Người Đua Diều - Khalled Hosseini

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Buckwheat, 21 Tháng bảy 2020.

  1. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    [​IMG]

    Vì cậu, cả ngàn lần rồi


    Tác giả: Khalled Hosseini

    Thể loại: Tiểu thuyết phương Tây

    Nội dung:

    "Cuốn sách mãnh liệt bậc nhất này kể lại câu chuyện về những điều tàn bạo khủng khiếp và một tình yêu mãnh liệt chưa được đền đáp. Những điều đó đã thay đổi cuộc đời Amir, người kể chuyện trong tác phẩm của Khalled Hosseini - một cậu ấm quý tộc đã lớn lên trong những ngày tháng yên bình cuối cùng của nền quân chủ, trước khi cách mạng nổ ra và đất nước cậu bị người Nga kiểm soát. Nhưng những sự kiện chính trị ở đây, cho dù được miêu tả rất kịch tính, vẫn chỉ là một phần của câu chuyện. VớiNgười đua diều, Khaled Hosseini đã mang tới cho ta một câu chuyện sống động và cuốn hút, nhắc ta nhớ rằng dân tộc Afghanistan đã phải tranh đấu rất lâu để chiến thắng những thế lực hung tàn - những thứ mà cho đến tận bây giờ vẫn còn tiếp tục đe dọa họ. -" The New York Times Book Reviews".

    Tuyệt vời, những bước ngoặt sửng sốt của cốt truyện khiến cuốn sách trở nên đáng nhớ như một biên niên chính trị xã hội, lại vừa như một câu chuyện riêng tư cảm động về việc những lựa chọn của thời ấu thơ đã ảnh hưởng tới cuộc đời ta như thế nào. Nội việc phân tích nhân vật đã cho thấy đây là tác phẩm đầu tay đáng chú ý, từ bức chân dung của một Amir quá mẫn cảm và yếu đuối, cho đến sự biến đổi đầy phức tạp của cha cậu - Baba, người mà những hi sinh cùng những hành động đáng hổ thẹn chỉ được Amir phát hiện ra khi anh quay lại Afghanistan, nơi anh được hiểu về lịch sử cũng như sự chia tách của đất nước mình cả ở Mỹ lẫn Trung Đông.. Kết quả là một tác phẩm văn học đã thành công trong việc khảo sát văn.
     
    Last edited by a moderator: 6 Tháng chín 2020
  2. Đăng ký Binance
  3. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG I

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi đã trở thành tôi như ngày hôm nay từ tuổi mười hai, vào một ngày lạnh lẽo, ảm đạm mùa đông năm 1975. Tôi nhớ chính xác lúc đó đang khom người sau bức tường đất sụp đổ, nhòm trộm vào lối nhỏ gần khe suối đóng băng. Thời đó lâu lắm rồi, nhưng tôi biết những gì người ta nói về quá khứ, mà tôi đã học được, về việc anh có thể chôn vùi nó đi, là một điều sai lầm. Bởi vì quá khứ còn đang thay đổi. Bây giờ nhìn lại, tôi nhận ra tôi vẫn đang nhòm vào cái lối nhỏ hoang vắng đó suốt hai mươi sáu năm qua.

    Mùa hè vừa rồi, một hôm chú Rahim Khan gọi cho tôi từ Pakistan. Chú yêu cầu tôi tới gặp chú. Đứng trong bếp, với máy nghe bên tai, tôi hiểu đó không phải là chú Rahim Khan trên máy. Đó là quá khứ tội lỗi không được chuộc của tôi. Sau khi treo máy, tôi đi dạo bộ dọc theo Hồ Spreckels ở phía bắc công viên Cổng Vàng. Mặt trời buổi chiều sớm lấp lánh nước hồ, trên đó hàng chục nhưng chiếc thuyền con đang giong buồm theo làn gió nhẹ khô. Rồi tôi liếc nhìn lên, thấy một đôi diều màu đỏ với những chiếc đuôi đài màu xanh lơ bay vút lên trời. Đôi diều nhào lộn tầng không, bên trên những hàng cây đầu phía Tây công viên, bay qua những cối xay gió, bồng bềnh bên nhau như một cặp mắt đang nhìn xuống San Francisco, thành phố giờ đây tôi gọi là quê hương. Và bất chợt giọng nói của Hassan thì thào trong đầu tôi: Vì cậu, cả ngàn lần rồi. Hassan người đua diều môi hẻ.

    Tôi ngồi trên băng ghế công viên cạnh một cây liễu rủ. Tôi nghĩ tới điều gì đó Rahim Khan đã nói trước khi cúp máy, gần như chợt nghĩ thêm: Luôn có một con đường để tốt lành trở lại. Tôi ngước nhìn cặp diều sinh đôi. Tôi nghĩ về Hassan. Nghĩ về Baba. Ali. Kabul. Tôi nghĩ về cuộc đời tôi đã từng sống, cho tới khi mùa đông năm 1975 ập đến, làm thay đổi tất cả. Và khiến tôi trở thành tôi như ngày hôm nay.
     
  4. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG II

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đôi khi ngồi trên những ngọn cây đó, tôi xui Hassan lấy súng cao su bắn quả óc chó vào con chó chăn cừu giống Đức chột mắt của ông hàng xóm. Hassan chẳng bao giờ muốn vậy, nhưng nếu tôi yêu cầu, thực sự yêu cầu, cậu sẽ không từ chối. Hassan chẳng bao giờ từ chối tôi bất cứ điều gì. Và cậu bắn súng cao su chính xác chết người. Cha của Hassan, ông Ali, thường bắt gặp chúng tôi và phát điên lên, điên theo cách người hiền hậu như Ali có thể làm được. Ông thường bật ngón tay, vẫy chúng tôi tụt xuống. Ông giật lấy mảnh gương và bảo chúng tôi bà nội của Hassan đã dạy ông rằng quỷ dữ cũng chiếu những mảnh gương, chiếu để làm rối trí các tín đồ Hồi giáo trong lúc cầu nguyện. Ông luôn quắc mắt nhìn con trai mình nói thêm "và quỷ cũng cười hô hố trong khi làm như vậy."

    "Vâng, thưa cha", Hassan thường lẩm bẩm, vừa nhìn xuống dưới chân. Nhưng không bao giờ cậu đổ cho tôi. Không bao giờ nói rằng mảnh gương cũng như việc bắn quả óc chó vào con chó của ông láng giềng luôn luôn là trò nghịch ngợm của tôi.

    Những cây bạch dương xếp thành hàng dọc con đường xe chạy lát gạch đỏ dẫn tới đôi cổng sắt uốn. Đôi cổng kế tiếp mở vào phần mở rộng của đường xe vào tư dinh của cha tôi. Ngôi nhà tọa lạc phía bên trái con đường gạch, sân sau ở cuối đường.

    Mọi người đều đồng ý là cha tôi, tức Baba của tôi, đã xây một ngôi nhà đẹp nhất quận Wazir Akar Khan, vùng phụ cận mới và giàu có ở phần Bắc Kabul. Vài người còn nghĩ đó là ngôi nhà xinh đẹp nhất trong toàn bộ Kabul. Một lối vào rộng, hai bên là những khóm hồng dẫn tới một tòa nhà trải dài với sàn nhà bằng đá cẩm thạch và những cửa sổ rộng. Những viên gạch khảm khắc cầu kỳ, mà Baba tự tay lựa chọn ở Isfahan, được lát cho sàn của bốn phòng tắm. Những tấm thảm thêu sợi vàng, Baba mua ở Calcutta, chăng dọc các bức tường. Một chùm đèn phalê treo dưới vòm trần.

    Trên gác là phòng ngủ của tôi, phòng ngủ của Baba, phòng đọc của ông, còn được coi như "phòng hút", nơi không ngừng tỏa ra mùi thuốc lá và mùi quế. Baba và bạn ông ngả người trên chiếc ghế đệm da màu đen ở đó, sau khi Ali đã phục vụ cơm tối. Họ nhồi tẩu thuốc - riêng Baba luôn gọi đó là "vỗ béo tẩu thuốc" - và tranh luận về ba đề tài ưa thích: Chính trị, kinh doanh và bóng đá. Đôi khi tôi hỏi Baba liệu tôi có thề ngồi cùng họ được không, nhưng Baba thường đúng chặn trước cửa và nói "Làm việc của con đi, nhanh lên nào. Giờ là lúc người lớn nói chuyện. Sao con không đọc một cuốn sách nào đó của con?" Ông thường đóng cửa lại, để mặc tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông cứ "lúc người lớn nói chuyện" mãi thế. Tôi thường ôm đầu gối ngồi ngay bên cửa. Đôi khi tôi ngồi đó một tiếng đồng hồ, có khi hai tiếng, lắng nghe họ cười, họ chuyện gẫu với nhau.

    Phòng khách ở tầng dưới có một bức tường cong với những chiếc tủ đóng theo phong cách truyền thống. Trong phòng treo nhưng bức hình gia đình. Một tấm ảnh giấy lụa cũ của ông nội tôi và quốc vương Nadir Shah chụp năm 1931, hai năm trước khi quốc vương bị ám sát. Hai người đang đứng bên ngắm một con nai chết, chân đi ủng cao tận đầu gối, súng khoác qua vai. Kia là một bức hình đêm cưới cha mẹ tôi, Baba sang trọng trong bộ lễ phục đen và mẹ tôi váy trắng với nụ cười của một nữ quận chúa trẻ. Đây là Baba và người bạn quý nhất, bạn kinh doanh của ông, chú Rahim Khan, đứng trước nhà của chúng tôi, chẳng ai mỉm cười. Tôi là đứa bé trong bức ảnh, Baba đang bế tôi, trông có vẻ mệt mỏi ra nghiêm khắc. Tôi ở trong tay ông, nhưng những ngón tay tôi cong lên ngoắc lấy ngón út của chú Rahim Khan.

    Bức tường cong dẫn vào phòng ăn, giữa phòng là một chiếc bàn bằng gỗ gụ có thể phục vụ thoải mái ba mươi thực khách - và hợp với sở thích của cha tôi, những bữa tiệc cực kỳ tốn kém hầu như tuần nào cũng có. Ở đầu kia của phòng ăn là một lò sưởi cao lớn bằng đá cẩm thạch, luôn luôn cháy sáng ngọn lửa màu da cam trong suốt mùa đông.

    Một cửa kính trượt rộng lớn mở ra cái hiên bán nguyệt bao quát non một hécta đất phía sau và những hàng cây anh đào. Baba và Ali đã trồng một vườn rau nhỏ dọc theo dãy tường Phía Đông, gồm cà chua, húng bạc hà, ớt và cả một hàng ngô chẳng bao giờ thu hoạch mà Hassan và tôi quen gọi là "Bức tường Ngô ốm".

    Đầu phía Nam của khu vườn, dưới bóng cây sơn trà là nhà của những người giúp việc, một túp lều nhỏ tường đất khiêm tốn, nơi Hassan sống cùng với bố mình.

    Chính ở đó, trong túp lều nhỏ ấy, Hassan được sinh ra vào mùa đông năm 1964, đúng một năm sau khi mẹ tôi mất lúc sinh tôi.

    Mười tám năm sống trong ngôi nhà này, tôi chỉ bước vào lãnh địa của Hassan và Ali một vài lần. Khi mặt trời xuống thấp sau những dãy đồi và chúng tôi đã chơi đùa hết cả ngày, Hassan và tôi ai về đường nấy. Tôi đi qua những khóm hoa hồng về tòa lầu của Baba, Hassan về túp lều đất nơi cậu đã được sinh ra, nơi cậu sống đời mình. Tôi vẫn còn nhớ nơi đó vắng vẻ, sạch sẽ và leo lét sáng nhờ hai cây đèn dầu. Có hai tấm đệm ở hai phía đối diện căn lều, ở giữa là một tấm thảm Herati nhỏ đã cũ, xung quanh mòn xơ, một chiếc ghế đẩu ba chân và chiếc bàn gỗ ở góc nhà đề Hassan vẽ tranh. Tường xung quanh trần trụi, ngoại trừ một tấm thảm duy nhất đính các hạt cườm thành mấy từ Allah-u-akbar 1, Baba đã mua nó cho ông Ali trong một chuyến đi Mashad.

    Chính trong túp lều đó mà mẹ của Hassan, bà Sanaubar đã sinh ra cậu vào một ngày đông giá năm 1964. Trong khi mẹ tôi băng huyết chết khi sinh tôi, Hassan lại mất mẹ lúc sinh ra chưa được một tuần. Mất mẹ, thì hầu hết người Afghan đều coi là còn tệ hại hơn mẹ chết nhiều: Bà ấy bỏ đi theo một bộ tộc vũ công và du ca.

