơ thể. Người ốm yếu ăn vào đều rất tốt. Nói ta gửi lời hỏi thăm và chúc nàng mau khỏe!

    Lan Nhi đi xuống bếp một hồi thì xách lên một cái túi lụa màu đỏ đựng năm lạng hạt sen trong đó. Nàng đang định sai hầu nhỏ mang sang thì ta gạt đi, bảo:

    - Thôi em hãy đi đi rồi hỏi thăm cho gãy gọn. Chứ bọn hầu nhỏ nó chỉ ào sang, rồi ăn nói lúng búng không ra ngọn ra ngành thì mất mặt.

    Nàng xin vâng, liền mang đi.

    Tất cả tai họa đều từ đấy mà ra. Dấu chếm hết cho cuộc đời ẩn dật êm đềm của ta, Lan Nhi cũng từ đó mà ra. Cũng chỉ tại ta nhẹ dạ, tin người. Cũng chỉ tại cái lòng thương xót người khác không biết suy xét của mình nữa!

    Nhưng tất cả đã muộn rồi.

    Tảng sáng ngày hôm sau, cả Hậu cung nhốn nháo vì nghe tin dữ: Nàng Diệu đã qua đời từ lúc nửa đêm. Lê Hoàn quá đau đớn vì cái chết của nàng đang điên cuồng bắt Đô hộ Phủ sĩ điều tra nguyên nhân, lại khóc lóc bên xác nàng không thiết ăn uống gì, không thèm cả thiết triều, bỏ mặc việc quốc gia đại sự.

    Chao ơi nghe mà xót thương cho nàng! Sao kiếp hồng nhan chỉ ngắn ngủi có chừng ấy? Vừa được sủng ái đấy thôi, vừa hôm nào còn trốn dưới tàng hoa sen mà khúc khích vui vẻ bên cạnh Hoàng Đế, mà nay đã tan thành mây khói rồi. Hai đứa con nhỏ vừa sinh được tám, chín tháng, giờ thì thành bồ côi, bồ cút rồi. Vẫn biết là được Lê Hoàn yêu chiều, sẽ có trăm kẻ hầu người hạ. Nhưng không có mẹ ở trên đời vẫn thiệt thòi lắm thay!

    Lúc đó ta chỉ ngồi ngẩn ngơ thương xót cho nàng, mà không nghĩ gì tới mình cả. Ta thật khờ khạo làm sao!

    Nửa buổi sáng thì tin từ Diệu nữ cung lan ra rằng nàng Diệu chính là bị đầu độc!

    Nghe mấy từ "đầu độc" ta không khỏi lạnh hết cả sống lưng. Nỗi kinh hoàng năm xưa chứng kiến cái chết của họ Đinh bỗng dưng trỗi dậy, trở về làm ta kinh hãi. Lại thêm một dự cảm bất an lờ mờ ở trong lòng, khiến ta như bị lửa đốt, không thể ngồi yên.

    Ba ngày sau, tối, lúc ta đang chuẩn bị đi ngủ thì tai họa ập xuống. Ập xuống đầu ta!

    Dù đã có dự cảm lờ mờ một điều gì đó không lành đang chờ mình, mà đến lúc nó xảy ra vẫn không khỏi ngỡ ngàng.

    Lúc đó trời mưa rất to. Mưa như trút nước từ trên trời xuống. Chúng ta vừa tắm xong, Lan Nhi đang cho ta thay quần áo ngủ để chuẩn bị lên giường thì người ở Đô hộ Phủ sĩ ập vào.

    Ta còn đang ngơ ngác thì ngài Phó sĩ sư, sau khi thi lễ liền đọc một Thông báo rằng, Diệu cô nương chính là bị hạ độc chết. Nguyên nhân được xác định là có thạch tín trong canh sen hầm mà Diệu cô nương ăn. Bởi vậy tất cả người liên quan gồm đầu bếp, thị nữ thân cận, kẻ hầu, người hạ đều đã bị giam cầm. Ta chính là người đã ban cho Diệu cô nương hạt sen, nên cũng sẽ bị giam lỏng ở Lãnh cung chờ điều tra.

    Tất cả diễn biến sau đó ta không còn nhớ gì nữa. Chỉ biết rằng tối hôm đó chúng ta đã phải đội mưa sang ngủ ở Lãnh cung, dưới sự canh phòng cẩn mật của cấm vệ quân Triều đình.

    Lãnh cung thực chất là dãy nhà kho cũ, được cải tạo lại, trang bị một số đồ dùng cần thiết, chuyên dùng để giam giữ các Hoàng hậu, Phi tần, hầu gái mắc lỗi.

    Phòng ta và Lan Nhi ở là dãy phòng dành riêng cho các Hoàng hậu nên cũng được chuẩn bị khá tươm tất. Nhưng dù thế nào cũng không tránh khỏi hôi hám và tối tăm do rất lâu không có người ở. Nhiều nơi mạng nhện còn chăng đầy, trông không khác gì ngôi nhà ma. May mà có cấm vệ quân vẫn canh phòng cẩn mật ở xung quanh, ta nghe bước chân đi qua đi lại và tiếng kiếm đao của họ cọ sát lanh canh vào nhau nên cũng bớt sợ phần nào.

    Thì ra là như vậy! Tất cả những chuyện này, từ lâu lắm rồi, như tấm mạng của một con nhện độc khổng lồ đã được đan dệt khéo léo xung quanh ta. Đến khi ta tỉnh ra, thì ta đã như một con bướm nằm chính giữa mạng nhện rồi. Tơ nhện bám tứ phía xung quanh khiến ta không thể nhúc nhích, cử động được, chứ đừng nói là vẫy vùng, quẫy đạp. Ta cứ nằm yên mà chờ chết thôi! "Dương Hoàng hậu vốn là tình xưa nghĩa cũ của Hoàng thượng mà được mang về cung và phong Hậu. Do lớn tuổi, nhan sắc ngày một tàn phai, nhất là khi có Diệu cô nương thì Dương hậu càng bị ghẻ lạnh. Ghen tức với Diệu cô nương, Dương Hoàng hậu từ lâu đã tìm cách hãm hại nàng. Đến khi Diệu cô nương sinh hai Hoàng tử, Dương hậu càng như hóa điên. Thấy Diệu cô nương đau ốm, thì Dương hậu bèn cho người mang quà sang ban cho Diệu cô nương. Không ngờ trong đó có độc. Thế là nàng Diệu nữ qua đời.

    Nhưng Dương Hoàng hậu cũng tàn đời rồi!"

    Nghĩ đến đó ta cứ ngồi bên chiếc bàn sơn đen xì cười ha ha một mình. Lan Nhi đang loay hoay dọn dẹp, phủi mạng nhện và bụi quanh giường để chuẩn bị cho ta đi ngủ chạy vội lại, hoảng hốt:

    - Hoàng hậu, người làm sao vậy! Mau bình tĩnh lại đi! Hoàng hậu đâu có gì phải lo sợ chứ! Nhất định chúng ta sẽ được minh oan thôi! Sáng mai, hoặc cùng lắm là đôi, ba ngày nữa, Đô hộ Phủ sĩ tìm ra thủ phạm, Hoàng hậu lại được hồi Cung thôi!

