Người Đua Diều - Khalled Hosseini

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Buckwheat, 21 Tháng bảy 2020.

  1. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG X

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một thiếu phụ ngồi đối diện với chúng tôi. Chị mặc một chiếc áo dài màu xanh ô liu, với một chiếc khăn san màu đen quấn chặt quanh mặt để chống lại cái lạnh giá ban đêm. Mỗi lần chiếc xe tải nảy lên hoặc vấp phải ổ gà, chị lại buột miệng cầu kinh, tiếng cầu "Bismillah!" của chị vút cao theo mỗi lần xe lắc mạnh hoặc xóc. Chồng chị, một người đàn ông vạm vỡ quần dài ống thụng, khăn quấn đầu màu xanh da trời, nâng niu bế một em bé trong vòng tay, bàn tay lần tràng hạt. Đôi môi mấp máy cầu nguyện thầm. Kể cả những người khác nữa là mười hai, bao gồm cả Baba và tôi, ngồi ôm vào giữa hai chân, bị ép cứng cùng những người xa lạ, dưới cái mui bằng vải bạt của chiếc xe tải Nga đã cũ.

    Ruột gan tôi cứ cồn lên kể từ lúc chúng tôi rời khỏi Kabul sau hai giờ sáng. Baba chẳng bao giờ nói ra, nhưng tôi biết ông coi việc tôi say xe lúc đó chỉ là một mặt khác của sự yếu ớt của tôi - tôi thấy rõ điều đó trên vẻ mặt sượng sùng của ông đôi lần bụng tôi quặn lại quá tệ đến nỗi tôi phải rên lên. - Khi người đàn ông vạm vỡ lần tràng hạt - tức chồng của thiếu phụ cầu nguyện hỏi liệu tôi có sắp say không, tôi nói tôi sắp. Baba ngoảnh đi. Người đàn ông vén góc mui vai bạt lên, gõ vào cửa kính của lái xe yêu cầu dừng lại. Nhưng người lái xe, tên là Karim, một người đàn ông gầy nhom, da ngăm đen, với bộ mặt diều hâu xương xẩu, bộ ria mép mảnh như kẻ bằng bút chì, lắc đầu, quát trả lại:

    - Chúng ta ở quá gần Kabul. Bảo nó có cái bụng khoẻ vào chứ.

    Baba càu nhàu gì đó nghe không rõ. Tôi muốn nói với ông tôi xin lỗi, nhưng bất chợt tôi bị chảy nước miếng, sâu trong họng tôi có vị mật đắng. Tôi quay đi vén vải bạt lên và nôn thốc qua thành xe đang chạy. Phía sau tôi, Baba đang xin lỗi những hành khách khác. Như thể say xe là một tội lỗi. Như thể anh không được phép say xe khi anh đã mười tám tuổi. Tôi nôn thốc nôn tháo hai lần nữa trước khi Karim đồng ý dừng xe, chủ yếu để tôi không làm bẩn xe của hắn ta, công cụ mưu sinh của hắn. Karim là dân chở lậu người - một nghề rất béo bở, chở dân chúng thoát khỏi Kabul đang bị quân Shorawi 1 chiếm đóng, sang vùng tương đối an toàn hơn ở Pakistan. Hắn sẽ đưa chúng tôi đến Jalalabad cách Kabul 170 km về phía Đông Nam, nơi em hắn, Toor có một chiếc xe tải lớn hơn để chở chúng tôi, cùng một đoàn người tị nạn đang đợi nữa, vượt qua đèo Khyber vào tỉnh Peshawar 2.

    Chúng tôi còn cách thác Mahipar vài cây số nữa về phía Tây thì Karim tạt xe vào lề đường. Mahipar - có nghĩa "Cá Bay" - một đỉnh núi cao với độ dốc dựng đứng nhìn xuống xí nghiệp sử dụng lực chảy của nước do người Đức xây dựng ở Afghanistan từ năm 1967. Baba và tôi đã từng lái xe qua cái đỉnh đó không biết bao nhiêu lần trên đường chúng tôi tới Jalalabad, thành phố của những cây bách và những cánh đồng mía mà người Afghan đến nghỉ đông.

    Tôi nhảy xuống phía sau xe, lảo đảo bước tới lề đường đầy bụi. Miệng tôi đầy nước dãi, một dấu hiệu của cơn buồn nôn sắp đến lúc bật ra. Tôi loạng choạng đến bở vách đá trông xuống một thung lũng sâu bóng tối bao trùm. Tôi cúi rạp người hai tay ôm đầu gối chờ mật xanh, mật vàng. Đâu đó một cành cây gãy răng rắc, một con cú kêu. Gió dịu và lạnh rì rào qua những cành lá và làm chao đảo các bụi cây rải rác nơi sườn dốc. Và từ phía dưới, tiếng nước đổ ào ào qua lũng sâu.

    Đứng trên mép đường, tôi nghĩ về cung cách chúng tôi rời khỏi ngôi nhà mà tôi đã từng sống cả đời, như thể chúng tôi chỉ ra ngoài một chốc: Những chiếc đĩa còn dính đầy món kofta chất trong chậu rửa, quần áo là ủi trong cái rổ đan bằng liễu gai ở ngoài tiền sảnh, giường bề bộn, quần áo mặc khi giao dịch kinh doanh của Baba treo trong tủ tường. Nhưng tấm thảm vẫn còn treo trên tường phòng khách và những cuốn sách của mẹ tôi vẫn chất đầy các giá sách phòng đọc của Baba. Những dấu hiệu của tha hương thật mơ hồ: Bức ảnh đám cưới của cha mẹ tôi đã bị tháo mất cùng với tấm ảnh lụa của ông nội tôi và quốc vương Nader Shah đứng bên ngắm con nai chết. Một vài bộ quần áo không còn trong tủ tường. Cuốn sổ tay bìa bọc da chú Rahim Khan đã cho tôi năm năm trước đây cũng đã mất.

    Vào lúc sáng, Jalaluddin - người ở thứ bảy của chúng tôi trong năm năm qua - có thể sẽ nghĩ chúng tôi đi tản bộ hoặc lái xe đi dạo. Chúng tôi đã không nói với ông ta. Không thể tin ai ở Kabul nữa - chỉ cần được giúi cho ít tiền hoặc lo bị hại, là người ta sẽ tố cáo nhau, hàng xóm tố hàng xóm, con cái tố cha mẹ, em tố anh, đày tớ tố chủ nhà, bạn bè tố nhau. Tôi nghĩ đến ca sĩ Ahmad Zahir, người đã chơi phong cầm tại buổi sinh nhật lần thứ mười ba của tôi. Ông ấy lái xe đi cùng với mấy người bạn, và sau đó, người ta tìm thấy xác ông bên lề đường với một viên đạn đằng sau gáy. Các rafiq, tức là các đồng chí, có mặt ở khắp nơi, và họ đã xẻ đôi Kabul thành hai nhóm: Nghe lén và không nghe lén. Cái khó là chẳng ai biết ai thuộc bên nào. Một nhận xét ngẫu nhiên với bác thợ may, trong khi thử cho vừa một bộ quần áo có thể dẫn bạn vào hầm tối nhà lao Poleh-charkhi. Phàn nàn về lệnh giới nghiêm với ông hàng thịt, và điều sau đó bạn nhận ra là mình đã ở đằng sau những song sắt, mắt hoang mang nhìn vào cái họng của một khẩu Kalashnikov. Ngay cả tại bàn ăn trong nhà riêng của mình, dân chúng cũng phải nói năng một cách đắn đo - các rafiq có cả ở trong lớp học nữa, họ dạy trẻ con do thám cha mẹ mình, chú ý nghe những gì, kể lại với ai.

    Tôi đang làm gì trên con đường này, vào giữa đêm khuya? Lẽ ra tôi phải nằm trên giường, dưới tấm chăn, với một cuốn sách góc quăn tai chó ngay bên cạnh. Điều này hẳn là một giấc mơ. Phải là như thế. Sáng hôm sau tôi thức dậy, nhòm ra ngoài cửa số. Không bóng dáng đám lính Nga vẻ mặt dữ tợn tuần tiễu trên hè, không xe tăng bất thình lình xuất hiện trên đường phố của thành phố tôi, tháp súng xoay đi xoay lại như những ngón tay đang kết tội, không còn đồng rúp, không còn lệnh giới nghiêm, không còn những xe quân sự của Quân đội Nga như thoi đưa ở khu phố chợ. Rồi, phía sau tôi, tôi nghe thấy tiếng của Baba và Karim đang hút thuốc, bàn cãi về việc thu xếp ở Jalalabad. Karim đảm bảo với Baba rằng em hắn có một chiếc xe tải lớn "chất lượng cao loại thượng hạng" và hành trình di cư sang Peshawar đã trở nên quá thông thường rồi. "Nó có thể nhắm mắt đưa ông đến đó," Karim nói. Tôi thoáng nghe thấy, hắn bảo Baba là hắn và em trai hắn biết lính Nga và lính Afghan làm việc ở những trạm kiểm soát ra sao, hắn đã cạ với chúng việc thu xếp "hai bên đều có lợi" như thế nào. Việc đó không phải là chuyện mơ. Như thể để kết thúc việc thảo luận, một chiếc MIG bất chợt rú lên bay qua đầu. Karim quăng điếu thuốc và rút khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra. Chĩa súng lên trời, hắn làm động tác bắn, rồi chửi và nhổ về phía chiếc MIG.

    Tôi tự hỏi không biết Hassan ở đâu. Rồi đến điều không thể tránh khỏi. Tôi nôn lên đám cỏ dại, tiếng nôn khan và rên rỉ của tôi chìm hẳn trong tiếng gầm rú điếc đặc của chiếc MIG.

    Hai mươi phút sau, chúng tôi tới chỗ trạm kiểm soát ở Mahipar. Tài xế của chúng tôi để chiếc xe tải nổ máy, và nhảy xuống chào đón những giọng nói đang tiến lại. Chân day day sỏi. Vài lời trao đổi ngắn gọn, kín kẽ. Một nhát quẹt của chiếc bật lửa. "Spasseba" 3.

    Lại một nhát quẹt khác của bật lửa. Ai đó cười. Tiếng cười the thé chói tai làm tôi nảy người lên. Tay của Baba ghìm chặt đùi tôi xuống. Người đàn ông đang cười bỗng hát lên líu la líu lường lạc điệu, một bài hát trong hôn lễ của người Afghan, nặng trịch giọng Nga:

    Ahesta boro, Mah-e-man ahesta boroLên từ từ, vầng trăng yêu dấu của ta, lên từ từ.

    Những gót ủng lộp cộp trên đường nhựa. Ai đó mở tung tấm vải bạt phủ phía sau xe tải, và ba bộ mặt thò vào. Một là Karim, hai kẻ kia là hai tên lính, một tên người Afghan, tên kia, một lính Nga nhăn nhở, mặt như mặt chó biển, thuốc lá phì phèo lệch một bên miệng. Phía sau bọn chúng là một vầng trăng trắng hếu như xương khô lơ lửng trên bầu trời. Karim và tên lính Afghan trao đổi ngắn gọn bằng tiếng Pashtu. Tôi hiểu được đôi chút, một cái gì đó về Toor và vận rủi của hắn. Tên lính Nga thò mặt vào phía sau xe tải. Hắn vẫn đang ê a bài hát cưới, ngón tay gõ nhịp vào mép thành hậu của xe. Ngay cả trong ánh trăng lờ mờ, tôi vẫn thấy được cái nhìn đờ đẫn trong đôi mắt của hắn, khi lia từ hành khách này sang hành khách khác. Mặc dầu lạnh, mồ hôi ròng ròng chảy từ lông mày hắn xuống. Đôi mắt hắn dừng lại ở người thiếu phụ chít khăn san đen. Hắn nói tiếng Nga với Karim, mắt không rời người đàn bà. Karim trả lời bằng tiếng Nga cụt lủn, rồi tên lính đáp lại gay gắt và còn cộc lốc hơn. Tên lính Afghan cũng nói một điều gì đấy giọng nhỏ nhẹ và biết điều hơn. Nhưng tên lính Nga quát lên cái gì đó, khiến hai tên kia ngần ngại. Tôi cảm thấy Baba ngồi sát vào tôi. Karim hắng giọng, cúi đầu xuống. Nói tên lính Nga muốn có nửa giờ với người thiếu phụ ở đằng sau xe tải.

    Người thiếu phụ kéo chiếc khăn san xuống trùm kín mặt. Oà lên khóc. Đứa trẻ ngồi trên lòng chồng chị ta cũng òa khóc theo. Mặt người chồng trở nên nhợt nhạt như mảnh trăng lởn vởn trên trời. Ông ta bảo Karim yêu cầu "ông lính Sahib" thể hiện một chút tình thương, có thể ông có một người em gái hoặc một bà mẹ, cũng có thể cả một người vợ nữa. Tên Nga nghe Karim nói và sủa lên một loạt những từ gì đó.

    - Đó là cái giá để chúng ta được đi qua. - Karim nói. Hắn không dám nhìn vào mắt người chồng.

    - Nhưng chúng tôi đã trả một giá rất sòng phẳng rồi, - người chồng nói.

    Karim và tên lính nói với nhau.

    - Nó nói.. nó nói, mọi giá đều phải chịu thuế.

    Thế là Baba đứng phắt dậy. Đến lượt tôi phải níu chặt tay tôi vào đùi ông, nhưng Baba gỡ tay tôi và rút chân ra. Khi ông đứng lên, ông che khuất ánh trăng:

    - Tôi muốn anh hỏi người đàn ông kia một điều, - Baba nói. Nói với Karim, nhưng nhìn thẳng vào tên sĩ quan Nga. - Hỏi hắn, sự liêm sỉ cua hắn để đâu?

    Họ lại nói với nhau.

    - Hắn nói đây là chiến tranh. Không có liêm sỉ trong chiến tranh.

    - Bảo với hắn là hắn nhầm. Chiến tranh không hủy bỏ phép tắc. Nó đòi hỏi phép tắc thậm chí còn hơn cả thời bình.

    Bố cứ phải luôn luôn là một người anh hùng ư? Tôi nghĩ. Tim đập loạn xạ. Bố không thể chỉ một lần bỏ qua sao? Nhưng tôi biết ông không thể. Điều đó không có trong bản tính của ông. Vấn đề là bản tính của ông sẽ làm cho tất cả chúng tôi bị giết.

    Tên lính Nga nói gì đó với Karim, một nụ cười nhếch lên trên đôi môi hắn.

    - Agha sahib, - Karim nói, - cái lũ Roussi 4 này chúng không giống chúng ta. Chúng chẳng hiểu gì về tôn trọng và danh dự.

    - Nó nói cái gì?

    - Nó nói nó cũng thích được nã một viên đạn vào người ông không kém gì.. - Karim nói nhỏ dần không nghe rõ nữa, nhưng gật gật đầu về phía người thiếu phụ đã rơi vào con mắt của tên lính canh. Tên lính búng điếu thuốc đang hút dở của hắn đi và rút khẩu súng ngắn ra khỏi bao. Vậy đây là nơi Baba sẽ chết. Tôi nghĩ. Chuyện sắp xảy ra như thế. Tôi đọc thầm một câu kinh trong đầu.

    - Bảo với nó tôi sẽ nhận một nghìn viên đạn của nó trước khi tôi để cho sự vô luân xảy ra. - Baba nói.

    Tâm trí tôi chợt bừng lên cái ngày mùa đông sáu năm trước đây. Tôi, từ góc phố chăm chú nhìn vào sâu trong ngõ. Kamal và Wali đè Hassan xuống. Những cơ mông của Assef ép chặt và nới lỏng, đôi hông của nó giúi vào kéo ra. Cứ cho tôi đã từng là một anh hùng nào đó đi, tôi vẫn đang bị cái diều dằn vặt. Đôi khi, chính tôi cũng không biết mình có thực sự là con trai Baba không.

    Gã người Nga mặt chó biển nâng khẩu súng lên.

    - Baba, con xin bố ngồi xuống. - tôi vừa nói vừa giật mạnh ống tay áo ông. - Con nghĩ nó thực sự định bắn bố đấy.

    Baba gạt bàn tay tôi ra, giận dữ nói:

    - Ta đã không dạy con chút nào ư?

    Rồi ông quay về phía tên lính đang nhăn nhở:

    - Bảo nó, tốt hơn là hãy bắn tao một phát chết ngay. Bởi nếu tao không ngã xuống, tao sẽ xé nó thành nhiều mảnh, chết tiệt cái thằng bố nó!

    Tên lính Nga không chịu thôi nhăn nhở khi nghe phiên dịch lại. Hắn gạt chốt hãm trên khẩu súng, chĩa nòng súng vào ngực Baba. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, tôi lấy hai tay che mặt.

    Khẩu súng gầm lên.

    Thế là xong. Tôi mười tám và đơn độc. Tôi chẳng còn ai trên đời này. Baba đã chết và bây giờ tôi phải chôn ông. Tôi chôn ông ở đâu? Sau đó tôi đi đâu?

    Nhưng cơn lốc xoáy nhưng ý nghĩ dở dang quay cuồng trong đầu tôi dừng lại khi tôi giương mi mắt, thấy Baba vẫn đứng. Tôi thấy một viên sĩ quan Nga thứ hai cùng với những kẻ khác. Chính là khói cuộn lên từ họng súng của ông ta chĩa lên trời. Tên lính định bắn Baba đã tra súng vào bao. Hắn đang lê chân bước đi. Tôi chưa từng bao giờ cảm thấy muốn dở khóc dở cười hơn như thế.

    Viên sĩ quan Nga thứ hai, tóc đốm bạc, bệ vệ nói với chúng tôi bằng tiếng Farsi bập bẹ. Ông ta xin lỗi chúng tôi về cách xử sự của tay đồng chí của mình. Ông ta nói:

    - Nước Nga gửi họ đến đây để chiến đấu. Nhưng họ mới chỉ là những chàng trai, và khi tới đây họ tìm thấy khoái lạc của ma túy. - Ông ta nhìn tên sĩ quan trẻ bằng đôi mắt buồn rầu của một người cha bực tức với đứa con trai mất tư cách của mình. - Thằng này cũng dính dáng đến ma túy đấy. Tôi cố ngăn nó.. - Ông ta vẫy ra hiệu cho chúng tôi đi.

    Một lát sau, chúng tôi phóng xe đi khỏi. Tôi nghe thấy một tiếng cười, rồi tiếp đến cái giọng sền sệt lạc điệu của tên lính lúc đầu hát bài hát cổ trong đám cưới.

    Chúng tôi đi trên xe trong im lặng khoảng mười lăm phút, trước khi chồng người thiếu phụ bất chợt đứng lên và làm một điều tôi đã từng thấy nhiều người khác làm trước ông ta: Hôn tay của Baba.

    Vận rủi của Toor. Chẳng phải tôi đã tình cờ nghe thấy điều đó trong câu chuyện ở Mahipar sao?

    Chúng tôi lăn bánh đến Jalalabad vào khoảng một giờ trước lúc mặt trời mọc. Karim nhanh chóng đưa chúng tôi xuống xe và dẫn vào ngôi nhà một tầng ở ngã tư hai con đường bẩn thỉu, suốt dọc toàn những dãy nhà một tầng mái bằng, những cây keo và những cửa hiệu đóng kín. Tôi kéo cổ áo khoác lên để chống lạnh lúc chúng tôi vội vã chạy vào ngôi nhà kéo theo đồ đạc của mình. Không hiểu tại sao, tôi nhớ tới mùi củ cải.

    Khi đã đưa chúng tôi vào trong án phòng khách trống không nhờ tối, Karim liền khóa cửa trước lại, kéo cái khăn trải giường rách thay cho rèm che. Rồi hắn thở phào và báo cho mọi người một tin xấu: Toor, em trai hắn không thể đưa chúng tôi sang Peshawar. Hình như máy móc chiếc xe tải của gã bị nổ tuần trước, và Toor vẫn đang đợi nhưng bộ phận thay thế.

    - Tuần trước ư? - Ai đó kêu lên. - Nếu biết thế, tại sao anh còn mang chúng tôi tới đây?

    Tôi thấy có gì ào một cái qua đuôi mắt tôi. Rồi một cái bóng vụt ngang qua căn phòng, và tiếp đó tôi nhìn thấy Karim bị ghì chặt vào tường, đôi chân nguyên dép của hắn đung đưa cách sàn nhà hơn nửa mét. Hai bàn tay Baba đang tóm quanh cổ hắn..

    - Tao sẽ nói cho mày biết tại sao, - Baba giận dữ bảo. - Bởi vì nó đã nhận được tiền phần chặng đường của nó. Đó là tất cả những gì nó quan tâm.

    Karim đang ngạt thở ú ớ kêu lên. Nước dãi nhỏ ra bên mép hắn.

    - Bỏ hắn xuống, Agha, ông giết hắn mất, - một trong số hành khách nói.

    - Chính là điều tôi định làm đấy, - Baba nói. Điều mà không ai trong số những người khác trong căn phòng biết được ấy là Baba không đùa. Karim đang đỏ tía lên và giật giật chân. Baba vẫn bóp chặt cổ hắn cho tới khi người mẹ trẻ, cái người mà tên sĩ quan Nga đã mê thích đó, van xin ông dừng lại.

    Karim ngã vật trên nền nhà, lăn lộn để hít thở khi Baba cuối cùng cũng thả hắn ra. Căn phòng trở nên im lìm. Chưa đầy hai giờ trước. Baba đã tự nguyện nhận một viên đạn vì danh dự của một người phụ nữ ông không hề quen biết. Lúc này ông suýt đã bóp chết một người đàn ông, và chắc sẽ sung sướng làm xong việc đó nếu không có lời cầu xin của vẫn người phụ nữ ấy.

    Có cái gì đó đập thùm thùm ở nhà bên. Không, không phải nhà bên, mà phía dưới.

    - Cái gì thế? - Ai đó hỏi.

    - Bọn khác, - Karim hổn hển giữa những hơi thở khó nhọc, - ở dưới hầm.

    - Bọn họ đợi bao lâu rồi? - Baba hỏi, vừa sáp lại Karim.

    - Hai tuần.

    - Tao nghĩ mày vừa nói, chiếc xe tải hỏng tuần trước. Karim vuốt cổ họng, ộp ộp như ếch:

    - Có thể tuần trước nữa.

    - Bao lâu?

    - Cái gì?

    - Bao lâu để thay máy? - Baba gầm lên.

    Karim rúm người lại nhưng không nói gì. Tôi thấy mừng vì bóng tối. Tôi không muốn thấy cái nhìn sát nhân trên bộ mặt Baba.

    Mùi hôi nhớp nhúa, giống như mùi rêu mốc, xộc vào mũi tôi lúc Karim mở cánh cửa dẫn chúng tôi xuống nhưng bậc thang ọp ẹp ở dưới hầm. Chúng tôi đi xuống theo hàng một. Những bậc thang rên lên dưới sức nặng của Baba. Đứng trong căn hầm lạnh, tôi cảm thấy như bị những con mắt chập chờn trong bóng tối theo dõi. Tôi thấy những hình người rúc vào nhau quanh phòng, bóng họ in lên tường bởi ánh sáng lờ mờ của hai ngọn đèn dầu. Một tiếng thì thầm khe khẽ lan truyền suốt căn hầm, át tiếng nhưng giọt nước rỉ ở đâu đó, và một tiếng gì khác nữa, như tiếng gãi.

    Baba thở dài phía sau tôi, buông những túi đồ xuống.

    Karim bảo chúng tôi sẽ chỉ mất vài ba ngày là sửa xong chiếc xe tải. Rồi thì chúng tôi sẽ trên đường sang Peshawar. Trên đường tới tự do. Trên đường tới an toàn.

    Căn hầm là nhà của chúng tôi suốt tuần sau đó và tới đêm thứ ba tôi khám phá từ đâu ra tiếng gãi. Những con chuột cống.

    Khi mắt đã quen bóng tối, tôi đếm được ba mươi người tị nạn trong căn hầm. Chúng tôi ngồi vai kề vai dọc theo những bức tường, ăn bánh quy, bánh mì lâu ngày và táo. Đêm đầu tiên đó, tất cả mọi người đều cùng nhau cầu kinh. Một trong số người tị nạn hỏi Baba tại sao ông không tham gia cùng họ:

    - Thượng đế sẽ cứu vớt tất cả chúng ta. Tại sao ông không cầu xin Người?

    Baba xì mũi. Duỗi chân ra:

    - Cái sẽ cứu vớt chúng ta là tám bộ xi-lanh và cái chế hòa khí tốt.

    Thế là đám còn lại câm lặng luôn về vấn đề Thượng đế.

    Mãi khuya của đêm đầu tiên ấy tôi mới phát hiện ra hai người trong đoàn trốn tránh cùng chúng tôi là Kamal và bố nó. Thấy Kamal ngồi trong căn hầm chỉ cách tôi gần nửa mét, tôi khá ngạc nhiên. Nhưng khi nó và bố nó ngồi xích lại bên chúng tôi, tôi nhìn rõ bộ mặt của Kamal, thực sự nhìn rõ..

    Nó đã tàn héo - không còn từ nào đơn giản hơn để gọi. Đôi mắt nó như một cái hốc nhìn tôi và không có vẻ nhận ra nét gì. Vai nó gồ lên, đôi má xệ xuống như thể quá mệt mỏi không bám nổi vào xương gò má nữa. Bố nó, người đã từng sở hữu một rạp chiếu phim ở Kabul, đang kể cho Baba nghe ba tháng trước đây một viên đạn lạc đã bắn trúng vào thái dương giết chết vợ ông như thế nào. Rồi ông ta kể với Baba về thằng Kamal. Tôi chỉ nghe được lỗ chỗ: Nhẽ ra chẳng bao giờ được để nó đi một mình.. lúc nào cũng thế, thật đẹp trai, ông biết đấy.. bốn đứa chúng nó.. chống trả.. Thượng đế.. chụp được nó.. nhỏ máu đầm đìa xuống đó.. cái quần của nó.. chẳng nói gì nữa.. chỉ trừng trừng..

    Sẽ không có xe tải, Karim bảo chúng tôi thế sau khi chúng tôi đã trải qua một tuần lễ trong cái căn hầm nhung nhúc chuột. Chiếc xe tải không chữa nổi.

    - Có một cách khác, - Karim nói, giọng hắn nổi lên giữa những tiếng kêu rên.

    Anh họ hắn là chủ một xe tải chở xăng dầu và đã từng chở lậu người bằng chiếc xe đó đôi ba lần. Hắn đang ở Jalalabad và đủ sức chở tất cả chúng tôi.

    Mọi người, trừ một cặp vợ chồng đã cao tuổi, đều quyết định đi.

    Đêm đó, chúng tôi, Baba và tôi, Kamal và bố nó, cùng những người khác rời đi. Kamal và người anh họ hắn, một gã đàn ông mặt vuông, đầu hói tên là Aziz, giúp chúng tôi chui vào bồn xăng. Từng người một, chúng tôi trèo lên cái sàn hậu xe, rồi leo lên thang sau và tụt xuống bồn xăng. Tôi còn nhớ Baba leo lên giữa chừng lại nhảy xuống và moi ở túi ra một hộp thuốc lá hít. Ông dốc hết thuốc ở hộp ra, và bốc một vốc tay bụi đất ở giữa con đường không rải nhựa. Ông hôn bụi đất. Đổ vào trong hộp. Đút hộp vào túi ngực, gần tim ông.

    Kinh hoàng.

    Bạn mở miệng ra. Mở thật rộng cho xương hàm kêu răng rắc. Bạn ra lệnh cho phổi mình hít không khí, LÚC NÀY, bạn cần không khí, cần nó LÚC NÀY. Nhưng đường khí quản của bạn lờ bạn đi. Chúng suy sụp, thít chặt, co quắp và bất chợt bạn như đang thở qua một ống rơm. Miệng bạn ngậm lại và đôi môi bạn mím chặt, tất cả những gì bạn có thề xoay xở được là một tiếng ộp ộp nghẹn tắc. Hai bàn tay bạn vặn vẹo, lúc lắc. Đâu đó một cái đập nứt toác và một luồng mồ hôi lạnh tràn ra, ướt đẫm cơ thể bạn. Bạn muốn la hét lên vì sợ. Bạn sẽ làm thế nếu bạn có thể. Nhưng bạn phải thở đã rồi mới la hét được.

    Kinh hoàng.