    Hassan chẳng bao giờ nói về mẹ, như thể bà ấy chưa bao giờ tồn tại. Tôi luôn luôn thắc mắc không hiểu liệu cậu có mơ thấy mẹ mình không, bà ấy trông như thế nào và đang ở đâu. Tôi không hiểu liệu cậu có mong gặp mẹ không. Cậu có đau khổ về mẹ như tôi đau khổ vì không bao giờ được gặp mẹ? Một hôm, chúng tôi đang cuốc bộ từ ngôi nhà của cha tôi đến rạp chiếu phim Zainab để xem bộ phim mới của Iran. Chúng tôi đã di tắt qua trại lính gần trường trung học Istiqlal - Baba đã cấm chúng tôi đi lối tắt ấy, nhưng lúc này ông cùng chú Rahim Khan đang ở Pakistan. Chúng tôi nhảy qua hàng rào vây quanh doanh trại, băng qua khe nước nhỏ và đột nhập vào một bãi đất trống bẩn thỉu có những chiếc xe tăng cổ lỗ bỏ hoang phủ đầy bụi. Đám lính tụ tập dưới bóng một chiếc xe tăng vừa hút thuốc lá vừa đánh bài. Một gã trông thấy chúng tôi, huých khuỷu tay vào gã ngồi bên, gọi Hassan.

    - Ê thằng nhỏ, - hắn nói. - Tao biết mày đấy.

    Trước đó, chúng tôi đã bao giờ gặp hắn đâu. Hắn là một gã đàn ông to bè, thấp béo, đầu cạo trọc, râu đen lởm chởm trên mặt. Cái cách hắn nhăn nhở cười với chúng tôi, liếc nhìn dâm dật khiến tôi hoảng sợ. "Kệ, cứ đi," tôi lúng búng bảo Hassan.

    - Mày! Thằng Hazara! 2 Hãy nhìn tao khi tao nói với mày, - tên lính sủa. Hắn đưa điếu thuốc đang hút cho thằng ngồi bên, một tay ngoắc ngón cái vào ngón trỏ thành một vòng tròn. Ngón giữa tay bên kia thọc vào vòng tròn đó. Thọc vào thọc ra. Thọc vào, thọc ra, - tao biết mẹ mày đấy, mày có hiểu không? Tao biết mẹ mày hàng thật. Tao chơi mẹ mày từ phía sau, bên khe nước, chỗ kia kìa.

    Bọn lính cười rộ. Một tên trong bọn kêu ré lên. Tôi bảo Hassan cứ đi, kệ cứ đi.

    - Cái lều 3 xinh xinh nhỏ xíu của mẹ mày mới mùi mẫn làm sao!

    Tên lính vừa nói vừa nhăn nhở cười, bắt tay những tên khác.

    Lát sau, trong bóng tối, sau khi bộ phim bắt đầu chiếu, tôi nghe tiếng Hassan ngồi bên tôi đang sụt sịt. Nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má. Tôi ngồi xích lại, dang cánh tay ôm lấy người cậu, kéo cậu sát vào tôi. Cậu ngả đầu lên vai tôi. "Hắn nhầm cậu với ai đấy," tôi thì thào. "Hắn nhầm cậu với ai mà!"

    Tôi nghe nói chẳng một ai thực sự ngạc nhiên khi Sanaubar bỏ nhà đi. Mọi người đều phải nhướn mày khi Ali, một người đàn ông làu làu kinh Koran, cưới Sanaubar, người đàn bà mười chín, trông trẻ hơn tuổi, một người đàn bà đẹp nhưng tai tiếng, buông thả, sống bất chấp nhưng điều ô nhục. Cũng giống như Ali, bà ta là một tín đồ Hồi giáo Shi'a và thuộc chủng tộc Hazara. Bà cũng là em họ, con cô con cậu của ông và điều đó dẫn đến sự chọn lựa tự nhiên cho hôn phối. Nhưng ngoài sự tương đồng ấy, Ali và Sanaubar hầu như chẳng có điểm giống nhau nào, ít nhất là mọi vẻ bề ngoài tương ứng. Trong khi đôi mắt Sanaubar long lanh xanh biếc, bộ mặt ranh ma, nghe đồn đã dụ dỗ không biết bao nhiêu đàn ông rơi vào tội lỗi, thì Ali lại bị liệt bẩm sinh cơ mặt dưới, nguyên nhân khiến ông không thể mỉm cười, khiến ông mãi mãi có bộ mặt nghiêm khắc. Nếu thấy được bộ mặt như đá tạc của Ali sung sướng hoặc buồn rầu thì đó là một điều kỳ lạ, bởi vì chỉ có đôi mắt xếch màu nâu của ông loé lên thay cho nụ cười và tuôn ra nỗi sầu. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Chẳng bao giờ có trường hợp nào đúng hơn thế với Ali, con người chỉ có thể thổ lộ tâm can mình qua đôi mắt.

    Tôi nghe đồn rằng những bước đi khêu gợi và cái hông đung đưa của Sanaubar đã khiến bao người đàn ông phải mơ đến cảnh phản bội vợ con. Nhưng bệnh viêm tủy xám gây bại liệt đã để lại cho Ali chân phải vặn vẹo, teo cơ, lớp da vàng sạm bên dưới chỉ là một lớp cơ mỏng bọc xương. Tôi nhớ một hôm, năm tôi tám tuổi, Ali đem tôi ra phố chợ 4mua một ít bánh naan 5. Tôi bước phía sau ông, bụm miệng, cố bắt chước bước đi của ông. Tôi quan sát ông ngoáy chiếc chân khẳng khiu theo một vòng cung quét đất. Tôi quan sát toàn thân ông nghiêng một cách khó khăn về bên phải mỗi lần ông đặt chân đó xuống. Mỗi bước đi như vậy mà ông không bị lật nhào dường như đã là một điều thần kỳ nho nhỏ. Khi cố bắt chước ông, tôi suýt bị ngã xuống rãnh nước. Khiến tôi khúc khích cười. Ali quay lại, bắt gặp tôi nhại theo ông. Ông không nói gì. Không lúc ấy. Không bao giờ hết. Ông chỉ tiếp tục bước đi.

    Bộ mặt của Ali và bước đi của ông làm đám trẻ nhỏ trong vùng hoảng sợ. Nhưng điều phiền nhiễu thực sự là những đứa lớn hơn. Chúng bám theo ông trên đường phố, và nhại theo ông mỗi khi ông cà nhắc đi qua. Có đứa còn gọi ông là Bababu hay Ngoáo ộp. "Ê, Bababu, hôm nay ăn thịt ai rồi." Chúng đồng thanh sủa lên và cười phá. "Đồ Batabu Mũi Tẹt, mi ăn thịt ai rồi?"

    Chúng gọi ông là "đồ mũi tẹt" bởi vì Ali và Hassan mang đặc trưng chủng tộc Hazara gốc Mông Cổ. Đã bao năm rồi, tất cả những gì tôi biết về người Hazara là họ là hậu duệ của người Mông Cổ thời Đế chế Mogul và trông giống như những người Trung Hoa bé nhỏ. Sách giáo khoa trong nhà trường chỉ nhắc đến tổ tiên họ một cách qua loa. Thế rồi một hôm, tôi ở trong phòng đọc của Baba, xem qua những sách linh tinh của ông, tôi tìm thấy một trong những cuốn cổ sử của mẹ tôi. Cuốn sách do một người Iran có tên là Khorami viết. Tôi thổi bụi đi, lén đem nó về giường tôi đêm đó, và sửng sốt thấy cả một chương về lịch sử của người Hazara. Cả một chương riêng về dân tộc của Hassan! Trong chương ấy, tôi đọc thấy dân tộc tôi, tộc Pashtun đã ngược đãi và hà hiếp người Hazara. Chương sách nói người Hazara đã gắng sức vùng lên chống lại người Pashtun vào thế kỷ mười chín, nhưng người Pashtun đã "nghiền nát họ bằng bạo lực không thể tả xiết bằng lời." Cuốn sách nói dân chúng tôi đã giết người Hazara, đuổi họ khỏi đất đai của họ, đốt nhà của họ, bán vợ con họ. Cuốn sách nói, một phần lý do khiến người Pashtun áp bức người Hazara vì người Pashtun là những tín đồ hồi giáo Sunni, trong khi đó người Hazara lại là Hồi giáo Shi'a. Cuốn sách viết nhiều điều mà tôi không hiểu, những điều mà các thầy giáo tôi không nói đến. Những điều mà cả Baba cũng chẳng bao giờ đề cập. Nó cũng nói một số điều tôi đã biết, như mọi người gọi người Hazara là bọn ăn thịt chuột, mũi tẹt, lũ lừa ưa nặng. Tôi đã từng nghe thấy mấy thằng nhãi ở vùng lân cận hét lên những biệt hiệu ấy với Hassan.

    Tuần sau đó, sau giờ học, tôi giơ cuốn sách cho thầy giáo tôi và chỉ vào chương nói về người Hazara. Ông xem lướt qua vài trang, cười khẩy và trả lại tôi cuốn sách. "Đó là điều duy nhất dân Shi'a làm đúng," ông nói tiếp, vừa thu dọn sách vở, "làm như những kẻ tuẫn đạo." Ông nhăn mũi khi nói từ Shi'a, như thể nó là một loại bệnh nào đó.

    Nhưng mặc dầu kế thừa cùng dòng máu gia đình và chủng tộc với ông, Sanaubar vẫn vào hùa với lũ trẻ trong vùng nhục mạ Ali. Tôi được nghe nói bà ta chẳng cần giấu giếm gì việc bà ta khinh thị vẻ ngoài của ông.

    - Thế này mà là chồng ư? - bà ta thường cười nhạo. - Tôi thấy mấy con lừa già làm chồng còn thích hợp hơn.

    Rốt cuộc, phần lớn mọi người đều ngờ cuộc hôn nhân này vốn là một sự dàn xếp giữa Ali và cậu mình, cha của Sanaubar. Họ nói Ali đã cưới cô em họ để giúp phục hồi đôi chút danh dự cho tên tuổi bị ô uế của cậu, cho dù Ali, mồ côi từ hồi năm tuổi, đâu có chút của cải vật chất hay khoản thừa kế nào.

    Ali không bao giờ trả đũa bất kỳ kẻ nào hành hạ ông, tôi cho rằng một phần vì ông không bao giờ có thể đuổi kịp họ bằng cái chân xoắn vặn kéo lê phía sau. Nhưng chủ yếu bởi Ali đã miễn nhiễm trước những lời lăng nhục của đám người công kích ông. Ông đã tìm thấy niềm vui, thấy thứ thuốc giải độc của mình, lúc Sanaubar sinh hạ Hassan. Việc đó vốn khá đơn giản. Không có nhân viên sản khoa, không có người gây mê, không có những thiết bị kiểm tra thích hợp. Đúng là Sanaubar chỉ nằm ngửa ra trên một tấm đệm trần bẩn thỉu, với Ali và một bà đỡ giúp việc sinh nở. Thật ra, Sanaubar cũng chẳng cần giúp lắm, bởi vì, ngay trong khi ra đời, Hassan đã giống hệt như bản chất của mình rồi. Cậu không thể làm tổn thương bất kỳ ai. Cằn nhằn vài câu, đẩy mấy cái, thế là tòi ra Hassan. Tòi ra và cười.

    Theo như lời thổ lộ với đày tớ nhà một người hàng xóm của cái bà đỡ hay buôn chuyên, người đã kể lại với bất kỳ ai muốn nghe, thì Sanaubar liếc mắt nhìn đứa trẻ trong cánh tay Ali, thấy cái môi hở, đã xổ ra một chuỗi cười cay đắng.

    - Đó. - Sanaubar nói. - Bây giờ thì ông đã có đứa con ngu xuẩn của chính ông để nó cười hộ cho ông rồi đó! - Bà ta đã không chịu ngay cả bế Hassan, và đúng năm ngày sau thì bỏ đi.

    Baba thuê chính bà vú đã từng cho tôi bú để cho Hassan bú. Ali kể cho chúng tôi, bà vú là một người đàn bà Hazara mắt xanh quê ở Bamiyan, thành phố của những bức tượng Phật khổng lồ. "Bà ấy có giọng hát ru mới ngọt ngào làm sao chứ!" Ông thường nói với chúng tôi như thế.

    Bà ấy hát thế nào, Hassan và tôi luôn hỏi, dẫu hai đứa đã biết thừa - thật ra vì Ali đã kể lại cho chúng tôi không biết bao lần. Chúng tôi chỉ muốn nghe Ali hát.

    Ông hắng giọng và bắt đầu:

    Trên một ngọn núi cao tôi đứng, Ôi Ali, Sư tử của Thượng đế, Vua của Con người, Hãy mang lại niềm vui cho những trái timsầu não của chúng tôi.

    Hát xong, ông thường nhắc nhở chúng tôi rằng có một tình anh em giữa những con người được bú cùng một bầu vú mẹ, tình máu mủ mà ngay cả thời gian cũng không thể phá vỡ.

    Hassan và tôi bú cùng một bầu vú. Chúng tôi chập chững đi những bước đầu tiên trên cùng một bãi cỏ trong cùng một chiếc sân. Và dưới cùng một mái nhà, chúng tôi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên:

    Của tôi là Baba.

    Của cậu ấy là Amir. Tên tôi.

    Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ khởi nguồn của những gì đã xảy ra trong mùa đông năm 1975 - và tất cả những gì tiếp theo sau đó - đã nằm sẵn trong những tiếng bập bẹ đầu tiên ấy.