    Nói rồi vẫn thấy ta ngồi đó cười, nàng tưởng ta hóa điên rồi, bèn chạy lại rờ vào trán ta. Ta gạt tay nàng ra bảo:

    - Ta vẫn hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo, em không cần phải lo! Hãy dọn giường nhanh lên, ta mệt lắm rồi. Ta muốn đi ngủ!

    Cái nàng ngốc nghếch này! Đã đẩy ta vào tận đây được mà lại để ta trở về Dương cung hay sao? Cuộc đời ta sau này, nếu không chết là may, còn không phải sống chờ chết ở trốn này không chừng. Chứ lại có thể trở về Dương cung mà sống cuộc đời thanh nhàn nữa hay sao!

    Ta, từ khi bước chân về đất Hoa Lư này, cả khi làm vợ lẽ họ Đinh cho tới khi được phong làm Hoàng hậu của Lê Hoàn, ta luôn tâm niệm không tranh giành, nguyện sống một cuộc đời bình lặng. Thế mà sao vẫn không tránh khỏi tai ương thế này! Vẫn biết rằng mượn tay ta để tiêu diệt Diệu cô nương là kẻ nào đó đã cùng một lúc nhổ được hai cái gai trong mắt. Nhưng vì sao lại là ta? Diệu cô nương thì rõ rồi, sự yêu chiều của Lê Hoàn dành cho mẹ con nàng làm người ta khó chịu, và sự yêu chiều đó cuối cùng đã dẫn đến cái chết của chính nàng. Bị kịch cuộc đời nàng thực ra không quá bất ngờ. Nhưng còn ta, một bà Hoàng hậu đã bị thất sủng, vốn không giao du với ai, đến nay ngay cả việc ta có mang cũng vẫn chỉ là ta và Lan Nhi biết. Vậy thì kẻ đó, kẻ chủ mưu đã đứng sau tất cả mọi việc, đã nhìn thấy nguy cơ gì ở ta, tại sao phải gắp lửa bỏ tay người?

    Mà ai? Ai đã làm việc này? Đó mới thực sự là vấn đề! Ta vốn biết mình đã bị thất sủng, thêm nữa bản thân không thể so sánh với sắc đẹp và tuổi trẻ của các nàng, ngay từ khi trở lại Hoa Lư này đã hết sức thu mình, ít giao du bên ngoài. Chỉ những bữa yến tiệc chiêu đãi của Triều đình không thể vắng mặt ta mới xuất hiện, còn lại những dịp thông thường cáo được, ta đều kiếm cớ ở nhà. Việc giáp mặt các nàng rất ít, đếm trên đầu ngón tay được. Vậy mà vẫn có thể đắc tội với các nàng được hay sao?

    Ai? Thuận Thánh Hoàng hậu là cháu của Hồng Hiến Thái sư, nay con trai nàng lại đã được phong làm Thái tử. Vị trí của nàng ở Hoa Lư còn ai có thể làm lung lay được hay sao? Không phải nàng chính là giờ đây, chỉ dưới có Đương kim Hoàng Đế mà trên cả vạn người hay sao?

    Phụng Càn Hoàng hậu cũng đã sinh được Hoàng tử rồi. Tuy Thái tử thì chỉ có một, nhưng nàng rất được Lê Hoàn yêu chiều, lại có bệ đỡ vững chắc là Thái Úy Phạm Cự Lượng, thì giàu sang phú quý, ở Hoa Lư này ai còn có thể vượt được nàng?

    Trịnh Quốc và Phạm Hoàng hậu, vốn dĩ thân phận cũng không có gì đáng chú ý. Các nàng cũng khá ẩn mình, ít giao du như ta vậy? Phải chăng sự khép kín của các nàng chính là để che đậy nhưng âm mưu, chờ thời cơ lật ngược thế cờ? Giả cứ cho là như thế, thì giờ sao đây? Diệu cô nương chết rồi, ta thì cũng đã coi như bỏ, vậy còn Thuận Thánh và Phụng càn Hoàng hậu, các nàng có thể loại trừ được hay không?

    Rốt cuộc suy đi nghĩ lại, ta cũng không hiểu vì sao mình trở thành con tốt trên bàn cờ.
     
  10. huongiris

    Bài viết:
    31
    CHƯƠNG XXIX. LAN NHI ƠI!

    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bảy ngày sau, tầm giữa giờ Tỵ, ngài Đô hộ Phủ sĩ sư đích thân tiến vào Lãnh cung muốn gặp ta. Sau khi thi lễ cung kính, ngài liền từ tốn trình bày:

    - Bẩm Hoàng hậu, người của Đô hộ Phủ sĩ cùng pháp y đã khám nghiệm tử thi, đồ ăn, thức uống để tìm ra nguyên nhân cái chết của Diệu cô nương, thì phát hiện ra canh hầm hạt sen mà Diệu cô nương ăn chính là có độc dược. Tiếp tục tìm hiểu thì phát hiện độc tố trong hạt sen mà ra. Bọn chúng thần đã kiểm tra số hạt sen sống còn lại thì thấy một số hạt sen, thay vì có tâm sen thì lại chứa thạch tín. Diệu cô nương chính là ăn phải thạch tín này mà mất. Hạt sen này chính là hạt sen do Hoàng hậu sai người mang sang ban cho Diệu cô nương. Vậy nên thần đến đây xin phép hỏi Hoàng hậu vài câu để mọi việc được rõ ràng hơn.

    Ra là như vậy! Ta đã sớm đoán ra được những diễn biến này. Nên cũng không thấy quá bất ngờ.

    Một sự chán nản tận cùng dâng lên ở trong lòng khiến ta định cứ im lặng vậy mà cho qua. Nhưng rồi lại bảo:

    - Nhưng ngài Đô hộ Phủ sĩ sư không nghĩ rằng có người nào đó định hãm hại ta sao? Sau khi ta sai người mang hạt sen đó tặng, thì kẻ đó liền đột nhập và hạ độc?

    - Theo như người bên Diệu nữ cung thì sau khi thị nữ của Hoàng hậu mang hạt sen qua ban cho, họ liền mang đi nấu, mà người nấu lại chính là mẹ đẻ của Diệu cô nương, vì muốn tận tay nấu để bồi bổ cho con mình, nên đã không để người hầu, kẻ hạ động tay vào. Hoàng hậu thử nghĩ xem, có người mẹ nào lại tự tay bỏ thuốc độc để hại chết con mình hay không?

    - Nếu kẻ thủ ác lén vào lúc đang nấu và hạ độc thì sao?