    Căn hầm đã tối. Cái bồn xăng còn tối đen hơn. Tôi nhìn phải, nhìn trái, xuống, lên, vẫy vẫy hai tay trước mắt, không thấy một mảy may cử động. Tôi chớp, rồi lại chớp mắt. Chẳng thấy gì hết. Chẳng còn là không khí nữa, nó sền sệt, thậm chí đặc quánh nữa. Không khí đáng ra không được đặc quánh. Tôi muốn vươn hai bàn tay ra, nghiền nát không khí thành những mảnh nhỏ, nhồi chúng vào khí quản của tôi. Và cái mùi hôi hắc đó của dầu diesel. Mắt tôi nhức nhối hơi dầu, như ai đó lộn mi mắt tôi lên và xát chanh lên đó. Mũi tôi như bắt lửa sau mỗi lần thở. Mày có thể chết trong một chỗ như thế này, tôi nghĩ vậy. Một tiếng la hét đang chực bật ra. Bật ra, bật ra..

    Và rồi một điều thần kỳ nhỏ. Baba giật ống tay áo tôi, và một cái gì đó sáng xanh lên trong bóng tối. Ánh sáng! Đồng hồ đeo tay của Baba. Tôi dán chặt đôi mắt vào hai chiếc kim dạ quang xanh đó. Tôi quá sợ tôi sẽ mất chúng. Tôi không dám chớp mắt.

    Dần dần, tôi nhận ra được những gì ở quanh tôi. Tôi nghe thấy những tiếng rên và tiếng lầm rầm cầu nguyện. Tôi nghe thấy tiếng một em bé khóc, tiếng ru thầm của mẹ nó. Ai đó nôn khan. Ai đó nguyền rủa bọn Shorawi. Chiếc xe tải lắc lư bên này qua bên khác, nảy xuống, nảy lên. Những cái đầu đập vào vỏ sắt.

    - Nghĩ đến điều gì tốt đẹp. - Baba thì thầm vào tai tôi. - Điều gì hạnh phúc.

    Điều gì tốt đẹp. Điều gì hạnh phúc. Tôi mặc cho trí não tôi lang thang. Tôi mặc nó đến đâu thì đến.

    Chiều thứ Sáu ở Paghman. Một cánh đồng cỏ rộng lốm đốm những cây dâu tằm nở hoa. Hassan và tôi đứng ngập gót chân trong cỏ mọc hoang. Tôi đang giật mạnh dây diều, cuộn dây đang quay trong hai bàn tay chai sạn của Hassan, mắt chúng tôi ngước nhìn lên bầu trời. Không một lời trao đổi giữa chúng tôi, không phải bởi vì chúng tôi không có gì để nói, mà bởi vì chúng tôi không cần phải nói điều gì. Đó, giữa những con người là những ký ức đầu tiên của nhau, những con người đã cùng được nuôi từ một bầu sữa mẹ là như thế. Một luồng gió nhẹ làm lay động đám cỏ và Hassan để cho cuộn dây lăn. Chiếc diều quay đảo, ngụp chìm, rồi đứng vững. Đôi bóng sinh đôi của chúng tôi nhảy múa trên thảm cỏ gợn sóng. Từ đâu đó, bên kia dãy tường gạch thấp phía cuối cánh đồng, chúng tôi nghe thấy tiếng chuyện gẫu, tiếng cười và tiếng róc rách của một vòi phun nước. Và nhạc, có vẻ xưa cũ và quen thuộc. Tôi nghĩ đó là bài Ya Mowlah trên đàn dây Rubab. Có ai đó gọi chúng tôi bên kia tường và nói đã đến giờ uống trà, ăn bánh ngọt.

    Tôi không nhớ đó là tháng nào, và cả năm nào nữa. Tôi chỉ biết kỷ niệm đó sống trong tôi, một mẩu dĩ vãng tốt đẹp được đóng nang hoàn hảo, một nét chổi lông phết màu lên khung vải cằn cỗi, xám xịt cuộc đời giờ đây chúng tôi đã rơi vào.

    Phần còn lại của chuyến xe đó là những mẩu và những mảnh rải rác của ký ức đến rồi lại đi, phần lớn là âm thanh và mùi vị: Tiếng gầm rú của máy bay MIG trên đầu, những tràng súng máy, một con lừa be be gần đó, tiếng nhạc đeo cổ leng keng, và tiếng cừu ọ oẹ, tiếng sỏi rải đường bị nghiến nát dưới bánh xe tải, một đứa bé hờn trong bóng tối, mùi hôi của dầu diesel, mùi nôn mửa, mùi phân.

    Những gì tôi nhớ tiếp theo là ánh sáng lóa mắt của buổi sớm mai khi trèo ra khỏi bồn xăng. Tôi nhớ mình đã ngửa mặt lên trời, hiếng mắt, thở như thể thế giới sắp cạn kiệt không khí. Tôi nằm xoài trên bờ con đường đất cạnh một khe đá, ngước nhìn lên bầu trời màu xám buổi ban mai, biết ơn khí trời, biết ơn ánh sáng, biết ơn được sống sót.

    - Amir, chúng ta đã ở Pakistan, - Baba nói. Ông đang đứng bên nhìn tôi. - Karim bảo hắn sẽ gọi một chuyến xe buýt chở chúng ta tới Peshawar.

    Tôi cuộn người lại, vẫn nằm trên đất lạnh và nhìn thấy những chiếc vali của chúng tôi phía chân bên kia Baba. Nhìn qua khe chữ V lộn ngược giữa hai chân ông, tôi thấy chiếc xe tải nổ máy đứng yên bên bờ đường, những người tị nạn khác đang trèo xuống thang. Xa hơn, con đường đất trải ra qua những cánh đồng như những chiếc khăn màu chì dưới bầu trời xám, rồi biến mất sau dãy đồi bát úp. Dọc theo con đường là một ngôi làng nhỏ trải dài trên sườn dốc tràn ánh nắng.

    Mắt tôi quay trở lại nhìn những chiếc vali của chúng tôi. Chúng khiến tôi buồn cho Baba. Sau mọi thứ ông đã từng gây dựng, lập kế hoạch, đấu tranh, day dứt, ước mơ, gói ghém lại đời ông chỉ còn thế này đây: Một đứa con trai bất đắc ý và hai chiếc vali.

    Ai đó đang kêu thét. Không, không phải kêu thét. Mà đang khóc. Tôi thấy hành khách tụm lại thành một vòng tròn, nghe thấy những tiếng gọi khẩn thiết.

    Ai đó nói từ "khí độc". Người khác cũng nói thế. Tiếng kêu thét chuyền thành tiếng rít xé họng.

    Baba và tôi vội chạy tới đám người đứng xem và đẩy họ ra để chen vào. Bố của Kamal đang ngồi xếp bằng tròn ở giữa vòng người, lay đi lay lại, hôn lên bộ mặt xám như tro của đứa con trai.

    - Nó không thở nữa! Con trai tôi không thở nữa! - Ông đang kêu khóc. Cơ thể không còn sinh khí của Kamal nằm trên lòng ông. Bàn tay phải nó duỗi ra, rũ xuống, đung đưa theo nhịp thổn thức của người cha.

    - Con trai tôi! Nó không thở nữa! Lạy thánh Allah, xin người giúp nó thở đi!

    Baba quỳ xuống bên cạnh ông và quàng cánh tay lên vai ông. Nhưng bố của Kamal đẩy ông ra và nhào tới Karim đang đứng gần người anh họ hắn. Những gì xảy ra tiếp theo quá nhanh, quá gọn không thể gọi là cuộc ẩu đả. Karim thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc và lùi lại. Tôi thấy một cánh tay vung lên và chân đá. Giây sau, ông bố của Kamal đã đang đứng với khẩu súng của Karim trong tay.

    - Đừng bắn tôi! - Karim kêu lên.

    Nhưng trước khi bất kỳ ai trong chúng tôi kịp nói hoặc làm được điều gì, bố của Kamal đã đưa nòng súng lên miệng mình. Tôi sẽ không bao giờ quên được tiếng vang của phát nổ đó. Hay chớp lửa và máu đỏ phun ra. Tôi lại gập người và nôn khan bên vệ đường.

    * * *

    1 Shorawi: Từ Afghanistan, chỉ quân đội Nga.

    2 Peshawar: Tỉnh bên giới của Pakistan, giáp với Afghanistan.

    3 Spasseba: Phát âm theo tiếng Nga có nghĩa là cảm ơn.

    4 Roussi: Cách gọi người Nga.
     
  2. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG XI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Baba yêu tư tưởng của nước Mỹ. Chính cuộc sống ở Mỹ đã khiến ông bị ung loét.

    Tôi còn nhớ hai bố con tôi đi bộ qua Công viên Hồ Elizabeth ở Fremont, cách căn hộ của chúng tôi vài dãy phố, xem bọn con trai chơi bóng chày, bọn con gái nhỏ cười khúc khích trên những chiếc xích đu trong sân chơi. Baba thường giảng giải cho tôi sáng tỏ quan điểm chính trị của ông suốt những cuộc dạo bộ đó, bằng những bài bình luận vòng vèo dài dòng. Ông thường nói:

    - Chỉ có ba hạng đàn ông thực thụ trên thế giới này, Amir ạ. Ông kể tên ra bằng đầu ngón tay: Người Mỹ, vị cứu tinh quá tự tin, người Anh và người Israel.

    - Còn lại tất cả, - ông phẩy tay, miệng kèm theo một tiếng phừ rựt, - đều như những bà già kể chuyện.

    Tư tưởng khuynh Israel thường dẫn đến sự tức giận của người Afghan ở Fremont, họ lên án ông thân Do Thái và thực tế là bài Hồi. Baba thường gặp họ để uống trà và nhấm nháp bánh ngọt rowt 1tại công viên, và làm họ phát điên với những quan điểm chính trị của ông. Sau đó ông thường bảo tôi: - Cái họ không hiểu là tôn giáo chẳng có can hệ gì đến việc này. Theo quan điểm của Baba, Israel là một hòn đảo của "những người đàn ông đích thực" trong cái biển toàn những người Ẳ rập quá bận rộn với việc béo ú lên từ dầu mỏ của họ, không buồn quan tâm đến chính bản thân họ nữa. "Israel làm điều này. Israel làm điều nọ," - Baba thường nói nhại theo giọng Ẳ rập "Vậy hãy làm gì đó đi. Hành động đi. Các ông là người Ẳ rập, vậy hãy giúp người Palestine đi." Ông ghét cay ghét đắng ngài Jimmy Carter 2, người mà ông gọi là "kẻ răng to đần độn." Năm 1980, khi chúng tôi vẫn còn ở Kabul, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tẩy chạy đại hội Olympic ở Matxcơva. Baba kêu lên tởm lợm:

    - Wah wah! Chà chà! Brezhnev đang tàn sát tập thể người Afghan, thế mà tất cả những gì gã ăn lạc ấy có thể nói chỉ là "Tôi sẽ không đến bơi trong cái bể bơi của anh."

    Baba tin tưởng Carter đã vô tình làm nhiều cho chủ nghĩa cộng sản hơn cả Leonid Brezhnev. "Ông ta không đủ sức điều hành đất nước này. Nó giống đặc một thằng con trai không biết đi xe đạp sau tay lái của một chiếc Cadillac kiểu mới." Những gì nước Mỹ và thế giới cần là một người đàn ông cứng rắn. Một người đàn ông được chọn lựa, một ai đó hành động thay vì vặn vẹo hai tay lo lắng. Một ai đó theo kiểu của Ronald Reagan. Và khi Reagan lên truyền hình gọi bọn Shorawi là "Đế quốc đồi bại", Baba ra ngoài và mua một bức ảnh tổng thống nhe răng cười giơ ngón cái lên. Ông lồng khung tấm ảnh và treo ở hành lang của chúng tôi, ngay gần bức ảnh đen trắng cũ của bản thân ông, đeo chiếc nơ cổ nhỏ, và đang bắt tay Quốc vương Zahir Shah. Phần lớn hàng xóm của chúng tôi ở Fremont là những tài xế xe buýt, cảnh sát, những nhân viên trạm bán xăng dầu, và những bà mẹ không hôn thú hưởng phúc lợi xã hội, chính xác là toàn tầng lớp dân lao động chẳng mấy chốc sẽ ngạt thở dưới cái gối kiểu Reagan ép vào mặt họ. Baba là một người cộng hòa đơn độc trong chung cư của chúng tôi.

    Nhưng khói Vùng Vịnh nhức mắt ông, tiếng ồn xe cộ làm ông đau đầu, và phấn hoa làm ông ho. Qua cây không đủ ngọt, nước không sạch lắm, và đâu rồi bao nhiêu cây cối với những cánh đồng rộng lớn? Hai năm trời, tôi cố khuyên Baba ghi tên vào những lớp ESL 3 để nâng cao thứ tiếng Anh vỡ lòng của ông. Nhưng ông mỉa mai ý tưởng đó. Ông càu nhàu: "Biết đâu ta phát âm được từ" mèo "và thầy giáo lại cho ta một ngôi sao nhỏ lấp lánh 4, thế là ta có thể chạy vội về nhà khoe nó với con."

    Một Chủ nhật mùa xuân năm 1983, tôi bước vào hiệu sách nhỏ bán sách cũ bìa mềm, gần rạp chiếu phim Ấn Độ, ngay phía Tây nơi giao nhau giữa Amtrak và Đại lộ Fremont. Tôi bảo Baba chừng năm phút tôi sẽ ra và ông nhún vai. Ông đang làm việc tại trạm bán xăng ở Fremont và hôm nay là ngày nghỉ. Tôi dõi theo ông đi bừa ngang qua Đại lộ Fremont rồi vào cửa hàng tạp hóa nhỏ Fast & Easy (Nhanh và Thoải mái) của một cặp vợ chồng già người Việt Nam, ông bà Nguyễn. Họ là những người thân thiện, tóc đã hoa râm, bà bị bệnh Parkinson, ông đã bị thay xương hông. Bà luôn cười móm mém bảo tôi: "Ông ấy bây giờ nửa người nửa máy giống như Người Đàn ông Sáu Triệu Đô la."... "

    Người Đàn ông Sáu Triệu Đô la, nhớ chưa, Amir?" Rồi ông Nguyễn thường vừa trừng mắt vừa giả vờ chạy tập tễnh như diễn viên Lee Majors 6.

    Tôi đang lật qua một cuốn sách cũ nát, truyện trinh thám có nhân vật Mike Hammer 7, thì nghe thấy tiếng kêu thét và tiếng kính vỡ. Tôi thấy ông bà Nguyễn đằng sau quầy hàng nép vào tường, mặt xám ngắt. Hai tay ông Nguyễn ôm lấy vợ mình. Trên nền nhà, những trái cam, một giá hàng bị lật nhào, một lọ thịt bò vỡ lăn long lóc và những mảnh kính vỡ dưới chân Baba.

    Hóa ra Baba không mang theo tiền mặt đề mua cam. Ông đã viết cho ông Nguyễn một tấm séc, và ông Nguyễn yêu cầu cho xem giấy chứng minh. "Lão ta muốn xem giấy phép của ta," Baba rống lên bằng tiếng Farsi. "Gần hai năm nay chúng ta đã mua thứ hoa quả chết tiệt của lão, đút tiền vào túi lão và lão chó đẻ ấy lại muốn xem giấy phép của ta."

    - Baba, đây không phải là chuyện cá nhân, - tôi vừa nói, vừa mỉm cười với ông bà Nguyễn. - Họ được phép hỏi giấy chứng minh.

    - Ta không muốn ông ở đây - ông Nguyễn vừa nói vừa bước ra đứng chắn trước bà vợ. Ông chỉ vào Baba bằng chiếc gậy chống của ông. Ông quay lại bảo tôi. - Anh là một thanh niên tốt, nhưng cha anh, ông ấy điên. Không thể hoan nghênh ông ta chút nào nữa.

    - Lão ta tưởng ta là tên ăn cướp ư? - Baba to tiếng nói. Đám đông tụ tập ở bên ngoài. Họ đang nhìn chằm chằm. - Có cái đất nước nào như thế này không? Chẳng ai tin ai nữa.

    - Tôi gọi cảnh sát, - bà Nguyễn ló mặt ra nói. - Ông ra đi không tôi gọi cảnh sát.

    - Bà Nguyễn, xin bà đừng gọi cảnh sát. Tôi sẽ đưa ông ấy về nhà. Chỉ xin bà đừng gọi cảnh sát, được không ạ?

    - Phải, anh đưa ông ấy về nhà đi. Nên thế, - ông Nguyễn nói. Đôi mắt ông, đằng sau cặp kính lão gọng thép, không rời Baba. Tôi dẫn Baba qua cửa. Ông đá vào giá hàng lúc đi ra. Sau khi tôi đã thuyết phục ông hứa không quay lại nữa, tôi trở lại cửa hàng và xin lỗi ông bà Nguyễn. Nói cho ông bà biết, cha tôi đang trải qua một thời kỳ khó khăn. Tôi cho ông bà Nguyễn địa chỉ và số điện thoại của chúng tôi, và bảo bà, tôi muốn có ước tính khoản thiệt hại. "Mong gọi cho tôi càng sớm càng tốt. Tôi sẽ đền đủ mọi thứ, bà Nguyễn. Tôi thành thực xin lỗi." Bà Nguyễn cầm mảnh giấy tôi trao và gật đầu. Tôi thấy hai tay bà run run hơn thường lệ, và làm tôi càng giận Baba, việc ông khiến một bà già phải run rẩy như thế.

    - Cha tôi vẫn cần phải thích ứng dần với cuộc sống ở Mỹ, - tôi giải thích.

    Tôi muốn nói cho họ biết rằng ở Kabul, chúng tôi bẻ một cành cây và sử dụng nó như một thẻ tín dụng. Hassan và tôi thường mang một chiếc que gỗ đến người làm bánh. Họ lấy dao khắc những vạch lên cây gậy của chúng tôi, một vạch là một ổ bánh naan mà họ thường kéo ra cho chúng tôi từ ngọn lửa cháy xèo xèo của lò nướng Tandoor. Vào cuối tháng, cha tôi trả tiền cho chủ tiệm theo số vạch khắc trên cây gậy. Có thế thôi. Không hỏi han gì. Không giấy chứng minh.

    Nhưng tôi không nói với họ. Tôi cảm ơn ông Nguyễn đã không gọi cớm. Mang Baba về nhà. Ông dỗi và hút thuốc trên ban công, trong khi tôi nấu cơm với cổ gà hầm. Một năm rưỡi, từ khi chúng tôi bước xuống chiếc máy bay đến Peshawar, mà Baba vẫn đang thích ứng.

    Tối đó chúng tôi ăn trong im lặng. Ăn được hai miếng, Baba đẩy đĩa của mình đi.

    Tôi liếc nhìn ông qua bàn ăn, móng tay ông sứt mẻ đen sì dầu máy, các đốt ngón trầy xước, mùi của trạm ga - dầu, bụi, mồ hôi và dầu diesel - đầy quần áo. Baba giống như một người đàn ông góa vợ đã tái hôn mà không thể dứt bỏ hẳn người vợ quá cố. Ông thiếu vắng những đồng mía ở Jalalabad và những vườn quả ở Paghman. Ông thiếu vắng đám đông ra ra vào vào ngôi nhà của ông, nhớ nhung chuyến dạo bộ xuống những lối đi nhộn nhịp của khu phố chợ Shor, đáp lại sự chào đón của mọi người quen biết ông, biết cả ông nội của ông, cha của ông, những người cùng chung tổ tiên với ông mà quá khứ của họ đều dây mơ rễ má với quá khứ của ông.

    Đối với tôi nước Mỹ là một chốn để tôi chôn vùi ký ức.

    Đối với Baba, là một chốn để tiếc thương ký ức của ông.

    - Có lẽ chúng ta phải quay về Peshawar. - Tôi vừa nói vừa nhìn đá lềnh bềnh trong cốc nước của tôi. Chúng tôi đã trải qua sáu tháng ở Peshawar để đợi Sở Nhập cư và Nhập quốc tịch cấp visa. Căn hộ một giường cáu bẩn của chúng tôi sực mùi như mùi tất thối và phân mèo, nhưng chúng tôi còn được quây quần với những người chúng tôi quen biết - ít nhất Baba cũng biết. Ông thường mời toàn thể những người hàng xóm cùng hành lang đến ăn tối, phần lớn bọn họ cũng là người Afghan đang đợi visa. Không tránh khỏi việc, ai đó thường mang đến một bộ trống và ai khác nữa, một cây phong cầm. Trà uống lai rai và bất kỳ ai có giọng hát một thời vang bóng thường hát cho đến khi mặt trời mọc, muỗi ngừng vo ve, tay vỗ đã sưng.

    - Baba, ở đó sẽ hạnh phúc hơn, giống như ở quê hương hơn, - tôi nói. - Peshawar tốt cho ta. Nhưng không tốt cho con.

    - Bố làm việc quá vất vả ở đây.

    - Bây giờ không đến nỗi tệ lắm, - ông nói, ý ông là kể từ khi ông trở thành quản đốc ban ngày của trạm xăng dầu. Nhưng tôi đã thấy cách ông chau mày kỳ cọ cổ tay những ngày ẩm ướt. Cách mồ hôi ông nhễ nhại trên trán khi ông vơ lọ thuốc dạ dày sau bữa ăn.

    - Vả lại ta không mang chúng ta đến đây vì ta, phải không?

    Tôi vươn qua bàn đặt bàn tay tôi lên tay ông. Bàn tay học trò của tôi, sạch và mềm mại trên bàn tay lao động của ông nhem nhuốc và chai sạn. Tôi nghĩ tới mọi chiếc xe tải, những đoàn tàu và những xe đạp ông đã mua cho tôi ở Kabul. Bây giờ là nước Mỹ. Món quà cuối cùng cho Amir.

    Đúng một tháng kể từ khi chúng tôi đến Hoa Kỳ, Baba tìm được công việc trên Đại lộ Washington, làm trợ lý cho một trạm bán xăng dầu mà ông chủ là một người Afghan quen biết. Ông bắt tay vào trông nom công việc ngay tuần lễ chúng tôi đến đó. Sáu ngày một tuần, mỗi ngày mười hai tiếng, Baba kiểm tra các kíp bơm ga, ghi chép sổ sách, thay dầu và rửa thanh gạt nước kính xe. Đôi khi tôi mang cơm trưa cho ông và thấy ông đang tìm một gói thuốc lá trên kệ, một khách hàng đang đợi ở bên kia máy đo dầu. Mặt Baba trông căng thẳng mệt mỏi và nhợt nhạt dưới ánh đèn huỳnh quang. Chuông điện ngoài cửa thường kính coong khi tôi bước vào, và Baba thường ngoái lại nhìn rồi mỉm cười, mắt ông nhỏ mồ hôi vì mệt mỏi.

    Cùng cái ngày ông được thuê làm, Baba và tôi đến gặp nhân viên phòng phúc lợi xã hội ở San Jose, bà Dobbins. Bà là một phụ nữ da đen quá khổ, với đôi mắt lấp lánh và nụ cười má lúm đồng tiền. Bà kể với tôi một lần bà đã hát ở nhà thờ, và tôi tin bà, bà có giọng nói làm tôi nghĩ đến sữa nóng và mật ong. Baba ném đống tem thực phẩm xuống bàn làm việc của bà.

    - Cảm ơn bà, tôi không muốn, - Baba nói. - Tôi luôn luôn làm việc. Ở Afghanistan tôi làm việc, ở Mỹ tôi cũng làm việc. Cảm ơn bà nhiều lắm, bà Dobbins, nhưng tôi không thích thứ miễn phí đó. Bà Dobbins chớp chớp mắt. Nhặt đám tem thực phẩm lên, hết nhìn tôi lại nhìn Baba như thể chúng tôi đang chơi trò đùa bỡn hoặc "cho bà một quả lừa", như Hassan quen nói. Bà nói:

    - Mười lăm năm tôi từng làm cái nghề này và chưa ai từng làm thế bao giờ.

    Và đó là cái cách Baba đã chấm dứt những khoảnh khắc tủi nhục về tem thực phẩm tại máy thu tiền, và làm dịu bớt một trong những nỗi sợ lớn nhất của ông: Một người Afghan sẽ thấy ông mua thực phẩm bằng tiền từ thiện. Baba ra khỏi phòng phúc lợi xã hội như người được chữa lành một cái ung nhọt.

    Mùa hè năm 1983, tôi tốt nghiệp trung học ở tuổi hai mươi, nhiều tuổi hơn người nhiều tuổi nhất tung chiếc mũ tú tài của mình lên sân bóng đá hôm đó. Tôi như lạc mất Baba trong đám đông các gia đình, những máy ánh loé đèn, và những áo choàng xanh. Tôi thấy ông gần hàng người đứng cách chừng hai mươi mét, hai tay thọc túi, máy ảnh lủng lẳng trước ngực. Ông biến mất rồi lại hiện ra sau những người đang đi đi lại lại giữa chúng tôi: Những cô gái mặc đồ xanh láng bóng đang kêu ré, ôm chặt lấy nhau đang khóc, những chàng trai và các ông bố mình giơ cao hai ngón tay hình chữ V 8 chúc mừng nhau. Râu cằm của Baba đang lốm đốm bạc, tóc ông mỏng bớt hai bên thái dương, và ở Kabul ông chẳng đã từng cao lớn hơn thế? Ông mặc bộ đồ nâu - bộ cánh duy nhất của ông, vẫn cái bộ ông mặc đi dự đám cưới và đám tang người Afghan - và chiếc nơ đỏ mà tôi đã mua vào lần sinh nhật thứ năm mươi của ông. Rồi ông nhìn thấy tôi và vẫy tay. Mỉm cười. Ông ra hiệu cho tôi đội chiếc mũ tú tài vào rồi chụp một kiểu ảnh cho tôi, với cái tháp đồng hồ nhà trường ở hậu cảnh. Tôi mỉm cười vì ông - ngụ ý đây là ngày vui của ông hơn là ngày vui của tôi. Ông bước lại gần tôi, vòng tay ôm lấy cổ rồi, rồi hôn lên lông mày tôi chỉ một cái hôn duy nhất và nói: "Amir, ta lấy làm moftakhir 9". Tự hào. Đôi mắt ông sáng ngời khi ông nói thế, và tôi thích được là điểm đến của cái nhìn đó.

    Ông dẫn tôi đến một nhà hàng thịt cừu Kabob của người Afghan ở Hayward tối đó, và gọi quá nhiều món ăn. Ông nói cho chủ nhà hàng biết con trai ông mùa này sẽ vào đại học. Tôi đã tranh luận với ông về việc đó ngay trước khi tôi tốt nghiệp trung học và bảo ông tôi muốn kiếm một việc làm. Đỡ đần ông, để dành tiền, có thể vào đại học năm sau. Nhưng ông đã hạ tôi bằng một cái nhìn nung nấu tình cha con và những lời tôi định nói đều bốc hơi hết trên miệng lưỡi.

    Sau bữa ăn, Baba dẫn tôi vào một quán bar đối diện với nhà hàng, ở bên kia con phố. Một nơi nhờ nhờ sáng và mùi hăng của bia mà tôi luôn luôn không ưa ngấm cả vào tường. Những người đàn ông đội mũ bóng chày, nhóm người chơi bi-a mặc áo may ô, những đám khói thuốc lá ấp ủ loạt bàn xanh, cuộn lên trong ánh sáng huỳnh quang. Chúng tôi khiến nhiều con mắt để ý đến. Baba trong bộ lễ phục nâu và tôi trong chiếc quần phẳng nếp, áo khoác thể thao. Chúng tôi kiếm chỗ ngồi tại quầy gần một ông già, bộ mặt như da thuộc của ông thiểu não trong ánh sáng xanh từ chiếc đèn nhấp nháy trên đầu. Baba châm một điếu thuốc lá và gọi bia cho chúng tôi. "Tối nay tôi quá hạnh phúc." Ông tuyên bố chẳng với ai cả. "Tối nay, tôi uống với con trai tôi. Và một cốc, xin mời, vì ông bạn của tôi," ông vừa nói vừa vỗ vào vai ông già. Ông bạn già ngả mũ và mỉm cười. Ông không còn hàm răng trên.

    Baba uống ba hơi hết cốc bia và gọi cốc nữa. Ông uống hết ba cốc trước khi tôi cố gượng uống hết một phần tư cốc. Tiếp đó ông mua cho ông già một ly scotch và đãi nhóm bốn người chơi bi-a một chung bia Budweiser. Mọi người bắt tay ông và vỗ vào lưng ông. Họ uống chúc mừng ông, có người châm thuốc lá cho ông. Baba nới bớt nơ cổ và đưa cho ông già một nắm đồng hai nhăm xu, ông chỉ vào máy nghe nhạc 10 rồi bảo tôi: "Bảo ông ta chơi bài hát nào ông ấy thích." Ông già gật đầu, chào Baba. Ngay lúc đó, nhạc đồng quê nổi lên ồm ồm, và chỉ thế thôi, Baba bắt đầu một bữa tiệc. Một giờ đúng, Baba đứng dậy, nâng cốc bia lên, đố tràn xuống sàn mạt cưa và hét to: "Đù mẹ bọn Nga." Tiếng cười của cả quán rượu, rồi những tiếng vọng nghèn nghẹn tiếp theo. Baba mua một lượt bia nữa cho khắp mọi người.