    * * *

    1 Allah-u-akbar: Đức Allah vĩ đại.

    2 Hazara: Một tộc người Afghan bị người Pashtun kỳ thị.

    3 Cunt: Một từ rất tục chỉ bộ phận sinh dục nữ, tạm dịch là cái lều.

    4 Bazaarr: Phố hoặc một khu đất có nhiều cửa hiệu nhỏ - khu phố chợ.

    5 Naan: Một loại bánh mì dẹt của Afghanistan, hơi giống bánh dẻo của ta.
     
  5. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG III

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tương truyền cha tôi, một bận, bằng hai tay không đã vật nhau với một con gấu đen ở Baluchistan. Nếu chuyện kể về một ai khác, hẳn nó sẽ bị gạt bỏ coi như chuyện Laaf 1, rằng người Afghan có khuynh hướng thổi phồng mọi chuyện - buồn thay, hầu như đó lại là nỗi đau của đất nước. Nếu ai đó khoe khoang con mình là bác sĩ, may ra đứa trẻ từng có lần vượt qua một cuộc trắc khảo sinh học ở trường trung học. Nhưng lại chẳng một ai mảy may nghi ngờ tính chính xác của bất kỳ chuyện nào về Baba. Va nếu họ nghi ngờ, được thôi, Baba đã có ba vết sẹo sóng hàng xuống thành một đường xù xì ở lưng ông. Tôi đã bao lần tưởng tượng ra những cuộc đấu vật của Baba, cả mơ thấy nữa. Và trong những giấc mơ ấy, tôi chẳng bao giờ phân biệt rõ Baba và con gấu.

    Chính chú Rahim Khan là người đầu tiên gọi Baba bằng cái tên sau này trở thành biệt danh nổi tiếng của ông, Toophan agha, hoặc "Ngài Bão tố". Đó là cái biệt danh khá thích hợp. Cha tôi là một sức mạnh từ trong bản chất, một mẫu người Pashtun cao to sừng sững với bộ râu rậm, mớ tóc quăn màu nâu cắt ngắn phóng túng không theo trật tự nào, như chính bản thân ông, đôi bàn tay tưởng có thể nhổ bật rễ cả một cây liễu, và cái nhìn trừng trừng giận dữ như muốn "bắt con quỷ quỳ xuống xin tha tội," như chú Rahim vẫn thường nói. Tại những bữa tiệc, khi cái thân hình một mét tám mươi lăm của ông thình thịch bước vào phòng ăn, mọi con mắt dõi theo ông như hoa hướng dương hướng về mặt trời.

    Không thể nào mà lờ ông đi được, kể cả khi ông ngủ. Tôi thường phải nút đầy bông vào hai tai, kéo chăn trùm kín đầu mà vẫn nghe thấy tiếng Baba ngáy - to đến nỗi giống như tiếng gầm của động cơ xe tải - xuyên cả qua tường. Từ phòng ngủ của tôi phải qua đại sảnh mới đến phòng ngủ của cha tôi. Mẹ tôi làm thế nào để ngủ được cùng phòng với ông quả là một điều bí ẩn đối với tôi. Có cả một danh sách những chuyện tôi muốn hỏi mẹ, nếu lúc nào đó tôi gặp được mẹ.

    Vào khoảng mấy năm cuối của thập kỷ sáu mươi, lúc tôi chừng năm sáu tuổi, Baba quyết định xây một trại mồ côi. Tôi được nghe chuyện qua chú Rahim Khan. Chú kể cho tôi, Baba đã tự mình vẽ những bản thiết kế, mặc dù thật ra ông chẳng có một chút kinh nghiệm nào về kiến trúc cả. Những người hoài nghi giục ông ngừng ngay trò điên rồ và phải thuê một kiến trúc sư. Tất nhiên Baba không chịu, ai nấy đều lắc đầu phát ngán về những cung cách ương bướng của ông. Thế rồi Baba thành công và mọi người lại lắc đầu choáng váng trước những kiểu cách chiến thắng của ông. Baba trả tiền túi của mình cho việc xây dựng trại mồ côi hai tầng này, ngay ngoài dải đất hẹp của Fadeh Maywand ở phía Nam sông Kabul. Chú Rahim bảo tôi riêng Baba tài trợ hoàn toàn cho dự án, trả công cho các kỹ sư, thợ điện, thợ nước và tất cả nhân công, không đếm xỉa đến đám giới chức ở thành phố, loại "ria mép cần phải bôi dầu."

    Phải mất ba năm để xây trại mồ côi. Đến lúc đó tôi đã tám tuổi. Tôi nhớ hôm trước ngày khánh thành trại mồ côi, Baba mang tôi đến hồ Ghargha, cách Kabul vài dặm về phía Bắc. Ông bảo tôi tìm Hassan nữa để cùng đi, nhưng tôi nói dối ông rằng Hassan bị tiêu chảy. Tôi muốn Baba hoàn toàn là của mình. Thêm nữa, một bận tại hồ Ghargha, Hassan và tôi ném thia lia đá, Hassan lia đá nảy được tám lần. Tôi nhiều nhất chỉ được năm. Baba ở đó theo dõi, và ông vỗ nhẹ vào lưng Hassan. Rồi còn đưa cánh tay quàng vai cậu ấy nữa.

    Chúng tôi ngồi vào bàn ăn picnic bên hồ, chỉ có mỗi Baba và tôi ăn trứng luộc với bánh nhân thịt Kofia - một loại bánh naan cuốn thịt viên và dưa góp. Nước hồ xanh biếc và ánh nắng lấp lánh trên mặt nước sáng như gương. Vào những ngày thứ Sáu bờ hồ nhộn nhịp các gia đình đang mong có một ngày phơi nắng. Nhưng hôm ấy là giữa tuần, chỉ có mỗi Baba và tôi, chúng tôi và hai người khách du lịch tóc dài, râu rậm - "kiểu hippy", tôi nghe thấy họ được gọi thế. Họ ngồi trên bến, chân khuấy nước, cần câu trong tay. Tôi hỏi Baba, tại sao họ lại để tóc dài, nhưng Baba chỉ càu nhàu không trả lời. Ông đang chuẩn bị bài diễn văn cho ngày hôm sau, đang lật mở một mớ rối tung những trang viết tay, lấy bút chì ghi chú chỗ này chỗ khác. Tôi cắn quả trứng và hỏi Baba có đúng như một đứa bạn cùng trường bảo tôi, rằng nếu ăn phải một miếng vỏ trứng thì thế nào cũng đái ra nó. Baba lại càu nhàu.

    Tôi lại cắn một miếng bánh cuộn. Một trong hai người khách du lịch tóc vàng cười và phát vào lưng người kia. Xa xa bên kia hồ, một chiếc xe tải ì ạch chạy quanh góc lượn của đồi. Ánh nắng nhấp nháy trong chiếc gương bên cửa xe.

    - Con nghĩ con bị Saratan 2, - tôi nói. Đầy bụng. Baba ngẩng đầu lên khỏi nhưng trang giấy đang sột soạt trong gió nhẹ. Bảo tôi có thể tự mình lấy soda uống. Tất cả những gì tôi phải làm là tìm trong thùng xe.

    Hôm sau, bên ngoài trại mồ côi, hết cả ghế ngồi cho mọi người. Số đông phải đứng để xem lễ khai trương. Đó là một ngày giông gió, và tôi ngồi phía sau Baba, trên một diễn đài nhỏ ngay phía ngoài cửa chính của công trình mới. Baba mặc một bộ lễ phục màu xanh chai và đội mũ lông cừu. Giữa chừng bài diễn văn, gió thổi lật mũ của ông và mọi người cười rộ. Ông ra hiệu cho tôi cầm mũ cho ông, tôi lấy thế làm sung sướng bởi vì như vậy mọi người sẽ biết ông là cha tôi, Baba của tôi. Ông quay lại micrô và nói, ông mong tòa nhà sẽ vững chắc hơn chiếc mũ của ông, và tất cả lại cười. Khi Baba kết thúc bài diễn văn, mọi người đứng cả lên hoan hô. Họ vỗ tay một hồi lâu. Sau đó mọi người bắt tay ông, vài người trong bọn họ xoa đầu tôi và cũng bắt tay tôi nữa. Tôi tự hào về Baba, về chúng tôi.

    Nhưng bất kể những thành tựu của Baba, người ta vẫn luôn nghi ngờ ông. Họ bảo việc ông theo đuổi kinh doanh là không thích hợp với dòng máu của mình. Và ông nên nghiên cứu luật như cha của ông. Vì thế Baba đã chứng tỏ cho họ biết tất cả đều sai lầm bằng việc không chỉ theo đuổi chuyện kinh doanh của riêng ông mà còn trở thành một trong những thương nhân giàu có nhất ở Kabul. Baba và chú Rahim Khan gây dựng một hãng kinh doanh thảm xuất khẩu thành công mỹ mãn, hai hiệu tân dược, và một nhà hàng ăn.

    Khi mọi người nói kháy Baba sẽ không lấy được vợ ra hồn - vì rốt cuộc ông không thuộc dòng máu hoàng tộc - ông lại cưới mẹ tôi, Sofia Akrami, một phụ nữ học vấn cao được mọi người coi như một trong nhưng phu nhân tôn kính nhất, đẹp nhất và đức hạnh nhất. Và không chỉ dạy văn học cổ điển Karsi tại trường đại học, bà còn là hậu duệ của một gia đình hoàng tộc, sự kiện mà cha tôi thường bỡn cợt ném trả vào những bộ mặt hoài nghi bằng cách gọi "nữ quận chúa của tôi".

    Cùng với tôi, hiển nhiên là một ngoại lệ, cha tôi xây đắp thế giới quanh ông theo sở thích của ông. Cố nhiên, Baba nhìn thế giới chỉ có trắng và đen. Ông lại phải tự mình định đoạt cái gì trắng cái gì đen. Bạn không thể yêu một con người sống theo lối đó mà không cảm thấy sợ hãi. Có thể còn hơi ghét nữa.

    Khi tôi học lớp năm, có một giáo sư dạy chúng tôi về đạo Hồi. Tên ông là Fatiullah Khan, một người thấp béo có bộ mặt đầy sẹo trứng cá, giọng khàn khàn. Ông giảng cho chúng tôi những lợi ích của thuế cứu tế và bổn phận hành hương đến thánh địa Mecca. Ông dạy chúng tôi những sự vô cùng phức tạp của năm bổn kinh cầu nguyện Namaz 3, và bắt chúng tôi phải thuộc lòng những vần thơ của kinh Koran - dẫu ông không bao giờ dịch những từ ra cho chúng tôi, ông vẫn nhấn mạnh, đôi khi với sự trợ giúp của một cành liễu đã bóc vỏ, rằng phải phát âm được tiếng Ẳ rập cho thật đúng thì Thượng đế mới nghe rõ được chúng tôi. Một hôm ông bảo chúng tôi rằng đạo Hồi coi uống rượu là một tội ghê gớm. Những kẻ nào uống rượu sẽ phải trả lời về tội của họ vào ngày Qiyamat, Ngày Phán xử. Thời đó, uống rượu hết sức phổ biến ở Kabul. Chẳng một ai công khai chỉ trích anh về điều đó, nhưng những người Afghan phải uống thì cứ uống lén uống lút, chẳng nể nang gì cả. Mọi người mua rượu Scotch như mua "thuốc chữa bệnh" trong túi giấy nâu từ những "cửa hàng thuốc" đặc biệt. Họ thường ra về với chiếc túi giấu cho thật kín, đôi khi thu hút những cái nhìn vừa lén lút vừa không bằng lòng của những người đã biết tai tiếng của cửa hàng về chuyện làm ăn như thế.

    Chúng tôi đang ở trên gác, trong phòng đọc của Baba, cũng là phòng hút thuốc, khi tôi kể cho ông những gì giáo sĩ Fatiullah Khan đã dạy chúng tôi ở lớp. Baba tự rót cho mình một ly whisky từ quầy rượu xây ở góc phòng. Ông nghe, gật đầu, nhấp một nhắp rượu. Rồi ông ngồi vào chiếc ghế sofa đệm da, đặt ly rượu xuống, bế tôi lên đùi ông. Tôi cảm thấy như đang ngồi trên hai thân cây. Ông hít một hơi dài và thở ra đằng mũi, không khí rít lên qua ria mép ông tựa như không dứt. Trong nỗi sợ điếng người, tôi phân vân không biết có muốn ôm ghì lấy ông hay tụt ngay ra khỏi đùi ông.

    - Bố thấy con bị hoang mang về những gì con đang học ở trường, theo lối giáo dục hiện thời, - ông nói bằng một giọng nặng trịch.

    - Nhưng nếu những gì ông ta nói đều đúng, hóa ra Baba là kẻ mắc tội?

    - Hừm! - Baba nghiến một miếng nước đá giữa hai hàm răng. - Con có biết bố con nghĩ thế nào về tội lỗi không?

    - Có ạ.

    - Vậy bố nói cho con nghe, - Baba tiếp - nhưng trước hết phải hiểu điều này, và hiện ngay bây giờ, Amir ạ. Con sẽ chẳng học được điều gì ra hồn từ những lão râu dài ngu xuẩn ấy.

    - Ý bố nói giáo sĩ Fatiullah Khan?

    Baba ra hiệu bằng ly rượu. Nước đá kêu lanh canh.