    - Nếu vậy thì không thể thấy độc trong số hạt sen còn lại chứ, thưa Hoàng hậu. Các hạt sen còn lại, chỉ một số có độc. Những hạt sen đó đều được rút tâm sen rất khéo léo vào nhét độc dược vào trong mà nhìn qua thì rất khó phát hiện ra. Để làm được việc đó phải rất công phu và mất rất nhiều thời gian. Không thể nào làm trong khoảng thời gian từ khi nhận hạt sen cho tới khi nấu được. Càng không thể có chuyện..

    - Ta hiểu rồi! Như vậy thủ phạm chỉ có thể là ta? Ta ngắt lời ngài Đô hộ Phủ sĩ sư.

    - Hạ thần không dám có ý đó! Vậy nên hôm nay thần mới đích thân tới đây để mạo muội hỏi Hoàng hậu vài câu hòng tìm ra chân tướng sự việc.

    - Vậy trước tiên ta muốn hỏi ngài điều này: Nếu ngài âm mưu hại người bằng độc dược, sau khi làm việc đó, liệu ngài có dấu lọ thuốc độc dưới gầm giường hay không?

    - Thần không nghĩ rằng mình lại có ý định hạ độc người khác bao giờ!

    - Là ta đang giả sử vậy, chứ ta không định lường gạt gì ngài cả. Xin hãy trả lời ta!

    - Thần sẽ không làm vậy.

    - Vậy ngài có nghĩ rằng ta đến nỗi mà đem tặng hạt sen cho người ta mà trong hạt sen có độc, ăn vào người đó chết luôn, rồi tìm trong số hạt sen còn lại liền thấy có độc không?

    - Thực sự thần không thể trả lời câu hỏi này!

    - Ha ha ha.. Được rồi! Ta chỉ cần hỏi vậy thôi! Giờ ngài hãy hỏi ta những điều ngài muốn biết.

    - Thần muốn hỏi Hoàng hậu, hạt sen này Hoàng hậu từ đâu mà có?

    - Người nhà của ta ở Trang Đông Lỗ mang lên cho.

    - Mang lên khi nào thưa Hoàng hậu?

    - Ba ngày trước khi ta mang ban cho Diệu cô nương.

    - Trong thời gian đó những ai có thể tiếp cận số hạt sen này?

    - Khi Thúc thúc ta gửi lên, ta sai người hầu cất vào tủ bếp. Đó là nơi vẫn tích trữ các đồ ăn thức uống. Tủ này mọi kẻ hầu người hạ đều có thể tiếp cận, vì ta không khóa báo giờ. Còn ai đã làm việc đó ta không biết.

    - Ai là người mang hạt sen ban cho Diệu công nương?

    - Là Lan Nhi, thị nữ thân cận nhất của ta.

    - Xin hỏi cô nương..

    - Lan Nhi chỉ lấy hạt sen ra, mang đi rồi về ngay, không thể đủ thời gian làm việc đó. Những ngày trước đó nàng ta lúc nào cũng hầu hạ bên ta không rời nữa bước. Ngài không cần hỏi nàng ta – Ta ngắt lời ngài Đô hộ Phủ sĩ khi thấy Lan Nhi đứng phỗng như tượng đá ở bên cạnh, môi mím chặt, mắt nhìn chằm chằm xuống đất không nói một lời.

    - Hoàng hậu có nghi ngờ ai không?

    - Không, ta không nghi ngờ ai cả! Chủ ý mang hạt sen ban cho Diệu cô nương chính là do ta, nên ta không nghi ngờ ai cả. Ngài còn câu hỏi gì nữa không?

    - Dạ thưa Hoàng hậu, những điều cần hỏi thần đã hỏi hết rồi. Thần xin phép được cáo lui.

    - Ta.. ta muốn hỏi ngài thêm một câu được không – Ta ngần ngừ.

    Ngài Đô hộ phủ sĩ đang lững thững bước ra cửa, nghe ta hỏi bèn xoay người lại bảo:

    - Vâng, xin Hoàng hậu cứ tự nhiên.

    - Hoàng thượng.. Hoàng thượng chỉ đạo việc này như thế nào?

    - Hoàng thượng thực sự không tin vào mọi việc. Hiện đã cho bắt, nhốt và tra khảo tất cả người hầu kẻ hạ thân cận ở hai Cung rồi. Hi vọng trong thời gian tới sẽ có kết quả.

    - Tâm trạng Hoàng thượng tốt hơn chưa? Người có còn đau buồn nhiều không?

    - Hoàng thượng vẫn còn khá đau buồn. Ban đầu giằng dai mãi không cho mang linh cữu Diệu cô nương đi mai táng. Các Hoàng hậu và quần thần phải thuyết phục mãi mới được. Dạo gần đây sau khi đã mai táng rồi, Hoàng thượng vẫn thường trở về Diệu nữ cung thắp hương và thương khóc Diệu cô nương.

    - Được rồi, ngài lui đi!

    Ngài Đô hộ phủ sĩ sư cúi đầu thi lễ rồi cáo lui.

    Ngài vừa đi được mấy bước thì Lan Nhi, nãy giờ đờ ra như một bức tượng đá, giờ đây như người tỉnh mộng, trở nên sống động, lao lại chỗ ngài Đô hộ phủ sĩ, miệng hét lên:

    - Sao các ngươi dám nghi ngờ Dương Hoàng hậu giết người! Dương hậu đến một con kiến cũng không bao giờ dám làm đau nó, mà nay các ngươi lại buộc tội hạ độc giết người! Các ngươi thật là gắp lửa bỏ tay người mà!

    May có các thị vệ kịp thời giữ lại, chứ không không biết nàng ta định làm gì ngài Đô hộ phủ sĩ.

    Khi quan quân đã rút đi rồi, nàng ta đã bình tĩnh trở lại, ngồi thừ ở bên giường. Thấy ta tiến lại, nàng ta không cầm được nước mắt, bảo:

    - Hoàng hậu vẫn bình thản như vậy được sao chứ! Em cứ nghĩ việc này chỉ là một sự hiểu lầm, rồi Hoàng thượng và Triều đình sẽ tìm ra chân tướng sự việc. Nhưng nghe ngài Đô hộ nói chuyện, thì thật đúng là ngưồi ta định khép tội giết người cho Hoàng hậu rồi! Sao lại có chuyện hoang đường như vậy? Sao những việc như vậy mà họ cũng tin. Rõ ràng có kẻ bày mưu, định hãm hại Hoàng hậu. Chúng ta phải làm sao đây?

    - Chúng ta còn có thể làm được gì hay sao? Ngay cả khi còn ở cung Cồ Quốc, chúng ta vốn đã đơn độc rồi. Huống hồ giờ đây lại bị giam lỏng nơi này. Chúng ta phải chấp nhận kết cục đó thôi!

    Nàng ta càng thêm khóc nức nở. Bảo:

    - Nhưng vì sao và để làm gì? Em thật sự không hiểu nổi! Chúng ta vốn đâu có gây thù chuốc oán với ai!