    Khi chúng tôi đi khỏi, mọi người đều có vẻ buồn. Kabul, Peshawar, Hayward. Vẫn ông già Baba ấy, tôi mỉm cười nghĩ.

    Tôi lái xe đưa chúng tôi về nhà trong chiếc xe cũ màu vàng đất nhãn hiệu Buick Century. Baba ngủ gật suốt dọc đường, ngáy vang như một cái búa máy. Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá và cồn, ngọt và hăng nồng. Nhưng khi tôi đỗ xe, ông ngồi bật dậy và nói bằng giọng khàn khàn:

    - Cứ cho xe chạy tiếp đến cuối dãy nhà đi.

    - Tại sao, Baba?

    - Cứ lái đi, - ông bắt tôi phải đỗ ở đầu phía Nam của đường phố. Ông thò tay vào túi áo khoác và trao cho tôi một chùm chìa khóa.

    - Đó, - ông vừa nói vừa chỉ vào chiếc xe trước mặt chúng tôi. Đó là một chiếc Ford đời cũ dài và rộng, sẫm màu mà tôi không thể phân biệt được dưới ánh trăng, - cần phải sơn lại, và bố đã nhờ một cậu ở trạm ga siết lại những chỗ rung lắc mới, nhưng nó vẫn tốt.

    Tôi cầm chùm chìa khóa, sững sờ. Tôi hết nhìn ông lại nhìn cái xe.

    - Con cần nó để đi đến trường đại học, - ông nói. Tôi nắm lấy tay ông. Bóp chặt. Nước mắt tôi ứa ra và tôi mừng vì bóng tối đã che khuất mặt tôi.

    - Con cảm ơn Baba.

    Chúng tôi đi ra và ngồi vào trong chiếc xe Ford. Nó là một chiếc Torino lớn. Màu xanh nước biển, Baba bảo vậy. Tôi lái nó vòng quanh dây nhà, thử phanh, radio và đèn xi nhan. Tôi cho đỗ vào bãi để xe của chung cư và tắt máy. Tôi nói:

    - Tashakor 11, Baba jan.

    Tôi muốn nói thêm nữa, muốn bảo ông tôi cảm động biết bao vì lòng tốt của ông, tôi đánh giá cao biết mấy tất cả những gì ông đã làm vì tôi, những gì ông vẫn đang làm. Nhưng tôi biết tôi sẽ làm ông ngượng. Tôi đành nhắc lại:

    - Tashakor.

    Ông mỉm cười ngả người tựa đầu vào gối nghỉ, trán ông gần như chạm trần xe. Chúng tôi không nói gì. Chỉ ngồi trong bóng tối, lắng nghe tiếng tinh tinh của động cơ đã mát, tiếng còi ủ ở xa xa. Rồi Baba ngả đầu về phía tôi và nói:

    - Bố chỉ mong Hassan ở đây cùng với chúng ta, hôm nay.

    Đôi bàn tay thép bóp chặt quanh khí quản của tôi khi nghe thấy tên Hassan. Tôi ngả người ra ngoài cửa xe. Đợi cho tới khi những cái tay sắt nới lỏng không xiết chặt nữa.

    Tôi sẽ ghi tên vào các lớp dự bị Đại học vào mùa thu này, tôi bảo với Baba sau ngày tốt nghiệp như thế. Ông đang uống trà đen và nhai hạt bạch đậu khấu, thử thuốc giải độc của riêng ông và ông tin nó chữa được đau đầu.

    - Con nghĩ con sẽ mạnh về tiếng Anh, - tôi nói, nén lòng chờ ông trả lời.

    - Tiếng Anh?

    - Làm nghề sáng tác văn chương. Ông cân nhắc việc đó. Nhấp trà.

    - Ý con nói là viết truyện. Con sẽ viết truyện, - tôi nhìn xuống chân.

    - Viết truyện, người ta trả tiền cho việc viết truyện à?

    - Nếu anh viết hay, và nếu anh được phát hiện, - tôi nói.

    - Được phát hiện, có chắc không?

    - Ngẫu nhiên thôi, - tôi đáp.

    Ông gật đầu:

    - Và con sẽ làm gì trong khi con chờ viết được hay và được phát hiện? Con sẽ kiếm tiền thế nào? Nếu con lấy vợ, con sẽ giúp đỡ khanum 12của con thế nào?

    Tôi không thể ngước mắt lên gặp mắt ông:

    - Con sẽ.. tìm một nghề.

    - Ồ, - ông nói. - Chà chà! Vậy, nếu theo ta hiểu, con sẽ học vài năm đề kiếm một cái bằng, rồi con sẽ kiếm một nghề, cực nhọc chatti 13như nghề của ta, một nghề mà hôm nay con có thể kiếm dễ như bỡn, còn với một cơ may nhỏ nhoi là cái bằng của con một ngày nào đó sẽ giúp con được.. phát hiện.

    Ông thở một hơi sâu và uống trà. Lầm bầm gì đó về trường y, trường luật, và "công việc thực tế." Má tôi nóng bừng và tội lỗi như chảy khắp trong người, cái tội chiều theo bản tính của mình với cái giá là bệnh loét dạ dày của ông, những ngón tay đen của ông và cổ tay ông đau nhức. Nhưng tôi sẽ giữ vững lập trường của tôi, tôi quyết thế. Tôi không muốn hy sinh cho Baba thêm chút nào nữa. Lần cuối cùng tôi làm như thế, tôi đã nguyền rủa bản thân.

    Baba thở dài, và lần này ông hất cả một vốc bạch đậu khấu vào miệng.

    Đôi khi tôi ngồi sau tay lái chiếc Ford, kéo cửa kính xuống, và lái hàng mấy giờ liền tử Vịnh Đông cho tới Vịnh Nam, lên Bán đảo rồi quay trở lại. Tôi lái xe giữa những hàng rào lưới sắt của những đường phố có hàng cây bông gạo trong quận Fremont của chúng tôi, nơi người dân không bao giờ bắt tay những ông vua sống trong dãy nhà mái bằng một tầng tồi tàn cửa sổ trần trụi nơi loại xe cũ như của tôi rớt dầu trên đường xe rải nhựa. Những hàng rào mắt cáo xám chì rào kín mọi sân sau trong quận của chúng tôi. Những đồ chơi, lốp mòn, những vỏ chai bia đã bóc nhãn vứt rải lác trên các bãi cỏ luộm thuộm trước nhà. Tôi lái xe qua ba công viên um tùm bóng mát sực mùi vỏ cây qua những dải thị tứ đủ rộng để tổ chức được đồng thời năm cuộc đua ngựa Buzkashi. Tôi lái chiếc Torino lên các dãy đồi của Los Altos, chạy chầm chậm qua những cơ ngơi có cửa sổ rộng kính liền với đôi sư tử bằng bạc gác cổng sắt hoa, những tòa nhà có đài phun nước hình thiên sứ dọc theo lối đi bộ được cắt tỉa cần thận và không có chiếc xe Ford Torino nào trên lối vào. Những tòa nhà khiến ngôi nhà của Baba ở quận Wazir Akbar Khan trông giống như túp lều của đày tớ.

    Một vài sáng Chủ nhật tôi dậy từ sớm và lái xe về phía Nam theo xa lộ 17, cho chiếc Ford leo lên con đường quanh co qua những triền núi đến Santa Cruz. Tôi thường đỗ xe ở ngôi nhà hải đăng cổ, đợi mặt trời mọc, ngồi trong xe và ngắm sương mù bồng bềnh trên mặt biền. Ở Afghanistan, tôi chỉ nhìn thấy đại dương ở rạp chiếu phim. Ngồi trong bóng tối, cạnh Hassan, tôi luôn luôn thắc mắc liệu có đúng như tôi đọc, không khí ở biển có mùi muối không. Tôi thường bảo Hassan rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ dạo bộ dọc dải bờ biển rải rác rong tảo, thọc đôi chân vào trong cát và ngắm nước biển rút khỏi gót chân. Lần đầu tiên nhìn thấy Thái Bình Dương, tôi suýt kêu to lên. Nó mênh mông và xanh biếc như trên những màn hình phim ảnh tuổi thơ tôi.

    Đôi khi trong những buổi chiều sớm, tôi đỗ xe và đi bộ lên một chiếc cầu vượt xa lộ. Mặt tôi áp vào hàng rào, tôi cố đếm những đèn hậu đỏ lừ nhấp nháy nối đuôi nhau, kéo dài mãi, chừng nào mắt tôi còn có thể trông thấy. Những chiếc BMW, những chiếc Saab, những chiếc Porsche. Những chiếc xe chưa bao giờ tôi trông thấy ở Kabul, nơi phần lớn đều lái những chiếc Volga Nga, Opel cũ, hoặc Paikan của Iran.

    Đã gần hai năm kể từ khi tôi đến Hoa Kỳ, và tôi vẫn còn kinh ngạc trước tầm cỡ của đất nước này, sự mênh mông của nó. Ra khỏi xa lộ này lại có xa lộ khác, ra khỏi mỗi thành phố lại là thành phố khác, đồi qua núi, núi qua đồi và ra khỏi đồi núi lại nhiều thành phố hơn, nhiều cư dân hơn.

    Từ lâu trước ngày quân Roussi rầm rộ tiến vào Afghanistan, từ lâu trước khi làng mạc bị đốt cháy, trường học bị phá hủy, từ lâu trước ngày mìn được gài lại như hạt giống của chết chóc và trẻ con bị chôn trong những ngôi mộ vùi đá, Kabul đã trở thành một thành phố của những bóng ma đối với tôi. Một thành phố của những bóng ma.

    Nước Mỹ khác hẳn. Nước Mỹ là một con sông gầm réo suốt dọc dòng chảy, không bận tâm đến quá khứ. Tôi có thể lội trong con sông ấy, để tội lỗi của tôi chìm tận đáy, để nước mang tôi tới một nơi thật xa. Một nơi không còn bóng ma, không còn ký ức, không còn tội lỗi.

    Nếu không vì cái gì khác, tôi ôm hôn nước Mỹ vì điều đó.

    Mùa hè năm sau, mùa hè năm 1984 - mùa hè tôi đã hai mốt tuổi - Baba bán chiếc Buick của ông và mua một chiếc xe buýt Volkswagen xộc xệch với giá 550 đô la từ một ông già Afghan quen biết, từng là giáo viên khoa học của một trường trung học ở Kabul. Những người hàng xóm nhức óc mỗi buổi chiều khi chiếc xe đó phì phò lao lên đường phố và nổ bùm bụp trên lối đi qua bãi đỗ xe của chúng tôi. Baba tắt máy để xe lăn lặng lẽ tới điểm đỗ xe đã được chỉ định. Chúng tôi ngồi lún xuống trong ghế của mình, cười cho đến khi nước mắt vãi ra lăn xuống má, và quan trọng hơn, là cho đến lúc chúng tôi tin chắc những người hàng xóm không còn chú ý tới nữa. Chiếc xe buýt là một cái xác buồn của sắt gỉ, của cửa kính vỡ tan được thay bằng bao bì đen phế thải, lớp mòn bóng và đệm ghế thì rách nát xuống tận lò xo. Nhưng ông giáo già đã cam đoan lần nữa với Baba rằng máy móc và bộ phận truyền động còn tốt, và về khoản ấy ông không nói dối.

    Vào những ngày thứ Bảy, Baba đánh thức tôi dậy từ lúc bình minh. Trong lúc ông mặc quần áo, tôi xem qua mục thông tin quảng cáo trong những tờ nhật báo địa phương và khoanh lại những quảng cáo giữa bản đồ cũ. Chúng tôi vạch lộ trình trên bản đồ - Fremont, Union City, Newark, và trước hết là Hayward, rồi San Jose, Milpitas, Sunnyvale, và Campbell nếu thời gian cho phép. Baba lái chiếc xe buýt, nhấp trà nóng trong phích, còn tôi chỉ đường. Chúng tôi dừng lại ở những gara bán đồ cũ và mua mọi thứ lặt vặt mà người ta không còn chuộng nữa. Chúng tôi kỳ kèo mặc cả những cái máy khâu cũ, những on búp bê Barbie một mắt, vợt tennis gỗ, đàn ghita mất dây, và những máy giặt Electrolux cũ. Đến giữa trưa chúng tôi đã chất đầy thùng chiếc xe buýt VW toàn đồ cũ. Rồi những sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi lái xe đến chợ trời San Jose quá Berryessa, thuê một chỗ bán đống đồ tạp nham ấy, lấy chút ít lời lãi: Một chiếc đĩa hát Chicago chúng tôi mua hai nhăm xu hôm trước, có thể bán được một đô, hoặc bốn đô một bộ năm chiếc, một máy khâu Singer ọp ẹp mua mười đô, sau khi mặc cả có thể lên tới hai mươi lăm đô.

    Tới mùa hè năm đó, các gia đình Afghan chiếm toàn bộ một khu của chợ trời San Jose. Nhạc Afghan chơi ở lối đi giữa hai dãy của khu Đồ Cũ. Có một bộ luật không thành văn về việc ứng xử giữa những người Afghan với nhau ở chợ trời: Anh chào đón một anh chàng qua lối đi, anh mời hắn một miếng bánh bolani 14hoặc một chút qabuli, và anh tán chuyện. Anh tỏ lời tassali 15trước cái chết của một bậc sinh thành, chúc mừng trẻ con chào đời, và lắc đầu buồn bã khi câu chuyện tất yếu chuyển sang Afghanistan và bọn Roussi. Nhưng anh phải tránh chủ đề hôm thứ Bảy. Bởi vì hóa ra, cái gã đi ngang qua hai dãy hàng lại là anh chàng đã suýt bất ngờ bị anh nện, ở lối ra xa lộ hôm trước để nhắc nhở việc bán hàng đồ cũ đã hứa hẹn. Điều duy nhất rôm rả hơn trà ở giữa hai dãy hàng là chuyện ngồi lê của người Afghan. Chợ trời là nơi mà bạn nhấp trà xanh với kolchas 16hạnh nhân và biết được con gái của ai đã phá hôn ước và chạy theo bạn trai Mỹ của mình, ai vốn là Parchami, một người cộng sản, ở Kabul, ai đã mua một ngôi nhà bằng tiền phi pháp, trong khi vẫn hưởng trợ cấp xã hội. Trà, chính trị, bê bối, những thành phần của ngày Chủ nhật Afghan ở chợ trời. Đôi khi tôi đứng quầy, trong khi Baba thong thả xuống lối đi hai tay kính cẩn ép vào ngực chào mọi người ông quen biết từ khi còn ở Kabul: Những thương nhân và những thợ may bán áo khoác len hàng mặc thừa và những mũ xe đạp trầy xước, bên những ông cựu đại sứ, nhà giải phẫu thất nghiệp và giáo sư đại học thất nghiệp.

    Một buổi chiều sớm, Chủ nhật tháng Bảy năm 1984, trong khi Baba đứng đó, tôi mua hai tách cà phê giảm giá và quay lại, thấy Baba đang nói chuyện với một người đàn ông già hơn trông có vẻ danh giá. Tôi đặt hai tách cà phê trên cái chắn hậu của chiếc xe buýt, gần một cái khẩu hiệu: ỦNG HỘ REAGAN / BUSH khóa 84.

    - Amir. - Baba vừa nói vừa vẫy tôi qua, - đây là tướng quân Sahib, ngài Iqbal Taheri. Ông là một vị tướng được huân chương ở Kabul. Ông làm việc ở Bộ Quốc phòng.

    Taheri. Tại sao cái tên nghe có vẻ quen thế?

    Ông tướng cười như một người đã quen dự những bữa tiệc linh đình, nơi ông từng cười lấy lòng trước những câu đùa nhạt nhẽo nhất của các nhân vật quan trọng. Ông có những món tóc xám như bạc chải hất từ cái trán bóng mượt và sạm nắng ra đằng sau, cùng những túm lông trắng trên đôi mày rậm. Người ông sực mùi nước hoa Cologne trong bộ com lê xẻ tà màu xám sắt, bóng nhẫy vì là quá kỹ, một dây đeo bằng vàng của chiếc đồng hồ bỏ túi lủng lẳng trên áo vest của ông.

    - Giới thiệu nhau trịnh trọng khiếp chưa! - Ông nói, giọng ông trầm và có vẻ học thức. - Salaam, bachem 17.

    - Salaam, tướng quân Sahib - Tôi vừa nói vừa bắt tay ông. Bàn tay thon thả của ông bắt chặt, dễ làm người ta hiểu lầm, như thể có thép giấu dưới vẻ bề ngoài của làn da ẩm mát.

    - Amir định trở thành một nhà văn lớn đấy. - Baba nói. Và tôi phải hiểu điều đó theo hai nghĩa. - Nó đã học xong năm thứ nhất đại học và đạt điểm A ở tất cả các môn.

    - Mới là dự bị đại học thôi. - Tôi chữa lại.

    - Mashallah! Hoan hô! - Tướng Taheri nói, - có lẽ cháu sẽ viết về lịch sử đất nước chúng ta? Hay kinh tế học?

    - Cháu viết truyện, - tôi nói, vừa nghĩ tới một tá truyện cực ngắn tôi đã viết trong cuốn sổ tay bìa bọc da mà chú Rahim Khan đã tặng tôi, vừa tự hỏi tại sao lại đột nhiên ngượng ngập vì chúng trước mặt người đàn ông này.

    - À, một người kể chuyện, - ông tướng nói. - Tốt lắm, mọi người đang cần những chuyện kể để giải khuây vào thời buổi khó khăn này. - Ông đặt tay lên vai Baba rồi quay lại tôi. - Lại nói về những câu chuyện, cha cháu và bác đã cùng đi săn vui thích với nhau một ngày hè ở Jalalabad. Một thời kỳ tuyệt diệu. Nếu bác nhớ không nhầm, mắt cha cháu tỏ ra rất tinh trong săn bắn cũng như việc kinh doanh.

    Baba lấy gót ủng đá vào chiếc vợt tennis cán gỗ trên tấm vải bạt trải ra:

    - Kinh doanh thế đấy. Tướng Taheri nở một nụ cười vừa buồn vừa lịch sự, buông một tiếng thở dài, và tế nhị vô vào vai Baba:

    - Zendagi Migzara 18! - Ông nói. Mắt ông quay sang tôi. - Những người Afghan chúng ta đang có khuynh hướng cường điệu ghê gớm, bachem ạ, và bác đã được nghe nói nhiều người gán cho mình cái nhân vĩ đại một cách ngu xuẩn. Nhưng cha cháu có cái ưu điểm thuộc một số ít người thực sự xứng đáng với danh tiếng của mình.

    Với tôi câu nói ngắn gọn ấy nghe thật giống bộ đồ của ông, cũ rồi nhưng bóng bẩy phi thường.

    - Ông đang tâng bốc tôi đấy, - Baba nói.

    - Không đâu, - ông tướng vừa nói vừa ngả đầu về một bên và ép bàn tay vào ngực, tỏ ý khiêm nhường:

    - Lũ con trai và con gái phải biết tài sản của cha chúng để lại ông quay lại tôi. - Cháu có đánh giá cao cha cháu không, bachem? Cháu có thực sự đánh giá cao cha cháu không?

    - Balay, thưa tướng quân Sahib, cháu có ạ. - Tôi vừa nói vừa mong ông đừng gọi tôi là "con trai ta".

    - Vậy, xin chúc mừng, cháu đã trưởng thành được một nửa rồi. - Ông nói, không có dấu hiệu gì là hài hước, châm biếm, lời chúc mừng của ngạo mạn không chủ đích.

    - Padar 19 jan, bố quên trà của bố rồi, - giọng của một phụ nữ trẻ.

    Cô đứng đằng sau chúng tôi, một người đẹp eo hông thon thả, tóc đen nhánh như nhung, một phích nước và một tách nhựa mỏng trên tay. Tôi chớp mắt, tim tôi đập rộn. Cô có đôi mày đen, rậm gần giao nhau ở giữa, trông như đôi cánh cong của một con chim đang bay, và sống mũi hơi cong duyên dáng của một quận chúa từ nước Ba Tư cổ - có thể là mũi của Tabmineh, vợ vua Rostam và mẹ của Sohrab trong truyện Shahnamah. Đôi mắt cô, màu nâu quả óc chó rợp bóng hàng lông mi hiu hiu như quạt, gặp đôi mắt của tôi. Khựng lại một lúc. Rồi bay mất.

    - Con ngoan quá, con yêu quý, - tướng Taheri nói. Ông cầm chiếc tách từ tay cô. Trước khi cô quay đi, tôi nhìn thấy cô có một vết chàm nâu hình lưỡi liềm trên làn da mịn đúng ở mép hàm trái. Cô bước đến một chiếc xe chở hàng màu xám nhờ, và để cái phích vào trong. Tóc cô chảyxuống một bên, khi cô quỳ xuống giữa những hộp đĩa hát cũ và sách bìa thường.

    - Con gái ta, Soraya jan. - Tướng Taheri nói. Ông hít một hơi thật sâu như một người đang rất muốn đổi chủ đề chuyện và kiểm tra chiếc đồng hồ vàng bỏ túi.

    - Ồ đến giờ đi bán hàng rồi.

    Ông và Baba hôn nhau lên má và ông bắt tay tôi bằng cả hai tay:

    - Chúc việc viết văn gặp may mắn nhất.

    Ông vừa nói vừa nhìn vào mắt tôi. Đôi mắt màu lơ nhạt của ông chẳng để lộ ra một chút gì những ý nghĩ ẩn phía sau.

    Suốt từ lúc ấy cho đến hết ngày, tôi luôn phải chống lại khao khát được nhìn về phía chiếc xe chở hàng màu xám. Tôi sực nhớ ra trên đường về nhà, Taheri. Tôi biết trước đây tôi đã được nghe nói tới cái tên ấy.

    - Không có chuyện đồn thổi gì đó xung quanh cô con gái ông Taheri chứ? - Tôi cố làm ra vẻ tình cờ hỏi Baba.

    - Con biết ta rồi đấy, - Baba vừa nói vừa cho chiếc xe buýt nhích sát vào hàng xe nối đuôi nhau ở lối ra của chợ trời. - Chuyện trò mà chuyển thành chuyện ngồi lê là ta bỏ đi ngay.

    - Nhưng có chuyện đó, phải không bố? - Tôi hỏi.

    - Tại sao con lại hỏi? - Ông rụt rè nhìn tôi.

    Tôi nhún vai và đáp trả ông bằng một nụ cười:

    - Tò mò thôi mà Baba.

    - Thật ư? Chỉ có thế thôi ư? - Ông hỏi, mắt ông bỡn cợt, không rời khỏi mắt tôi. - Nó để lại ấn tượng với con ư?

    Tôi đảo mắt nói:

    - Xin Baba đi. Ông mỉm cười, cho chiếc xe chồm ra khỏi chợ trời. Chúng tôi tiến về xa lộ 680 và im lặng trên xe được một lúc.

    - Tất cả những gì bố được nghe là từng có một người đàn ông và mọi chuyện.. không suôn sẻ, - ông nói một cách nghiêm trọng như thể tiết lộ với tôi rằng cô gái ấy bị ung thư phổi.

    - Ô.

    - Bố nghe nói con bé là một cô gái đoan trang, chịu khó và rất tốt. Nhưng chẳng có khastegars 20nào, từ đó tới gõ cửa nhà ông tướng, - Baba thở dài. - Có thể là thành kiến, nhưng những gì xảy ra trong một vài ngày, đôi khi có thể chỉ một ngày, cũng dễ làm đổi thay hướng đi của cả đời người, Amir ạ.

    Nằm thao thức trên giường đêm đó, tôi nghĩ đến vết chàm hình lưỡi liềm, đến cái mũi trang nhã của Soraya Taheri và cái cách đôi mắt ngời sáng của cô không buông tha mắt tôi trong khoảnh khắc. Tim tôi đập một cách khó khăn khi nghĩ tới cô. Soraya Taheri. Nữ Quận chúa Tao ngộ của tôi.

    * * *

    1 Rowt: Cũng có nghĩa là bánh ngọt.

    2 Tổng thống Mỹ lúc đó.

    3 ESL: Là từ viết tắt của English as Second Language, lớp dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai cho người nhập cư.

    4 Ý nói như một bé ngoan ở lớp mẫu giáo.

    5 Six Million Dollar Man: Tên một bộ phim nhiều tập của truyền hình Mỹ về một nhân vật huyễn tưởng nửa người nửa máy làm việc cho một tổ chức bí mật của nước Mỹ, dựa theo tiểu thuyết Cyborg (người nửa máy) của M. E. Brooks.

    6 Lee Majors: Diễn viên Mỹ, thủ vai Steve Austin, nguyên là một nhà thiên vãn với chân tay được điều khiển theo kỹ thuật sinh học, trong bộ phim Người đàn ông Sáu triệu đô la.

    7 Mike Hammer: Nhân vật nhà thám lử trong tác phẩm I, the Fury của nhà văn Mỹ Mickey Spilane, xuất bản năm 1947. Sau này nhiều bộ phim và chương trình phát thanh truyền hình lấy ý tưởng từ nhân vật này.

    8 V: Viết tắt chữ Victory nghĩa là chiến thắng.

    9 Moftakhir: Có nghĩa tự hào.

    10 Jukebox: Máy nghe nhạc thường để trong các quán rượu, bia, bỏ tiền xu vào máy, máy sẽ tự động chơi nhạc.

    11 Cảm ơn.

    12 Kharum: Nghĩa là vợ.

    13 Chatti: Có nghĩa là chiến binh, ở đây hàm ý nghềcực nhọc, vất vả..

    14 Bolani, qabuli: Những loại bánh truyền thống của Afghanistan.

    15 Chia buồn.

    16 Kolchas: Kẹo.

    17 Salaam bachem: Xin chào con trai.

    18 Zendagi Migzara cũng có nghĩa cuộc sống vẫn tiếp tục, đời cứ trôi.

    19 Padar: Tiếng gọi bố thân mật.

    20 Khastegars: Những người cầu hôn.
     
  3. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG XII

    Bấm để xem
    Đóng lại


    Afghanistan, yelda là đêm đầu tiên của tháng Jadi, đêm đầu tiên của mùa đông, và là đêm dài nhất của cả năm. Theo tục lệ truyền thống, Hassan và tôi thường đi ngủ muộn, chân chúng tôi luồn dưới bàn sưởi kursi, trong khi ông Ali ném vỏ táo vào lò sưởi và kể cho chúng tôi những câu chuyện cổ xưa về các Sultan và những tên trộm cắp để qua cái đêm dài nhất các đêm. Chính từ ông Ali mà tôi biết được những chuyện truyền miệng về yelda, rằng những con thiêu thân ma tự lao mình vào những ngọn nến và chó sói leo lên các ngọn núi ôm mặt trời. Ông Ali thề rằng, nếu anh ăn dưa hấu vào đêm yelda, mùa hè năm sau anh sẽ không thấy khát.

    Khi nhiều tuổi hơn, tôi đọc trong một cuốn sách thơ, yelda là đêm không sao, những khách tình si đau khổ thức miệt mài cầu kinh, chịu đựng bóng đêm dài vô tận, đợi mặt trời mọc mang theo người yêu của họ. Sau khi tôi gặp Soraya Taheri, mỗi đêm trong tuần đều trở thành một yelda đối với tôi. Và khi sáng Chủ nhật tới, tôi dậy khỏi giường, khuôn mặt Taheri mắt nâu đã ngự trị trong đầu óc tôi. Trong xe buýt của Baba, tôi đếm các dặm đường cho tới khi tôi thấy nàng ngồi, chân trần, sắp xếp đám hộp các tông đựng những cuốn từ điển bách khoa thư ố vàng, hai gót chân nàng trắng nõn trên nhựa đường, những vòng bạc lanh canh quanh hai cổ tay mảnh mai của nàng. Tôi thường nghĩ tới bóng tóc nàng in trên mặt đất, khi mớ tóc tuột khỏi lưng nàng và rủ xuống như một tấm rèm nhung. Soraya. Nữ Quận chúa Tao ngộ của tôi. Mặt trời buổi sáng cho yelda của tôi.

    Tôi bịa ra nhiều cớ đề thong thả đi dọc dãy bán hàng - mánh này Baba nhận ra bằng một nụ cười khoái chí - và đi qua chỗ cha con ông Taheri đứng. Tôi thường vẫy tay chào vị tướng, người luôn luôn mặc bộ đồ xám là bóng loáng, và ông cũng vẫy lại. Đôi khi ông còn rời chiếc ghế chủ hàng và chúng tôi sẽ huyên thuyên về chuyện viết lách của tôi, về chiến tranh, những mặc cả mua bán trong ngày. Tôi thường buộc mắt mình không được la lém, lảng vảng nơi Soraya đang ngồi đọc một cuốn sách bìa mềm. Vị tướng và tôi thường chào tạm biệt nhau và tôi cố không tỏ vẻ thẫn thờ khi đi khỏi.