    - Bố muốn nói tất cả bọn họ. Đái vào râu tất cả cái lũ khỉ lên mặt đạo đức ấy.

    Tôi bật cười khúc khích. Hình ảnh Baba đái lên râu của bất kỳ con khỉ nào, lên mặt đạo đức hoặc không phải thế, thật quá đã.

    - Họ chẳng làm được trò gì ngoài việc lần tràng hạt và đọc một cuốn sách viết theo một lối mà chính họ cũng không hiểu, - ông nhấp một nhắp nữa. - Cầu Thượng đế phù hộ cho chúng ta để đừng bao giờ Afghanistan rơi vào tay họ.

    - Nhưng giáo sĩ Fatiullah Khan có vẻ tốt mà, - tôi cố nói xen vào giữa lúc đang bật lên cười rúc rích.

    - Thành Cát Tư Hãn cũng có vẻ như vậy, - Baba nói. - Nhưng thôi xếp lại chuyện ấy. Con hỏi bố về tội lỗi và bố muốn nói cho con nghe. Con đang nghe đấy chứ?

    - Vâng ạ, - tôi nói, mím môi lại. Nhưng một tiếng khụt khịt vẫn cứ bật ra khỏi mũi tôi khiến tôi lại khúc khích cười.

    - Bố muốn nói với con như một người đàn ông nói với một người đàn ông. Con có thể xử sự như thế được một lần không?

    - Vâng, thưa Baba jan 4, - tôi ấp úng ngạc nhiên, không phải lần đầu chỉ bằng mấy lời mà Baba lại có thể khiến tôi thấy nhói lên trong lòng. Chúng tôi đã có được những phút giây tốt đẹp ngắn ngủi - chẳng mấy khi Baba nói với tôi mà chỉ có mỗi mình tôi ngồi trên đùi ông như thế - và tôi đúng là một thằng ngốc mới để phí hoài điều đó.

    - Tốt lắm, - Baba nói nhưng mắt ông lạ lùng. - Bây giờ, không cần biết ông thầy giáo sĩ ấy dạy gì, chỉ biết có duy nhất một tội, một tội thôi. Đó là tội ăn cắp. Mọi tội khác đều là biến thái của tội ăn cắp. Con có hiểu không?

    - Không, thưa Baba jan, - Tôi nói, trong lòng thất vọng những mong mình hiểu. Tôi đâu muốn làm ông thất vọng.

    Baba thốt ra một tiếng thở dài sốt ruột. Như thế cũng làm tôi day dứt, bởi ông không phải con người nóng nảy. Tôi vẫn nhớ tất cả những lần tối rồi mà ông vẫn chưa về nhà, tất cả những lần tôi ăn tối một mình. Tôi thường hỏi ông Ali rằng Baba đâu, khi nào thì cha tôi trở về nhà, mặc dầu tôi thừa biết ông ở công trường xây dựng để trông nom chỗ này, giám sát chỗ kia. Như thế không cần kiên nhẫn sao? Tôi đâm ra căm ghét tất cả những đứa trẻ mà ông đang xây trại mồ côi cho. Đôi khi tôi mong chúng chết đi theo cha mẹ chúng.

    - Khi con giết một người, con ăn cắp một cuộc đời, - Baba nói. - Con ăn cắp quyền làm vợ của một người đàn bà, cướp cha của lũ trẻ. Khi con nói dối là con ăn cắp quyền của ai đó được biết sự thật. Khi con lừa bịp, con ăn cắp quyền được ngay thẳng. Con có hiểu không?

    Tôi hiểu. Khi Baba sáu tuổi, giữa đêm khuya một tên trộm đột nhập vào nhà ông tôi. Ông tôi, vị thẩm phán đáng kính, đương đầu với hắn, nhưng tên trộm đâm ông tôi vào họng giết ông chết ngay, cướp mất cha của Baba. Dân thị xã bắt được tên sát nhân ngay trước buổi trưa hôm sau. Hóa ra là mộ lên du thủ du thực từ vùng Kunduz. Người ta treo cổ hắn lên cành một cây sồi, trước lễ cầu nguyện ban chiều hai tiếng. Chính chú Rahim Khan chứ không phải Baba kể cho tôi chuyện đó. Tôi luôn được biết mọi điều về Baba từ những người khác.

    - Không có hành động nào xấu xa hơn trộm cắp, Amir ạ, - Baba nói. - Một người chiếm đoạt những gì không phải của mình, dù đó là một cuộc đời hay một ổ bánh naan.. Ta nhổ vào loại người ấy. Và Thượng đế phù hộ cho hắn để đừng bao giờ hắn gặp phải ta. Con có hiểu không?

    Tôi thấy cái ý của Baba chỉ trích kịch liệt tên trộm cắp vừa hay ho vừa làm tôi sợ phát khiếp:

    - Vâng, thưa Baba.

    - Nếu như có một vị Thượng đế ở đâu đó, thì ta chỉ mong ông ấy có nhiều việc quan trọng hơn là để ý đến ta uống rượu Scotch và ăn thịt lợn. Nào, bây giờ tụt xuống. Nói chuyện mãi về tội lỗi làm ta lại khát rồi.

    Tôi nhìn ông rót đầy ly rượu và ngạc nhiên, không hiểu còn lâu lắm không, cho tới khi chúng tôi lại chuyện trò như vừa rồi. Bởi vì sự thật là, tôi luôn cảm thấy như Baba hơi ghét tôi. Và tại sao lại không nhỉ? Rốt cuộc, chẳng phải tôi đã giết chết người vợ yêu dấu của ông, bà quận chúa xinh đẹp của ông hay sao? Điều tối thiểu mà tôi có thể làm, là phải cư xử sao cho đúng phép để trở nên giống ông hơn một chút. Nhưng tôi đã không trở thành giống ông. Không chút nào.

    ° ° °

    Ở trường, chúng tôi thường chơi trò chơi Sherjangi, hay "Đấu thơ". Thầy giáo dạy môn văn học Farsi điều khiển cuộc chơi khái như sau: Anh đọc lên một câu từ một bài thơ và đối thủ của anh có sáu mươi giây để đáp lại bằng một câu thơ khác khởi đầu bằng chữ cuối của câu kia. Mọi người ở lớp đều muốn tôi trong đội chơi của họ, bởi vì vào lúc mười một tuổi, tôi đã có thể đọc hàng tá các câu thơ từ Khayyám, Hãfez hoặc Masnawi nổi tiếng của Rumi 5. Một bận, tôi chấp cả lớp và tôi thắng. Rất khuya đêm đó, tôi kể lại chuyện ấy với Baba, nhưng ông chỉ gật đầu lẩm bẩm "Tốt".

    Vì thế mà tôi thường tìm cách thoát khỏi sự xa cách của cha, nhờ vào đống sách của người mẹ đã khuất của tôi. Tất nhiên, cả Hassan nữa. Tôi đọc mọi thứ của Rumi, Hãfez, Saadi, Victor Hugo, Jules Verne, Mark Twain, Ian Fleming. Khi đọc hết đống sách của mẹ - không kể những cuốn sách lịch sử buồn chán, tôi chẳng bao giờ để ý tới loại ấy, chỉ đọc những tiểu thuyết, những sử thi, - tôi bắt đầu tiêu tiền bố cho vào việc mua sách. Mỗi tuần tôi mua một cuốn ở hiệu sách gần Công viên Điện ảnh, và cất giữ trong một thùng các tông, khi đã hết chỗ để trên kệ.

    Đương nhiên, cưới một nhà thơ là một chuyện, làm cha một đứa con trai thích vùi đầu vào sách thơ hơn đi săn.. ồ, đó lại là điều mà Baba không nhắm tới, tôi cho là như vậy. Đàn ông đích thực không đọc thơ - và Thượng đế cấm họ không bao giờ được làm thơ! Những người đàn ông đích thực - những chàng trai đích thực nữa - chơi bóng đá như Baba đã từng chơi hồi còn trẻ. Giờ đây, bóng đá vẫn là điều gì đó khiến ông say mê. Năm 1970, Baba cho ngừng việc xây dựng trại mồ côi, và bay đến Tehran một tháng để xem bóng đá thế giới trên vô tuyến truyền hình, vì thời đó Afghanistan chưa có truyền hình. Ông ghi tên tôi vào những đội bóng đá để khuấy lên cùng sự đam mê trong tôi. Nhưng tôi là một gánh nặng sai lầm tệ hại khổ sở cho đội bóng của tôi, luôn làm vướng chân một đường chuyền thích hợp hoặc vô tình đứng chặn một đường bóng thoáng. Tôi lê đôi chân khẳng khiu về phía sân đối phương, hét lên gọi những đường bóng chẳng bao giờ đến được với mình. Và tôi càng cố, hai tay giơ trên đầu vẫy vẫy, cuồng nhiệt hét to "Tôi đón đây! Tôi đón đây!" thì lại càng bị phớt lờ. Nhưng Baba nào có chịu buông tha. Khi sự thể đã trở nên quá rõ ràng, tôi không kế thừa được những tài năng lực sĩ của ông, ông lại tìm cách biến tôi thành một khán giả say mê bóng đá. Chắc chắn tôi có thể xoay xở ư? Tôi vờ vịt quan tâm đến chuyện đó càng lâu càng tốt. Tôi reo lên cùng ông khi đội Kabul ghi bàn vào đội Kandahar và hét lên lăng mạ trọng tài thổi phạt đền đội bóng của chúng tôi. Nhưng Baba đoán được tôi thiếu niềm say mê thực sự và ông đành đầu hàng trước sự thể hiển nhiên là con trai ông chẳng bao giờ trở thành cầu thủ cũng như một fan bóng đá.

    Tôi còn nhớ một lần Baba mang tôi tới xem cuộc tỉ thí Buzkashi hàng năm tổ chức vào đầu xuân, ngày Tết năm mới.

    Buzkashi là, và mãi là, niềm đam mê của cả nước Afghanistan. Một Chapandaz, kỵ mã cực kỳ điệu nghệ, thường được những người hâm mộ giàu có bảo trợ, phải chộp được xác con dê hoặc con thú đã chết từ giữa một đám hỗn loạn, phi hết nước đại mang theo con mồi chạy quanh đấu trường, rồi ném nó vào đường tròn thắng điểm, trong khi ấy đội của Chapandaz khác săn đuổi, và làm đủ mọi điều tùy sức của họ - đá, túm, vụt, thụi để chộp lại con mồi từ anh ta. Hôm đó, người xem gào lên phấn khích khi người kỵ sĩ trên đấu trường gầm nhưng tiếng thét chiến trận, chen đẩy để cướp con mồi trong đám bụi mù mịt. Mặt đất rung lên tiếng vó ngựa rầm rập. Tôi và cha tôi ngồi xem ở phía khán đài trên khi các kỵ sĩ phi hết nước đại rầm rập chạy qua, vừa reo vừa gào thét, ngựa sùi bọt mép. Bỗng Baba chỉ về phía ai đó.

    - Amir này, con có trông thấy người ngồi trên đó cùng với những người khác vây quanh ông ta không? Tôi có thấy.

    - Đó là ông Henry Kissinger 6 đấy.

    - Ồ! - Tôi nói. Tôi đâu có biết ông Kissinger là ai, và đã định hỏi cha. Nhưng ngay lúc ấy, tôi khiếp hãi chứng kiến một trong những Chapandaz ngã khỏi yên và bị giày xéo dưới nhiều móng ngựa. Thân thể người ấy bị ném tung lên, và quăng vào đám đông hỗn loạn như một con búp bê nhồi vải vụn, cuối cùng lăn lông lốc rồi dừng lại, khi đám hỗn loạn đã rời đi. Anh ta giật lên một cái rồi nằm bất động, đôi chân còng lại thành những góc bất bình thường, một vũng máu ướt đẫm trên cát.

    Tôi bắt đầu khóc.

    Tôi khóc suốt trên đường về nhà. Tôi còn nhớ hai tay Baba siết chặt vô lăng như thế nào. Siết chặt và nới lỏng. Cái chính là, tôi không bao giờ quên những cố gắng phi thường của Baba hòng che giấu cái nhìn kinh tởm trên khuôn mặt ông khi ông im lìm lái xe.

    Khuya đêm đó, tôi đang đi ngang qua phòng đọc của cha tôi thì thoáng nghe thấy ông đang nói chuyện với chú Rahim Khan. Tôi áp tai vào cửa đóng kín.

    * * *may là nó khoẻ mạnh, - chú Rahim Khan đang nói.

    - Tôi biết, tôi biết. Nhưng nó cứ luôn vùi đầu vào mấy cuốn sách đó hoặc lang thang quanh nhà như lạc trong mộng mị.

    - Thì sao?

    - Tôi không thích thế, - Baba nói oang oang, chán nản, gần như tức giận.

    Chú Rahim Khan cười.

    - Trẻ con đâu phải những quyền sách tập tô màu. Anh không phải bôi đầy chúng bằng những màu anh ưa thích.

    - Tôi nói để ông biết, - Baba nói. - Tôi không thích như thế chút nào cả, mà có phải tôi sống với đứa trẻ bất kỳ nào đó đâu cơ chứ.

    - Anh biết không, đôi khi anh là một người tự coi mình là trung tâm bậc nhất đấy. - Chú Rahim Khan nói. Chú là người duy nhất mà tôi biết có thể phân đôi bằng việc nói những điều như thế với Baba.