    - Chính ta cũng không hình dung được tại sao và ai có thể làm vậy đây. Ai mà có thể coi ta như cái gai trong mắt, nên nỗi quyết phải nhổ đi cho bằng được như vậy. Ta thật sự không biết và không hiểu.

    Hai ngày sau ta nhờ thị vệ chuyển lời xin cho Toàn Nhi vào gặp ta. Toàn Nhi vào thấy ta bị giam lỏng ở trong Lãnh cung thì hết sức thương xót, không ngừng khóc lóc.

    Ta cầm tay đỡ con lên rồi bảo:

    - Mẫu hậu cho gọi con vào chỉ muốn nói với con một điều: Mẫu hậu không bao giờ làm những điều trái với lương tâm, đạo lý.

    Toàn Nhi vừa khóc vừa gật đầu, lại nói:

    - Mẫu hậu không nói thì Toàn Nhi cũng không bao giờ dám nghĩ như vậy về Mẫu hậu.

    Ta lại tiếp:

    - Những tranh đoạt hận thù chốn Hậu cung này ta không biết rồi sẽ đi tới đâu. Chỉ mong con luôn biết giữ gìn sức khỏe, chăm chỉ luyện tập để cha con ở dưới suối vàng được vui lòng.

    Nói mà trong lòng ta đau như cắt. Tiếp đó quỳ xuống trước mặt Vĩnh Khang bảo:

    - Vẫn chưa có kết luận của Đô hộ Phủ sĩ, nên chưa biết rồi đây ta sẽ như thế nào. Việc trông nom Toàn Nhi giờ đây chỉ có thể trông mong vào mình cháu. Xin cháu hãy vì dòng họ Dương mà yêu quý, lo lắng cho em ngày ngày. Xin cháu hãy nhận của ta một lạy này, coi như là tạ ơn cháu, chứ giờ đây ta..

    Vĩnh Khang thấy thế thì giật nảy mình, đỡ ta không kịp bèn quỳ theo. Ta vừa dứt lời liền đỡ ta dậy bảo:

    - Hoàng hậu không nên làm như vậy. Được chăm nom Vệ Vương là phúc phận của cháu, nhất định cháu sẽ chu toàn. Thêm nữa ở giữa Tràng An rộng lớn, có Vương đệ làm bầu bạn, cũng bớt nhớ nhà đi nhiều.

    Nói rồi ba, bốn người lại nhìn nhau trong cảnh điêu tàn, tăm tối của Lãnh cung Không ai cầm được nước mắt.

    Chừng bảy, tám ngày sau khi ta gặp Toàn Nhi, Đô hộ Phủ sĩ lại cho người qua hỏi cung. Lần này không phải là quan Đô hộ Phủ sĩ, mà chỉ là một chức Biện lại nhỏ ở trong Đô hộ Phủ sĩ, tên là Phạm Văn Nghị.

    Với vẻ mặt xấc xược, vị này tiến vào, thi lễ hết sức qua loa rồi bảo:

    - Thôi hôm nay thần đến gặp Hoàng hậu không phải để dự yến tiệc, nên xin phép cho thần bớt khách khí. Theo lệnh của Hoàng thượng, Đô hộ Phủ sĩ đã tra khảo tất cả người hậu kẻ hạ ở hai Cung nửa tháng nay, nhưng dù có đánh đến chết tất cả cũng chỉ có thể khai rằng không biết. Vậy nên cũng chỉ có thể suy luận rằng Hoàng hậu đã sai người ban cho Diệu cô nương hạt sen, trong hạt sen có độc và Hoàng hậu chính là người biết rõ nhất về việc này. Vậy xin Hoàng hậu hãy thành thật để tránh oan khuất cho những người khác.

    Ta cười ha ha rồi bảo:

    - Ngài Phạm Biện lại, nếu giờ đây ta nói rằng ta không làm việc đó nên ta không biết thì có ai tin ta hay không? Nếu ta nói rằng ta hoàn toàn vô tội thì có ai tin ta hay không?

    - Việc đó cũng cần phải có chứng cứ rõ ràng, thưa Hoàng hậu.

    - Ha ha ha.. Ta hiểu rồi.

    - Vậy Hoàng hậu có phải chính là vì quá ghen tức khi thấy Diệu cô nương nhận được sự sủng ái của Hoàng thượng mà làm vậy?

    - Ta vốn dĩ chưa bao giờ được Hoàng thượng sủng ái, vậy nên người khác có được sủng ái hay không ta thực sự không quan tâm!

    - Phải chăng chính vì chưa bao giờ được sủng ái nên Hoàng hậu càng thêm hận?

    - Lòng ta vốn đã hết sân si từ lâu rồi. Tại sao ta phải vì những điều đó mà phải sát hại người khác?

    - Phải chăng những hạt sen có độc này chính là Hoàng hậu đã sai người ở Đông Lỗ chuẩn bị và đưa tới?

    - Những người ở Đông Lỗ không liên quan gì tới việc ở đây. Đã thành thông lệ theo mùa, người ở đó lại thu hoạch sản vật ở trong Trang và gửi vào cho ta. Năm nay cũng không phải là một ngoại lệ. Ngươi đừng ăn nói hàm hồ!

    Nói cứng như vậy, nhưng câu hỏi của Biện lý họ Phạm không khiến ta lạnh toát cả sống lưng. Không lẽ những âm mưu tranh đoạt này nhằm tới cả những người ở Đông Lỗ? Nếu tới đây Triều đình vin cớ này cho khám xét, tra khảo Trang Đông Lỗ thì sẽ ra sao? Nghĩa mẫu và nghĩa phụ ta đều đã không còn, chỉ còn những người anh em trong dòng tộc họ Dương thay nhau chăm lo ở đó. Những người họ mạc đó của ta có thù oán gì với những người ở Triều đình? Như vậy không phải là quá đáng lắm sao! Suy nghĩ một hồi ta lại thấy bình tâm lại, cũng có thể tên Biện lý họ Phạm chỉ rung cây dọa ta vậy thôi chứ không đời nào dám làm thế. Nếu những người ở Võ đường kháng lại, xảy ra loạn lạc thì cũng không phải là việc hay. Dù kẻ nào định hãm hại ta, thì kẻ ấy hẳn phải có thế lực lớn ở Triều đình. Mà như vậy thì hẳn phải hiểu chuyện, không thể làm liệu vậy được.

    - Sao thế Hoàng hậu? Sao người lại ngây người ra như vậy? Phải chăng người đã nhớ ra điều gì? Nếu người ở Đông Lỗ không làm, thì chắc chắn là người ở Dương cung làm việc đó thôi. Có lẽ Hoàng hậu nên nói sớm ra để không ảnh hưởng tới những người vô tội khác! Là người đã sai ai làm việc đó? Mua chuộc bằng gì mà có thể chết cũng không khai?