    Đôi khi nàng ngồi một mình, ông tướng đã bỏ đi đến một dãy hàng nào đó khác để góp vui, và tôi thường bước qua, vờ như không biết nàng, dù muốn đến chết đi được. Đôi khi nàng ngồi đó với một người đàn bà trung niên hơi béo, nước da nhợt nhạt, tóc nhuộm đỏ. Tôi tự hứa với mình là sẽ nói chuyện với nàng trước khi kỳ hè trôi qua, nhưng năm học đã trở lại, lá cây đỏ dần, vàng úa, rồi rơi rụng và mưa đông ào tới, đánh thức những tụ điểm ăn uống rẻ tiền của Baba, những lá non một lần nữa lại đâm chồi, và tôi vẫn chưa đủ can đảm ngay cả tới việc nhìn thẳng vào mắt nàng.

    Ba tháng mùa xuân kết thúc vào cuối tháng Năm năm 1985. Tôi đạt loại A tất cả những môn học đại cương, một kỳ tích tối thiểu để tôi có thể bước vào giảng đường và nghĩ tới cánh mũi cong mềm mại của Soraya.

    Thế rồi một Chủ nhật oi bức mùa hè năm đó, Baba và tôi đang ở chợ trời, ngồi trong lều của chúng tôi, lấy báo quạt mặt. Mặc dầu mặt trời chiếu xuống như sắt nung, nhưng chợ hôm đó nhung nhúc người và hàng hóa tiêu thụ mạnh. Mới chỉ 12 giờ rưỡi, nhưng chúng tôi đã bán được một trăm sáu mươi đô. Tôi đứng dậy, vươn vai và hỏi Baba, ông có muốn uống một hộp Coca không. Ông nói ông có muốn.

    - Cẩn thận đấy, Amir. - ông nói khi tôi bước đi.

    - Về chuyện gì ạ, Baba?

    - Ta không phải là một ahmaq 1, nên đừng chơi trò ngớ ngẩn với ta.

    - Con không hiểu bố đang nói gì?

    - Hãy nhớ điều này, - Baba vừa nói vừa chỉ vào tôi. - Đàn ông phải Pashtun tận gốc. Phải có nang. Có namoos. Nang và namoos. Danh dự và tự hào. Những giáo lý của đàn ông Pashtun. Nhất là khi đụng đến phẩm hạnh trong trắng của một người vợ. Hoặc con gái người ta.

    - Con chỉ định đi mua đồ uống cho chúng ta.

    - Miễn là đừng làm ta ngượng mặt, đó là tất cả những gì ta yêu cầu.

    - Con sẽ không, con thề đấy, Baba.

    Baba châm một điếu thuốc lá và lại quạt tiếp.

    Lúc đầu, tôi đi về phía lều giảm giá, rồi rẽ trái lại chỗ quầy bán áo phông, chỗ đó chỉ với năm đô bạn có thể có bộ mặt của Jesus, Elvis, Jim Morrison hoặc cả ba in trên áo phông ni lông trắng. Nhạc Mariachi chơi ở trên cao và tôi ngửi thấy mùi dưa góp và thịt nướng.

    Tôi phát hiện ra chiếc xe chở hàng màu xám của gia đình Taheri cách chỗ chúng tôi hai dãy, cạnh một ki ốt bán xoài xâu que. Nàng ngồi một mình đọc sách. Hôm nay váy đầm dài tận gót chân màu trắng. Dép lê. Tóc chải ngược, búi lại trên đầu thành hình bông hoa tuy líp. Tôi định chỉ lại bước qua và tôi tưởng đây tôi đã đi qua rồi, thế mà bất ngờ tôi lại đang đứng ở mép chiếc khăn trải bàn trắng của nhà Taheri, chăm chú nhìn Soraya qua các gọng sắt cong và những chiếc cà vạt. Nàng ngước nhìn lên.

    - Salaam, - tôi nói. - Tôi xin lỗi đã làm phiền. Tôi không định quấy rầy cô.

    - Salaam.

    - Tướng quân Sahib hôm nay có đến đây không? - Tôi nói. Hai tai tôi nóng bừng. Tôi không thể ép nổi mình nhìn vào đôi mắt nàng.

    - Ông ấy đi lối kia, - nàng nói, chỉ về phía bên phải. Chiếc vòng tuột xuống khuỷu tay nàng, màu bạc tương phản với màu ôliu.

    - Cô làm ơn nói giúp với ông, tôi ghé qua đây để tỏ lòng kính trọng ông, có được không? - Tôi hỏi.

    - Tôi sẽ nói.

    - Cảm ơn cô, - tôi nói. - À, tên tôi là Amir, phòng khi cô cần biết. Vậy cô có thể nói với ông rằng: Tôi ghé qua đây.. để.. tỏ lòng kính trọng.

    - Vâng.

    Tôi nhúc nhích chân, hắng giọng.

    - Tôi đi đây. Xin lỗi đã quấy rầy cô.

    - Không, không đâu, - nàng nói.

    - Ồ, may quá, - tôi nghiêng đầu và cười nửa miệng với nàng. Tôi đi đây. - Tôi đã chẳng nói thế rồi sao? - Khoda hãfez. Tạm biệt.

    - Khoda hãfez.

    Tôi đã bước đi. Rồi lại dừng và quay lại. Tôi kịp nói trước khi mất hết can đảm.

    - Tôi có thể hỏi cô đang đọc gì không?

    Nàng chớp mắt.

    Tôi nín thở. Bất chợt, tôi cảm thấy như mọi con mắt ở chợ trời đổ dồn vào chúng tôi. Tôi hình dung ra một bầu không khí im lặng đang lắng xuống. Những đôi môi ngừng nói giữa chừng. Những cái đầu quay đi quay lại. Những đôi mắt nheo lại soi mói.

    Chuyện này là thế nào?

    Cho đến lúc này, cuộc chuyện trò của chúng tôi cùng lắm có thể được giải thích là một lời hỏi thăm xã giao, một người hỏi thăm về một người khác. Nhưng tôi lại hỏi nàng một câu, và nếu nàng trả lời. Chúng tôi sẽ bị coi.. ờ, chúng tôi đang tán gẫu. Tôi, một mojarad 2, và nàng, một phụ nữ trẻ chưa chồng. Huống chi một người đã mắc chuyện đồn đại. Chuyện này đang được thêm bớt một cách nguy hiểm ngấp nghé đồ ngồi lê, loại chuyện ngồi lê tuyệt nhất. Những cái lưỡi đầy nọc độc sẽ khua lên. Và nàng sẽ phải hứng chịu nọc độc đó chứ không phải tôi. Tôi thừa hiểu cái chuẩn mực nước đôi của người Afghan thiên vị giống đàn ông. Không có chuyện, anh không thấy hắn tán cô này à? Mà Wooooy 3! Anh có thấy cô nàng cứ bám lấy hắn không? Đúng là loại lochak!

    Theo chuẩn mực Afghan, câu hỏi của tôi thế là trơ trẽn. Tôi đã lộ mặt tôi ra, và để lại chút nghi ngờ là tôi thích nàng. Nhưng tôi là một người đàn ông, tôi có liều đi chăng nữa chẳng qua do tôi bị giày vò. Những vết thương đã lành. Nhưng tiếng tăm thì chưa. Liệu nàng có chấp nhận sự táo tợn của tôi không? Nàng lật cuốn sách, cho bìa sách lộ ra trước mắt tôi: Đồi gió hú.

    - Anh đã đọc cuốn này chưa? - Nàng hỏi.

    Tôi gật đầu. Tôi cảm thấy như tiếng tim đập đằng sau mắt tôi:

    - Đó là một chuyện buồn.

    - Những chuyện buồn tạo nên những cuốn sách hay, - nàng nói.

    - Đúng thế.

    - Tôi nghe nói anh cũng viết.

    Làm thế nào nàng biết được? Tôi thắc mắc, liệu có phải cha nàng đã kể cho nàng, cũng có thể nàng đã hỏi ông. Tôi lập tức xua ngay cả hai dự đoán đó đi. Các ông bố và con trai có thể chuyện trò thoải mái về đàn bà. Nhưng không cô gái Afghan nào - ít nhất cũng không có cô gái Afghan nền nếp và Mohtaram 4đang tuổi cập kê nào - lại hỏi cha mình về một chàng trai trẻ. Và không ông bố nào, nhất là một người Pashtun, với nang và namoos, danh dự và tự hào, lại đi bàn luận một mojarad với con gái mình, kể cả khi cái gã được hỏi đến là một, một người cầu hôn đã làm xong nghi lễ và nhờ cha mình đến gõ cửa.

    Không thể tin nổi, tôi nghe thấy mình nói:

    - Cô có thích đọc một truyện ngắn tôi viết không?

    - Tôi thích chứ, - nàng nói.

    Tôi bỗng cảm thấy vẻ thiếu tự nhiên ở nàng lúc này, tôi thấy điều đó từ cách nàng đảo mắt bên nọ qua bên kia. Có thể nàng đang muốn tìm ông tướng. Tôi không biết ông sẽ nói gì, nếu thấy tôi nói chuyện lâu lâu một cách không nên với con gái ông như thế.

    - Có thể hôm nào tôi sẽ mang đến cho cô.

    Tôi nói vậy. Tôi còn đang định nói thêm nữa thì người đàn bà tôi đã tình cờ nhìn thấy cùng với Soraya bước tới dãy hàng. Bà ta mang theo một túi nhựa đầy hoa quả. Khi trông thấy chúng tôi, mắt bà vụt nhìn từ Soraya sang tôi, rồi ngược lại. Bà mỉm cười:

    - Amir jan, rất mừng được gặp cháu, - bà vừa nói vừa đổ túi quả lên chiếc khăn trải bàn. Lông mày bà long lanh một vệt mồ hôi. Bộ tóc đỏ của bà búi lên như một chiếc mũ cối, lấp lánh trong ánh nắng. Tôi có thể nhìn ra những mảnh nhỏ da đầu bà, nơi tóc đã thưa đi. Bà có đôi mắt nhỏ màu xanh lục, sâu trên bộ mặt tròn như cái bắp cải, răng bọc và những ngón tay nhỏ như những thanh xúc xích. Một tượng thánh Allah bằng vàng trên ngực bà, chuỗi dây đeo nấp dưới lớp da nhẽo và những nếp nhăn ở cổ.

    - Tôi là Jamila, mẹ của Soraya jan.

    - Salaam, Khala jan, - tôi nói hơi lúng túng, vì tôi quen nhiều người Afghan thế mà bà biết tôi còn tôi lại không biết bà là ai.

    - Cha cháu có khoẻ không? - Bà hỏi.

    - Cha cháu khoẻ, cảm ơn bà.

    - Cháu có biết, ông cháu, Ghazi Sahib, vị thẩm phán ấy mà? Chú của ông và ông của ta là anh em họ, - bà nói. - Vậy cháu thấy đấy, chúng ta có họ với nhau. - Bà mỉm cười để lộ chiếc răng bọc và tôi để ý thấy bên phải miệng bà hơi trễ xuống. Mắt bà lại đảo đi đảo lại giữa Soraya và tôi.

    Một lần, tôi đã hỏi Baba tại sao con gái tướng Taheri chưa lấy chồng. Không có người cầu hôn, Baba nói. Không có người cầu hôn thích hợp, ông chữa lại. Nhưng ông không nói gì thêm - Baba quá hiểu những mẩu chuyện trò vô bổ có thể ảnh hưởng tới viễn cảnh lấy chồng đàng hoàng của một người phụ nữ trẻ ra sao. Đàn ông Afghan, nhất là những người thuộc gia đình danh giá, là những sinh vật hay thay đổi. Một tiếng xì xào ở đây, một lời bóng gió ở kia, thế là họ bùng như những con chim bị giật mình. Vì vậy những hôn lễ đến rồi lại đi và không ai hát ahesta boro cho Soraya, không ai vẽ gan bàn tay của nàng bằng cây lá móng, không ai cầm cuốn kinh Koran trên khăn trùm đầu của nàng, và tướng Taheri là người duy nhất từng nhảy với nàng tại mọi đám cưới.

    Và giờ đây, người đàn bà này, mẹ của nàng, với nụ cười đau lòng háo hức, quanh co, niềm hy vọng được che đậy qua loa trong đôi mắt. Tôi hơi thu mình lại trước cái vị thế của quyền lực được ban cho mình và tất cả chỉ bởi vì tôi đã thắng trong trò xổ sổ di truyền quyết định giới tính của tôi. Tôi chẳng bao giờ có thể đọc nổi những ý nghĩ trong đôi mắt của tướng Taheri, nhưng tôi lại hiểu điều ấy quá rõ ở bà vợ của ông: Nếu tôi sắp phải có một đối thủ trong việc này, bất kể như thế nào, thì cũng sẽ không phải là bà.

    - Ngồi xuống nào, Amir jan, - bà nói. - Soraya, mang cho anh một cái ghế. Và rửa một quả đào. Đào ngọt và tươi đấy.

    - Không, cảm ơn cô. - tôi nói. - Cháu nên đi. Cha cháu đang đợi cháu.

    - Ồ, - Khanum Taheri đáp, rõ ràng xúc động về việc tôi tỏ ra lễ phép và từ chối lời mời. - Vậy thì đây, ít nhất cháu cũng cầm lấy cái này. - Bà bỏ một vốc quả kiwi với vài quả đào vào một cái túi, và khăng khăng đòi tôi cầm về. - Gửi lời chào tới bố cháu hộ cô. Và thỉnh thoảng lại tới đây với mẹ con ta.

    - Cháu sẽ tới, cảm ơn cô, Khala jan. - Tôi nói và liếc mắt, thấy Soraya đang nhìn đi chỗ khác.

    "Bố nghĩ con đi mua coca." - Baba vừa nói vừa cầm lấy cái túi từ tay tôi. Ông nhìn thẳng vào tôi vừa nghiêm nghị vừa bông đùa. Tôi đang định đùa lại nhưng ông đã cắn quả đào và xua tay. - Đừng ngại, Amir, hãy nhớ những gì bố đã nói.

    Đêm đó trên giường, tôi nghĩ đến ánh nắng nhấp nhánh nhảy múa trong đôi mắt của Soraya và những cái hõm thon thả trên vành xương cổ nàng. Tôi ngẫm đi ngẫm lại một cuộc chuyện trò giữa chúng tôi. Nàng đã nói Tôi nghe nói anh viết văn hay Tôi nghe nói anh là một nhà văn? Câu nào nhỉ? Tôi tung chăn vùng dậy nhìn lên trần nhà, chán nản khi nghĩ tới những sáu đêm yelda khó nhọc, dài vô tận cho tới khi lại được gặp nàng.

    Tôi cứ tiếp tục như thế mấy tuần liền. Tôi thường đợi cho tới khi ông tướng đi dạo đâu đó, để ghé qua quầy hàng của nhà Taheri. Nếu Khanum Taheri ở đó, bà thường mời tôi một tách trà và một chiếc kẹo kolcha và chúng tôi chuyện gẫu về Kabul ngày xưa, những người chúng tôi quen biết, về bệnh đau khớp của bà. Không nghi ngờ gì nữa, bà đã để ý thấy những lần hiện diện của tôi luôn luôn trùng hợp với những lần chồng bà vắng mặt, nhưng bà không bao giờ để lộ ra. Bà thường nói:

    - Ồ, anh lại không gặp được Kaka của anh rồi. Thực ra tôi thích khi Khanum Taheri ở đó, và không phải chỉ vì lối thân mật của bà, Soraya có vẻ thoải mái hơn và hay chuyện trò linh tinh với mẹ hơn. Như thể sự có mặt của bà đã hợp pháp hóa bất kể điều gì xảy ra giữa chúng tôi - dẫu chắc chắn không thể bằng được nếu là ông tướng. Khanum Taheri bảo trợ cho những cuộc gặp gỡ của chúng tôi, nếu không để thoát khỏi chuyện ngồi lê thì cũng để bớt dẫn đến ngồi lê, ngay cả khi cái giới hạn chiều chuộng tôi của bà rõ ràng làm Soraya ngượng ngùng.

    Một hôm, chỉ có Soraya và tôi trong lều bán hàng của họ, đang chuyện trò. Nàng kể cho tôi về trường học, nàng học hành quá chăm chỉ thế nào trong những khóa học đại cương của nàng tại Trường dự bị Đại học Ohlone ở Fremont.

    - Cô sẽ chuyên về ngành gì?

    - Tôi muốn trở thành một giáo viên, - nàng nói.

    - Thật ư? Tại sao?

    - Tôi đã luôn luôn muốn vậy. Khi chúng tôi sống ở bang Virginia, tôi đã học ESL, đã tốt nghiệp và bây giờ tôi dạy tại thư viện công cộng tuần một tối. Mẹ tôi cũng là giáo viên, bà dạy tiếng Farsi và lịch sử tại trường nữ trung học Zarghoona ở Kabul.

    Một người đàn ông bụng phệ đội mũ đi săn trả ba đô la cho một hộp nến năm đô la và Soraya để ông ta lấy. Nàng bỏ tiền vào cái hộp đựng kẹo để dưới chân. Nàng nhìn vào tôi bẽn lẽn:

    - Tôi muốn kể cho anh một chuyện, nhưng tôi hơi ngượng về chuyện đó.

    - Kể cho tôi đi.

    - Loại chuyện ngớ ngẩn ấy mà.

    - Làm ơn, kể cho tôi đi.

    Nàng cười:

    - Được, khi tôi học lớp bốn ở Kabul, cha tôi thuê một người đàn bà tên là Ziba để giúp việc vặt trong nhà. Cô ấy có một người chị ở Iran, tại Mashad, và vì Ziba mù chữ, cô ấy thường nhờ tôi viết thư cho chị mình, ít lâu lại một bức. Và khi người chị trả lời, tôi lại đọc hộ cho Ziba. Một hôm, tôi hỏi cô có thích học đọc, học viết không. Cô cười toét miệng, tít mắt lai, và bảo cô thích lắm. Thế là chúng tôi thường ngồi tại bàn ăn trong bếp sau khi tôi đã soạn xong bài vở ở trường, và tôi dạy cô Alef- beh 5. Tôi vẫn nhớ, đôi khi ghé thăm cô giữa lúc đang làm bài tập ở nhà và thấy Ziba đang đảo thịt trong nồi áp suất, rồi lại ngồi xuống với chiếc bút chì làm bài tập vỡ lòng mà tôi ra cho cô đêm trước. Tóm lại trong vòng một năm, Ziba đã đọc được sách trẻ con. Chúng tôi thường ngồi ngoài sân và cô đọc cho tôi những chuyện kể về Dara và Sara - chậm thôi nhưng rất đúng. Cô bắt đầu gọi tôi là Moalem Soraya, cô giáo Soraya.

    Nàng lại cười:

    - Tôi biết, nghe có vẻ trẻ con, nhưng lần đầu tiên Ziba tự viết tên mình, tôi biết tôi sẽ chẳng bao giờ ao ước nghề gì khác ngoài nghề giáo viên. Tôi rất tự hào về cô ấy, và tôi cảm thấy đã làm được một việc gì đó xứng đáng, anh hiểu chứ?

    - Vâng, - tôi nói dối. Tôi nghĩ tới việc tôi đã dùng chữ nghĩa của tôi để giễu cợt Hassan như thế nào. Tôi đã trêu cậu ấy bằng những từ bóng bẩy mà cậu ấy không hiểu như thế nào.

    - Cha tôi muốn tôi vào trường luật. Mẹ tôi lại luôn luôn có những lời bóng gió về trường y, nhưng tôi sẽ là một giáo viên. Nghề này lương chẳng được bao nhiêu, nhưng đó là điều tôi muốn.

    - Mẹ tôi cũng là một giáo viên, - tôi nói.

    - Tôi biết, - nàng nói. - Mẹ tôi bảo tôi thế.

    Thế rồi mặt nàng đỏ ửng lên vì những gì nàng buột miệng nói ra, vì ngụ ý trong câu trả lời của nàng, rằng "những cuộc đàm thoại về Amir" đã xảy ra giữa họ, khi tôi không có mặt ở đó. Tôi phải cố gắng phi thường đề ngăn mình khỏi mỉm cười.

    - Tôi mang cho cô cái này. - Tôi moi cuộn giấy ghim bằng đinh kẹp ở túi sau ra. - Như đã hứa. - Tôi trao cho nàng một trong những truyện ngắn tôi viết.

    - Ồ, anh vẫn nhớ, - nàng nói, thật sự hớn hở - Cảm ơn anh!

    Tôi chẳng còn đủ thì giờ để ghi nhận lần đầu tiên nàng đã gọi tôi bằng "tu" 6chứ không bằng "Shoma" 7trịnh trọng, bởi vì bất chợt nụ cười của nàng héo tắt ngay. Mặt nàng biến sắc và mắt nàng chăm chú nhìn cái gì đó phía sau tôi. Tôi quay lại. Mặt đối mặt với tướng Taheri.

    - Amir jan. Người kể chuyện mong chờ của chúng ta. Thật là thú vị, - ông nói và khẽ mỉm cười.

    - Salaam, tướng quân Sahib, - tôi nói qua đôi môi đờ đẫn.

    Ông đi qua chỗ tôi về phía quầy hàng:

    - Một ngày đẹp trời biết mấy, phải không - Ông nói, ngón tay cái móc vào túi ngực áo vest, tay kia chìa về phía Soraya. Nàng đưa cho ông cuộn giấy.

    - Họ bảo tuần này trời sẽ mưa. Không tin được phải không? - Ông bỏ cuộn giấy vào thùng rác.

    Quay lại phía tôi và lịch sự đặt tay lên vai tôi. Chúng tôi đi mấy bước cùng nhau.

    - Cháu biết đấy, bachem ạ. Ta đã thấy hơi thích cháu. Cháu là một chàng trai nền nếp, ta thực sự tin vậy, nhưng, - ông thở dài và xua tay. - ngay cả những chàng trai nền nếp đôi khi cũng cần nhắc nhở. Vậy bổn phận của ta là phải nhắc nhở rằng cháu là một trong những người quý tộc ở cái chợ trời này. - Ông dừng lại. Đôi mắt vô cảm bám lấy mắt tôi.

    - Cháu thấy đấy, ai ai ở đây cũng đều là người đưa chuyện. - Ông cười, lộ hết cả hàm răng. - Chuyển giùm lời chào kính trọng của ta tới cha cháu, Amir jan.

    Ông buông tay ra. Lại cười tiếp.

    ° ° °

    - Có chuyện gì sao - Baba nói, ông đang nhận tiền bán con ngựa gỗ từ một bà đứng tuổi.

    - Không có gì, - tôi trả lời và ngồi xuống một chiếc máy thu hình cũ. Rồi tôi kể hết cho ông mọi chuyện.

    - Chà, Amir, - ông thở dài.

    Tôi cũng chẳng hơi sức đâu mà nghĩ ngợi nhiều về những gì đã xảy ra.

    Bởi vì cuối tuần, Baba bị cảm lạnh.

    Bắt đầu bằng một cơn ho khan và sổ mũi. Rồi ông hết số mũi nhưng vẫn còn ho. Ông thường ho vào một chiếc khăn tay, rồi gấp lại bỏ túi. Tôi lẵng nhẵng theo bắt ông đi kiểm tra, nhưng ông xua tay bảo tôi đi đi. Ông ghét bác sĩ và bệnh viện. Tôi biết, lần duy nhất ông đến bác sĩ là cái lần tôi bị bệnh sốt rét ở Ấn Độ.

    Thế rồi hai tuần sau, tôi bắt gặp ông trong phòng vệ sinh đang ho vào một miếng gạc, đờm vấy máu.

    - Bố làm thế này bao lâu rồi? - Tôi hỏi.

    - Bữa tối thế nào? - Ông nói.

    - Con sẽ đưa bố đi khám bác sĩ.

    Mặc dầu Baba là quản đốc tại trạm bán xăng dầu, chủ trạm đã không mua bảo hiểm sức khoẻ cho ông và Baba vốn tính bạt mạng, đã không đòi. Thế là tôi đem ông đến bệnh viện khu vực ở San Jose. Viên bác sĩ mắt húp híp vàng khè gặp chúng tôi, tự giới thiệu là bác sĩ nội trú năm thứ hai. Baba càu nhàu: "Trông hắn trẻ hơn con, và ốm yếu hơn ta". Bác sĩ nội trú gửi chúng tôi đi kiểm tra X-quang. Khi y tá gọi chúng tôi vào, bác sĩ nội trú đang điền một hồ sơ khám bệnh.

    - Mang giấy này đến bàn phía trước, - anh ta vừa nói vừa viết ngoáy vội.

    - Đây là giấy gì? - Tôi hỏi. - Giấy chuyển viện - Tiếp tục ngoáy ngoáy.

    - Để làm gì?

    - Viện phổi!

    - Thế là thế nào?

    Anh ta liếc nhìn tôi rất nhanh. Nâng kính lên. Lại tiếp tục ngoáy:

    - Ông ấy có một vết đen ở phổi phải. Tôi muốn họ kiểm tra xem sao.

    - Một vết đen? - Tôi hỏi, căn phòng chợt trở nên quá hẹp.

    - Ung thư à? - Baba vô tình hỏi thêm.

    - Có thể. Dẫu sao cũng chỉ là nghi ngờ thôi, - viên bác sĩ lúng búng.

    - Anh không thể nói rõ thêm cho chúng tôi ư? - Tôi hỏi.

    - Thực sự là không. Trước hết cần chụp cắt lớp, rồi qua bác sĩ chuyên khoa phổi. - Anh ta trao cho tôi giấy chuyển viện - Anh nói bố anh hút thuốc lá phải không?

    - Vâng.

    Anh ta gật đầu. Hết nhìn tôi lại nhìn Baba và ngược lại:

    - Hai tuần nữa họ sẽ gọi cho anh. Tôi muốn hỏi anh ta, tôi phải sống thế nào với cái từ "nghi ngờ" đó suốt hai tuần liền. Tôi phải ăn, đi làm, học hành thế nào? Làm sao anh ta có thể đuổi tôi về nhà với cái từ đó.

    Tôi cầm tờ giấy chuyển viện và trao lại nó cho họ. Đêm đó, tôi đợi cho tới khi Baba đã ngủ để gấp một mảnh chăn lại. Tôi dùng nó như tấm thảm quỳ đề cầu kinh. Cúi đầu sát đất, tôi đọc những câu kinh nửa nhớ nửa quên trong kinh Koran - nhưng câu kinh mà giáo sĩ đã bắt chúng tôi thề phải thuộc lòng ở Kabul - và cầu xin lòng nhân từ của Thượng đế mà tôi không chắc tồn tại. Lúc này tôi thèm được như giáo sĩ, thèm đức tin và sự chắc chắn của ông.

    Hai tuần trôi qua, không thấy ai gọi. Và khi tôi gọi lại, người ta bảo tôi họ đã đánh mất tờ giấy chuyển viện rồi. Tôi có chắc là tôi đã trao lại cho họ không? Họ bảo ba tuần nữa họ sẽ gọi. Tôi phản đối kịch liệt và mặc cả từ ba tuần xuống một tuần để chụp cắt lớp, và hai tuần để đi bác sĩ.

    Cuộc thăm khám của bác sĩ chuyên khoa phổi, Bác sĩ Schneider, đang diễn ra tốt đẹp thì Baba hỏi ông ấy gốc gác ở đâu, Bác sĩ Schneider nói nước Nga. Thế là Baba bỏ luôn.

    - Xin thứ lỗi cho chúng tôi, bác sĩ, - tôi vừa nói vừa kéo Baba sang một bên.

    Bác sĩ Schneider mỉm cười đứng lên, ống nghe vẫn trong tay.

    - Baba, con đã đọc lý lịch của Bác sĩ Schneider ở phòng chờ. Ông ấy sinh ở Michigan. Michigan! Ông ấy là người Mỹ. Mỹ hơn cả bố và con.

    - Ta không quan tâm hắn sinh ở đâu. Hắn là Roussi, - Baba nói, mặt cau có như đó là một từ bẩn thỉu. - Bố mẹ hắn là Roussi, ông bà hắn là Roussi. Ta thề trước vong hồn mẹ con, ta sẽ bẻ gãy cánh tay hắn, nếu hắn dám đụng vào ta.

    - Bố mẹ Bác sĩ Schneider chạy khỏi Shorawi, bố không thấy ư? Họ chạy trốn.

    Nhưng Baba không muốn nghe gì nữa. Đôi khi tôi nghĩ, thứ duy nhất ông yêu không kém sâu nặng so với người vợ thuở trước của ông chính là Afghanistan, cố hương của ông. Tôi đã suýt gào lên vì thất vọng. Thay vào đó, tôi thở dài và quay lại nói với ông Schneider:

    - Xin lỗi bác sĩ. Thế này thì chẳng được việc gì.