    - Thế thì chẳng còn điều gì phải bàn cả.

    - Không ư?

    - Không.

    - Rồi sao?

    Tôi nghe thấy tiếng da đệm ghế Baba kin kít, như thể ông đang xê dịch trên đó. Tôi nhắm mắt lại, ép tai chặt hơn nữa vào cánh cửa, nửa muốn nghe, nửa không muốn. - "Đôi khi từ cửa số này tôi nhìn ra ngoài và thấy nó đang chơi trên đường phố cùng lũ con trai hàng xóm. Tôi thấy chúng trêu chọc nó, cướp đồ chơi của nó, ẩy vào chỗ này, đánh vào chỗ kia. Mà, ông biết không, nó không bao giờ đánh trả. Không bao giờ. Nó chỉ.. cúi đầu và..

    - Vậy nó không ưa bạo lực, - chú Rahim nói.

    - Ý tôi không phải như thế, Rahim, ông biết mà, - Baba phản bác. - Có một cái gì đó thiếu hụt trong thằng bé này.

    - Phải, một tính cách tiểu nhân.

    - Tự vệ không có gì giống với tiểu nhân. Ông có biết điều gì luôn xảy ra khi những đứa trẻ hàng xóm trêu chọc nó không? Hassan giúp sức và cản chúng lại. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh đó. Rồi khi hai đứa về nhà, tôi nói với nó:" Làm thế nào mà Hassan lại có vết xước trên mặt thế kia? "Nó nói:" Cậu ấy ngã". Tôi bảo cho ông hay, Rahim ạ, có một cái gì đó thiếu hụt ở thằng bé đó.

    - Anh chỉ cần để nó tự tìm con đường của mình, - chú Rahim Khan nói.

    - Và rồi nó sẽ đi tới đâu, - Baba nói. - Một thằng con trai không tự bảo vệ mình sẽ trở thành một người đàn ông không thể bảo vệ bất cứ điều gì.

    - Anh vẫn cứ hay quá đơn giản hóa mọi điều.

    - Tôi không nghĩ thế.

    - Anh tức giận bởi vì anh sợ nó sẽ không bao giờ quản lý được công việc kinh doanh cho anh.

    - Nào, xem bây giờ ai đang quá đơn giản hóa mọi chuyện đây, - Baba nói. - Xem nào, tôi biết có một sự quyến luyến giữa anh và nó. Tôi sung sướng về điều đó. Ghen tị nhưng sung sướng. Tôi muốn nói thế. Nó cần một ai đó.. hiểu nó, bởi vì Thượng đế biết, tôi không hiểu nổi nó. Nhưng có điều gì đó Amir làm tôi bứt rứt, bứt rứt như thế nào tôi không diễn tả được. Nó giống như.. - Tôi có thể hình dung ra ông loay hoay tìm một từ thật đúng. Ông hạ giọng xuống, nhưng dẫu sao tôi cũng vẫn nghe thấy. - Nếu như tôi không tận mắt trông thấy bác sĩ lôi nó ra từ trong bụng vợ tôi, tôi chẳng giờ tin nó là con trai tôi.

    Sáng hôm sau, lúc chuẩn bị bữa sáng cho tôi Hassan hỏi có điều gì làm tôi khó chịu vậy. Tôi nổi cáu với cậu ấy, bảo hãy nghĩ đến công việc của mình.

    Chú Rahim đã nhầm về chuyện tính cách tiểu nhân.

    * * *

    1 Laaf: Trong nguyên bản, tạm dịch chuyện tếu.

    2 Saratan: Tiếng Afghan có nghĩa là khối u, tạm dịch là đầy bụng.

    3 Kinh cầu nguyện buổi chiều tối.

    4 Jan: Tiếng đệm khi xưng hô tỏ ý yêu quý.

    5 Tên những tập thơ và tác giả quen thuộc của Afghanistan.

    6 Ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó.
     
  6. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG IV

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm 1933, năm Baba chào đời, cũng là năm quốc vương Zahir Shah bắt đầu năm thứ bốn mươi trị vì Afghanistan, hai anh em, hai gã trai trẻ trong một gia đình giàu có và danh giá ở Kabul ngồi sau tay lái chiếc xe Ford của cha mình. Ngà ngà say thuốc lá tẩm thuốc phiện và chếnh choáng rượu vang Pháp, họ đã cán chết đôi vợ chồng người Hazara trên con đường tới Paghman. Cảnh sát đem hai gã trai có vẻ ăn năn hối lỗi và đứa con trai mồ côi năm tuổi của đôi vợ chồng đã chết đến trước ông tôi, lúc đó là một vị quan tòa uy danh và là một con người uy tín mẫu mực. Sau khi nghe hai gã trai tường trình và người cha xin khoan hồng, ông tôi quyết định anh em nhà kia phải lập tức đến Kandahar và ghi tên vào quân đội trong một năm - mặc cho gia đình họ đã xoay xở mọi cách để họ được miễn trừ bản án. Người cha của họ cũng tranh biện, nhưng cũng không quyết liệt lắm, và cuối cùng mọi người đều đồng ý là việc trừng phạt có lẽ hơi cay nghiệt nhưng thỏa đáng. Còn với đứa trẻ mồ côi, ông tôi nhận nuôi trong gia đình mình và ra lệnh cho những đày tớ khác kèm cặp nhưng phải đối xử tốt với đứa bé. Đứa bé đó là Ali.

    Ali và Baba lớn lên cùng nhau như đôi bạn để chỏm - ít nhất cũng cho đến khi bệnh viêm tủy xám làm bại liệt chân của Ali - hệt như tôi và Hassan cùng lớn lên ở thế hệ sau. Baba luôn kể cho chúng tôi nghe về những trò tinh nghịch của ông và Ali, và Ali thường lắc đầu bảo: "Nhưng, Agha sahib 1, kể cho chúng tôi nghe ai là người nghĩ ra trò tinh nghịch và ai là người thực hiện đáng thương chứ?" Baba thường chỉ cười và dang cánh tay ôm lấy Ali.

    Nhưng không có một chuyện nào ông kể mà trong đó Baba lại xem Ali như bạn của mình.

    Điều lạ lùng là, tôi cũng không bao giờ nghĩ tôi và Hassan là đôi bạn. Dẫu sao, cũng không theo nghĩa thông thường. Bất kể việc chúng tôi dạy nhau đi xe đạp buông hai tay, hoặc thiết kế một cái máy tính tại nhà có đủ chức năng từ một hộp các tông. Bất kể chúng tôi cùng nhau thả diều suốt mùa đông, và đua diều. Bất kể đối với tôi, bộ mặt của người Afghanistan chính là bộ mặt của thằng bé có dáng người thon thả, với cái đầu cạo trọc, đôi tai mọc thấp, thằng bé với bộ mặt búp bê Tàu vĩnh viễn ngời sáng nụ cười môi hẻ.

    Bất chấp mọi điều đó. Bởi vì lịch sử không dễ để mà vượt qua. Tôn giáo cũng vậy. Rốt cuộc rồi vẫn cứ là người Pashtun, còn cậu ấy là người Hazara. Tôi là người Sunmi và cậu ấy là người Shi'a, và không gì có thể thay đổi điều đó. Không gì hết.

    Nhưng chúng tôi là những đứa trẻ đã từng cùng tập bò với nhau, và cũng không có lịch sử nào, vấn đề chủng tộc nào, xã hội nào, tôn giáo nào thay đổi được điều đó. Tôi đã trải qua mười hai năm đầu của đời tôi chơi đùa cùng Hassan. Đôi khi, cả thời thơ ấu của tôi tựa như một ngày hè dài lười biếng cùng với Hassan, đuổi nhau giữa nhưng rặng cây trong sân nhà cha tôi, chơi trò trốn tìm, công an bắt kẻ trộm, cao bồi và người da đỏ, hành hạ côn trùng - với thành công rực rỡ không chối cãi được là cái lần chúng tôi rút vòi của con ong rồi buộc quanh sinh vật đáng thương một cái dây, để mỗi lần nó bay lên lại bị giật mạnh lại.

    Chúng tôi đuổi theo người Kochi, những bộ lạc du mục ngang qua Kabul, trên đường tới các dãy núi phía Bắc. Chúng tôi thường nghe tiếng những ngôi nhà lưu động tiến gần vùng lân cận chúng tôi, tiếng đàn cừu của họ kêu è ẹ, tiếng đàn dê kêu be be, nhạc rung quanh cổ lũ lạc đà. Chúng tôi thường chạy ra khỏi nhà để xem đoàn nhà lưu động cót két lăn qua đường phố của chúng tôi, những người đàn ông đầy bụi bặm, mặt dãi dầu nắng gió và những người đàn bà choàng khăn dài sặc sỡ, đeo những chuỗi hạt cườm và vòng bạc ở cổ tay và khuỷu tay. Chúng tôi ném đá cuội vào những con dê của họ. Chúng tôi phun nước vào những con la của họ. Tôi thường bắt Hassan ngồi trên Bức tường Ngô ốm lấy súng cao su bắn sỏi vào đít lũ lạc đà.

    Chúng tôi cùng nhau đi xem bộ phim cao bồi viễn Tây đầu tiên, Rio Bravo, với diễn viên John Wayne thủ vai, ở Công viên Điện ảnh, vượt qua đường phố có hiệu sách ưa thích của tôi. Tôi nhớ mình đã từng nài xin Baba mang chúng tôi tới Iran, để chúng tôi có thể gặp John Wayne. Baba phá lên cười một chuỗi dài tưởng vỡ họng - một âm thanh không phải không giống động cơ xe tải đang rồ máy - rồi khi đã có thể nói lại được, ông giải thích cho chúng tôi khái niệm về lồng tiếng. Hassan và tôi sửng sốt. Sững sờ. John Wayne không thực sự nói tiếng Farsi và ông ta không phải người Iran. Ông ta là người Mỹ, hệt như những người đàn ông và đàn bà tóc dài thân thiện chúng tôi luôn thấy vơ vẩn ở Kabul, mặc những chiếc váy màu sặc sỡ và xơ gấu. Chúng tôi xem Rio Bravo ba lần, nhưng chúng tôi xem bộ phim cao bồi ưa thích của mình, phim Bảy anh chàng cừ khôi tới mười ba bận. Mỗi lần xem, lúc kết thúc chúng tôi đều khóc khi thấy những đứa trẻ Mexico chôn Charles Bronson - hóa ra cũng không phải là người Iran.

    Chúng tôi tản bộ trong những phố chợ nhỏ sặc mùi rêu mốc của quận Sha-e-Nau ở Kabul, hoặc trong khu đô thị mới phía Tây quận Wazir Akbar Khan. Chúng tôi trò chuyện về bất cứ phim nào vừa xem và dạo bộ giữa những đám người hối hả của khu phố chợ. Chúng tôi len lỏi giữa những thương gia và những kẻ ăn mày, lang thang qua các ngõ hẹp vướng víu nhiều dãy lều quán nhỏ chặt ních hàng. Baba cho mỗi đứa chúng tôi mỗi tuần mười đồng Afghani 2 và chúng tôi tiêu vào khoản Coca-Cola ấm và kem nước hoa hồng bên trên có rắc quả hồ trăn nghiền nhỏ.

    Trong năm học, chúng tôi có lệ quen hàng ngày. Vào lúc tôi lề mề ra khỏi giường và lê đến buồng tắm thì Hassan đã tắm rửa rồi, cả cầu nguyện kinh Namaz buổi sáng với ông Ali và sửa soạn bữa sáng cho tôi: Trà đen nóng, với ba thỏi đường, một lát bánh naannướng bên trên quệt món mứt dầm anh đào chua mà tôi ưa thích, tất cả đều được đặt ngay ngắn trên bàn ăn. Trong khi tôi ăn và phàn nàn về bài tập về nhà, Hassan dọn dẹp giường ngủ, đánh giày cho tôi, là áo ngoài mặc hôm đó và xếp sách bút cho tôi. Tôi thường nghe thấy cậu hát một mình ở ngoài tiền sảnh lúc là quần áo, hát nhưng bài ca cổ Hazara bằng giọng mũi. Rồi, Baba và tôi rời khỏi nhà trong chiếc xe Ford Mustang đen - chiếc xe mà đâu đâu mọi người cũng nhìn mộ cách thèm thuồng, bởi vì nó cùng loại xe mà Steve McQueen đã lái trong phim Bullitt, bộ phim được chiếu trong một rạp chiếu phim tới sáu tháng liền. Hassan ở nhà giúp ông Ali những công việc trong ngày: Giặt bằng tay quần áo bẩn rồi đem phơi ngoài sân, lau quét sàn nhà, ra phố chợ mua bánh naan sống, nấu món sốt thịt cho bữa chiều, tưới cỏ.