    - Ngài Phạm Biện lý, đừng hồ đồ như vậy! Nói thế khác nào ngài bảo Hoàng hậu chính là thủ phạm!

    Lan Nhi nãy giờ đứng bên cạnh theo dõi sự việc, giờ không giấu nổi bức xúc cất tiếng.

    - Thực ra thì Đô hộ Phủ sĩ từ lâu chính là đã kết luận như thế. Chỉ có điều do ý của Hoàng thượng, muốn điều tra cho rõ ràng mà thôi. Nhưng dù vậy thì việc này Hoàng thượng cũng không thể cứu được Hoàng hậu rồi. Bởi Diệu cô nương chính là được Hoàng thượng sủng ái nhất vậy! Vậy nên Hoàng hậu và cô nương đây cũng không nên ngoan cố làm gì! Cũng đã làm liên lụy tới bao kẻ hầu, người hạ rồi. Hay chính cô nương đây đã giúp Hoàng hậu thực hiện việc đó?

    Nói đến đây Biện lý họ Phạm đập hai bàn tay vào nhau đánh bốp một cái rồi tiếp:

    - Chính là cô nương! Tại sao Đô hộ Phủ sĩ lại bỏ xót, không thẩm vấn cô nương nhỉ! Chính là cô nương đã cùng Hoàng hậu bàn tính và chính cô nương đã làm việc này đúng không? Đó chính là lý do vì sao không kẻ hầu người hạ nào biết được việc này!

    Nghe cái giọng lè nhè cùng những luận điệu suy luận hồ đồ, vô căn cứ của Biện lý họ Phạm, ta không chịu được nữa, liền quát lên:

    - Thôi ngài đừng ở đây nói nhăng nói cuội nữa. Ngài có thể nói ta thế nào cũng được, nhưng tuyệt đối không được nói những điều điên loạn đó với thị nữ của ta. Ngài hãy mau chóng trở về Đô hộ Phủ sĩ và bảo bọn họ, nếu họ vẫn làm ăn tùy tiện như thế, thì tùy các ngài, muốn kết luận như thế nào thì kết luận, đừng làm phiền đến chúng ta nữa. Ngài hãy đi ngay đi!

    Phạm Biện lý thấy ta quát lên thì không khỏi giật mình, nhưng vẫn tỏ vẻ không nao núng:

    - Như vậy ý Hoàng hậu là người nhận hết mọi tội?

    - Cút mau ra khỏi đây! Ta đứng bật dậy khỏi ghế, gào to lên.

    Biện lý họ Phạm thấy vậy, tuy tỏ vẻ không nao núng mà vẫn vội vã chạy như bay ra khỏi phòng.

    Nói xong ta phút chốc hụt hơi, ngồi thở phì phò ở bên bàn. Lan Nhi đã nước mắt lưng chòng ở bên cạnh.

    - Giờ đây bọn người này có thể ăn nói hàm hồ, xấc xược như vậy, có thể thấy chính là Hoàng thượng và Đô hộ Phủ sĩ cũng đều đi đến kết luận chính là chúng ta là thủ phạm. Hoàng hậu, chúng ta phải tính sao đây?

    Ta ngồi, đầu gục vào ngực ở bên ghế. Chỉ có thể thốt ra một tiếng thở dài.

    - Chúng ta còn có thể làm gì được nữa hay sao?

    - Hoàng hậu hãy xin gặp Hoàng thượng, giải thích cho Hoàng thượng và nhờ Hoàng thượng giúp đỡ chứ. Thêm nữa Hoàng hậu cũng cần phải cho Hoàng thượng biết rằng mình đang mang Long thai chứ. Biết đâu..

    Ta hiểu ý nghĩa của việc nàng bỏ lửng câu nói. Cái ý nghĩ ấy của nàng làm ta bực mình! Ta bèn gắt lên:

    - Ta không cần như thế! Nếu ta phải sống ở nơi này suốt cuộc đời thì đứa con này cũng sẽ sống ở đây cùng ta. Ta đây không bao giờ cầu xin sự ân sủng, bố thí của ai cả!

    Thực ra ngay từ khi sự việc xảy ra, ta đã nghĩ đến Lê Hoàn. Nhưng khi Lan Nhi nói tới việc đi cầu xin, nhờ vả, lòng tự trọng của ta bị tổn thương ghê gớm. Nói thế xong rồi, bao ẩn ức như nổ tung ra. Ta ngồi đó khóc như một đứa trẻ con.

    Năm ngày sau người của Đô hộ Phủ sĩ mang tới một Bố cáo: Sau thời gian điều tra, Đô hộ Phủ sĩ đi đến kết luận, Hoàng hậu Dương Vân Nga vì không được sủng ái mà sinh lòng ghen ghét với Diệu cô nương, từ đó dẫn tới âm mưu hạ độc, hại người, lại chối tội quanh co, không thành thật, gây liên lụy cho bao người khác, nên phạt giam lỏng trong Lãnh cung cả đời. Cắt chín phần mười bổng lộc, cấm giao du với bên ngoài.

    Vẫn biết là mọi chuyện sẽ là như thế. Mà đến khi nó xảy ra vẫn không khỏi choáng váng. Phải chăng chính là Lê Hoàn đã không can thiệp gì nên mọi việc mới đi đến nước này? Tại sao việc khép ta vào tội giết người Lê Hoàn phải chăng cũng thờ ơ không quan tâm? Nếu Lê Hoàn, hiện đang là Đương kim Hoàng thượng, chính là Lê Hoàn mà ta biết, thì ta tin rằng Lê Hoàn đó biết ta không phải là thủ phạm. Từ khi chúng ta gặp nhau lần đầu tiên ở trên sông Càu Chày đến giờ đã hơn hai chục năm đi qua, tuy có khi nắm nay nhau, tuy có lúc cùng ở Hoa Lư mà ngàn trùng xa cách, nhưng ta là người như thế nào Lê Hoàn chắc phải hiểu chứ? Vậy tại sao khi xảy ra sự việc Lê Hoàn không đến gặp ta, hỏi han ta? Phải chăng Lê Hoàn giờ đây chính là tin rằng ta là người đã làm việc đó? Càng nghĩ càng thấy quá đau lòng!

    Đang miên man với ý nghĩ đó, cố ngăn không cho dòng lệ rơi ra trước những khuôn mặt xấc xược của người ở Đô hộ Phủ sĩ thì thấy Lan Nhi cất tiếng:

    - Bẩm quan gia, xin cho tiện nữ theo ngài đến Đô hộ Phủ sĩ, tiện nữ có chuyện muốn bẩm báo với các ngài ở đó!

    - Cô nương biết được chuyện gì tại sao giờ đây mới chịu bẩm báo chứ?

    - Là chuyện rất quan trọng, không tiện nói ở đây!

    - Có thực sự quan trọng không hay cô nương định làm mất thời gian của bọn ta?