    Vị bác sĩ chuyên khoa phổi thứ hai, Bác sĩ Amani, là người Iran và Baba chấp nhận. Bác sĩ Amani, một người ăn nói nhỏ nhẹ, có bộ ria xoắn và mái tóc dài đốm bạc bảo chúng tôi ông phải xem xét lại kết quả chụp cắt lớp vi tính và sẽ phải thực hiện một thao tác gọi là nội soi khí quản để lấy một bệnh phẩm ở phổi phục vụ cho bệnh học. Ông sắp xếp việc đó vào tuần sau. Tôi cảm ơn ông, vừa giúp Baba ra khỏi phòng làm việc vừa nghĩ rằng bây giờ tôi phải sống một tuần liền với cái từ "bệnh phổi" này, một từ còn gở hơn cả từ "nghi ngờ". Giá mà có Soraya ở đó cùng với tôi.

    Té ra, giống như quỷ Satan, ung thư cũng có ba bảy đường. Cái của Baba gọi là "Khối u Tế bào quá sản." - Đã di căn. Không thể phẫu thuật. Baba yêu cầu bác sĩ Amani cho biết chẩn đoán bệnh. Ông Amani cắn môi, dùng một từ "nặng". Ông nói:

    - Tất nhiên còn hóa trị liệu. Nhưng sẽ chỉ giảm nhẹ đi thôi.

    - Như thế nghĩa là gì? - Baba hỏi.

    Bác sĩ Amani thở dài. - Nghĩa là sẽ không thay đổi được kết cục. Chỉ kéo dài thêm thôi.

    - Thế mới là một câu trả lời rõ ràng, bác sĩ Amani, cảm ơn ông, - Baba nói. - Nhưng không có hóa dược nào cho tôi hết. Vẫn cái nhìn quyết đoán trên gương mặt ông, như ngày nào ông buông cả một đống tem thực phẩm lên bàn của bà Dobbins.

    - Nhưng Baba..

    - Con đừng có thách thức ta ở chỗ công cộng, Amir. Đừng bao giờ. Con nghĩ con là ai?

    Cơn mưa mà tướng Taheri nói tới lúc ở chợ trời đã muộn mấy tuần, nhưng khi chúng tôi bước ra khỏi phòng khám của Bác sĩ Amani, những chiếc xe qua lại đã bắn tung toé nước bẩn lên hai bên lề đường. Baba châm một điếu thuốc. Ông hút suốt lúc ra xe và suốt đoạn đường về nhà.

    Lúc ông tra chìa khóa vào cửa gian sảnh, tôi nói:

    - Baba, con mong bố sẽ cho hóa dược một cơ may.

    Baba đút chùm chìa khóa vào túi, kéo tôi đến tránh mưa dưới mái bạt che của chung cư. Ông ngoáy bàn tay đang cầm thuốc lá vào ngực tôi:

    - Thôi đi, bố đã quyết định rồi.

    - Thế còn con, Baba? Con phải làm gì đây? - Tôi nói mà mắt rưng rưng.

    Một cái nhìn chán chường lướt qua bộ mặt đẫm nước mưa của ông. Vẫn là cái nhìn ông ném cho tôi, thuở còn nhỏ, khi tôi ngã, trầy xước hai đầu gối và khóc. Tiếng khóc đã dẫn đến cái nhìn ấy khi xưa, tiếng khóc dẫn đến nó lúc này.

    - Amir, con hai mươi hai tuổi rồi! Một người đàn ông trưởng thành! Con..

    Ông mở miệng, khép lại, rồi lại mở miệng, nghĩ lại. Trên đầu chúng tôi, mưa rơi bồm bộp trên mái bạt che.

    - Điều gì sẽ xảy ra với con, con nói xem nào? Tất cả những năm tháng vừa qua, chính là ta đã cố dạy con, đừng bao giờ phải hỏi câu hỏi đó.

    Ông mở cửa, quay lại tôi:

    - Còn một điều nữa. Không ai được biết việc này, con có nghe ta nói không? Không ai hết. Ta không muốn bất cứ ai thương hại.

    Rồi ông biến mất trong hành lang nhờ tối. Phần còn lại ngày hôm đó, ông hút thuốc liên tiếp trước máy thu hình. Tôi không biết ông thách thức ai hoặc cái gì. Tôi ư? Tiến sĩ Amani? Hay có thể Thượng đế mà ông chẳng bao giờ tin cả.

    Một thời gian, ngay cả ung thư cũng không thể ngăn ông đến chợ trời. Các ngày thứ Bảy chúng tôi lại có những chuyến đi vất vả đến các gara bán đồ cũ, Baba lái xe, tôi là hoa tiêu, và lại bày bán hàng vào những ngày Chủ nhật. Đèn đồng. Bao tay bóng chày, áo Jacket trượt tuyết có khóa đồng. Baba chào đón những người quen biết từ xứ sở cũ, và tôi cò kè với khách mua hàng tới một, hai đô la. Như thể mọi thứ đều quan trọng cả. Như thể cái ngày tôi sẽ trở nên côi cút sẽ không gần lại theo mỗi bận đóng quầy.

    Đôi khi tướng Taheri và bà vợ ghé thăm. Ông tướng vẫn thói xã giao, chào tôi bằng một nụ cười và đưa cả hai tay ra bắt tay tôi. Nhưng thái độ của Khanum Taheri có đôi chút dè dặt khác trước. Một sự dè dặt chỉ bị phá vỡ bởi những nụ cười kín đáo chán chường, và những cái nhìn lén lút khi ông tướng chú ý nhìn chỗ khác.

    Tôi vẫn nhớ giai đoạn đó như là một thời kỳ của nhiều cái "lần đầu" : Lần đầu tiên tôi nghe thấy Baba rên trong phòng tắm. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy máu trên gối của ông. Hơn ba năm điều hành trạm bán ga dầu, Baba chưa bao giờ phải đi khám bệnh. Lại một cái lần đầu khác. Đến lễ Halloween năm đó. Giữa trưa thứ Bảy Baba mệt quá nên ông phải ngồi đợi sau tay lái, khi tôi ra ngoài mặc cả mua đồ cũ. Đến Lễ Tạ ơn, ông gục trước buổi trưa. Khi những xe trượt tuyết xuất hiện cạnh nhưng bãi cỏ mặt tiền và tạo lớp tuyết giả lên những cây linh sam Douglas, Baba ở lại nhà, và tôi đơn độc lái chiếc VW lui lui tới tới trên bán đảo.

    Đôi khi tại chợ trời, những người Afghan quen biết bàn tán chuyện Baba sút cân. Lúc đầu họ biếu quà thăm hỏi. Nhưng những lời thăm hỏi và quà cáp ngừng lại khi việc sút cân vẫn không ngừng lại. Khi cân nặng tiếp tục rơi rụng. Và rơi rụng. Khi hai má ông hõm xuống, hai thái dương chảy ra. Và hai mắt thụt vào trong hốc mắt.

    Rồi một Chủ nhật lạnh trời ít lâu sau ngày tết đầu năm, Baba đang bán một chiếc chụp đèn cho một người đàn ông Philipin to bè, trong khi tôi đang bới trong chiếc VW để tìm chăn phủ chân cho ông.

    - Ê, có ai giúp ông này với! - Người đàn ông Philipin kêu toáng lên. Tôi ngoảnh lại thấy Baba nằm trên đất. Tay và chân đang giật giật.

    - Komak! - Tôi kêu lên. - Ai giúp với! - Tôi chạy đến với Baba. Ông đang sùi bọt mép, bọt mép đầm đìa râu ông. Đôi mắt trợn trừng trắng dã.

    Mọi người đổ xô đến chỗ chúng tôi. Tôi nghe thấy ai đó nói về cơn tai biến não. "Gọi 911". Tôi nghe tiếng bước chân rầm rập. Trời tối lại khi mọi người xúm xít quanh chúng tôi.

    Bọt mép Baba chuyển sang màu đỏ. Ông đang cắn lưỡi. Tôi quỳ xuống bên ông, ôm lấy hai cánh tay ông và nói, con đây, Baba, con đây, bố sẽ ổn thôi, con ở ngay đây. Như thể tôi có thể xoa dịu những cơn co giật của ông. Thuyết phục mọi người để Baba được ớ lại một mình. Tôi cảm thấy ươn ướt ở đầu gối. Thấy Baba đã vãi đái ra. Xì.. xì, Baba jan, con ở đây. Con trai bố ở ngay đây mà.

    Ông bác sĩ, râu bạc trắng và đầu hói trụi, kéo tôi ra khỏi phòng và bảo:

    - Tôi muốn cùng anh xem kỹ lại phim chụp cắt lớp của bố anh.

    Nói rồi, ông đặt mấy chiếc phim vào hộp chiếu ở hành lang, và chỉ bằng đầu tẩy bút chì lên ảnh khối u của Baba, như một cảnh sát hình sự chỉ những chân dung kẻ giết người cho gia đình nạn nhân xem. Óc Baba trên những tấm ảnh đó trông giống như mặt cắt ngang của quả óc chó lớn, lổn nhổn những hình giống quả bóng quần vợt.

    - Như anh thấy đấy, khối u đã di căn, - ông nói. - Ông ấy phải dùng nhiều thuốc tổng hợp để giảm bớt những chỗ phù nề trong não và những thuốc ngừa tai biến. Và tôi khuyên nên điều trị phóng xạ giảm đau. Anh có hiểu thế là thế nào không? Tôi nói tôi hiểu. Tôi đã trở nên quá quen với những cuộc nói chuyện về ung thư.

    - Thôi được rồi, - ông nói và kiểm tra lại máy nhắn tin của mình. - Tôi phải đi đây, nhưng anh có thể gọi cho tôi nếu anh muốn hỏi bất kỳ điều gì.

    - Cảm ơn ông.

    Suốt đêm ấy tôi ngồi trên một chiếc ghế, gần giường Baba.

    Sáng hôm sau, phòng đợi phía dưới đại sảnh chật ních người Afghan. Ông hàng thịt ở Newark. Một kỹ sư làm việc với Baba ở trại mồ côi của ông. Họ lần lượt vào, bày tỏ lòng kính trọng với ông một cách lặng lẽ. Mong ông chóng bình phục. Baba tỉnh dậy, chệnh choạng và mệt mỏi, nhưng đã tỉnh dậy.

    Giữa buổi sáng, tướng Taheri và bà vợ tới. Soraya đi theo. Chúng tôi liếc nhìn nhau, rồi nhìn đi chỗ khác ngay.

    Tướng Taheri cầm tay Baba.

    - Anh thế nào rồi, bạn tôi? Baba chỉ dây truyền tĩnh mạch treo trên cánh tay ông, khẽ mỉm cười. Tướng Taheri mỉm cười đáp lại.

    - Anh không được chuốc lấy gánh nặng vào mình. Cả gia đình anh, - Baba nói, giọng khàn khàn.

    - Làm gì có gánh nặng nào, - Khanum Taheri nói.

    - Không có gánh nặng nào hết. Mà quan trọng hơn, anh cần gì không? - Tướng Taheri nói. - Không gì hết ư? Hãy yêu cầu tôi như anh yêu cầu một người anh em ruột thịt.

    Tôi nhớ Baba một lần đã nói về người Pashtun. Có thể chúng ta ương ngạnh, và ta biết chúng ta quá kiêu hãnh, nhưng lúc cần thiết, hãy tin ta, không có ai hơn một người Pashtun ở bên con.

    Baba lắc đầu trên gối:

    - Anh đến đây làm tôi thấy sung sướng quá.

    Ông tướng mỉm cười và xiết chặt bàn tay của Baba:

    - Cháu thế nào, Amir jan? Cháu có cần gì không?

    Cách ông đang nhìn thẳng vào tôi, lòng tốt trong đôi mắt ông..

    - Không, cảm ơn bác. Tướng quân Sahib, cháu..

    Cổ họng tôi nghẹn lại. Mắt tôi ràn rụa. Tôi vội lao ra ngoài.

    Tôi khóc trong hành lang, bên cái hộp chiếu phim mà đêm trước tôi đã nhìn thấy mặt kẻ giết người.

    Cánh cửa phòng Baba khẽ mở và Soraya bước ra. Nàng đứng cạnh tôi. Nàng mặc áo cộc tay màu xám và quần jeans. Tóc nàng xõa xuống. Tôi thật sự muốn được an ủi trong vòng tay nàng.

    - Tôi rất tiếc, Amir, - nàng nói. - Cả nhà tôi đều biết có điều gì đó không ổn, nhưng chúng tôi không hề biết đến mức độ này.

    Tôi lấy ống tay áo lau mắt:

    - Ông không muốn cho ai biết cả.

    - Anh có cần gì không?

    - Không, - tôi cố mỉm cười. Nàng đặt tay lên tay tôi. Lần đầu tiên chúng tôi chạm vào nhau. Tôi nắm lấy bàn tay nàng. Đưa lên mặt tôi, mắt tôi. Tôi cứ để mặc như thế. - Cô nên quay vào trong thì hơn, nếu không cha cô sẽ để ý đến tôi.

    Nàng mỉm cười và gật đầu.

    - Tôi sẽ vào.

    Nàng quay gót.

    - Soraya?

    - Dạ?

    - Tôi rất sung sướng vì cô đã đến. Điều đó có ý nghĩa.. rất nhiều với tôi.

    Hai ngày sau họ cho Baba xuất viện. Họ đưa một chuyên gia được gọi là bác sĩ chuyên khoa phóng xạ trị ung thư đến để thuyết phục Baba điều trị phóng xạ. Baba từ chối. Họ lại cố thuyết phục tôi để tôi thuyết phục Baba. Nhưng tôi đã thấy cái nhìn trên gương mặt của Baba. Tôi cảm ơn họ, ký vào giấy xuất viện và mang Baba về nhà trong chiếc xe Ford Torino của tôi.

    Đêm đó Baba nằm trên trường kỷ, một chiếc chăn len đắp lên người. Tôi mang cho ông trà nóng và hạt hạnh nhân rang. Hai cánh tay tôi ôm ngang lưng ông và kéo ông ngồi dậy quá dễ. Có cảm giác bả vai ông như một cánh chim dưới ngón tay tôi. Tôi kéo chăn lên trên ngực ông, ở xương ngực lộ ra dưới lớp da mỏng và sạm lại.

    - Con có thể làm gì khác nữa cho Baba không?

    - Không, bachem. Cảm ơn con.

    Tôi ngôi bên cạnh ông:

    - Vậy thì con không biết, liệu bố có làm một điều gì đấy cho con không, nếu bố chưa quá kiệt sức?

    - Điều gì?

    - Con muốn bố đi Khastegari. Con muốn bố hỏi con gái tướng Taheri cho con.

    Đôi môi khô héo của Baba rặn ra một nụ cười. Một đốm xanh trên chiếc lá héo:

    - Con chắc chứ?

    - Chắc hơn bất cứ điều gì con từng tin chắc.

    - Con đã nghĩ kỹ chưa?

    - Balay 8, Baba..

    - Vậy đưa điện thoại đây cho bố. Cả cuốn sổ tay của bố nữa.

    Tôi chớp chớp mắt:

    - Ngay bây giờ?

    - Vậy bao giờ?

    Tôi cười:

    - Ok.

    Tôi đưa điện thoại cho ông và cuốn sổ nhỏ bìa đen Baba ghi vội những số điện thoại của bạn bè. Ông tra số của gia đình Taheri. Bấm số. Đưa ống nghe lên tai. Tim tôi như múa balê trong lồng ngực.

    - Jamila jan phải không? - Salaam alaykum, - ông nói. Ông giới thiệu tên. Ngừng. - Đỡ hơn nhiều, cảm ơn chị. Anh chị thật tử tế đã đến thăm. - Ông lắng nghe một chốc. Gật đầu. - Tôi sẽ ghi nhớ, cảm ơn chị. Tướng quân Sahib có nhà không ạ - Ngừng. - Cảm ơn chị.

    Ông nháy mắt với tôi. Chẳng hiểu sao tôi muốn cười thật to. Hoặc gào lên. Tôi đưa nắm tay chặn miệng và cắn chặt.

    Baba khẽ cười hắt ra đằng mũi.

    - Tướng quân Sahib, Salaam alaykum..

    - Vâng đỡ hơn nhiều lắm.. Anh thật tốt. Tướng quân Sahib, tôi gọi để hỏi anh, có thể cho phép tôi đến thăm anh và KhanumTaheri sáng mai không. Một chuyện tôn nghiêm.. Vâng.. Mười một giờ là đẹp nhất. Mai nhé. Khoda hãfez. Tạm biệt.

    Ông cúp máy. Chúng tôi nhìn nhau. Tôi bật cười khúc khích. Ông cũng khúc khích cười theo.

    Baba dấp nước vào tóc và chải hất ra sau. Tôi giúp ông mặc một chiếc áo sơ mi trắng sạch và thắt cà vạt cho ông, thấy cổ áo ông lỏng ra đến năm phân. Tôi nghĩ đến những khoảng trống ông để lại phía sau khi ông ra đi, và tôi bắt mình phải nghĩ về một điều khác. Ông không ra đi. Chưa. Và hôm nay là một ngày để nghĩ những điều tốt lành. Chiếc áo jacket trong bộ lễ phục màu nâu của ông, bộ ông mặc ngày tôi tốt nghiệp, lõng thõng trên người - Baba đã nhẽo ra quá nhiều không còn mặc vừa nữa. Tôi phải xắn hai ống tay lên. Tôi cúi xuống buộc dây giày cho ông.

    Gia đình Taheri sống trong một ngôi nhà một tầng mái bằng lại khu dân cư ở Fremont, nơi có rất đông người Afghan. Ngôi nhà có những cửa sổ nhô ra, mái dốc, tiền môn khép kín, trên đó tôi thấy những chậu hoa Thiên trúc quỳnh. Chiếc xe chở hàng màu xám của ông tướng đậu ở lối xe vào.

    Tôi đỡ Baba ra khỏi chiếc Ford, rồi lại lui vào phía sau tay lái. Ông dựa người vào cửa xe:

    - Cứ về nhà, một giờ nữa bố sẽ gọi cho con.

    - Yên tâm. Baba, - tôi nói. - Chúc bố may mắn.

    Ông mỉm cười.

    Tôi lái xe đi. Trong gương chiếu hậu, Baba đang loạng choạng bước lên lối xe tới cửa nhà ông Taheri, để làm cái nghĩa vụ cuối cùng của người cha.

    Tôi đi đi lại lại trong phòng khách căn hộ của chúng tôi đợi Baba gọi. Mười lăm bước chiều dài. Mười bước rưỡi chiều rộng. Nhỡ ông tướng bảo không thì sao? Nhỡ ông ấy ghét tôi thì sao? Tôi vẫn bước vào bếp kiểm tra chiếc đồng hồ hẹn giờ. Chuông điện thoại reo đúng trước buổi trưa.

    - Thế nào bố?

    - Ông tướng nhận lời.

    Tôi thở phào. Ngồi phịch xuống. Hai tay tôi run run.

    - Ông ấy nhận rồi ư?

    - Ừ, nhưng Soraya jan ở trên gác trong phòng riêng của con bé. Con bé muốn nói chuyện với con trước đã.

    - Được thôi ạ.

    Baba nói với ai điều gì đó và có tiếng cạch hai lần khi ông dập máy.

    - Amir phải không? - Giọng của Soraya.

    - Salaam.

    - Bố em nói đồng ý.

    - Anh biết, - tôi nói. Tôi đổi tay cầm máy. Tôi đang mỉm cười, - Anh rất hạnh phúc. Anh không biết nói gì nữa.

    - Em cũng hạnh phúc, Amir. Em.. không thể tin nổi điều này lại xảy ra.

    Tôi cười:

    - Anh biết.

    - Nghe đây, - nàng nói. - Em muốn nói với anh một điều. Một điều anh phải biết trước khi..

    - Anh không quan tâm điều gì hết.

    - Anh cần phải biết. Em không muốn chúng ta khởi đầu bằng những bí mật. Và em muốn anh nghe từ em thì hơn.

    - Nếu như thế khiến em cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng sẽ không làm thay đổi điều gì hết.

    Một quãng dừng lâu ở đầu kia.

    - Khi gia đình em sống ở Virginia, em chạy trốn cùng một người đàn ông Afghan. Lúc đó em mười tám.. dễ nổi loạn.. ngốc nghếch, và.. hắn nghiện ma tuý.. chúng em đã sống chung với nhau gần một tháng. Mọi người Afghan ở bang Virginia đều bàn tán về chuyện đó. Cuối cùng Padar cũng tìm thấy chúng em. Ông hiện ra ở cửa và bắt em phải về nhà. Em phát cuồng. Hét lên. Kêu thét. Rằng em ghét ông.. Dẫu sao em cũng đã về nhà, và.. - Nàng khóc - Tha lỗi cho em.

    Tôi nghe thấy nàng buông máy. Hỉ mũi.

    - Buồn thay. - Nàng tiếp tục, giọng khàn đi. - Khi em về đến nhà, em thấy mẹ em bị một cơn đột quỵ, bên phải mặt mẹ bị liệt và.. Em cảm thấy vô cùng tội lỗi. Mẹ không đáng phải như vậy. Ít lâu sau Padar chuyển gia đình tới California. Một lúc im lặng tiếp theo.

    - Rồi bố em và em thế nào? - Tôi hỏi.

    - Bố con em vẫn luôn có sự khác biệt, bây giờ vẫn thế, nhưng em biết ơn ông đã đến cứu em hôm đó. Em thực sự tin ông đã cứu em. - Nàng dừng lại. - Vậy, những gì em nói có làm anh băn khoăn không?

    - Một chút, - tôi nói. Tôi có bổn phận phải thành thật lại với nàng. Tôi không thể dối nàng mà bảo rằng lòng kiêu hãnh của tôi, Iftikhar 9 của tôi, không bị chạm nọc trước sự thực nàng đã từng cùng một người đàn ông, trong khi đó tôi chưa hề mang một người đàn bà nào lên giường. Tôi có băn khoăn một chút, nhưng tôi đã cân nhắc điều đó nhiều lần mấy tuần liền trước khi yêu cầu Baba đến khastegari. Và vào phút cuối, câu hỏi luôn trở lại với tôi là thế này: Làm sao tôi có thể là loại người đi trừng phạt nghiêm khắc ai đó về quá khứ của họ?

    - Nó có làm anh băn khoăn đến mức thay đổi ý định không?

    - Không. Soraya. Không một chút nào, - tôi nói. - Không gì em nói làm thay đổi bất cứ điều gì hết. Anh muốn chúng ta cưới nhau.

    Nàng òa khóc.

    Tôi thèm được như nàng. Bí mật của nàng đã hết. Đã nói ra. Giải quyết rồi. Tôi mở miệng và suýt đã kể cho nàng nghe tôi đã phản hội Hassan, lừa dối, đuổi cậu ấy đi, và huỷ hoại tình thân thiết bốn mươi năm giữa Baba và Ali như thế nào. Nhưng tôi đã không nói. Tôi ngờ rằng về nhiều mặt Soraya là người tốt hơn tôi. Lòng can đảm chính là một trong số đó.

    * * *1 Ahmaq: Thằng ngốc.

    2 Mojarad: Trai tân, thanh niên chưa vợ.

    3 Wooooy: Tiếng cảm thán, tỏ ý chê trách, miệt thị.

    4 Mohtaram: Gái chưa chồng.

    5 Alef beh: Sách vỡ lòng ABC.

    6 "Tu" : Tiếng xưng hô thân mật để gọi người đang nói chuyện với mình, có lẽ bắt nguồn từ "Tu" trong tiếng Pháp.

    7 Shoma: Tiếng xưng hô xã giao để gọi người đang nói chuyện với mình.

    8 Balay: Như từ OK, được rồi, tốt thôi, yên tâm đi.

    9 Iftikhar: Cũng có nghĩa lòng kiêu hãnh.
     
  4. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG XIII



    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tối hôm sau khi chúng tôi đến gia đình ông Taheri - để chính thức ngỏ lời bằng lafz 1 - tôi phải đậu xe ở bên kia phố. Lối vào nhà chật cứng những xe. Tôi mặc một bộ đồ màu xanh nước biển mà tôi đã mua hôm trước, sau khi tôi chở Baba đến khastegari. Tôi kiểm tra lại cà vạt trong gương chiếu hậu.

    - Con trông thật đẹp trai, - Baba nói.

    - Cảm ơn Baba. Bố có ổn không? Bố có cảm thấy đủ sức làm việc này không? - Đủ sức hở? Đây là ngày hạnh phúc nhất đời bố, Amir - ông vừa nói vừa mỉm cười mệt mỏi. Tôi nghe rõ tiếng bàn tán phía sau cửa, tiếng cười, tiếng nhạc Afghan chơi nhẹ nhàng - nghe như bản ghazal 2 cổ điển của Ustad Sarahang. Tôi bấm chuông. Một khuôn mặt ló ra khỏi rèm cửa sổ tiền sảnh và biến mất. "Họ đến đây rồi!" Tôi nghe tiếng một phụ nữ nói. Tiếng rì rào bàn tán dừng lại. Ai đó tắt nhạc. Khanum Taheri ra mở cửa. Bà nói, mắt sáng ngời:

    - Salaam Alaykum!

    Bà đã uốn tóc, tôi thấy rõ và mặc bộ đầm đen lịch sự dài đến gót chân. Khi tôi bước vào tiền sảnh, mắt bà ứa lệ, và bà nói:

    - Amir jan, con còn chưa vào trong nhà mà ta đã khóc rồi.

    Tôi đặt một nụ hôn lên tay bà, như Baba đã dạy tôi đêm trước. Bà dẫn chúng tôi qua một hành lang đèn thắp sáng trưng vào phòng khách. Trên những bức tường ốp gỗ, tôi thấy những tấm ảnh của những người sẽ trở thành gia đình mới của tôi: Khanum Taheri còn trẻ, tóc uốn búp và ông tướng, hậu cảnh là thác Niagara. Khanum Taheri trong bộ váy áo dệt liền. Ông Taheri mặc áo jacket ôm sát có ve cổ hẹp, cravát thanh nhã, tóc dày đen nhánh, Soraya dợm bước lên một con tàu gỗ trò chơi ở hội chợ, đang vẫy tay và mỉm cười, ánh sáng lấp lánh trên hàm răng trắng bóng của nàng. Một tấm ảnh ông tướng bảnh bao trong bộ quân phục, đang bắt tay quốc vương Hussein của Jordan. Một bức chân dung của Zahir Shah.

    Phòng khách đông khoảng hai chục khách, ngồi trên những chiếc ghế tựa dọc theo các bức tường. Khi Baba bước vào, mọi người đều đứng lên. Chúng tôi đi vòng quanh phòng, Baba từ từ đi trước, tôi theo sau, bắt tay và chào các vị khách. Ông tướng - vẫn trong bộ đồ xám - và Baba ôm hôn nhau, lịch sự vỗ nhẹ vào lưng nhau. Họ chào nhau Salaam bằng một giọng kính cẩn, khẽ khàng.

    Ông tướng ôm vòng tôi hết cả hai cánh tay và cười xởi lởi như muốn nói, - nào, bây giờ thì chính thức - theo tục lệ của người Afghan - để làm điều này rồi, bachem. - Chúng tôi hôn lên má nhau ba lần.

    Chúng tôi ngồi trong căn phòng đông kín người. Baba và tôi cạnh nhau, đối diện với ông tướng và bà vợ. Tiếng thở của Baba dồn dập hơn đôi chút, ông không ngừng lau mồ hôi trên trán và da đầu bằng chiếc khăn tay. Ông thấy tôi đang nhìn ông và cười gượng. - Bố không sao, - ông nhăn nhó.

    Để giữ đúng phong tục, Soraya không có mặt.

    Tiếp theo là nhưng chuyện tán gẫu tầm phào cho tới khi ông tướng hắng giọng. Căn phòng trở lại yên tĩnh và ai nấy đều nhìn xuống tay mình. Nghiêm trang, ông tướng gật đầu ra hiệu về phía Baba.

    Baba cũng hắng giọng. Ông bắt đầu nói, ông không thể nói hết một câu mà không dừng lại thở:

    - Thưa Tướng quân Sahib, Khanum Jamila jan.. thật là một vinh dự lớn lao cho con trai tôi và tôi.. được đến nhà các vị hôm nay. Các vị.. là những con người đáng kính trọng.. thuộc những gia đình kiệt xuất và danh giá và.. dòng dõi kiêu hãnh. Tôi đến đây không vì điều gì khác ngoài ihtiram tối thượng.. sự kính trọng nhất đối với các bậc tiền bối gia đình các vị, và tưởng nhớ.. tổ tiên các vị. - Ông dừng lại. Lấy hơi. Quệt lông mày. - Amir jan là con trai duy nhất của tôi.. đứa con duy nhất của tôi, và cháu luôn là đứa con trai hiếu thảo của tôi. Tôi mong cháu sẽ tỏ ra.. xứng đáng với lòng tốt của các vị. Tôi ngỏ lời xin các vị đem lại vinh dự cho Amir jan và tôi.. và chấp nhận con trai tôi vào trong gia đình các vị.