    Đi học về, tôi và Hassan lại gặp nhau, vơ lấy một cuốn sách, tung tăng phi lên ngọn đồi hình bát úp tọa lạc đúng phía Bắc dinh cơ của cha tôi ở quận Wazir Akbar Khan. Nơi đó có một nghĩa địa hoang phế, với những dãy bia mộ bằng đá không ghi tên và những bụi cây ngăn hai bên lối đi. Nhiều mùa mưa và tuyết rơi đã làm chiếc cổng sắt han gỉ và khiến những dãy tường đá trắng của nghĩa địa xiêu đổ. Có một cây lựu gần lối vào nghĩa địa. Một ngày mùa hè, tôi đã dùng con dao bếp của ông Ali khắc tên chúng tôi tên thân cây: "Amir và Hassan, hai Sultan 3 của Kabul". Những chữ đó chính thức tỏ rõ: Cây lựu là của chúng tôi. Đi học về, Hassan và tôi trèo lên cây và hái những quả lựu đỏ tươi. Ăn lựu và chùi tay xuống cỏ xong, tôi thường đọc sách cho Hassan nghe.

    Ngồi xếp bằng tròn, ánh nắng và bóng lá cây lựu vờn múa trên mặt, Hassan lơ đãng nhổ những túm cỏ khỏi mặt đất, trong khi tôi đọc những truyện ngắn mà cậu không tự đọc được. Thực tế Hassan lớn lên cũng mù chữ như ông Ali và phần lớn những người Hazara vốn đã được định phận từ giây phút sinh ra, thậm chí có lẽ từ lúc bắt đầu được thai nghén bất đắc dĩ trong bụng của Sanaubar. Nhưng rốt cuộc người hầu biết chữ để làm gì cơ chứ? Nhưng dẫu mù chữ, hoặc biết đâu chính vì vậy, Hassan bị sự huyền bí của ngôn từ thu hút, bị quyến rũ bởi một thế giới bí mật cấm đoán với mình. Tôi đọc cho cậu ấy những bài thơ, truyện ngắn, đôi khi những câu đố mẹo - dẫu tôi thường dừng ngay khi thấy cậu giải hay hơntôi quá nhiều. Thế là tôi đọc cho cậu những chuyện không cần tranh cãi, như những chuyện rủi ro của giáo sĩ Hồi giáo Nasruddin ngớ ngẩn và con lừa của ông ta. Chúng tôi ngồi hàng giờ dưới gốc cây đó, ngồi cho đến khi mặt trời tà úa ở phía Tây, vậy mà Hassan vẫn cố nài, nói hai đứa còn đủ ánh sáng để đọc thêm một truyện nữa, một chương nữa.

    Phần đọc tôi thú vị là khi chúng tôi tình cờ gặp một từ mà cậu ấy không biết. Tôi thường trêu cậu, phơi bày sự dốt nát của cậu ra. Có lần tôi đang đọc cho cậu nghe một truyện về tu sĩ hồi giáo Nasruddin, Hassan ngắt lời tôi:

    - Từ ấy nghĩa thế nào?

    - Từ nào?

    - Đần độn.

    - Cậu không biết nghĩa là gì à? - Tôi nhăn nhở hỏi.

    - Không, Amir agha.

    - Nhưng nó chỉ là một từ thông thường thôi mà!

    - Tôi vẫn không hiểu.

    Nếu Hassan có cảm thấy tôi chơi xỏ cậu, thì khuôn mặt tươi cười của cậu cũng không biểu lộ ra.

    - Ồ cả trường tôi, ai chả biết nó nghĩa là gì, - Tôi nói. - Để xem nào, "Đần độn" có nghĩa là tinh nhanh, thông minh. Tôi đặt một câu cho cậu có sử dụng chữ đó nhé: Nói về từ vựng, Hassan là một kẻ đần độn.

    - À, à, - Hassan gật gật đầu. Sau đó, tôi luôn cảm thấy mình có tội. Vì vậy tôi thường tìm cách xí xóa bằng cách cho cậu ấy một chiếc áo sơ mi cũ, hoặc một đồ chơi hỏng. Tôi thường tự nhủ thế là đủ sửa chữa cho trò đùa vô hại rồi.

    Cuốn sách mà Hassan ưa thích nhất là cuốn Shahnamah, thiên sử thi thế kỷ thứ mười kể về những anh hùng Ba Tư cổ xưa. Cậu thích tất cả các chương, các Shah 4 đời trước Feridoun, Zal và Rudabeh. Nhưng truyện ưa thích nhất của cậu cũng như của tôi, là "Rostam và Sohrab", câu chuyện về chiến binh vĩ đại Rostam và con ngựa nhanh như gió Rakhsh. Trên chiến trường, Rostam chém tử thương Sohrab, kẻ báo ứng can đảm của mình, chỉ để nhận ra Sohrab chính là đứa con trai từ lâu thất lạc. Giày vò đau đớn, Rostam nghe những lời trăng trối của con trai mình:

    Nếu ông quả thật là cha ta, chẳng phải thanh kiếm trong tay ông đã vấy máu tươi của con trai ông rồi ư. Và ông làm thế là do sự ngoan cố của ông. Bởi ta đã cố làm cho ông biết yêu thương, ta van xin đích danh ông, vì ta nghĩ nhìn thấy trong ông những dấu hiệu nhắc nhớ điều gì đó của mẹ ta. Nhưng ta cầu cứu trái tim ông vô ích, và bây giờ cơ hội tái hợp đã qua rồi..

    - Đọc lại đi, tôi xin Amir agha đấy, - Hassan thường nói vậy. Đôi khi nước mắt ứa lên trong đôi mắt của Hassan khi tôi đọc cái đoạn ấy, và tôi luôn không hiểu cậu khóc vì ai, cho ông Rostam dằn vặt đớn đau xé toang áo quần và phủ tro trên đầu mình, hay Sohrab đang hấp hối, từ lâu vẫn mong đợi tình thương yêu của cha mình. Riêng tôi, tôi không thể thấy được tấn bi kịch trong số phận của Rostam. Rốt cuộc, phải chăng tất cả những người cha trong tâm can sâu kín của mình đều ấp ủ một ước muốn giết chết con trai họ?

    Một hôm, vào tháng Bảy năm 1973, tôi chơi một trò bịp nhỏ khác với Hassan. Đang đọc cho cậu ấy nghe, bất chợt tôi bỏ câu chuyện đi. Tôi vờ như vẫn đọc cuốn sách đó, cũng lật trang đều đặn, nhưng tôi đã bỏ rơi hoàn toàn văn bản, làm chủ câu chuyện, và phịa ra theo ý tôi. Hassan đương nhiên không nhận ra điều đó. Với cậu, những từ trên trang giấy là sự cạnh tranh gay gắt của bao nhiêu mật mã không thể giải nổi, bí hiểm. Từ ngữ là những cổng vào bí mật và tôi nắm giữ chìa khóa. Sau đó, tôi hỏi cậu xem có thích truyện đó không, một tiếng khúc khích dâng lên trong họng tôi, khi Hassan vỗ tay hoan hô. Tôi hỏi:

    - Cậu đang làm cái gì đấy?

    - Đấy là câu chuyện hay nhất cậu đọc cho tôi lâu nay đấy, - Hassan vẫn vừa vỗ tay vừa nói.

    Tôi cười:

    - Thật không?

    - Thật.

    - Thế thì hấp dẫn ư? - tôi lẩm bẩm. Tôi cũng định nói như thế. Điều này là.. hoàn toàn không mong đợi. - Cậu tin chắc thế không, Hassan?

    Hassan vẫn đang vỗ tay:

    - Thật tuyệt vời, Amir agha. Mai cậu lại đọc nữa cho tôi chứ?

    - Hấp dẫn, - tôi nhắc lại, hơi khó thở, cảm thấy như một người vừa khám phá ra kho tàng chôn giấu trong sân sau nhà mình. Bước xuống chân đồi, những ý nghĩ cú phụt ra trong đầu tôi như pháo hoa trong ngày hội Chaman 5. Truyện hay nhất cậu đọc cho tôi lâu nay đấy, cậu ấy đã nói thế. Tôi đã đọc cho cậu khá nhiều truyện ngắn. Hassan hình như đang hỏi tôi điều gì đó.

    - Gì cơ?

    - Hấp dẫn, thế nghĩa là gì?

    Tôi cười, ghì chặt lấy cậu ấy và đặt một cái hôn lên má.

    - Thế là thế nào? - Hassan giật mình, đỏ mặt nói.

    Tôi thân mật ẩy cậu một cái. Rồi mỉm cười.

    - Hassan, cậu là một ông hoàng. Cậu là một ông hoàng và tôi yêu cậu.

    Ngay tối hôm đó, tôi viết cái truyện ngắn đầu tiên của tôi. Mất ba mươi phút. Đó là một câu chuyện nhỏ u tối về một người đàn ông tìm thấy chiếc cốc thần và biết được rằng nếu khóc vào chiếc cốc ấy nước mắt của ông sẽ biến thành ngọc trai. Nhưng mặc đầu luôn sống trong cảnh nghèo khổ, ông vẫn là người hạnh phúc và hiếm khi rơi một giọt nước mắt. Vì vậy, ông tìm mọi cách làm cho mình buồn, để nước mắt có thể làm cho ông trở nên giàu có. Ngọc trai chất đống cao đến đâu, lòng tham của ông ta tăng lên đến đấy. Truyện kết thúc kết thúc khi người đàn ông ngồi trên một núi ngọc, con dao cầm trong tay, đang khóc một cách vô vọng vào trong chiếc cốc, tay ôm xác người vợ yêu dấu bị giết.

    Tối đó, tôi leo lên thang gác và bước vào phòng hút thuốc của Baba, trong tay tôi là hai tờ giấy trên đó tôi viết nguệch ngoạc câu chuyện ấy. Baba và chú Rahim Khan đang hút tẩu thuốc và nhấm nháp rượu brandy khi tôi bước vào.

    - Cái gì thế, Amir? - Baba vừa hỏi vừa ngả người trên ghế sofa, đan hai tay gối phía sau đầu. Khói xanh cuộn xoáy quanh mặt ông. Cái nhìn trừng trừng của ông làm cho họng tôi khô lại. Tôi hắng giọng nói tôi vừa viết xong một truyện ngắn.

    Baba gật đầu và nhếch mép cười, chẳng ngụ ý gì hơn là giả vờ quan tâm. "Được. Tốt lắm, phải không nào ông nào?" ông nói vậy. Rồi chăng thêm gì nữa. Ông chỉ nhìn tôi qua làn khói.

    Có lẽ tôi đứng đó chưa đầy một phút, nhưng đến ngày hôm nay, nó là cái phút dài nhất của đời tôi. Những giây đồng hồ nặng nhọc trôi đi, giây này cách giây sau một thời gian vĩnh cửu. Không khí trở nên nặng nề, ẩm thấp, gần như đặc lại. Tôi như đang thở ra những viên gạch. Baba tiếp tục nhìn tôi trừng trừng và không bảo tôi đọc truyện.

    Như mọi khi, Rahim Khan luôn luôn là người giải cứu tôi. Chú chìa bàn tay ra và ưu ái tôi bằng một nụ cười không chút vờ vĩnh:

    - Amir jan, chú rất muốn đọc truyện đó, cho chú đọc được không?

    Baba khó có khi nào lại dùng cái từ Jan tỏ vẻ thân thiết đó khi ông nói với tôi.

    Baba nhún vai đứng dậy. Ông có vẻ nhẹ mình như thể chính ông cũng được chú Rahim Khan cứu.

    - Phải đấy, đưa cho Kak 6 Rahim. Bố lên gác chuẩn bị đây.

    Nói xong, rồi ông rời khỏi căn phòng. Hầu như ngày nào tôi cũng tôn sùng Baba với một cảm xúc mãnh liệt gần tới mức tôn giáo. Nhưng ngay lúc đó, tôi mong có thề cắt tĩnh mạch tôi ra để trút hết dòng máu đáng nguyền rủa của ông khỏi cơ thể tôi.

    Một giờ sau, khi trời chiều đã tối mờ mờ, hai người bọn họ rời nhà đi trong chiếc xe hơi của cha tôi. Lúc ra khỏi nhà, chú Rahim Khan ngồi xổm xuống trước mặt tôi và trao trả cái truyện ngắn của tôi cùng một mảnh giấy gập kín. Mặt chú loé sáng một nụ cười và chú nháy mắt bảo tôi: "Cho cháu đấy. Sau hãy đọc." Rồi chú dừng lại và thêm một từ duy nhất, sau này đã cổ vũ tôi theo đuổi việc viết văn, hơn bất kỳ lời chúc mừng nào mà bất kỳ chủ biên nào từng dành cho tôi. Từ đó là Hoan hô.

    Khi hai người đi rồi, tôi ngồi xuống giường mình và ước gì chú Rahim Khan là cha tôi. Rồi tôi nghĩ về Baba và bộ ngực lớn vĩ đại của ông, cảm thấy tuyệt vời biết bao khi ông ôm tôi vào ngực, người ông sặc mùi rượu cất thô vào buổi sáng ra sao, và râu ông giụi vào mặt tôi như thế nào. Tôi bỗng cảm thấy vô cùng đau đớn vì cái tội lỗi bất ngờ, đến mức phải lao ngay vào buồng tắm và nôn vào cái chậu.

    Khuya đêm đó, nằm co trên giường, tôi đọc đi đọc lại bức thư ngắn của chú Rahim Khan. Nội dung như sau:

    Amir jan!