    - Là chuyện liên quan tới mạng người sao lại có thể lừa các ngài được. Bất quá các ngài cứ lấy mạng ta mà bù vào là được chứ gì!

    Trong chốc lát ta đứng ngây người nhìn nàng, tạm thời chưa hiểu được chuyện gì xảy ra. Đến khi chắp nối với những điều nàng đã khuyên nhủ ta thì lờ mờ hiểu ra. Ta quát lên, ngăn nàng lại:

    - Lan Nhi! Em đừng làm chuyện hồ đồ! Hãy bỏ ý định ấy đi!

    Nhưng vừa kịp nói tới đó thì Lan Nhi đã nhanh chân chạy ra khỏi phòng, các vị quan quân liền theo sau rồi họ dắt díu nhau đi.

    Ta đuổi theo nàng liền bị thị vệ ngăn lại. Nên đành đứng ở cửa phòng nhìn theo dáng nàng ta nhỏ bé, lẫn giữa đám quan quân đang khuất dạng dần trong ánh nắng gay gắt bên ngoài.

    Nàng thị nữ này điên rồi! Nàng ta thì biết được cái gì chứ! Nàng ta định toan tính điều gì? Nàng ta cứ nhất định phải gặp được Lê Hoàn, phải nói những ý định của nàng ta hay sao? Nàng ta cứ nhất định phải làm trái ý ta mới được hay sao? Hay nàng ta có ý định gì khác? Như thế nào?

    Những câu hỏi không có lời đáp về hành động của Lan Nhi như quay mòng mòng trong đầu ta. Ta ngồi thừ ở bên bàn, lòng như lửa đốt.

    Chập tối, một thị nữ trẻ tất tả đi tới phòng ta. Nàng ta lẩm bẩm điều gì đó trong miệng, rồi vội vã chạy đi thắp đèn trong phòng lên. Xong xuôi chạy lại trước mặt ta thi lễ rồi bảo:

    - Thần thiếp là Tiểu Hồng, tới đây sẽ thay Tiểu Lan cô nương hầu hạ Hoàng hậu trong thời gian nàng ta vắng mặt.

    - Lan Nhi đâu?

    - Hiện tại Tiểu Lan cô nương đang ở Đô hộ Phủ sĩ để làm việc với các vị bên đó. Chắc cũng phải mất vài ngày nên Hoàng thượng đã cử thần tới đây để thay nàng ta chăm sóc Hoàng hậu.

    - Lan Nhi vẫn ổn cả chứ?

    - Chắc là.. ổn thưa Hoàng hậu.

    Ta định hỏi thêm Tiểu Hồng về Lan Nhi, nhưng nghe nàng ta nói vậy chắc cũng không biết gì hơn. Nên lại ngồi thừ ra. Nàng ta thấy ta im lặng, cũng đợi thêm một lúc nữa, nhưng rồi không thấy ta nói gì, bèn lui ra phía sau nhà cùng người hầu bếp chuẩn bị cơm và nước tắm cho ta.

    Lúc Tiểu Hồng xếp mâm cơm ra, mới nhớ ra buổi trưa ta đã không ăn gì. Không có Lan Nhi ở đây nhắc nhở, mụ hầu bếp lười biếng – kẻ hầu người hạ duy nhất ở đây cũng đã mặc xác ta, không chuẩn bị cơm cho ta.

    Vậy mà đến khi mâm cơm bầy ra cũng không thể ăn nổi. Nghĩ đến đứa con trong bụng ta cố và lấy nửa bát cơm mà rồi cũng bỏ dở. Không biết giờ này Lan Nhi đang ở đâu?

    Sáng sớm hôm sau khi ta tỉnh ngủ dậy, đã thấy có kiệu từ Dương Hậu cung đến trước cửa Lãnh cung trực chờ sẵn. Khi biết ta đã tỉnh, Phạm Công công liền tiến vào thỉnh an sức khỏe rồi mời ta về lại Dương cung. Ta có hỏi sao bỗng dưng ta lại được trở lại đó, thì chỉ bảo đó là lệnh của Hoàng thượng, Hoàng hậu không nên băn khoăn nhiều hao tổn tới sức khỏe, mau hồi cung rồi hãy bàn.

    Thế là Tiểu Hồng cùng ta thu vén lại chút đồ ít ỏi, rồi trở lại Dương cung.

    Trở lại Dương cung, thấy cảnh vật không có gì thay đổi. Chỉ có điều, ngoài Phạm Công công vẫn là người truyền tin, cai quản chung ở đây và một vài người làm vườn vốn dĩ ít qua lại trong Cung vẫn được giữ nguyên, thì đa phần người hầu kẻ hạ đều đã thay đổi. Lan Nhi vẫn chưa được trở về.

    - Vì sao nhân sự có nhiều thay đổi như vậy? – Ta hỏi Phạm Công công trong lúc ngài đang phân công công việc và chỉ đạo người hầu kẻ hạ phải phục vụ ta cho chu đáo.

    Phạm Công công có vẻ lúng túng bảo:

    - Là Hoàng thượng.. Hoàng thượng muốn thay đổi. Có vẻ những người trước đây không còn.. đáng tin nữa.

    - Ngài có biết Lan Nhi hiện đang ở đâu không?

    - Thần thực sự không biết thưa Hoàng hậu. Thần cả ngày chỉ quanh quẩn ở đây, những việc Triều đình chính sự thần không biết, mà những việc ở Đô hộ Phủ sĩ thì càng mù tịt thông tin, thần không có cách nào biết được.

    Xế chiều có Ngự y ở bên thành Đông sang bắt mạch và bốc cho ta ít thuốc bổ, lại dặn ta đi lại cẩn thận, ăn uống dè chừng kẻo ảnh hưởng tới thai nhi. Nói xong rồi đi về.

    Quả nhiên Lan Nhi ngốc nghếch đã quyết thực hiện cho bằng được cái ý định của nàng ta – nói cho Lê Hoàn biết việc ta đang mang thai. Có lẽ vì thế mà ta được trở lại Dương cung. Nhưng chả lẽ chỉ có như vậy? Sao đến giờ nàng vẫn chưa về? Tại sao hỏi khắp người hầu kẻ hạ không ai hay một tin tức gì về nàng ta? Không lẽ Đô hộ Phủ sĩ cách ly nàng ta kỹ càng đến vậy hay sao? Thực sự nàng ta có năm giữ trong tay bí mật gì hay không mà cần giữ kín thông tin như vậy? Mà, nàng ta có thể nắm trong tay bí mật gì? Nàng ta đi với ta sáng cũng như tối, lúc nào cũng như hình với bóng, cận kề nửa bước không rời, vậy thì có thể biết được bí mật gì ở bên Diệu nữ cung?