    Ông tướng gật đầu lịch thiệp. Ông nói:

    - Chúng tôi vinh dự đón chào con trai của một người như ông vào gia đình chúng tôi. Danh tiếng của ông còn đến trước ông. Tôi là một người nghiêng mình ngưỡng mộ ông ở Kabul và vẫn còn giữ nguyên lòng ngưỡng mộ đó tới ngày hôm nay. Chúng tôi rất vinh hạnh được gia đình ông thông gia với chúng tôi.

    - Amir jan, về phần con, ta chào đón con vào gia đình ta như một đứa con trai, như là người chồng của con gái ta, noor 3 của mắt ta. Nỗi đau của con cũng sẽ là nỗi đau của chúng ta, niềm vui của con là niềm vui của chúng ta. Ta hy vọng con sẽ xem Khala Jamila và ta như cha mẹ thứ hai của con, và ta nguyện cầu cho hạnh phúc của con Soraya jan yêu quý của chúng ta. Cả hai con hãy nhận lời chúc phúc của chúng ta.

    Mọi người vỗ tay, và với tín hiệu đó, tất cả đều quay đầu về phía hành lang. Giờ phút mà tôi mong đợi.

    Cuối cùng Soraya xuất hiện. Trong áo váy Afghan truyền thống màu nho lộng lẫy với hai ống tay dài và đồ nữ trang bằng vàng. Tay của Baba nắm lấy tay tôi, xiết chặt. Khanum Taheri tràn trề nước mắt. Soraya chậm rãi bước lại phía chúng tôi, theo sau là một đoàn phù dâu gồm những họ hàng phụ nữ.

    Nàng hôn tay cha tôi. Cuối cùng ngồi xuống cạnh tôi, mắt nhìn xuống. Tiếng vỗ tay ran lên.

    Theo truyền thống, gia đình Soraya sẽ phải tổ chức tiệc đính hôn, Shirini khori, còn gọi là Lễ Ăn Kẹo. Rồi giai đoạn đính hôn đấy thường kéo dài vài tháng. Tiếp đến lễ cưới phải do Baba gánh vác. Tất cả chúng tôi đều đồng ý là Soraya và tôi sẽ bỏ qua Shirini khori. Ai cũng biết lý do, vì vậy chẳng ai phải nói hẳn ra rằng: Baba chẳng còn sống được mấy tháng nữa.

    Soraya và tôi không bao giờ cùng nhau đi ra ngoài trong khi tiến hành chuẩn bị cho lễ cưới - do chúng tôi còn chưa cưới, thậm chí không có cả Shirini khori - đi cùng nhau như thế bị xem là không hợp lẽ. Vì vậy tôi đành phải đi cùng với Baba qua nhà ông Taheri ăn tối. Ngồi đối diện với Soraya qua bàn ăn. Tưởng tượng ra khi đầu nàng gối lên ngực mình, mùi tóc nàng sẽ như thế nào. Hôn nàng. Làm tình với nàng.

    Baba tiêu ba lăm ngàn đô la, gần hết khoản tiền ông dành dụm cho awrossi, lễ cưới. Ông thuê một phòng tiệc lớn ở Fremont - chủ nhà hàng biết ông từ ngày ở Kabul nên đã giảm giá đáng kể cho ông. Baba phải thuê dàn nhạc cho đám cưới của chúng tôi, và chi tiền cho chiếc nhẫn kim cương tôi chọn. Ông mua cho tôi bộ vest đuôi tôm và bộ áo quần truyền thống màu xanh cho lễ nika - lễ nguyện thề. Mọi công cuộc chuẩn bị tới tấp đáng sợ cho đêm cưới - may mắn sao phần lớn đều do Khanum Taheri và bạn bè bà đảm nhiệm - tôi chỉ còn nhớ được một chút không đáng kể.

    Tôi còn nhớ lễ nika của chúng tôi. Chúng tôi ngồi quanh một chiếc bàn. Soraya và tôi mặc màu xanh lục - màu của đạo Hồi, nhưng cũng là màu của mùa xuân và sự khởi đầu mới. Tôi đóng bộ, Soraya (người phụ nữ duy nhất tại chiếc bàn đó) mặc áo váy dài tay, che mạng. Baba, TướngTaheri (lần này trong bộ vest đuôi tôm) và mấy người cậu của Soraya cũng có mặt tại chiếc bàn đó. Soraya và tôi nhìn xuống, nghiêm trang, kính cẩn, chỉ dám liếc trộm nhau. Ông giáo sĩ hỏi những người làm chứng và đọc kinh Koran. Chúng tôi nói nhưng lời nguyện thề. Ký vào giấy chứng hôn. Một trong những người cậu của Soraya đến từ Virginia, ông Sharif jan, em trai của Khanum Taheri, đứng lên và hắng giọng. Soraya bảo tôi rằng, ông đã sống ở nước Mỹ hơn hai mươi năm. Ông làm việc ở Sở Nhập cư và Nhập quốc tịch, còn có một bà vợ Mỹ. Ông cũng là một nhà thơ. Một người nhỏ nhắn với bộ mặt giống mặt chim, tóc mềm như tơ. Ông đọc một bài thơ dài tặng Soraya, ghi vội trên một tờ giấy của khách sạn. Khi ông đọc xong mọi người reo lên: "Wah wah, chà chà, Sharif jan."

    Tôi còn nhớ lúc ấy, trong bộ lễ phục, tôi bước về phía diễn đài, Soraya trong chiếc pari 4 che mặt màu trắng, tay chúng tôi khoác lấy nhau. Baba tập tễnh bên tôi, ông tướng và bà vợ bên cạnh con gái mình. Một đoàn phù đâu, phù rể gồm chú bác cô dì, anh chị em họ theo sau, lúc tôi đi suốt căn phòng lớn, rẽ qua một biển khách dự đang hoan hô và nheo mắt vì đèn máy ảnh. Một người anh họ của Soraya, con trai ông Sharif jan, giơ cao cuốn kinh Koran trên đầu chúng tôi khi chúng tôi tiến dần lên. Bài ca hôn lễ, ahesta boro trầm trầm dâng lên, vẫn bài ca mà tên lính Nga tại trạm kiểm soát thác Mahipar đã hát, cái đêm mà Baba và tôi rời Kabul:

    Biển buổi sáng thành một chiếc chìa khoávà ném xuống giếng, Lên từ từ, vầng trăng yêu dấu của ta, lên từ từ. Hãy để cho mặt trời buổi sáng quên dậy ở phương Đông, Lên từ từ, vầng trăng yêu dấu của ta, lên từ từ.

    Tôi nhớ đang ngồi trên chiếc sofa đặt trên diễn đài như một cái ngai vàng, tay Soraya trong tay tôi, trong khi khoảng ba trăm gương mặt nhìn lên chúng tôi. Chúng tôi làm Ayena Masshaf 5, tức họ cho chúng tôi một chiếc gương và ném một chiếc khăn trùm đầu lên đầu chúng tôi, như thế chúng tôi sẽ được riêng hai đứa nhìn nhau trong gương. Nhìn vào khuôn mặt đang mỉm cười của Soraya trong chiếc gương ấy, trong cái khoảnh khắc riêng tư dưới khăn trùm đầu, lần đầu tiên tôi thì thào với nàng rằng tôi yêu nàng. Má nàng đỏ bừng lên, như màu lá móng.

    Tôi hình dung lại các đĩa thức ăn đầy màu sắc, chopan kabob, sholeh-goshti 6 và xôi có màu cam dại. Tôi thấy Baba ngồi giữa hai chúng tôi trên chiếc ghế sofa ấy và mỉm cười. Tôi nhớ những con người mồ hôi đầm đìa nhảy điệu attan 7 truyền thống theo một vòng tròn, bật người lên, xoay tít mỗi lúc một nhanh theo nhịp cuồng nhiệt của cặp trống cơm, cho tới khi tất cả trừ một hai người rớt khỏi vòng vì kiệt sức. Tôi nhớ tôi chỉ mong chú Rahim Khan có mặt ở đó.

    Và tôi nhớ mình tự hỏi không biết liệu Hassan cũng đã cưới chưa. Nếu cưới rồi thì cậu ấy sẽ nhìn thấy khuôn mặt của ai trong chiếc gương dưới chiếc khăn trùm đầu? Bàn tay nhuộm lá móng của ai cậu đang cầm?

    Khoảng hai giờ sáng, tiệc cưới chuyển từ phòng đại tiệc về căn hộ của Baba. Trà một lần nữa lại tràn trề và nhạc được chơi cho tới khi láng giềng phải gọi cảnh sát. Quá khuya đêm đó, mặt trời chỉ chưa đầy một giờ nữa sẽ mọc và cuối cùng khách khứa cũng ra về. Lần đầu tiên Soraya nằm cùng tôi. Suốt đời tôi, tôi chỉ quanh quẩn với đàn ông. Đêm đó, tôi mới khám phá ra sự dịu dàng của một người đàn bà.

    Chính Soraya là người đề nghị chuyển đến ở cùng Baba và tôi. Tôi nói:

    - Anh tưởng, có lẽ em muốn chúng ta có một chỗ ở riêng.

    Nàng đáp:

    - Với Kaka jan đang ốm yếu như thế này ư? Mắt nàng như muốn bảo tôi không còn cách nào khác để bắt đầu cuộc sống gia đình. Tôi hôn nàng:

    - Cảm ơn em.

    Soraya tình nguyện chăm sóc cha tôi. Nàng pha trà và làm bánh nướng vào buổi sáng cho ông, đỡ ông ra khỏi giường và vào giường. Nàng mang thuốc giảm đau cho ông, giặt quần áo cho ông, đọc cho ông nghe phần tin tức quốc tế trên tờ nhật báo vào mỗi buổi chiều. Nàng nấu cho ông những món ăn ông ưa thích, món khoai tây nấu shorwa 8, dẫu hiếm khi ông ăn nổi quá vài thìa đầy, và dắt ông ra khỏi phòng đi bộ một quãng quanh dãy nhà. Rồi khi ông liệt giường, mỗi tiếng đồng hồ nàng lại lật người ông để khỏi bị hoại thư.

    Một hôm tôi từ hiệu thuốc mua ít viên moóc phin giảm đau cho Baba về nhà. Vừa kịp đóng cửa lại, tôi bắt gặp Soraya nhìn rất nhanh qua thứ gì đó dưới tấm chăn của Baba. Tôi nói:

    - Này, anh thấy rồi nhé! Hai người đang làm gì vậy?

    - Làm gì đâu, - nàng mỉm cười nói.

    - Nói dối. - Tôi lật chăn Baba lên. - Cái gì đây?

    Tôi nói, dẫu vừa nhặt lên cuốn sổ bọc da tôi đã biết. Tôi vạch ngón tay dọc theo mép sách mạ vàng. Tôi vẫn nhớ pháo hoa cái đêm chú Rahim Khan cho tôi cuốn sổ, đêm sinh nhật lần thứ mười ba của tôi, những luồng sáng xẹt xẹt và nổ bùng thành những bó hoa đỏ, xanh, vàng.

    - Em không thể tin được anh có thể viết như thế. - nàng nói.

    Baba nhích đầu ra khỏi gối:

    - Bố bảo nó làm vậy đấy. Bố mong con đừng để ý.

    Tôi đưa cuốn sổ lại cho Soraya và rời khỏi phòng. Baba ghét khi tôi khóc.

    Một tháng sau đám cưới, ông bà Taheri, ông Sharif, bà Suzy và mấy bà cô, bà dì của Soraya đến căn hộ của chúng tôi ăn tối. Soraya làm món sabzi challow, gạo trắng nấu với rau bina và thịt cừu non. Sau bữa tối, tất cả chúng tôi uống chè xanh và chơi bài theo nhóm bốn người. Soraya và tôi chơi cùng ông Sharif và bà Suzy, vợ ông, trên chiếc bàn cafe, gần cái sofa Baba đang nằm đắp tấm chăn len. Baba nhìn tôi đang đùa với ông Sharif, nhìn tôi và Soraya đang ngoéo tay nhau, nhìn tôi giật mớ tóc uốn cong bỏ lơi của nàng. Tôi có thể thấy nụ cười thẳm sâu trong lòng Baba, cũng mênh mông như bầu trời những đêm khi những cây bạch dương run rẩy và tiếng dế kêu âm vang khắp khu vườn. Đúng trước nửa đêm, Baba bảo chúng tôi đỡ ông lên giường. Soraya và tôi quàng hai cánh tay ông lên vai chúng tôi và ôm lấy lưng ông. Khi chúng tôi đặt ông nằm xuống, ông bắt Soraya tắt đèn ngủ.

    Ông bảo chúng tôi ngả người xuống và hôn chúng tôi mỗi người một cái.

    - Con sẽ mang moóc phin và cốc nước đến, Kaka jan, - Soraya nói.

    - Đêm nay không cần, - ông nói. - Đêm nay không đau đâu.

    - Vâng ạ. - nàng đáp lời. Nàng kéo chăn lên cho ông. Chúng tôi khép cửa lại.

    Baba không bao giờ thức dậy nữa.

    Mọi người đỗ xe đầy bãi xe tại nhà thờ Hồi giáo ở Hayward. Trên một cánh đồng trụi cỏ phía sau tòa nhà, những chiếc xe bốn chỗ và những chiếc SUV đỗ chặt cứng các điểm đỗ tạm thời. Một số người phải lái qua ba, bốn dãy nhà ở phía Bắc nhà thờ để tìm chỗ. Khu vực dành cho đàn ông của nhà thờ là một phòng vuông rộng lớn, những tấm thảm nhỏ Afghan và những tấm đệm mỏng trải song song thành hàng. Đàn ông xếp hàng đi vào căn phòng, giày để ngoài cửa, ngồi 140 khoanh chân trên những tấm đệm. Một giáo sĩ hát surrah 9từ kinh Koran trước micro. Tôi ngồi bên cửa theo phong tục quy định cho gia đình người đã khuất. Tướng Taheri ngồi cạnh tôi. Qua cánh cửa mở rộng, tôi có thể nhìn thấy những dòng xe ùn ùn kéo tới, ánh nắng lấp lánh trên kính chắn gió. Họ thả khách đi xe xuống, những người đàn ông mặc đồ đen, phụ nữ mặc áo dài đen, đầu đội những khăn trắng truyền thống hijab 10.

    Vì tiếng cầu nguyện từ kinh Koran vang dội khắp căn phòng, tôi lại nghĩ tới câu chuyện cũ Baba vật nhau với một con gấu đen ở Baluchistan. Baba đã vật nhau với gấu suốt cuộc đời mình. Mất người vợ trẻ. Một mình nuôi con trai. Rời bỏ quê hương yêu dấu của mình, watan tuổi xanh của mình. Nghèo khổ. Bị khinh miệt. Cuối cùng, một con gấu nữa tới mà ông không thể thắng nổi. Nhưng ngay cả như thế, ông đã thua trong những hoàn cảnh của chính mình.

    Sau mỗi một vòng những người cầu nguyện, những tốp người đến chia buồn xếp hàng lại và chào tôi khi đi ra. Theo đúng nghĩa vụ, tôi bắt tay họ. Nhiều người trong số họ tôi hầu như không biết. Tôi lễ phép mỉm cười, cảm ơn tất cả về những điều họ cầu chúc, lắng nghe bất cứ điều gì họ nói về Baba.

    -.. giúp tôi xây nhà ở Taimani..

    -.. ban phúc lành cho ông..

    -.. không một ai khác chịu giúp và ông đã cho tôi vay..

    -.. kiếm cho tôi một công việc.. hầu như không biết tôi..

    -.. như một người anh của tôi.

    Lắng nghe họ nói, tôi nhận ra tôi là ai, là cái gì, đến mức nào, đã được định rõ bởi Baba và những dấu ấn ông để lại trên cuộc đời mọi người. Cả cuộc đời tôi, tôi đã là "con trai Baba". Giờ ông ra đi rồi. Baba không thể chỉ đường cho tôi nữa. Tôi sẽ phải tự tìm lấy nó.

    Nghĩ đến việc đó khiến tôi kinh hoàng.

    Lúc trước tại khu mộ nhỏ của người Hồi giáo ở nghĩa trang, tôi đã chứng kiến người ta hạ Baba xuống một cái hố. Còn ông giáo sĩ đã tới mức phải tranh cãi với một người đàn ông về việc đâu mới là ayat chính xác của kinh Koran để đọc tại mộ chí. Sự việc có thể đã trở nên nghiêm trọng nếu tướng Taheri không can thiệp. Giáo sĩ chọn một ayat, vừa đọc vừa khó chịu liếc nhìn người kia. Tôi chứng kiến họ hất những xẻng đất đầu tiên xuống mộ. Rồi tôi bỏ đi. Bước về phía bên kia của nghĩa trang. Ngồi dưới bóng cây ngô đồng đã đỏ lá.

    Giờ thì lượt cuối cùng những người đến viếng đã bày tỏ trọn lòng kính trọng, và nhà thờ vắng hết người, ngoại trừ ông giáo sĩ đang tháo phích cắm micrô và bọc cuốn kinh Koran vào trong tấm vải xanh. Ông tướng và tôi bước ra ngoài lúc mặt trời đã xế bóng. Chúng tôi bước xuống các bậc thềm, đi qua những đám người đang tụ tập hút thuốc. Tôi nghe lõm bõm những câu chuyện của họ, một trận bóng đá ở Union City tuần tới, một tiệm ăn mới của người Afghan ở Santa Clara. Đời đã lại đang vận động, để lại Baba ở phía sau rồi.

    - Con thế nào, bachem? - Tướng Taheri hỏi.

    Tôi nghiến răng. Ngăn dòng nước mắt chỉ chực trào ra suốt cả ngày:

    - Con đi tìm Soraya đây, - tôi nói.

    - Phải đấy.

    Tôi bước sang phía dành cho phụ nữ của nhà thờ. Soraya đang đứng trên bậc thềm với mẹ mình và hai bà nào đó mà tôi chỉ mang máng nhớ từ hôm đám cưới. Tôi ra hiệu cho Soraya. Nàng nói gì đó với mẹ và đến chỗ tôi.

    - Liệu chúng mình đi dạo bộ có được không? - Tôi nói.

    - Được chứ, - nàng cầm lấy tay tôi. Chúng tôi lặng lẽ bước xuống một lối đi rải sỏi quanh co, ngăn cách bằng nhưng hàng rào thấp. Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế dài, quan sát một cặp vợ chồng già đang quỳ cạnh một ngôi mộ cách đó mấy hàng và đặt một bó hoa cúc bên bia mộ.

    - Soraya này?

    - Gì anh?

    - Anh bắt đầu nhớ ông.

    Nàng đặt tay lên đùi tôi. Chiếc chila 11 Baba mua lấp lánh trên ngón tay đeo nhẫn của nàng. Phía sau nàng, tôi có thể nhìn thấy nhưng người đến viếng Baba đang lái xe rời khỏi đây về phía Đại lộ Mission. Chẳng mấy chốc nữa thôi, chúng tôi cũng rời khỏi đó, và đây là lần đầu tiên, Baba sẽ hoàn toàn cô độc.

    Soraya kéo tôi vào người nàng và cuối cùng nước mắt tôi trào ra.

    Bởi vì Soraya và tôi chẳng bao giờ có giai đoạn hứa hôn, tất cả những gì tôi biết được về gia đình Taheri đều là từ sau khi đã cưới. Ví dụ, tôi mới biết rằng, tháng một lần, ông tướng lại phải chịu một cơn thiên đầu thống kéo dài gần một tuần. Khi bị cơn đau đầu hành hạ, ông đi về phòng riêng, cởi quần áo, tắt đèn, khóa cửa, và không chịu ra ngoài cho tới khi cơn đau dịu hẳn. Không ai được phép vào phòng, không ai được phép gõ cửa. Cuối cùng ông thường lại hiện ra, trong bộ đồ xám, sực mùi giấc ngủ và khăn trải giường, mắt ông vồng lên và vằn máu.

    Tôi được Soraya cho biết, ông và Khanum Taheri đã ngủ riêng ở hai phòng từ khá lâu rồi. Tôi được biết ông có thể vẫn chấp vặt, ví như khi ông cắn một miếng qurma bà vợ đặt trước mặt ông, rồi thở dài và đẩy món ấy đi. "Tôi sẽ làm cho mình món khác." Khanum Taheri thường nói vậy, nhưng ông phớt lờ bà, hờn dỗi và ăn bánh mì với hành. Việc này làm Soraya tức giận và mẹ nàng khóc. Soraya bảo tôi ông đã dùng thuốc ngủ.

    Tôi được biết ông vẫn giữ cho gia đình mình được hưởng phúc lợi xã hội và không bao giờ làm một nghề gì ở Hoa Kỳ, thích đổi những tấm séc chính phủ ra tiền mặt hơn là tự hạ mình làm những công việc không phù hợp với một người tài ba và hiển hách như ông - ông chỉ đến thăm chợ trời như một trò giải trí, một cách để hòa nhập với những bạn bè cũ người Afghan. Ông tướng tin rằng, sớm muộn, Afghanistan cũng sẽ được giải phóng, chế độ quân chủ sẽ được phục hồi, và ông một lần nữa lại được mời ra phục vụ. Vì vậy, ngày nào ông cũng chỉnh tề trong bộ đồ xám của ông, xoay xoay chiếc đồng hồ bỏ túi, đợi chờ.

    Tôi được biết Khanum Taheri - mà bây giờ tôi gọi là Khala Jamila - từng một thời nổi tiếng ở Kabul vì giọng hát mê hồn. Dẫu chưa bao giờ hát kiểu chuyên nghiệp, bà đã có đủ tài làm việc đó - bà có thể hát dân ca, những ghazals 12 và cả raga 13 vốn thường là lĩnh vực của đàn ông nữa. Nhưng càng đánh giá cao việc thưởng thức âm nhạc - thực tế ông tướng sở hữu một bộ sưu tập đáng kể những băng ghi âm ghazals cổ điển do các ca sĩ Afghan và Hindi thể hiện - ông càng tin rằng việc đó tốt nhất là dành cho những người thuộc tầng lớp hạ lưu. Cho nên việc bà không bao giờ hát ở nơi công cộng là một trong những điều kiện khi họ cưới nhau. Soraya kể cho tôi nghe, mẹ nàng đã muốn hát trong đám cưới chúng tôi, một bài thôi, nhưng ông tướng lườm bà, và chuyện bà hát đành chôn vùi. Khanum Taheri chơi xổ số tuần một lần và tối nào cũng xem Johnny Carson 14. Bà dành nhiều hôm ở ngoài vườn để chăm sóc những cây hoa hồng, thiên trúc quỳnh, khoai tây leo và hoa lan của bà.

    Khi tôi cưới Soraya, hoa và Johnny Carson chiếm vai trò thứ yếu. Tôi là niềm vui mới trong cuộc đời Khala Jamila. Không giống cung cách xã giao và phòng thủ của ông tướng - ông không đính chính khi tôi gọi ông là "Tướng quân Sahib" - Khala Jamila không giấu việc bà ngưỡng mộ tôi vô cùng. Vì một lý do, tôi lắng nghe cả một danh sách rất ấn tượng những căn bệnh của bà, một chủ đề mà ông tướng đã từ lâu vờ điếc không nghe.

    Soraya bảo tôi, từ khi mẹ nàng bị đột quỵ đến nay, mỗi lần mạch yếu, trong ngực bà lại là một cơn đau tim, mọi khớp xương đau đều gắn với bệnh thấp khớp, mỗi lần mắt bà co giật là một cơn đột quy mới. Tôi nhớ, lần đầu tiên Khala Jamila nói tới một cục gì đó nghẹn ở cổ bà. Tôi bảo: "Ngày mai con sẽ không đến trường và đưa mẹ đến bác sĩ." Đáp lại ông tướng mỉm cười: "Vậy thì con cũng có thể bỏ quách luôn sách vở của con được rồi đấy, bachem. Danh mục khám chữa bệnh của Khala con nhiều như tác phẩm của Rumi: Phải hàng tập."

    Nhưng đó không chỉ là bà muốn tìm một thính giả cho những độc thoại về bệnh tật đau ốm của bà. Tôi tin tưởng vững chắc rằng nếu tôi đã nhặt một khẩu súng lên và tham gia vào một vụ hành hung giết người, tôi vẫn sẽ còn có được sự trợ giúp từ tình yêu kiên định của bà. Bởi vì tôi đã cất khỏi trái tim bà căn bệnh trầm trọng nhất. Tôi đã cất khỏi hộ bà nỗi sợ lớn nhất của mọi bà mẹ Afghan, không có người khastegar danh giá nào tới xin kết hôn với con gái mình. Rồi con gái mình sẽ già đi, đơn độc, không chồng, không con. Người đàn bà nào cũng cần có một người chồng. Ngay cả khi hắn ta làm câm bặt tiếng hát trong lòng nàng.

    Và, từ Soraya, tôi biết được những gì đã xảy ra ở Virginia.

    Chúng tôi đang dự một đám cưới. Cậu của Soraya, ông Sharif, người làm việc tại Sở Nhập cư đó, đang tổ chức lễ cưới cho con trai mình với một cô gái Afghan ở Newark. Đám cưới cũng được tổ chức ngay tại cái phòng sáu tháng trước Soraya và tôi đã làm lễ awroussi. Chúng tôi chợt nghe thấy hai người dàn bà trung niên quay lưng lại chúng tôi trò chuyện.

    - Trông cô dâu mới đáng yêu quá. - Một trong hai người nói, - cứ nhìn kỹ xem. Maghbool quá, như mặt trăng ấy.

    - Ừ, - người kia nói, - và trong trắng nữa. Tiết hạnh. Không có bạn trai.

    - Tôi biết. Tôi nói cho bà rõ chàng trai kia không cưới cô em họ là đúng lắm.

    Trên đường về nhà Soraya như phát điên lên. Tôi lái chiếc Ford vào lề và đậu xe dưới đèn đường đại lộ Fremont.

    - Không sao đâu. - Tôi vừa nói vừa vuốt lại tóc nàng. - Ai để ý nào?

    Nàng hét lên:

    - Đểu giả quá.

    - Quên chuyện đó đi.

    - Con trai họ đến các hộp đêm tìm trò giải trí và làm lũ bạn gái ễnh bụng ra, chúng có những đứa con ngoài hôn thú và chẳng ai nói một điều chết tiệt gì. Ồ, chúng chỉ là những người đàn ông ham vui thôi! Em mắc một sai lầm thế là mọi người nói đến nang và namoos - danh dự và tự hào - và em phải mặt dày về chuyện đó suốt cả phần còn lại đời em.

    Tôi lấy lòng ngón lay cái quệt giọt nước mắt rơi xuống hàm nàng, ngay trên vết bớt.

    - Em đã không kể cho anh biết, - Soraya vừa nói vừa chớp mắt. - nhưng đêm đó, cha em xuất hiện với một khẩu súng. Ông bảo.. anh ta.. ông có hai viên đạn trong nòng, một cho anh ta, một cho bản thân ông, nếu em không trở về nhà. Em kêu thét lên, gọi ông bằng đủ mọi thứ tên, bảo ông không thể giữ em cấm cung mãi mãi, rằng em mong ông chết đi. - Những giọt nước mắt nóng hổi ứa ra giữa hai bờ mi nàng. - Đúng là em đã nói như thế với ông, rằng em mong ông chết đi.

    Khi ông đem em về nhà, mẹ quàng hai cánh tay ôm lấy em và bà cũng đang khóc. Bà cứ nói mãi những gì đó, nhưng em chẳng thể hiểu nổi chút nào, bởi vì bà líu lưỡi lại quá tệ. Thế là cha mang em về phòng ngủ và để em ngồi trước cái gương trang điểm. Ông đưa cho em một chiếc kéo và bình thản bảo em cắt hết tóc đi. Ông theo dõi trong khi em gọt tóc.

    Em không bước ra khỏi nhà mấy tuần liền. Rồi khi em ra, em nghe thấy những tiếng xì xào hoặc hình dung thấy họ ở bất kỳ chỗ nào em tới. Đã bốn năm rồi và cách xa ba nghìn dặm, em vẫn còn nghe thấy họ xì xào.

    - Mặc xác họ, - tôi bảo.

    Nàng như nửa khóc nửa cười, nói:

    - Cái đêm khastegari khi em kể cho anh nghe về điều này trong điện thoại, em tin chắc thế nào anh cũng đổi ý.