    Chú thích truyện ngắn của cháu lắm. Mashallah 7, Thượng đế đã phú cho cháu một tài năng đặc biệt. Bổn phận của chú bây giờ là phải mài giũa tài năng đó, bởi vì một con người để phí tài năng Thượng đế ban cho mình, là một con lừa. Cháu đã viết câu chuyện của cháu bằng một thứ ngữ pháp sáng sủa và một phong cách thú vị. Nhưng ấn tượng sâu sắc nhất về truyện ngắn cháu viết là nó có tính châm biếm. Cháu có thể còn chưa biết từ đó nghĩa là gì. Nhưng rồi một ngày nào đó cháu sẽ biết. Nó là cái gì đó mà một số nhà văn muốn vươn tới nhưng không bao giờ đạt được. Cháu đã thực hiện được điều đó bằng truyện ngắn đâu tiên.

    Cửa nhà chú luôn luôn và mãi sẽ rộng mở với cháu, Amir jan ạ. Chú sẽ đọc bất kỳ truyện ngắn nào cháu cần chia sẻ với chú. Hoan hô.

    Bạn của cháu, Rahim

    Phấn chấn bởi bức thư của chú Rahim Khan, tôi vồ lấy cái truyện ngắn và chạy vội xuống cầu thang ra tiền sảnh, nơi Hassan và ông Ali đang ngủ trên tấm đệm. Đó là lần duy nhất họ ngủ trong ngôi nhà, khi Baba đi vắng và ông Ali phải trông nom tôi. Tôi lay Hassan thức dậy và hỏi có muốn nghe một truyện không.

    Cậu ấy dụi đôi mắt díp lại vì ngái ngủ và duỗi người ra:

    - Bây giờ ư? Mấy giờ rồi?

    - Cần gì mấy giờ. Truyện ngắn này rất đặc biệt. Mình tự viết ra đấy, - tôi thì thào, mong không làm ông Ali thức giấc.

    Mặt Hassan sáng ngời lên.

    - Thế thì tôi phải nghe rồi, - cậu nói và tung chăn ra.

    Tôi đọc truyện đó cho Hassan ở phòng khách, bên lò sưởi bằng đá cẩm thạch. Lần này thì không có chuyện đọc giả vờ nữa; đó là truyện của tôi. Hassan là một thính giả hoàn hảo về nhiều mặt, hoàn toàn chìm đắm vào câu chuyện, nét mặt thay đổi theo giọng điệu đổi thay trong câu chuyện. Khi tôi đọc đến câu cuối Hassan vỗ tay không thành tiếng, mặt rạng rỡ hẳn lên:

    - Mashallah Amir agha! Hoan hô!

    - Cậu thích chứ? - Tôi hỏi, và lần thứ hai cảm thấy hương vị ngọt ngào biết mấy - của một lời khen.

    - Một ngày nào đó, Inshallah 8, cậu sẽ là một nhà văn lớn, - Hassan nói, - và mọi người trên toàn thế giới sẽ đọc những truyện cậu viết.

    - Hassan, cậu bốc rồi, - tôi nói, thấy yêu Hassan vì thế.

    Nhưng cậu khăng khăng:

    - Không, cậu sẽ vĩ đại và nổi tiếng.

    Rồi Hassan dừng lại, như thể đang định nói thêm điều gì đó. Cậu ta đắn đo tìm lời lẽ, rồi hắng giọng, bẽn lẽn hỏi:

    - Nhưng cậu sẽ cho phép tôi hỏi một câu về cái truyện đó chứ?

    - Tất nhiên.

    - Được.. - Cậu bắt đầu, rồi tịt mất.

    - Nói đi, Hassan, - tôi mỉm cười bảo, dẫu bất chợt cái tên nhà văn dễ nao núng trong tôi không tin lắm có muốn nghe không.

    - Được, nếu cho phép tôi hỏi, tại sao người ấy lại phải giết vợ mình? Tại sao ông ta cứ phải bao giờ cũng buồn mới rơi nước mắt? Ông ta không thể chỉ ngửi một củ hành ư?

    Tôi sững sờ. Cái chi tiết cụ thể đó, quá rõ ràng hoàn toàn ngớ ngẩn, thế mà tôi lại không nghĩ ra. Tôi mấp máy môi không thành tiếng. Có vẻ như cũng trong đêm đó, tôi đã học được về một trong những mục tiêu viết, ấy là châm biếm. Tôi cũng được biết tới một trong những cái bẫy của nó: Kẽ hở của Tình tiết. Được Hassan dạy cho, thật đáng kinh ngạc. Hassan - kẻ không thể đọc nổi và chẳng bao giờ viết nổi một từ suốt cuộc đời mình. Một giọng nói lạnh lùng và đen tối thì thào trong tôi, Thằng Hazara mù chữ ấy, nó thì biết cái gì nào? Nó sẽ chẳng là gì ngoài việc là thằng bếp. Sao nó lại dám phê bình cậu?

    - Được lắm!

    Tôi bắt đầu, nhưng chẳng bao giờ nói hết được câu ấy. Bởi vì Afghanistan đã bất ngờ biến đổi mãi mãi.

    * * *

    1 Agha: Tiếng xưng hô tỏ ý tôn kính của người dưới, có thể dịch là ngài, cậu v. V.. Sahib: Tiếng gọi những người có vai vế trong xã hội.

    2 Đơn vị tiền Afghanistan.

    3 Sultan: Tước hiệu của Hồi giáo chỉ người nắm quyền lực.

    4 Shah: Danh hiệu quốc vương của Ba Tư, thường là Iran.

    5 Chaman: Là một thành phố nhỏ thuộc Babochistan, Pakistan, giáp ranh biên giới giữa Pakistan và Afghanistan, là nơi rất nhiều người Afghan chạy sang tị nạn thời nội chiến.

    6 Kaka: Trong nguyên bản để gọi những người họ hàng bậc cha chú.

    7 Mashalah: Hoan hô.

    8 Inshallah: Cầu trời phù hộ.
     
  7. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG V

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tiếng gì đó gầm lên như sấm. Mặt đất hơi rung chuyển và chúng tôi nghe thấy tiếng tặc - tặc - tặc của súng máy. "Cha ơi!" Hassan gọi to. Chúng tôi bật lên và nhào ra khỏi phòng khách. Chúng tôi thấy ông Ali đang tập tễnh vội vàng đi qua tiền sảnh.

    - Cha ơi! Tiếng gì thế? - Hassan the thé kêu lên, vươn hai tay về phía ông Ali. Ông ôm chúng tôi trong hai cánh tay. Một dải sáng trắng loé lên, sáng chói trên bầu trời như bạc. Nó lại chớp loé lên và tiếp theo là chuỗi gằn nhanh của súng máy.

    - Họ đang săn vịt trời đấy, - ông Ali nói bằng một giọng khàn khàn. - Họ săn vịt ban đêm, hai đứa biết đấy. Đừng sợ.

    Một tiếng rít ở xa xa. Đâu đó, kính vỡ tan tành và ai đó kêu thét. Tôi nghe thấy tiếng người trên đường phố, choàng dậy, chen lấn nhau, có lẽ vẫn mặc nguyên quần áo ngủ, tóc bù xù mắt húp lên. Hassan đang khóc. Ông Ali kéo cậu sát vào người, dịu dàng ôm chặt lấy. Sau này, tôi thường tự nhủ tôi đã chẳng cảm thấy ghen với Hassan. Không chút nào hết.

    Chúng tôi cứ thế rúc vào nhau cho đến sáng sớm. Tiếng bắn nhau và tiếng nổ kéo dài gần một giờ thì chấm dứt, nhưng nó làm cho chúng tôi khiếp sợ vô cùng, bởi vì không ai trong chúng tôi từng nghe thấy tiếng súng nổ trên đường phố. Đó là những âm thanh xa lạ với chúng tôi. Thế hệ trẻ con Afghan tai không nghe gì ngoài tiếng bom và tiếng súng còn chưa được sinh ra. Co rúc vào nhau trong phòng ăn và đợi cho trời sáng, không ai trong chúng tôi có bất cứ ý niệm nào rằng con đường sống đã chấm dứt. Con đường sống của chúng tôi. Nếu không phải hoàn toàn ngay lúc này, thì ít nhất cũng là bắt đầu của sự kết thúc. Sự kết thúc, sự kết thúc chính thức sẽ đến vào đầu tháng Tư năm 1978, với cuộc đảo chính của Cộng sản, rồi đến tháng Mười Hai năm 1979, khi xe tăng Nga bò vào chính những đường phố nơi Hassan và tôi đã chơi đùa, mang cái chết đến cho Afghanistan mà tôi vẫn biết, và đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên đẫm máu vẫn còn đang tiếp diễn.

    Ngay trước lúc mặt trời mọc, xe hơi của Baba rẽ vào đường xe chạy vào nhà. Cửa xe đóng sầm lại và tiếng chân ông chạy huỳnh huỵch trên các bậc thang. Rồi ông hiện ra ở trước cửa và tôi thấy một nét gì đó trên mặt ông. Một nét gì mà tôi không nhận ra ngay, bởi vì trước đó tôi không hề thấy: Nỗi sợ hãi.

    - Amir! Hassan!

    Ông kêu lên, chạy đến với chúng tôi, hai cánh tay dang rộng.

    - Chúng chặn hết mọi con đường và điện thoại không hoạt động. Ta lo quá.

    Chúng tôi để ông ôm trong cánh tay, và trong một khoảnh khắc điên rồ, tôi thấy vui mừng về bất kỳ chuyện gì đã xảy ra đêm đó.

    Rốt cuộc, chúng không bắn vịt. Hóa ra chúng không bắn mấy vào bất cứ thứ gì, cái đêm 17 tháng Bảy năm 1973 ấy. Sáng hôm sau, Kabul thức dậy, thấy nền quân chủ đã là chuyện của quá khứ. Quốc vương Zahir Shah chạy sang Ý. Vắng mặt ông, người em họ của ông, Daoud Khan, đã kết thúc bốn mươi năm trị vì của nhà vua bằng cuộc đảo chính không đổ máu.

    Tôi nhớ, buổi sảng hôm sau đó, Hassan và tôi khom người bên ngoài phòng làm việc của cha tôi, còn Baba và chú Rahim Khan đang uống trà đen, nghe tin tức mới về cuộc đảo chính trên đài phát thanh Kabul.

    - Amir agha này. - Hassan thì thào.

    - Cái gì?

    - Cộng hòa là cái gì?

    Tôi nhún vai:

    - Tôi không biết.

    Trên máy thu thanh của Baba, họ đang nói cái từ "cộng hòa" ấy, nói đi nói lại mãi.

    - Amir agha này.

    - Cái gì?

    - Có phải "cộng hòa" nghĩa là cha tôi và tôi sẽ phải rời khỏi đây không?

    - Tôi không nghĩ thế, - tôi thì thào trả lời.

    Hassan ngẫm nghĩ về điều đó:

    - Amir agha này.

    - Cái gì?

    - Tôi không muốn họ đuổi tôi và cha tôi đi.

    Tôi mỉm cười:

    - Vớ vẩn, cậu đúng là đồ con lừa. Chẳng ai đuổi bố con cậu đâu.

    - Amir agha này.

    - Cái gì?

    - Cậu có muốn trèo lên cái cây của chúng ta không?

    Nụ cười của tôi nở rộng ra. Đó lại là một chuyện khác về Hassan. Cậu luôn luôn biết khi nào nói điều cần nói - tin tức trên radio đã trở nên nhàm chán. Hassan đi về túp lều của cậu để chuẩn bị, và tôi leo lên gác lấy một cuốn sách. Rồi tôi vào bếp nhét đầy túi những vốc tay hạt thông 1, đoạn chạy ra ngoài tìm Hassan đang đợi tôi. Chúng tôi ào qua cổng trước và đi về phía đồi.

    Chúng tôi vượt qua khu dân cư, và đang vất vả cuốc bộ qua vùng đất cằn cỗi dẫn đến ngọn đồi thì bất chợt, một hòn đá đập vào lưng Hassan. Chúng tôi xoay người lại, và tim tôi muốn rụng. Assef và hai thằng bạn nó, Wali và Kamal, đang áp sát chúng tôi.