    Ngày vẫn nối tiếp ngày trôi qua mà với bao băn khoăn. Vẫn không nghe được tin tức gì về Lan Nhi. Ta không khỏi cảm thấy có nhiều linh cảm xấu. Có những đêm ta nằm mơ những giấc mơ lộn xộn và hãi hùng. Nhiều đêm ta bật dậy giữa đêm rồi không thể nào ngủ trở lại được nữa.

    Nghe tin ta đã được trở lại Dương cung, Toàn Nhi và Dương Vĩnh Khang bèn từ thành Trang An sang thăm ta. Thấy ta có vẻ gầy đi nhiều, Toàn Nhi hết sức thương xót, cứ khấu đầu thỉnh an và khóc lóc mãi. Ta cầm tay con và bảo:

    - Mọi việc ở đây đã ổn rồi, con không nên quá đau lòng. Con hãy cứ ở bên đó luyện tập cho tấn tới là ta yên lòng.

    Lại quay sang Vĩnh Khang bảo:

    - Tuy ta đã được trở lại Dương cung, nhưng ngày mai ra sao cũng chưa thể biết được. Mong cháu thời gian tới vẫn quan tâm, săn sóc em Toàn giúp ta.

    Vĩnh Khang quỳ xuống bảo:

    - Hoàng hậu không nói thì cháu cũng nhất định ở bên chăm sóc Vệ Vương. Chính là ý nguyện của cha cháu đã như vậy rồi

    Vĩnh Khang và Toàn Nhi ở lại ăn cơm, nói chuyện với ta đến chiều thì rời đi để còn kịp trở về thành Nam trước lúc trời tối.

    Nhìn hai anh em rời đi trong bóng chiều bảng lảng, không khỏi thấy đau đớn ở trong lòng.

    Chính là khi xưa ta đã sai lầm mà trở lại Hoa Lư này làm Hoàng hậu nhà Lê phải không? Nên nỗi giờ đây mẹ con ta xa cách, chia lìa? Nếu còn sống ở Đông Lỗ, mẹ con ta sẽ được bên nhau quây quần sớm tối, tự do tự tại. Giờ về đây con ta mang thân phận ông vua đã thất thế, phải lang thang trên cung điện, đền đài mà mình từng trị vì..

    Lại thêm những tranh đấu rồi không biết sẽ đi về đâu này!

    Có khi nào rốt cuộc, chính là Lê Hoàn không còn chút tình cảm nào với ta, nhưng lại muốn trói buộc mẹ con ta, chính là trói buộc vị vua đã bị phế Đinh Toàn, nên nhất định phải đòi mẹ con ta trở về Hoa Lư cho bằng được? Cũng như khi xưa họ Đinh đã từng trói buộc mẹ con Kiểu Quốc Hoàng hậu? Giữ Toàn Nhi ở Hoa Lư thì an toàn hơn rất nhiều so với để Toàn Nhi ở Đông Lỗ, bởi nếu Toàn Nhi có ý định tạo phản, tập hợp môn sinh trong Võ đường Dương Xá lại thì sao? Có phải đó chính là lí do? Ý nghĩ ấy chợt lóe lên trong đầu ta khiến không khỏi xót xa. Nhưng có khóc lóc cũng không thể nào thay đổi được điều gì nữa rồi!

    Đã bảy ngày kể từ khi ta trở lại Dương cung, vẫn không nghe được một tin tức gì về Lan Nhi. Hỏi ai cũng lắc đầu bảo không biết. Nhưng trả lời xong họ có thái độ lúng túng, dấu dấu diếm diếm rất kỳ lạ.

    Lòng ta không yên được nữa! Chắc chắn là có việc gì xấu đã xảy ra với nàng ta rồi! Bọn người hầu kẻ hạ hẳn phải nghe được tin gì đó nhưng không kẻ nào dám nói cho ta biết, hoặc giả đã bị lệnh cấm từ Lê Hoàn. Nhưng có thể là việc như thế nào?

    Buổi chiều ngày thứ tám, nỗi lo lắng bừng bừng như lửa đốt ở trong lòng, ta cho gọi Phạm Công công vào bảo:

    - Xin Công công hãy chuẩn bị kiệu, ta muốn qua Đô hộ Phủ sĩ để hỏi về tình hình Lan Nhi!

    Phạm Công công nhìn ta ái ngại rồi bảo:

    - Là việc gì xin Hoàng hậu cứ để hạ thần chuyển lời. Xưa nay Hoàng hậu, phi tần không được phép tới Đô hộ Phủ sĩ, trừ khi có việc liên quan hoặc các việc quốc gia đại sự!

    - Không nói nhiều nữa! Chuẩn bị kiệu!

    Ta quát lên, máu như xôi lên sùng sục, mắt như nhảy ra ngoài. Thấy hình dung ấy của ta Phạm Công công cũng không khỏi hốt hoảng, vội chạy ra ngoài chuẩn bị kiệu.

    Thấy ta xông thẳng vào Đô hộ Phủ sĩ, các vị tai to mặt lớn đang ngồi làm việc sau những chiếc bàn chất đầy giấy tờ, sổ sách ngước lên nhìn, không khỏi ngơ ngác. Xưa nay chốn này vốn chỉ dành cho các đấng mày râu, dành cho việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng. Tuy không có quy định nào được ban bố, nhưng có lẽ do tính đặc thù của công việc đó mà phụ nữ, đàn bà chẳng mấy khi bén mảng tới. Lâu dần trở thành lệ bất thành văn.

    Xưa nay các Hoàng hậu, phi tần, xông thẳng vào Ngự điện, vào Ngự thư phòng của Hoàng Đế thì có, chứ xông thẳng vào Đô hộ Phủ sĩ chắc là hết sức hiếm, nên sau khi ngơ ngác thì họ chuyển sang nhíu mày, tỏ vẻ khó chịu khi thấy sự xuất hiện của ta. Ta mặc kệ, xông thẳng vào phòng của ngài Đô hộ phủ sĩ sư.

    - Ngài Đô hộ phủ sĩ sư, xin cho ta biết Lan Nhi, thị nữ của ta đâu rồi?

    Khi nhìn thấy ta, ngài Đô hộ phủ sĩ sư có vẻ giật mình, nhưng khi nghe câu hỏi của ta, thì ngài bình thản hết mức, thong thả bảo:

    - Nguyễn Thị Lan hiện đang được cách ly để điều tra về vụ án hạ độc Nguyễn Thị Diệu cô nương. Thần chỉ có thể cho Hoàng hậu biết như vậy, không thể cho biết gì hơn. Xin Hoàng hậu hãy trở về Hậu cung và chờ thêm tin tức.

    Ta cố gắng làm ầm lên, ép ngài Đô Hộ phủ sĩ sư nói cho ta biết thêm thông tin nhưng không thu được gì khác ngoài cái câu ở trên. Bất lực, đành trở ra kiệu, bắt người đưa đến Ngự thư phòng gặp Lê Hoàn.