    - Không có chuyện đó đâu, Soraya.

    Nàng mỉm cười và cầm lấy tay tôi:

    - Em thật quá may mắn đã tìm thấy anh. Anh khác xa với tất cả bọn con trai Afghan em đã từng gặp.

    - Chúng ta đừng bao giờ nói về chuyện này nữa, được không?

    - Vâng.

    Tôi hôn má nàng và lái xe rời khỏi lề đường. Trong khi lái, tôi thắc mắc tại sao tôi lại khác xa. Có thể vì tôi đã được những người đàn ông nuôi dưỡng. Tôi không lớn lên quanh quẩn bên những người đàn bà và chưa bao giờ thực sự chung sống với cái chuẩn mực lập lờ 15 mà xã hội Afghan lấy đó để đối xử với họ. Cũng có thể tại Baba là một người cha Afghan khác thường đến thế, một người tự do đã sống theo luật lệ riêng của mình, một con người độc lập về tư tưởng, coi thường hoặc chấp nhận những tục lệ xã hội theo chính kiến của riêng ông.

    Nhưng tôi nghĩ, phần lớn lý do tôi không quan tâm tới quá khứ của Soraya chính là tôi cũng có quá khứ riêng của tôi. Tôi hiểu rõ thế nào là ân hận.

    Sau ngày Baba mất ít lâu. Soraya và tôi chuyển đến căn hộ một phòng ngủ ở Fremont, chỉ cách ngôi nhà của ông tướng và Khala Jamila vài dãy. Cha mẹ Soraya mua cho chúng tôi một ghế sofa đệm da nâu và một bộ đĩa hát Mikasa coi như quà mừng nhà mới. Ông tướng cho tôi thêm một món quà nữa, một máy chữ IBM mới toanh. Trong hộp, ông luồn vào một mẩu giấy viết bằng chữ Farsi:

    Amir jan, Bố mong con khám phá ra nhiều câu chuyện trên những phím chữ này.

    Tướng Iqbal Taheri

    Tôi bán chiếc xe buýt VW của Baba và từ hôm đó, tôi không trở lại chợ trời nữa. Mỗi thứ Sáu tôi lại lái xe đến mộ Baba, và đôi khi, tôi thấy có bó hoa freesia 16 tươi thắm bên bia đá, hiểu rằng Soraya cũng đã đến đó. Soraya và tôi ổn định dần những thói quen - và những ngạc nhiên nho nhỏ - của đời sống vợ chồng. Chúng tôi dùng chung bàn chải răng và bít tất, đưa cho nhau giấy vệ sinh. Nàng nằm ở bên phải, tôi thích ở bên trái giường. Nàng thích gối lông chim, tôi thích gối cứng. Nàng ăn điểm tâm qua loa bằng bánh nhạt không bơ, thêm chút sữa.

    Tôi nhận được chứng chỉ tại tiểu bang San Jose mùa hè năm đó và chọn chuyên ngành tiếng Anh. Tôi nhận công việc bảo vệ, làm ca đêm tại một kho hàng lớn đồ nội thất ở Sunnyvale. Công việc thật buồn chán khủng khiếp, nhưng thuận lợi lại thật đáng kể. Khi mọi người ra về vào lúc 6 giờ chiều và bóng tối bắt đầu bò vào giữa hai dãy sofa còn bọc nhựa chồng cao đến tận trần, tôi lấy sách của tôi ra và nghiên cứu. Chính trong cái văn phòng sực mùi gỗ thông thơm phức của kho hàng ấy, tôi bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình.

    Năm sau, Soraya đến tiểu bang San Jose với tôi, và đăng ký vào trường sư phạm, bất chấp thái độ sầu não của cha mình.

    - Bố không hiểu tại sao con đang để phí tài năng của con như thế - một buổi tối ông tướng nói trong bữa ăn. - Con có biết không, Amir jan, ở trường trung học con bé toàn được điểm A, - ông quay lại phía nàng. - Một đứa con gái thông minh như con có thể trở thành luật sư, một nhà khoa học chính trị. Và, Inshallah, khi Afghanistan được tự do, con có thể giúp viết bản hiến pháp mới. Lúc đó sẽ cần những người Afghan trẻ có tài năng như con. Họ có thể đề nghị con cả cái ghế bộ trưởng nữa ấy chứ, sẽ làm rạng rỡ tên tuổi gia đình mình.

    Tôi có thể thấy Soraya đang kiềm chế, mặt nàng cau lại:

    - Con không còn là đứa con gái nữa, Padar. Con là một phụ nữ có chồng. Hơn nữa người ta cũng cần giáo viên.

    - Ai cũng có thể dạy được.

    - Có còn chút cơm nào không, Madar 17? - Soraya hỏi.

    Sau khi ông tướng lấy cớ đi gặp vài người bạn ở Hayward, Khala Jamila cố an ủi Soraya, bà nói:

    - Bố con có ý tốt. Ông ấy chỉ muốn con thành đạt thôi mà.

    - Để bố có thể khoe khoang cô con gái công tố viên của ông với bạn bè chứ gì. Thêm một cái mề đay nữa cho ông tướng, - Soraya nói.

    - Con nói linh tinh rồi đấy!

    - Thành đạt! - Soraya kêu lên. - Ít nhất con cũng không giống bố, chỉ ngồi quanh một chỗ trong khi mọi người khác chiến đấu chống lại bọn Shorawi, ngồi đợi khi sự rối loạn đã yên ắng để ông có thể nhảy vào đòi lại một chức sắc be bé trong chính phủ. Dạy học có thể không được trả lương nhiều, nhưng đó là công việc con muốn làm! Đó là công việc con yêu, và việc đó còn tốt hơn nhiều nhận tiền phúc lợi, tiện thể nói thẳng ra như vậy. Khala Jamila mím môi: - Ông ấy mà nghe thấy nói con nói như vậy, ông ấy sẽ không bao giờ thèm nói với con nữa.

    - Mẹ đừng lo. Soraya đáp trả ngay, vừa quàng khăn ăn của mình lên cái đĩa, - con sẽ không làm sứt mẻ cái tôi quý báu của bố đâu.

    Mùa hè năm 1988, khoảng sáu tháng trước khi quân đội Xô viết rút khỏi Afghanistan, tôi viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, chuyện về hai cha con ở Kabul, phần lớn viết trên cái máy chữ mà ông tướng đã cho tôi. Tôi gửi thư hỏi một tá các hãng môi giới xuất bản, và một ngày tháng Tám tôi sửng sốt khi mở hộp thư và thấy yêu cầu của một hãng môi giới New York bảo tôi gửi bản thảo hoàn chỉnh. Hôm sau tôi gửi đi bằng đường thư tín. Soraya hôn lên tập bản thảo đã được bọc cẩn thận và Khala Jamila nhất định đòi chúng tôi phải cầu kinh Koran cho nó. Bà bảotôi, bà sẽ làm lễ nazr cho tôi, sẽ chọc tiết một con cừu, lấy thịt chia cho người nghèo nếu cuốn sách của tôi được chấp nhận.

    - Khala jan, làm ơn đừng nazr, - tôi vừa nói vừa hôn má bà, - chỉ làm zakat, cho người túng quẫn nào đó tiền, được không ạ? Không giết cừu.

    Sáu tuần sau, một người tên là Martin Gleenwalt từ New York gọi đến, ngỏ ý muốn đại diện cho tôi. Tôi chỉ biết bảo cho Soraya biết.

    - Bởi anh có một đại điện không có nghĩa sách của anh sẽ được xuất bản. Nếu Martin bán được cuốn tiểu thuyết chúng ta sẽ ăn mừng. Một tháng sau, Martin gọi và thông báo cho tôi biết, tôi sắp là một tiểu thuyết gia có sách được xuất bản. Khi tôi nói cho Soraya, nàng reo lên.

    Tối đó, chúng tôi tổ chức ăn mừng cùng với bố mẹ nàng. Khala Jamila làm món kofia - thịt viên với gạo trắng và ferni trắng. Ông tướng long lanh nước mắt, nói ông tự hào về tôi. Sau khi tướng Taheri và vợ ông về rồi, Soraya và tôi ăn mừng bằng một chai rượu Merlot đắt tiền tôi mua trên đường về nhà - ông tướng không chấp nhận đàn bà uống rượu, và Soraya không dám uống trước mặt ông.

    - Em rất tự hào về anh, - nàng vừa nói vừa chạm cốc với tôi.

    - Anh biết, - tôi nói, vừa nghĩ đến Baba, mong ông có thể nhìn thấy tôi lúc này.

    Khuya đêm đó, sau khi Soraya đã ngủ - rượu làm nàng ngủ rất say - tôi đứng ngoài bao lơn hít thở không khí mát mẻ của mùa hè. Tôi nghĩ tới chú Rahim Khan và bức thư ủng hộ tôi ông viết sau khi đọc xong truyện ngắn đầu tiên của tôi. Và tôi nghĩ về Hassan. Một ngày nào đó, Inshallah, cậu sẽ là một nhà văn lớn, cậu một lần đã nói thế, và mọi người khắp thế giới sẽ đọc truyện ngắn cậu viết.

    Có quá nhiều lòng tốt trong đời tôi. Quá nhiều hạnh phúc. Tôi không hiểu liệu tôi có chút nào xứng đáng không.

    Cuốn tiểu thuyết được phát hành vào mùa hè năm sau đó, năm 1989, và nhà xuất bản gửi tặng tôi một phiếu du lịch năm thành phố. Tôi trở thành một nhân vật nổi tiếng nho nhỏ của cộng đồng người Afghan. Và cũng năm ấy, bọn Shorawi hoàn tất việc rút quân khỏi Afghanistan. Đó lẽ ra phải là thời điểm huy hoàng cho người Afghan. Thay vào đó lại diễn ra cuộc chiến khốc liệt giữa người Afghan, tức quân Mujahedin, với chính phủ bù nhìn Najibullah do Xô Viết dựng lên và người Afghan lại ùn ùn kéo sang Pakistan. Năm đó cũng là năm chiến tranh lạnh kết thúc, năm bức tường Berlin sụp đổ. Cũng là năm xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Nằm trong tất cả những sự kiện đó Afghanistan bị lãng quên. Và tướng 148 Taheri, với những hy vọng vừa trỗi dậy sau khi quân Xô Viết rút đi, lại lên dây cót chiếc đồng hồ bỏ túi của mình.

    Đó cũng là năm mà Soraya và tôi bắt đầu cố sinh lấy một đứa con.

    Ý tưởng về tình cha con đã tháo tung cơn lốc xoáy cảm xúc trong tôi. Tôi thấy nó đồng thời vừa đáng sợ, đáng nản, vừa như được tiếp thêm sinh lực, khiến tôi hân hoan phấn khởi. Tôi sẽ là một người cha như thế nào đây, tôi thường tự hỏi. Tôi muốn giống hệt Baba mà cũng muốn không có gì giống như ông.

    Nhưng một năm trôi qua, chẳng có gì chuyện xảy ra. Cùng với mỗi chu kỳ kinh nguyệt, Soraya lại càng thêm thất vọng, càng thêm sốt ruột, càng thêm tức giận. Thế là nhưng lời bóng gió tế nhị lúc ban đầu của Khala Famila trở lên công khai, kiểu như "Kho dega! 18" Thế đấy! "Bao giờ tôi mới được alahoocho nawasa 19bé nhỏ của tôi đây". Ông tướng, muôn đời Pashtun, không bao giờ buông một câu thắc mắc - nhất lại ý ám chỉ đến chuyện chung sống giữa con gái ông và một người đàn ông, ngay cả khi anh ta đã lấy nàng bốn năm trời. Nhưng mắt ông tươi rói lên khi Khala Jamila trêu chúng tôi về chuyện đứa con.

    - Đôi khi cũng cần phải có thời gian, - một đêm tôi bảo nàng.

    - Một năm không phải là thời gian sao, Amir! - Nàng nói - có cái gì đó không ổn, em biết mà.

    - Vậy chúng ta đi khám bác sĩ.

    Bác sĩ Rosen, một người đàn ông với cái bụng tròn xoe, bộ mặt múp míp, hàm răng đều và nhỏ, nói bằng thứ âm sắc Đông Âu trọ trẹ có dây mơ rễ má xa với ngôn ngữ Slave. Ông ta có một niềm đam mê với tàu hỏa - phòng khám của ông bừa bãi những cuốn sách về lịch sử đường sắt, các kiểu đầu tàu, những bức họa các đoàn tàu chuyển động nặng nề qua những dãy đồi xanh biếc và những cây cầu. Một khẩu hiệu trên bàn làm việc của ông: ĐỜI LÀ MỘT CON TÀU. HÃY LÊN TÀU.

    Ông vạch kế hoạch cho chúng tôi. Tôi sẽ được kiểm tra trước. "Đàn ông dễ thôi", ông nói, ngón tay gõ gõ lên chiếc bàn gỗ gụ:

    - Ống nước của đàn ông giống như ý nghĩ của anh ta: Đơn giản, rất ít chuyện bất ngờ. Phụ nữ các bà, trái lại, ồ, thượng đế đã suy nghĩ rất nhiều khi tạo ra các bà.

    Tôi không hiểu liệu ông ta có buôn chuyện ống nước với tất cả các cặp vợ chồng đến khám không.

    - Thật may cho chúng tôi, - Soraya nói.

    Bác sĩ Rosen cười. Như thế giảm bớt đôi chút sự không mấy thành thật ở ông. Ông đưa cho tôi một tờ giấy xét nghiệm và một bình nhựa, trao cho Soraya một giấy yêu cầu xét nghiệm máu theo thông lệ. Chúng tôi bắt tay nhau.

    - Chào mừng các vị lên tàu.

    Ông vừa nói vừa chỉ cho chúng tôi đi ra. Tôi vượt qua các xét nghiệm một cách mỹ mãn. Vài tháng sau là một loạt những xét nghiệm mù mờ về Soraya: Nhiệt độ cơ bản toàn thân, xét nghiệm máu đối với mỗi hoóc môn gây thụ thai, xét nghiệm nước tiểu, một thứ gì đó gọi là "Xét nghiệm Dịch Cổ Tử cung", siêu âm, lại thêm những xét nghiệm máu, và thêm những xét nghiệm nước tiểu. Soraya phải trải qua một thủ tục gọi là soi tử cung - bác sĩ luồn ống nội soi vào và đò tìm khắp chung quanh. Ông chẳng thấy gì. "Ống nước tốt". Ông vừa tuyên bố vậy vừa tháo đôi găng nhựa mỏng ra. Tôi mong ông đừng gọi như thế - chúng tôi có ở trong phòng tắm đâu. Khi chúng tôi đã trải qua bao nhiêu xét nghiệm, ông trả lời rằng không thể giải thích nổi tại sao chúng tôi lại chưa thể có con. Và rõ ràng, điều đó không phải quá bất bình thường. Nó được gọi là "Chứng bất thụ không giải thích được".

    Rồi đến pha điều trị. Chúng tôi thử dùng loại thuốc Clomiphene và hMG, hàng loạt nhưng mũi tiêm mà Soraya tự tiêm lấy. Khi tất cả những cái đó thất bại, bác sĩ Rosen khuyên thụ tinh trong ống nghiệm. Chúng tôi nhận được bức thư lịch sự từ tổ chức HMO 20 của chúng tôi, chúc chúng tôi mọi may mắn, và tiếc rằng không thể đài thọ tiền chi phí. Chúng tôi sử dụng tiền tạm ứng mà tôi nhận được cho cuốn tiểu thuyết đầu tay để trả cho việc đó. IVF 21 tỏ ra dài dòng, tỉ mỉ rồi thất vọng và cuối cùng là không kết quả. Sau nhiều tháng ngồi ở những phòng chờ, đọc các tạp chí Good housekeeping 22 và Reader's Diges 23, sau một loạt vô tận những áo choàng giấy, và những phòng xét nghiệm vô trùng được chiếu sáng bằng đèn huỳnh quang, cảm giác nhục nhã lặp đi lặp lại về việc tranh luận từng chi tiết chuyện phòng the của chúng tôi với những người hoàn toàn xa lạ, nhưng mũi tiêm và những dụng cụ kiểm tra cùng hàng mớ những mẫu xét nghiệm, chúng tôi trở về với bác sĩ Rosen và những con tàu của ông.

    Ông ngồi đối diện chúng tôi, gõ ngón tay xuống bàn và lần đầu tiên dùng cái từ "con nuôi". Soraya khóc suốt trên đường về nhà. Cuối tuần, sau khi chúng tôi đến thăm bác sĩ Rosen lần cuối, Soraya nói hết với cha mẹ mình. Chúng tôi đang ngồi trên những chiếc ghế ngoài trời ở sân sau gia đình Taheri, nướng cá hồi và nhấm nháp sữa chua dog. Đó là một buổi xế chiều tháng Ba năm 1991. Khala Jamila đã tưới những cây hoa hồng và kim ngân mới trồng, hương thơm của chúng trộn lẫn với mùi cá nướng. Đã hai lần bà nhích ghế ngang qua để vuốt tóc Soraya, và bảo:

    - Thượng đế hiểu thấu hơn cả, bachem. Có thể Người không có ý thế đâu.

    Soraya vẫn chỉ nhìn xuống hai tay mình. Nàng mệt mỏi, tôi biết, mệt mỏi về tất cả chuyện đó. Nàng lẩm bẩm:

    - Bác sĩ bảo chúng con có thể nhận con nuôi.

    Tướng Taheri nghe thấy thế quay đầu ngoắt lại. Ông đóng cửa lò nướng, hỏi ngay:

    - Ông ấy bảo thế à?

    - Ông ấy bảo đấy là một sự lựa chọn.

    Chúng tôi đã bàn chuyện nhận con nuôi ở nhà. Soraya phân vân làm sao cho tốt nhất.

    - Em biết thế là ngớ ngẩn và có thể vô ích, - nàng nói với tôi trên đường đến nhà cha mẹ nàng - Nhưng em không thể chịu nổi. Em luôn luôn mơ ôm con trong vòng tay, và hiểu rằng dòng máu của em đã nuôi nó suốt chín tháng trời, và một ngày em sẽ nhìn vào đôi mắt nó rồi giật mình thấy anh hoặc thấy em, rồi đứa bé sẽ lớn lên và có nụ cười của anh hoặc của em. Không có điều đó.. Điều đó có gì sai không?

    - Không, - tôi trả lời.

    - Em có đang ích kỷ không?

    - Không, Soraya.

    - Bởi vì nếu anh thực sự muốn làm như thế..

    - Không, - tôi nói. - Nếu chúng ta định nhận con nuôi, chúng ta không nên có một chút nghi ngờ nào về việc đó cả hai chúng ta nên thống nhất. Bằng không, sẽ không tốt cho đứa trẻ.

    Nàng tựa đầu vào cửa xe và chẳng nói gì thêm nữa suốt chặng đường còn lại.

    Lúc này ông tướng ngồi bên nàng:

    - Bachem, việc nhận con nuôi này.. một việc, bố không tin lắm là dành cho người Afghan chúng ta.

    Soraya nhìn tôi mệt mỏi và thở dài.

    - Vì một điều, chúng lớn lên và muốn biết cha mẹ thực của chúng là ai, - ông nói. - Cũng chẳng thể trách chúng. Đôi khi, chúng bỏ nhà ra đi, trong khi đó con lao động vất vả nhiều năm trời để nuôi dưỡng cuộc sống của chúng để rồi chúng tìm được người đã đẻ ra chúng. Tình máu mủ là thứ đầy uy lực, bachem, đừng bao giờ quên điều đó.

    - Con không muốn nói về chuyện này nữa, - Soraya đáp.

    - Bố sẽ nói thêm một điều nữa, - ông tiếp. Tôi có thể nói ông đang tăng tốc, chúng tôi sắp sửa nhận một trong những bài giáo huấn nho nhỏ của ông tướng. - Ngay như Amir đây. Chúng ta đều biết cha nó, bố biết ông nó là ai ở Kabul và cả cụ Amir nữa. Bố có thể ngồi đây và vạch ra hết các thế hệ tổ tiên nhà chồng con nếu con yêu cầu. Cho nên tại sao khi cha Amir - cầu trời cho ông ấy được bình yên, - đến khastegari bố đã không do dự. Và hãy tin bố, bố chồng con cũng sẽ không bằng lòng đến hỏi con nếu ông ấy không biết con là dòng dõi của ai. Máu mủ là một thứ quyền uy, bachem, và khi con nhận con nuôi, con không biết con đang đem dòng máu của ai vào nhà mình. Ờ, nếu con là người Mỹ, đó sẽ không thành vấn đề. Ở đây người ta cưới nhau vì tình yêu, tên tuổi gia đình và tổ tiên thậm chí chẳng bao giờ xét vào chuyện môn đăng hộ đối. Họ cũng nhận con nuôi theo cách đó, chừng nào đứa bé vẫn khoẻ mạnh thì mọi người đều hạnh phúc. Nhưng chúng ta là người Afghan, bachem.

    - Cá đã nướng gần xong chưa bố? - Soraya hỏi.

    Đôi mắt tướng Taheri vẫn không chịu rời khỏi nàng. Ông vỗ vào đầu gối nàng:

    - Con có sức khoẻ và có một người chồng tốt, thế là hạnh phúc rồi.

    - Còn con nghĩ thế nào, Amir jan? - Khala Jamila hỏi.

    Tôi đặt chiếc cốc của tôi lên gờ tường, nơi một hàng những chậu hoa thiên trúc quỳnh của bà đang nhỏ nước:

    - Con nghĩ con đồng ý với tướng quân Sahib.

    An tâm rồi. Ông tướng gật đầu và trở lại với cái lò nướng.

    Chúng tôi tất cả đều có nhưng lý lẽ của mình để không nhận con nuôi. Soraya có lý lẽ của nàng, ông tướng có lý lẽ của ông và lý lẽ của tôi là thế này: Có lẽ một cái gì đó, một ai đó, ở một nơi nào đã quyết định từ chối quyền làm cha của tôi vì những chuyện tôi đã làm. Có thể đây là hình phạt của tôi, mà có lẽ đúng là như vậy. Khala Jamila đã nói: Thượng đế không có ý thế đâu. Mà biết đâu. Người có ý còn tệ hơn thế.

    Vài tháng sau, chúng tôi dùng tiền tạm ứng cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi để đặt mua trả ngay bằng tiền mặt một ngôi nhà hai phòng ngủ kiểu Nữ hoàng Victoria, tại Đồi Bernal bang San Francisco. Nhà có mái dốc, sàn gỗ cứng và một sân sau nhỏ tận cùng là một sàn phơi nắng. Ông tướng giúp tôi hoàn tất lại cái sàn phơi và sơn tường. Khala Jamila phàn nàn việc chúng tôi chuyển đi xa đến gần một giờ đi đường, nhất là vì bà nghĩ Soraya cần đến cả tình yêu lẫn sự giúp đỡ mà bà có thể đem lại cho nàng - Không biết đến thực tế rằng chính tình thương yêu che chở có tính áp đặt của bà đã buộc Soraya phải chuyển đi.

    Đôi khi, Soraya ngủ cạnh tôi, tôi nằm trên giường và nghe thấy cửa ngăn đu đưa mở ra đóng vào theo gió, nghe tiếng dế kêu râm ran ở ngoài sân. Và tôi có thể cảm thấy sự trống vắng trong bụng Soraya, giống như một vật sống đang hít thở. Sự trống vắng ấy luồn lách vào hôn nhân của chúng tôi, vào tiếng cười của chúng tôi và cả chuyện làm tình của chúng tôi. Và đêm khuya, trong bóng tối của phòng ngủ chúng tôi, tôi thường cảm thấy nó trỗi dậy từ Soraya và chễm chệ giữa chúng tôi. Ngủ giữa chúng tôi. Như một đứa trẻ sơ sinh.

    * * *

    1 Lafz: Như lễ dạm hỏi, hoặc lễ chạm mặt của ta.

    2 Ghazal: Bản tình ca.

    3 Noor: Có nghĩa con ngươi; cũng là tên của Hoàng hậu Jordani, sứ giả của tự do hòa bình.

    4 Pari: Khăn che mặt theo đạo Hồi.

    5 Ayena Masshaf: Thủ tục hôn lễ quan trọng nhất của người Hồi giáo Afghan.

    6 Chopan kabob, Shikek goshti: Thịt cừu non nướng và Sholek goshti.

    7 Attan: Một vũ điệu tập thể truyền thống của người Afghan.

    8 Shorwa: Món súp hầm.

    9 Surrah: Kinh cầu hồn.

    10 Hijab: Khăn tang.

    11 Chila: Nhẫn cưới.

    12 Ghazals: Tình ca.

    13 Raga: Một dạng âm nhạc dựa theo truyền thống Ấn Độ.

    14 Johnny Carson: Diễn viên Mỹ. Kiêm nhà văn, nổi tiếng vì phong cách hài hước khi dẫn chương trình Show diễn đêm nay.

    15 Nguyên văn Double Standard: Chuẩn mực lập lờ, chuẩn mực nước đôi, có ý nói nang và namoos vận dụng cho nam và nữ khác nhau.

    16 Một loại cây hoa có nguồn gốc từ châu Phi, màu trắng, hồng, hoặc tím, có hương thơm.

    17 Madar: Mẹ.

    18 Kho dega: Có nghĩa Anh là biết phải làm gì chứ!

    19 Alahoo: Hát ru - Nawasa: Cháu.

    20 HMO: Viết tắt của Health Maintenance Organization, tức Tổ chức chăm sóc Sức khoẻ.

    21 I. V. F: Viết tắt của Invitro Fertilization, tức Thụ tinh trong Ống nghiệm.

    22 Good housekeeping: Quản gia giỏi.

    23 Reader's Digest: Tập san bạn đọc.
     
  5. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG XIV

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tháng Sáu năm 2001

    Tôi gác máy và chằm chằm nhìn vào đấy một lúc lâu. Không phải đợi cho tới khi Aflatoon làm tôi giật mình bằng một tiếng sủa tôi mới nhận ra căn phòng của chúng tôi yên tĩnh biết bao, Soraya đã tắt máy thu hình.

    - Anh trông xanh xao quá, Amir, - nàng nói từ ghế sofa, vẫn chiếc sofa mà cha mẹ nàng đã tặng chúng tôi làm quà nhà mới khi lần đầu tiên chúng tôi có căn hộ riêng. Nàng vẫn đang nằm trên sofa với con Aflatoon rúc đầu vào ngực, hai chân nàng vùi vào những chiếc gối cũ. Nàng vừa xem chương trình PBS 1 đặc biệt về hoàn cảnh khốn quẫn của đàn sói ở bang Minnesota, vừa sửa những tiểu luận của lớp học hè cho một trường học nàng đã dạy suốt sáu năm. Nàng ngồi dậy và con Aflatoon cũng nhảy từ sofa xuống. Cái tên ấy do ông tướng đặt cho con chó cộc đuôi, tai cụp giống Tây Ban Nha của chúng tôi, tiếng Farsi là "Plato" bởi vì, ông nói, nếu anh nhìn tương đối nghiêm túc và lâu lâu một chút vào đôi mắt đen trong suốt của con chó, anh sẽ tin nó đang suy nghĩ tinh thông như người.

    Bây giờ dưới cằm Soraya đã có một ngấn mỡ, đúng ra chỉ là một chút xíu thôi. Mười năm trôi qua làm đầy lên đôi chút những đường cong ở đôi hông nàng, và điểm vào mớ tóc đen nhánh như than đá của nàng vài vệt màu tro. Nhưng nàng vẫn còn gương mặt của một quận chúa ở Đại Vũ hội, với đôi lông mày như cánh chim bay và chiếc mũi cong tao nhã như nét chữ cổ của người Ẳ rập.

    - Anh trông xanh xao quá, - Soraya vừa nhắc lại, vừa đặt tệp giấy lên bàn.

    - Anh phải đi Pakistan.

    Thế là nàng đứng phắt dậy. - Pakistan?

    - Chú Rahim Khan ốm lắm. - Tôi thấy lòng thắt lại khi nói ra những lời ấy.

    - Bạn kinh doanh cũ của Kaka? Nàng chưa bao giờ gặp chú Rahim Khan, nhưng tôi đã kể với nàng về ông. Tôi gật đầu.

    - Ồ, em rất tiếc. Amir.

    - Ông và anh vốn gắn bó với nhau. - tôi nói. - Khi anh còn là một đứa trẻ, ông là người lớn đầu tiên mà anh coi là bạn.

    Tôi hình dung ra ông và Baba đang uống trà ở phòng đọc của Baba, rồi hút thuốc bên cửa sổ, một làn gió nhẹ thoảng mùi hoa tầm xuân thổi từ ngoài vườn vào làm uốn lượn hai cột khói thuốc.

    - Em nhớ anh đã kể cho em chuyện đó. - Soraya nói rồi dừng lại. - Anh định đi bao lâu?

    - Anh không biết. Ông muốn gặp anh.

    - Như thế có..

    - Có an toàn thôi. Soraya, anh sẽ ổn mà. - Đó là câu nàng muốn hỏi. Mười lăm năm hôn nhân đã biến chúng tôi thành những người đọc được ý nghĩ của nhau.

    - Anh định đi dạo bộ một lúc.

    - Em đi với anh nhé?

    - Không, anh đi một mình thì hơn.

    Tôi lái xe đến công viên cổng vàng và dạo bộ ven Hồ Spreckels ở bờ Bắc công viên. Đó là một buổi chiều Chủ nhật đẹp trời, mặt trời lấp lánh nước hồ, trên đó hàng tá nhưng chiếc thuyền nhỏ đang giong buồm, làn gió khô lạnh của San Francisco đưa những cánh buồm đi. Tôi ngồi trên băng ghế dài ở công viên, ngắm một người đàn ông tung quả bóng đá cho đứa con trai, bảo nó đừng lấy cánh tay cắp bóng mà hãy ném bóng qua vai. Tôi liếc nhìn lên và thấy một đôi diều màu đỏ với những chiếc đuôi dài màu xanh lơ. Chúng bồng bềnh trên cao, bên trên những hàng cây ở cuối phía Tây công viên, bay qua những cối xay gió.

    Tôi nghĩ về lời chú Rahim Khan đã nói ngay trước khi tôi gác máy. Nói rất tình cờ, hầu như thể chợt nghĩ thêm ra. Tôi nhắm mắt lại và nhìn thấy chú ở bên kia dải phân cách xa lắp, nhạt nhòa, thấy chú đôi môi hơi hé mở, đầu nghiêng về một bên. Và nữa, trong đôi mắt đen sâu thẳm của chú giấu một bí mật không nói ra giữa hai chúng tôi. Trừ lúc này, tôi biết chú đã biết. Mối nghi ngờ của tôi vẫn còn nguyên suốt những năm tháng ấy, chú biết về Assef, chiếc diều, tiền, cái đồng hồ với đôi kim có dạ quang. Chú lúc nào cũng biết.

    Cố lên. Luôn có một con đường để tốt lành trở lại đấy. Rahim Khan đã nói vậy qua điện thoại ngay trước khi gác máy. Nói rất tình cờ, hầu như thể chợt nghĩ thêm ra.

    Một con đường để tốt lành trở lại.

    Khi tôi về tới nhà, Soraya đang nói chuyện qua điện thoại với mẹ nàng:

    - Sẽ không lâu đâu, Madar jan. Một tuần, có thể hai.. vâng, mẹ và Padar có thể đến ở với con..

    Hai năm trước, ông tướng bị gãy xương hông phải. Ông lại bị thêm một trong những cơn đau nửa đầu, và trong khi đang ra khỏi phòng, mắt mờ đi và ngơ ngác, ông vấp phải cái mép thảm bị gấp lên. Tiếng kêu của ông khiến Khala Jamila phải chạy vội từ bếp lên.

    Nghe như một cái cán chổi bị gãy đánh rắc một cái, bà vẫn cứ thích nói như thế, dẫu bác sĩ đã bảo tiếng bà nghe thấy đâu có thể như vậy. Chuyện cái hông bị vỡ của ông tướng - và tất cả những gì phức tạp xảy ra sau đó, chứng viêm phổi, nhiễm độc máu, đợt điều trị kéo dài tại viện điều dưỡng - kết thúc bằng những đoạn độc thoại dài dòng lôi thôi về sức khoẻ của chính bà. Rồi lại bắt đầu những độc thoại mới về sức khoẻ của ông tướng. Gặp bất kỳ ai muốn nghe bà cũng kể bác sĩ đã bảo cho ông bà biết ông bị suy thận.

    - Nhưng rồi họ chẳng bao giờ thấy những quả thận Afghan, phải không nào? - Bà thường nói một cách kiêu hãnh.

    Những gì tôi nhớ nhất về thời kỳ ông tướng phải nằm lại ở bệnh viện là Khala đã ngồi đợi cho đến khi ông ngủ như thế nào, rồi hát cho ông nghe những bài hát mà tôi vẫn nhớ đã nghe ở Kabul, từ chiếc đài bán dẫn xẹt xẹt cổ lỗ của Baba.

    Sức khoẻ của ông tướng suy sụp, cộng với thời gian cũng đã xoa dịu đi nhiều điều giữa ông và Soraya. Họ đi dạo cùng nhau, đi ăn trưa vào những ngày thứ Bảy, và đôi khi ông còn dự một giờ lên lớp nào đó của nàng. Ông thường ngồi ở cuối lớp, chỉnh tề trong bộ đồ cũ màu xám là bóng của ông, chiếc gậy chống để ngang đùi, mỉm cười. Đôi khi ông còn ghi chép nữa.

    Đêm đó, tôi và Soraya ngủ chung giường, lưng nàng ép vào ngực tôi, mặt tôi vùi vào tóc nàng. Tôi vẫn nhớ, chúng tôi từng quen nằm trán chạm trán, chia sẻ với nhau nhưng nụ hôn muộn màng, và thầm thì cho đến khi mắt chúng tôi díp lại, thầm thì về đôi gót nhỏ cong lên, những nụ cười ban đầu, những lời nói đầu tiên, những bước đi đầu tiên. Đôi khi chúng tôi vẫn còn thầm thì với nhau, nhưng là về trường học, về cuốn sách mới của tôi, một tiếng cười khúc khích về cách ăn mặc lố lăng của ai đó tại một bữa tiệc. Chuyện làm tình của chúng tôi vẫn tốt, lắm khi còn hơn cả tốt nữa. Nhưng có những đêm tất cả những gì tôi cảm nhận được là chuyện đó để khuây khỏa, để buông trôi và quên đi, ít nhất cũng trong chốc lát, sự phù phiếm của chính những gì chúng tôi vừa làm. Nàng không bao giờ nói thế, nhưng tôi biết đôi khi Soraya cũng cảm thấy thế. Vào những đêm ấy, chúng tôi thường nằm lăn ra mỗi người một bên giường, để mặc Đấng Cứu thế riêng của mỗi chúng tôi cuốn chúng tôi đi. Chúa Cứu thế của Soraya là giấc ngủ. Của tôi như thường lệ, vẫn là một cuốn sách.

    Tôi nằm trong bóng tối cái đêm chú Rahim Khan gọi, mắt tôi lần theo những vạch song song sáng như bạc mà ánh trăng tràn qua cửa chớp in lên tường. Cho tới lúc nào đấy, có lẽ đúng trước bình minh, tôi mới ngủ thiếp đi. Và mơ thấy Hassan chạy trong tuyết, vạt áo chapan màu xanh lục quét lê phía sau, tuyết xào xạo dưới đôi ủng cao su đen của cậu ấy. Cậu đang hét lên về phía sau: Vì cậu, cả ngàn lần rồi!

    Một tuần sau, tôi ngồi ở chiếc ghế cạnh cửa sổ, trên chuyến bay của hãng Hàng không Quốc tế Pakistan, dõi theo hai nhân viên mặc đồng phục hàng không đang tháo chèn bánh máy bay. Chiếc máy bay cất cánh khỏi ga hàng không và chẳng mấy chốc, chúng tôi đã cất cánh, xuyên qua những đám mây. Tôi ngả đầu tựa vào cửa sổ. Mong chờ giấc ngủ, nhưng vô vọng.

    * * *

    1 PBS: Viết tắt Public Casting Service: Dịch vụ truyền thông đại chúng.
     
  6. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG XV

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ba giờ sau khi chuyến bay của tôi hạ cánh xuống Peshawar, tôi đang ngồi trên tấm đệm rách nát ở hàng ghế sau của một chiếc taxi tỏa đầy khói. Tài xế của tôi, một anh chàng nhỏ bé, nhễ nhại mồ hôi, hút thuốc liên tục, giới thiệu tên mình là Cholam, dửng dưng lái xe một cách bạt mạng, tránh những va quệt chỉ trong gang tấc, cũng chẳng thèm ngừng miệng thao thao bất tuyệt hàng tràng dài:

    * * * Thật khủng khiếp những gì đang xảy ra ở đất nước của ông, yar 1. Người dân Afghan và người dân Pakistan như anh em, tôi cam đoan với ông như thế. Người Hồi giáo phải giúp đỡ người Hồi giáo để..

    Tôi gật gật đầu một cách lịch sự để khỏi phải nghe anh ta nữa. Tôi vẫn nhớ rất rõ Peshawar từ hồi ức mấy tháng Baba và tôi trải qua ở đó năm 1981. Lúc này, chúng tôi đang đi về phía Tây, trên đường Jamrud, qua Cantonment và những ngôi nhà tường cao, hoang toàng. Cảnh hối hả của thành phố mờ mờ vụt qua nhắc tôi nhớ đến một phiên bản còn nhộn nhịp hơn, đông đúc hơn của Kabul mà tôi biết, đặc biệt là Kocheh-Morgha, còn gọi là khu phố chợ gia cầm, nơi Hassan và tôi thường mua khoai tây dầm tương ớt và nước anh đào. Các đường phố đông nghẹt người đi xe đạp, người đi bộ quanh quẩn, và những xe xích lô máy nổ ran nhả khói xanh, tất cả len lách nhau qua một mớ hỗn độn các ngõ hẹp và ngách hẻm. Những người bán hàng râu ria cuộn mình trong tấm chăn mỏng bán chụp đèn bằng da súc vật, thảm trải, khăn thêu, và đồ đồng từ những dãy lều quán nhỏ san sát nhau. Thành phố cuồn cuộn những âm thanh, tiếng quát tháo của những người bán hàng trộn lẫn với tiếng nhạc Hindi ồm ồm, tiếng phành phạch của xích lô máy, tiếng chuông leng keng xe ngựa kéo, tất cả oang oang trong tai tôi. Những mùi hương găn gắt, vừa thú vị vừa khó chịu, luồn qua cửa xe vào chỗ tôi, mùi gia vị của pakora và cà ri hầm nihari 2 mà Baba yêu thích vô cùng, trộn lẫn với mùi hôi dầu diesel, mùi thối của đồ ôi thiu, rác thải và các loại phân.

    Đi quá những tòa nhà bằng gạch đỏ của trường Đại học tổng hợp Peshawar một đoạn chúng tôi vào một khu mà người lái xe lắm lời của tôi nhắc đến như là "Thị trấn của người Afghan." Tôi thấy những hiệu bánh kẹo, những người bán thảm, những quán Kabob, những đứa trẻ hai tay cáu bẩn bán thuốc lá, những tiệm ăn nhỏ - bản đồ Afghanistan vẽ đầy trên cửa sổ - tất cả đều có quan hệ mật thiết với các tổ chức trợ giúp bất hợp pháp.

    - Nhiều người anh em của ông ở khu vực này, yar. Họ mở các sạp hàng kinh doanh, nhưng đa số rất nghèo khổ.

    Anh ta tặc lưỡi và thở dài.

    - Dẫu thế nào, giờ đây chúng ta cũng đang sát cánh bên nhau.

    Tôi nghĩ tới lần cuối cùng tôi gặp chú Rahim Khan, năm 1981. Ông đến chào từ biệt, cái đêm Baba và tôi trốn khỏi Kabul. Tôi nhớ, Baba và chú ôm nhau, khóc khẽ. Khi Baba và tôi tới Mỹ, Baba và chú Rahim Khan vẫn giữ mối liên hệ. Họ thường nói chuyện với nhau mỗi năm bốn, năm lần, đôi khi Baba còn chuyển máy cho tôi. Lần cuối cùng tôi nói chuyện với chú Rahim Khan, chỉ ít lâu sau khi Baba mất. Tin tức đó về tới Kabul và chú đã gọi cho tôi. Chúng tôi chỉ nói với nhau được vài phút thì đường dây mất liên lạc.

    Tài xế lái tới một tòa nhà hẹp tại một góc phố nhộn nhịp nơi có hai con phố cong queo giao nhau. Tôi trả tiền xe, xách theo mỗi chiếc valy, và bước lên chỗ cánh cửa chạm khắc cầu kỳ. Tòa nhà có những hàng ban công bằng gỗ với nhiều cửa chớp để ngỏ và từ nhiều hàng ban công ấy, quần áo giặt được phơi khô dưới ánh mặt trời. Tôi bước lên chiếc cầu thang kẽo kẹt tới tầng hai, men theo một hành lang nhờ sáng tới cánh cửa cuối cùng về bên phải. Kiểm tra lại địa chỉ trên mảnh giấy giữ chặt trong lòng bàn tay. Gõ cửa.

    Rồi, một tạo vật toàn da bọc xương như không phải chú Rahim Khan ra mở cửa.

    Một thầy giáo dạy sáng tác ở bang San Jose từng nói về các sáo ngữ: "Hãy tránh chúng như tránh bệnh dịch". Rồi ông cười về câu nói đùa của riêng ông. Cả lớp cười theo, nhưng tôi luôn nghĩ những sáo ngữ bị đánh giá sai lầm. Bởi vì, chúng thường chính xác. Nhưng sự biểu đạt thích đáng của ngạn ngữ được sáo ngữ hóa thường bị coi nhẹ bởi bản chất ngạn ngữ vốn là sáo ngữ. Lấy ví dụ câu ngạn ngữ "voi ở trong phòng" 3. Không gì có thể miêu tả đúng hơn nhưng khoảnh khắc ban đầu cuộc tái ngộ của tôi với chú Rahim Khan.

    Chúng tôi ngồi trên một bộ đệm rơm nhỏ dọc tường, đối diện với cửa số trông xuống đường phố náo nhiệt phía dưới. Ánh nắng xiên vào rọi một vệt sáng hình tam giác lên chiếc đệm cầu kinh Afghan trên sàn nhà. Hai chiếc ghế gấp tựa vào tường và một ấm samôva nhỏ bằng đồng đặt ở góc đối điện. Tôi rót trà cho chúng tôi từ chiếc ấm đó. Tôi hỏi:

    - Chú làm thế nào tìm được cháu?

    - Tìm người ở Mỹ không khó. Chú mua một tấm bản đồ nước Mỹ và gọi điện thoại hỏi thông tin về những thành phố ở miền Bắc California. Thật vô cùng kỳ lạ, thấy cháu đã trưởng thành như hôm nay. Tôi mỉm cười và bỏ ba miếng đường vào tách trà của mình. Chú thích trà đen và chát, tôi vẫn nhớ thế.

    - Baba không có dịp nào để báo cho chú, nhưng cháu đã cưới vợ mười lăm năm nay rồi. Sự thật là lúc đó khối u trong não đã khiến Baba trở nên quên lãng, lơ đễnh.

    - Cháu đã lấy vợ à? Lấy ai? - Tên cô ấy là Soraya Taheri. Tôi bỗng nhớ tới nàng đang ở nhà lo lắng cho tôi. Tôi mừng là nàng đã không phải ở một mình.

    - Taheri.. con gái của ai nhỉ? Tôi nói cho ông biết. Mắt ông sáng lên:

    - Ồ chú nhớ ra rồi. Có phải Tướng Taheri lấy chị gái ông Sharif không? Tên bà ấy là gì nhỉ..

    - Jamila jan.

    - Balay! - Ông mỉm cười nói. - Chú biết ông Sharif jan ở Kabul từ lâu, trước khi ông ấy rời sang Mỹ.

    - Ông ấy vẫn đang làm việc cho Sở Nhập cư nhiều năm rồi, cũng giải quyết được nhiều vụ nhập cư.

    - Haiiii! - Ông thở dài. - Cháu và Soraya có con rồi chứ?

    - Không.

    - Ồ, - ông tợp một ngụm trà, không hỏi thêm gì nữa. Chú Rahim Khan vẫn luôn là một người có trực giác nhạy bén nhất tôi mà tôi từng gặp.

    Tôi nói với ông rất nhiều về Baba, về nghề nghiệp của cha tôi, chợ trời, và cuối đời ông thế nào, ông đã chết hạnh phúc ra sao. Tôi kể cho ông nghe việc học hành của tôi, việc viết sách của tôi - bốn cuốn tiểu thuyết được xuất bản dưới cái tên tôi. Nghe nói vậy, ông mỉm cười và bảo ông chưa bao giờ có chút nghi ngờ nào về chuyện đó. Tôi kể cho ông nghe, tôi đã viết những truyện ngắn trong cuốn sổ bọc bìa da ông cho tôi, nhưng ông không còn nhớ cuốn sổ.

    Câu chuyện không tránh khỏi quay sang bọn Taliban. Tôi hỏi:

    - Chúng có xấu xa như chúng cháu được nghe không?

    - Không, còn tệ hại hơn. Tệ hại hơn nhiều, - ông nói. - Chúng không để cháu được làm người nữa. - Ông chỉ vào vết sẹo bên mắt phải cắt một đường cong qua cánh lông mày làm của mình. - Năm 1998 chú đang xem bóng đá tại sân vận động Ghazi. Kabul đá với Mazirr-i-Sharif, hình như thế, cầu thủ lúc đó không được phép mặc quần cộc. Hở hang khiếm nhã, chú đoán vậy. - Ông cười mệt mỏi. - Dẫu thế nào Kabul cũng ghi một bàn thắng và người đàn ông ngồi cạnh chú, reo ầm lên. Bất ngờ một thằng ranh đứng gác hai bên cánh gà, bề ngoài nhiều lắm chỉ mười tám tuổi, bước đến chỗ chú, nện một cái vào trán chú bằng báng khẩu Kalashnikov của nó, và nói: "Réo nữa đi, con lừa già, tao sẽ cắt lưỡi mày!"

    Chú Rahim Khan xoa xoa vết sẹo bằng ngón tay xương xẩu, nói tiếp:

    - Chú đã già đáng tuổi ông nội nó và chú phải ngồi im, máu chảy ròng ròng xuống mặt, xin lỗi đồ chó đẻ đó.

    Tôi rót cho ông thêm tách trà nữa, chú Rahim Khan chuyện trò thêm đôi chút. Nhiều chuyện tôi đã biết rồi, có những chuyện chưa. Ông kề cho tôi biết, theo như sự sắp xếp giữa Baba và ông, ông đã đến sống trong ngôi nhà của Baba từ năm 1981, điều này tôi đã biết. Baba đã "bán" ngôi nhà cho chú Rahim Khan trước khi ông và tôi trốn khỏi Kabul ít lâu. Những ngày đó, chúng tôi tưởng những rối loạn của Afghanistan chỉ tạm thời gián đoạn cuộc sống của chúng tôi - những ngày tiệc tùng trong ngôi nhà ở quận Wazir-Akbar-Khan, những bữa ăn ngoài trời ở Paghman, chắc chắn sẽ có ngày trở lại. Vì vậy, ông đã trao ngôi nhà cho Rahim Khan trông nom, cho tới cái ngày đó.

    Chú Rahim Khan kể cho tôi, khi Liên minh miền Bắc chiếm Kabul khoảng giữa 1992 và 1996, các bè đảng khác nhau đã đòi xâu xé Kabul như thế nào.

    - Nếu cháu đi từ khu Shar-e-Nau đến Kertch-Parwan để mua một tấm thảm, cháu dễ bị bắn bởi một tay bắn tỉa hoặc bị bắn tung lên bởi một quả tên lửa như chơi - nếu cháu phải đi qua các trạm kiểm tra, cũng thế. Cháu bắt buộc phải có một visa để đi từ vùng này sang vùng khác. Vì vậy mọi người đành ở đâu cứ ở nguyên tại đấy, cầu nguyện quả tên lửa sắp tới đừng bắn vào nhà họ.

    Ông kể cho tôi nghe, dân chúng phải đục tường nhà mình để vòng tránh những đường phố nguy hiểm ra sao, và chui từ lỗ này sang lỗ khác để đi suốt dãy nhà như thế nào. Ở những địa phận khác, dân chúng phải đi lại dưới đường ngầm. Tôi hỏi:

    - Tại sao chú không rời đi? - Kabul là nhà của chú. Nó mãi mãi là như thế. - Ông cười khẩy, - cháu có còn nhớ đường phố từ nhà cháu đến Qishla, cái trại lính gần Trường Istiqlal không?

    - Nhớ ạ, đó là lối đi tắt đến trường. - Tôi vẫn nhớ cái ngày Hassan và tôi đi tắt qua đấy và bọn lính trêu Hassan về mẹ cậu ấy. Sau đó Hassan đã khóc trong rạp chiếu phim, và tôi đã quàng tay ôm lấy cậu.

    - Khi bọn Taliban tràn vào và đánh đuổi Liên minh khỏi Kabul, chú thực sự đã nhảy múa trên đường phố đó, - chú Rahim Khan nói. - Và hãy tin chú, không phải chỉ mình chú đâu.

    Mọi người đều tổ chức lễ mừng tại Chaman ở Deh Mazang, đón chào Taliban trên các đường phố, trèo lên xe tăng của chúng và đòi chụp ảnh cùng với chúng. Người dân quá mệt mỏi vì chiến tranh triền miên, mệt mỏi vì tên lửa, súng máy, tiếng bom mìn nổ, mệt mỏi vì chứng kiến Gulbuddin 4 và những băng nhóm của hắn nổ súng vào bất cứ vật gì chuyển động. Bọn Liên minh còn gây thiệt hại cho Kabul hơn là bọn Shorawi. Chúng phá huỷ trại mồ côi của cha cháu, cháu có biết chuyện đó không?

    - Tại sao? - Tôi hỏi - Tại sao chúng phải phá huỷ một trại mồ côi? - Tôi vẫn nhớ tôi ngồi đằng sau Baba, cái ngày khánh thành trại mồ côi. Gió đã thổi bay chiếc mũ lông cừu của ông và mọi người cười, rồi đứng cả lên vỗ tay khi ông đọc xong bài diễn văn. Và bây giờ nơi đó chỉ còn là đống gạch vụn. Tất cả số tiền ông đã tiêu vào đấy, bao nhiêu đêm ông đã đổ mồ hôi cho những bản thiết kế, tất cả những cuộc thăm viếng tìm địa điểm xây dựng để đảm bảo mỗi viên gạch, mỗi thanh xà và mỗi khối nhà phải được xây thật chính xác..

    - Thiệt hại chung thôi, - Rahim Khan nói, - cháu sẽ không muốn biết đâu, Amir jan, khi đi tìm bới trong đống gạch vụn ấy. Ở đó là những phần cơ thể của lũ trẻ..

    - Vậy khi bọn Taliban đến..

    - Chúng là những người anh hùng, - Rahim Khan nói.

    - Rốt cuộc cũng được hòa bình.

    - Phải, hy vọng là một điều lạ lùng. Rốt cuộc cũng hòa bình. Nhưng với giá nào? - Một cơn ho dữ dội đủ làm Rahim Khan rúm ró lại, khiến tấm thân hốc hác của ông chao tới chao lui. Khi ông khạc nhổ vào chiếc khăn tay, chiếc khăn lập tức nhuốm màu đỏ. Tôi nghĩ đó là dịp tốt nhất để nói thẳng với con voi đang vã mồ hôi cùng chúng tôi trong căn phòng nhỏ.

    - Chú làm sao vậy? - Tôi hỏi. - Cháu muốn hỏi thực sự chú bị sao?

    - Thực ra là sắp chết, - ông vừa nói vừa thở hồng hộc. Nhiều máu hơn thấm trên chiếc khăn tay. Ông lau miệng, chấm mồ hôi vã trên lông mày từ bên thái dương hốc hác này tới bên kia bằng ống tay áo, và liếc nhìn tôi một cái rất nhanh. Khi ông gật đầu, tôi biết ông đã đọc được câu hỏi sắp tới trên khuôn mặt tôi. - Không lâu nữa đâu, - ông lại thở.

    - Bao lâu nữa?

    Ông nhún vai. Lại ho thêm. Ông nói:

    - Chú không nghĩ chú sẽ thấy mùa hè kết thúc.

    - Để cháu đem chú về nhà với cháu. Cháu sẽ tìm cho chú một bác sĩ giỏi. Họ vẫn thường chữa khỏi bệnh với những phương pháp điều trị mới mà. Có những loại thuốc mới, cả những điều trị thử nghiệm nữa, chúng cháu có thể ghi tên chú vào một.. - Tôi đang dông dài, tôi biết thế. Nhưng thế còn hơn khóc, mà dẫu thế nào tôi cũng sắp khóc đến nơi.

    Ông cười ồ, để lộ chỗ khuyết của những răng cửa dưới. Đó là chuỗi cười mệt mỏi nhất mà tôi từng thấy:

    - Chú thấy nước Mỹ đã rót vào người cháu cái thứ chủ nghĩa lạc quan, đã làm cho nó trở nên quá vĩ đại. Thế là rất tốt. Chúng ta là một dân tộc buồn đau, những người Afghan chúng ta ấy, có phải chúng ta như thế không? Chúng ta thường đắm mình quá nhiều trong ghamkhori 5 và thương thân trách phận. Chúng ta chào thua mất mát, chịu đựng, chấp nhận đó như một thực tế ở đời, thậm chí coi đó là cần thiết. Zendagi migzara, đời vẫn tiếp tục trôi, chúng ta thường nói thế. Nhưng chú không đầu hàng số phận đâu, chú là một con người thực tế. Chú đã từng đến khám nhiều bác sĩ giỏi ở đây, và họ đều cho chú vẫn cùng một câu trả lời. Chú phó thác cho họ, và tin tưởng họ. Trên đời này còn có một thứ là ý trời. Tôi nói:

    - Vậy chỉ còn vấn đề chú làm gì và không làm gì.

    Rahim Khan cười:

    - Lúc này cháu nói sao nghe giống bố cháu thế. Chú nhớ ông ấy vô cùng. Nhưng đó là ý trời muốn thế, Amir jan ạ, thực như thế. - Ông dừng lại. - Ngoài ra. Còn có một lý do khác chú yêu cầu cháu đến đây. Chú muốn được gặp cháu trước khi chú ra đi, đúng vậy, nhưng cũng có điều khác nữa.

    - Bất cứ điều gì.

    - Cháu biết tất cả những năm ấy chú sống trong ngôi nhà của bố cháu sau khi bố con cháu rời đi chứ?

    - Vâng.

    - Chú không sống đơn độc đâu. Hassan sống ở đó với chú.

    - Hassan ư? - Tôi nói. Lần cuối cùng tôi nhắc tới tên cậu ấy là khi nào? Những ngạnh gai tội lỗi ấy một lần nữa lại móc vào lòng tôi, như thể nhắc đến tên cậu là một câu phù chú để cho những cái gai ấy lại một lần nữa hành hạ tôi. Tự nhiên bầu không khí trong căn hộ bé của Rahim Khan bỗng trở nên quá ngột ngạt, quá nóng, quá dậy mùi của đường phố.

    - Chú đã nghĩ về việc viết cho cháu và nói cho cháu biết trước, nhưng chú không chắc là cháu có muốn biết. Chú có nhầm không?

    Sự thật là không. Dối trá thì là có. Tôi chọn một cái gì đó ở giữa:

    - Cháu không biết.

    Ông lại ho ra một bụm máu nữa vào chiếc khăn tay. Khi ông cúi đầu xuống để khạc, tôi nhìn thấy những chỗ viêm đóng vẩy màu mật ong trên da đầu ông.

    - Chú bảo cháu sang đây bởi vì chú định yêu cầu cháu một việc. Chú định yêu cầu cháu làm một việc cho chú. Nhưng trước hết, chú muốn nói cho cháu biết về Hassan đã, cháu hiểu chứ?

    Tôi lúng búng:

    - Vâng.

    - Chú muốn nói cho cháu biết về nó. Chú muốn nói cho cháu biết mọi điều. Cháu sẽ nghe chứ?

    Tôi gật đầu.

    Rahim Khan uống thêm vài ngụm trà nữa. Ông tựa đầu vào tường và kể.

    * * *

    1 Yar: Tiếng xưng hô lịch sự với người khác ở Pakistan.

    2 Nihari: Món ăn xuất xứ từ cộng đồng đạo hồi ở Delhi được nêm rất nhiều gia vị, là cari bê hoặc cừu hầm.

    3 Elephant in the room: Ngạn ngữ Anh, ý nói sự thật hiển nhiên, như con voi to trong căn phòng bé tí, ấy thế mà vẫn bị tảng lờ như không.

    4 Gulbuddin: Nhân vật bị báo chí phương Tây coi là tàn ác và xảo quyệt, từng hai lần giữ chức thủ tướng Afghanistan những năm 90, đồng thời là một người Pashtun dòng Ghilzai ủng hộ quan điểm thà nội chiến còn hơn bị nước ngoài chiếm đóng - cũng bị xem là thân Taliban.

    5 Ghamkhori: Nỗi sầu đau.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...