    Ở Ngự thư phòng, Lê Hoàn đang ngồi làm việc. Thấy ta đi vào, dù đã được Thị vệ chạy ào vào báo trước, vẫn một mực lãnh đạm thờ ơ, không ngẩng lên, cũng không hỏi một lời. Ta tiến tới thi lễ, Lê Hoàn gật đầu, nhưng tay vẫn viết lách không ngừng.

    Nuốt ngược vào trong, ta cất lời:

    - Thần thiếp mạo muội tới gặp để hỏi về tình hình Lan Nhi. Thần thiếp đã qua Đô hộ Phủ sĩ nhưng không ai chịu nói cho thần thiếp biết, nên thần thiếp không còn cách nào khác là liều tới đây để xin gặp Hoàng thượng.

    - Chỉ vậy thôi sao? Lê Hoàn vẫn không ngẩng lên, chỉ hỏi một câu cụt lủn như vậy. Ta bị ngỡ ngàng, không hiểu nổi ý của Lê Hoàn.

    - Nàng ta bị Đô hộ Phủ sĩ giam giữ gần chục ngày nay mà không có một tin tức gì. Dù sao đó cũng là thị nữ theo hầu thần thiếp từ nhỏ, thần thiếp không thể tránh hỏi lo lắng, bất an.

    - Nguyễn Thị Lan đã nhận tội chính là chủ mưu hạ độc nàng Diệu, hiện đang bị biệt giam chờ xét xử. Tội của nàng ta, nàng ta sẽ bị trừng trị thích đáng. Còn Hoàng hậu, hãy về đi và không nên quan tâm tới việc này nữa.

    Ta nghe một mớ bùng nhùng bên tai, không thể hiểu là mình đang nghe gì nữa. Lan Nhi lại có thể là chủ mưu hạ độc Diệu cô nương? Thật là hoang đường! Nàng ta hại Diệu cô nương làm gì! Lúc nào nàng ta cũng ở bên ta như hình với bóng, thì nàng ta làm những việc đó vào lúc nào? Việc mang hạt sen sang tặng Diệu cô nương chỉ là một chủ ý ngẫu hứng của ta, làm sao lại có thể âm mưu việc đó được? Tại sao chuyện vô lý như thế mà nàng ta cũng nhận và người ta cũng tin!

    - Không thể có chuyện đó được thưa Hoàng thượng! Đó thực sự là một việc hoang đường! Nàng ta không thể làm việc như thế được!

    - Nàng ta đã nhận tội và ký vào biên bản lời khai. Mọi việc đã kết thúc rồi, Hoàng hậu hãy về cung nghỉ ngơi đi!

    Ta vội quỳ xuống giữa thư phòng, nước mắt đã lưng tròng:

    - Xin Hoàng thượng cho thần thiếp gặp nàng ta một lần. Một chuyện như vậy không thể do nàng ta làm được!

    Lê Hoàn đứng dậy khỏi bàn viết, nhìn ra phía cửa sổ, quay lưng lại với ta, nói thêm:

    - Nàng ta sẽ bị đánh và bị đuổi về quê trong nay mai. Hoàng hậu sẽ không được gặp nàng ta nữa đâu! Đừng làm mất thời gian của ta nữa! Hãy mau chóng hồi cung đi!

    Nói rồi gọi Cấm vệ quân tới đưa ta về. Dứt lời thì bỏ ra khỏi Ngự thư phòng, để ta một mình ở đó.

    Ta quỳ sụp xuống giữa phòng khóc lóc một hồi, không ngừng van xin cho ta gặp Lan Nhi lần cuối. Nhưng biết là có khóc cũng vô ích, cũng không muốn làm phiền tới các Cấm vệ quân vẫn nhẫn nại chờ ta nãy giờ, một hồi đành tự đứng lên đi về.

    Thế này là như thế nào! Tại sao mọi việc lại thành ra như thế này? Làm sao nàng ta có thể làm thế được? Tại sao Lê Hoàn nỡ đẩy nàng ta rời khỏi đây mà không gặp ta một lần! Làm sao lại đuổi nàng ta về quê! Nàng ta làm gì có gia đình, có quê hương nữa mà về quê! Hay Lê Hoàn và Đô hộ Phủ sĩ đã giết nàng ta rồi? Có lẽ thế chăng!

    Ta cảm thấy đau đớn toàn thân, người rũ ra như một cái rau héo, đến nỗi không thể bước nổi nữa, khiến các Cấm vệ quân phải dìu ta trở ra kiệu.

    Buổi tối đang ngồi ở trên giường, nghĩ tới việc ngày mai sẽ tới trước Ngự thư phòng quỳ gối cả ngày, hoặc bao lâu cũng được để xin Lê Hoàn cho ta gặp Lan Nhi, thì bỗng thấy đám gia nhân thị vệ trong Cung lao xao cả dạ dan cả lên. Ngẩng lên thì đã thấy Lê Hoàn lao xộc vào phòng. Ta chưa kịp đứng lên thi lễ vấn an thì đã cất tiếng bảo:

    - Nàng hãy thôi ngay những ý nghĩ điên rồ về Lan Nhi đi! Hãy nghĩ đến Long thai trong bụng nàng và nghĩ đến những người xung quanh nữa, tới gia tộc, tới học mạc. Nếu Long thai có vấn đề gì, lúc đó ta không dám đảm bảo bất kỳ điều gì đâu!

    Nói dứt lời lại rời di luôn, nhanh như một cơn gió. Nếu không phải nhìn thấy bọn người hầu kẻ hạ quỳ mọp ở dưới sàn nhà thì ta còn nghĩ đó chỉ là một giấc mơ.

    Ta không thể kìm nổi một cái bậm môi tức giận, mà nước mắt thì đã nhạt nhòa trên bờ mi. Lần đầu tiên sau mấy năm trời ta trở về Hoa Lư, Lê Hoàn mới đến nơi này một lần. Vậy mà cũng chỉ có thể nói những lời vô tình như vậy!

    Ta với Lan Nhi gần ba mươi năm nay gắn bó như chân với tay, còn hơn cả chị em ruột thịt. Nàng ta chính là có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, nếm mật nằm gai với ta vậy. Vậy mà khi nàng ta đột nhiên biến mất không một dấu vết, Lê Hoàn còn định bắt ta phải sống vui vầy, hạnh phúc hay sao! Thật là một kẻ máu lạnh! Ra là bấy lâu nay ta đã nhìn nhầm về con người này ư?

    Đau đớn là vậy, nhưng rồi ta cũng không có cách nào tìm ra được chân tướng sự việc. Dò la hỏi han kẻ hầu người hạ thì bọn chúng cũng chỉ một mực không nghe, không thấy, không biết gì hơn. Nhưng thái độ lúng túng cùng cái nhìn hấp háy của chúng khiến ta tin rằng chúng có biết gì đó. Chỉ là chắc chắn, chúng đã bị Lê Hoàn bịt mồm mà thôi.
     
Từ Khóa:
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...