    Assef là con trai một người bạn của cha tôi, ông Mahmood, phi công. Gia đình nó sống cách nhà chúng tôi vài phố về phía Nam, trong một khu nhà sang trọng kín cổng cao tường, trồng xen cọ xung quanh. Nếu bạn là một đứa trẻ trong quận Wazir Akbar Khan của Kabul, bạn hẳn biết Assef và nắm đấm bằng thép không gỉ nổi tiếng của nó, và mong không phải nếm mùi. Được sinh ra từ một người mẹ Đức và ông bố Afghan, thằng Assef tóc hung mắt xanh, cao lớn vượt hẳn những đứa trẻ khác. Nó nổi tiếng tàn bạo trên các đường phố. Được mấy đứa bạn tay chân đi kèm hai bên, nó bước đi trên vùng lân cận như một Khan 2 đi tuần du khắp lãnh thổ của mình, cùng đoàn tùy tùng khúm núm. Lời nói của nó là luật, và nếu cần một chút răn dạy lề luật, thì quả đấm thép ấy đủ để là một giáo cụ thích hợp. Tôi đã được nhìn một lần, nó dùng những quả đấm ấy với thằng bé ở quận Karteh-Char. Tôi sẽ không bao giờ quên nổi đôi mắt xanh của thằng Assef loé ra một tia sáng hoàn toàn điên dại ra sao, và nó nhăn nhở thế nào khi nó đấm liên hồi vào thằng bé đáng thương đã bất tỉnh. Một số đứa con trai ở quận Wazir Akbar Khan đặt cho nó cái biệt hiệu Assef Goshkhor, hay Assef "Kẻ Ăn Tai". Tất nhiên, không đứa nào trong bọn chúng dám nói thẳng vào mặt nó trừ phi muốn chịu cùng số phận với thằng bé đáng thương, kẻ đã vô tình gợi cảm hứng cho cái biệt danh đó khi đấu và hạ chiếc diều của Assef và rơi vào tình cảnh mò tai phải của mình từ một rãnh bùn. Nhiều năm sau, tôi lục được một từ tiếng Anh chỉ một loại người như Assef, là từ "Sociopath" 3, tiếng Farsi không tồn tại một từ tương đương đúng nghĩa. Nằm trong số nhưng đứa quanh vùng thường hành hạ ông Ali, Assef còn bỏ xa những đứa nhẫn tâm nhất. Thật ra, nó là đứa đầu têu trò chế nhạo Babalu - Ngoáo ộp: Ê, Babalu, hôm nay mày ăn thịt ai rồi? Hử? Thôi nào, Babalu, cười với chúng tao một cái nào! Và vào những ngày nó cảm thấy đặc biệt có hứng, nó lại thêm đôi chút mắm muối vào trò đùa quấy: Ê, đồ Babalu Mũi Tẹt, hôm nay mày ăn thịt ai rồi? Nói cho chúng tao nghe nào, đồ con lừa mắt xếch!

    Lúc này, nó đang bước lại phía chúng tôi, hai tay chống nạnh, đôi giày vải đá bật lên một đám bụi nhỏ.

    - Chào buổi sáng, bọn Kunis, - Assef reo lên và vẫy tay. - Đồ đồng tính, - đấy là tiếng chửi ưa thích khác của nó.

    Hassan lùi lại phía sau tôi, khi ba thằng hơn tuổi kia tiến sát lại Chúng đứng trước mặt tôi, ba thằng cao lớn mặc quần jeans và áo phông. Lừng lững hơn cả hai chúng tôi gộp lại, Assef khoanh cánh tay to mập trước ngực, đôi môi nhăn nhở một cách man rợ. Đây không phải lần đầu tiên Assef giở chứng trước mặt tôi, khùng với tôi. Cũng may Baba là cha tôi - đó là lý do độc nhất, tôi tin vậy, khiến Assef thường phải kìm chế không bức bách tôi quá.

    Nó vênh mặt hỏi Hassan:

    - Này, mũi tẹt, Babalu thế nào?

    Hassan không nói gì và lùi thêm bước nữa về phía sau tôi.

    - Chúng mày đã nghe tin rồi chứ, lũ nhóc? - Assef nói, vẫn nụ cười nhăn nhở. - Nhà vua xéo rồi. Thoát nợ. Tổng thống muôn năm! Bố tao biết Daoud Khan đấy, mày có biết không, Amir?

    - Bố tao cũng biết, - tôi nói. Thật ra, tôi không biết có đúng vậy hay không.

    - Bố tao cũng biết, - Assef dài giọng nhại lại tôi. Kamal và Wali hưởng ứng theo nhiệt liệt. Ước gì có Baba ở đây.

    - Daoud Khan ăn tối ở nhà tao năm ngoái đấy, - Assef tiếp tục. - Mày có thích thế không, Amir?

    Tôi không biết liệu có ai nghe được tiếng thét của chúng tôi ở cái khoảnh đất xa xôi này không. Nhà của Baba ít nhất cũng cách xa một kilômét. Tôi ước gì chúng tôi đang ở nhà.

    - Mày có biết, lần sau Daoud Khan đến ăn tối ở nhà tao, tao sẽ nói gì với ông ấy không? - Assef nói. - Tao sẽ tán gẫu với ông ấy một chút, kiểu mard với mard 4, đàn ông với đàn ông. Kể cho ông ấy những gì tao đã kể cho mẹ tao. Về Hitler. Bây giờ có một lãnh tụ rồi. Một lãnh tụ vĩ đại. Một người có tầm nhìn. Tao sẽ bảo Daoud Khan hãy nhớ rằng nếu người ta để cho Hitler kết thúc những gì Hitler đã khởi sự, thế giới bây giờ đã là một nơi tốt đẹp hơn.

    - Baba bảo Hitler điên, nên mới ra lệnh giết hại bao nhiêu người vô tội, - tôi nghe thấy chính mình nói trước khi kịp lấy tay bịt chặt miệng lại.

    Assef cười gằn:

    - Nó nói cứ như mẹ tao ấy, và bà ấy là người Đức. Bà ấy phải biết hơn chứ. Nhưng vậy, chúng muốn mày tin thế phải không? Chúng không muốn mày biết sự thật.

    Tôi không biết "chúng" đây là ai, và sự thật nào chúng đang che giấu, và cũng không muốn tìm ra. Uớc gì tôi đừng nói gì cả. Tôi lại ước tôi ngước nhìn lên và thấy Baba hiện ra trên đồi.

    - Nhưng mày phải đọc những cuốn sách mà người ta không phát ở trường. Tao đã đọc và mắt tao được mở to ra. Giờ đây tao có một tầm nhìn, và tao định chia sẻ tầm nhìn của tao với tổng thống mới của chúng ta. Mày có biết thế là gì không?

    Tôi lắc đầu. Nó vẫn nói với tôi. Assef vẫn luôn tự trả lời những câu hỏi của chính nó.

    Đôi mắt xanh của nó liếc sang Hassan:

    - Afghanistan là đất nước của người Pashtun. Nó luôn luôn như thế, sẽ mãi như thế. Chúng ta là người Afghan thực sự, người Afghan thuần khiết, không có đồ Mũi Tẹt này ở đây. Dân nó làm ô uế quê hương chúng ta, watan 5của chúng ta. Chúng làm bẩn dòng máu của chúng ta. - Nó giật bàn tay làm điệu bộ, quét một đường theo kiểu đại quy mô. - Afghanistan là của người Pashtun, tao tuyên bố vậy. Đó là quan điểm của tao.

    Assef lại chuyển cái nhìn trừng trừng của nó sang tôi. Nó trông như kẻ vừa ra khỏi giấc mơ đẹp.

    Nó nói:

    - Quá muộn đối với Hitler. Nhưng không phải với chúng tao.

    Nó lấy một cái gì đó từ túi sau quần jeans:

    - Tao sẽ yêu cầu tổng thống làm những gì nhà vua không có quwat 6để làm, giải thoát Afghanistan khỏi bọn Kassef 7Hazara.

    - Thôi để chúng tao đi, Assef, - tôi nói mà căm ghét cái giọng tôi run run. - Chúng tao có làm gì mày đâu.

    - Ồ, chúng mày đang làm phiền tao đấy, - Assef nói.

    Và tôi nhìn, tim như lịm đi, xem nó đang moi cái gì khỏi túi. Tất nhiên rồi. Hai quả đấm thép không gỉ lạnh tanh lấp lánh dưới mặt trời. - Chúng mày đang làm phiền tao lắm lắm. Thật ra, mày còn làm phiền tao hơn cái thằng Hazara này. Làm sao mày lại có thể chuyện trò với nó, chơi đùa với nó, để nó chạm vào mày? - Nó nói, giọng đầy vẻ khinh thị. Wali và Kamal gật gật đầu và ụt ịt tỏ vẻ đồng tình. Assef nheo mắt lại. Lắc lắc đầu. Khi nó nói tiếp, nó có vẻ thăm dò. - Làm sao mày có thể gọi nó là "bạn" mày?

    Nhưng nó không phải là bạn tao! - Tôi suýt buột miệng - Nó là đày tớ của tao. Có phải tôi đã thực sự nghĩ thế không? Đương nhiên là không phải. Tôi không nghĩ thế. Tôi đối xử với Hassan như một người bạn, thậm chí còn hơn, như một đứa em mình. Nhưng nếu như vậy, thì tại sao khi bạn bè của Baba đến chơi cùng với con cái họ, tôi không bao giờ lôi Hassan tham gia những trò của chúng tôi? Tại sao tôi chỉ chơi đùa với Hassan khi quanh tôi không có một ai khác?

    Assef lồng hai quả đấm thép vào tay. Nhìn tôi lạnh như băng:

    - Mày là một phần của vấn đề, Amir. Nếu lũ ngốc như mày và bố mày không rước đám người ấy vào nhà, ngay lúc này, chúng tao đã được giải thoát khỏi chúng. Tất cả bọn ấy đã cút về thối rữa ở Hazarajat, quê hương của chúng rồi. Mày là một sự nhục nhã cho Afghanistan.

    Tôi nhìn vào đôi mắt điên khùng của nó và thấy quả nó điên. Nó định đánh tôi thực sự. Assef giơ quả đấm lên, tiến đến trước tôi.

    Có một động tác nhanh, ào như cơn gió sau lưng tôi. Lạ mắt nhìn sang bên cạnh, tôi thấy Hassan cúi xuống và đứng lên rất nhanh. Đôi mắt của Assef chuyển sang một thứ gì đó phía sau tôi, và sửng sốt trợn trừng. Tôi thấy cái nhìn sửng sốt ấy cả trên mặt Kamal lẫn Wali lúc chúng nhận ra chuyện gì phía sau tôi.

    Tôi quay lại, đối mặt với chiếc súng cao su của Hassan. Hassan đã kéo giãn rộng hết mức dây cao su về phía sau. Trong miếng da là một viên đá bằng cỡ quả óc chó. Hassan chĩa sung cao su thẳng vào mặt Assef. Tay cậu ta rung rung theo sức căng của dây cao su giãn ra và những hạt mồ hôi lấm tấm đầy trên trán.

    - Xin Agha để chúng tôi yên, - Hassan nói bằng một giọng bình thường, vẫn nhớ gọi Assef là "agha", và ngay lúc đó tôi lấy làm lạ sao người ta cứ phải sống với một quan niệm thâm căn cố đế về vị trí của mình theo thứ bậc xã hội như thế.

    Assef nghiến răng ken két:

    - Bỏ xuống, thằng Hazara không mẹ.

    - Xin Agha để chúng tôi yên, - Hassan nói.

    Assef mỉm cười:

    - Có thể mày không chú ý đấy, nhưng chúng tao có ba và chúng mày chỉ có hai.

    Hassan nhún vai. Với người ngoài, trông cậu có vẻ không hoảng sợ. Nhưng vẻ mặt của Hassan là ký ức đầu tiên của tôi, tôi nhận ra mọi sắc thái tinh vi của nó, biết từng co giật biến đổi từng gợn lên trên đó. Và tôi thấy cậu cũng hoảng sợ. Cậu hoảng sợ lắm.

    - Agha nói đúng. Nhưng có lẽ, Agha cũng không để ý, tôi là người đang giữ súng cao su. Agha chỉ nhúc nhích thôi là mọi người sẽ phải đổi cái biệt hiệu "Kẻ Ăn Tai" của Agha thành "Assef Một mắt" ngay, bởi vì tôi đang có viên đá này nhằm vào mắt trái Agha.

    Cậu nói quá thản nhiên, đến nỗi tôi phải căng tai ra nghe nỗi sợ mà tôi biết được giấu kín dưới cái giọng bình tĩnh ấy.

    Miệng của Assef giật giật. Wali và Kamal quan sát sự biến đổi này với vẻ gì đó gần như một sự thích thú. Ai đó dám thách thức Thượng đế của chúng. Hạ nhục ông ta. Và, tệ hại hơn cả kẻ đó lại là một Hazara gầy trơ xương. Assef nhìn từ viên đá tới Hassan. Nó soi mói vẻ mặt của Hassan. Những gì nó thấy trên vẻ mặt đó hẳn đã thuyết phục nó về những ý đồ nghiêm túc của Hassan, bởi nó hạ nắm đấm xuống.

    - Thằng Hazara, mày nên biết điều này, - Assef nghiêm nghị nói. - Tao là một con người rất kiên nhẫn. Việc này chưa xong hôm nay đâu, tin tao đi. - Nó quay về phía tôi. - Cũng chưa xong với mày đâu, Amir ạ. Một ngày nào đó, tao sẽ làm cho mày phải đối mặt với tao, một chọi một.

    Assef lùi lại một bước. Đệ tử của nó lùi theo.

    Nó nói:

    - Amir, hôm nay thằng Hazara của mày đã mắc một sai lầm lớn.

    Rồi bọn chúng quay lưng bỏ đi. Tôi đòi theo chúng bước xuống phía chân đồi và khuất sau một bức tường.

    Hassan đang cố nhét lại chiếc súng cao su vào thắt lưng bằng đôi tay run run. Môi cậu ta cong lên như thể buộc phải nở một nụ cười trấn tĩnh. Phải mất đến năm lần mới thắt được dải quần. Không đứa nào trong chúng tôi nói nhiều về bất cứ điều gì lúc đi bộ về nhà trong lo sợ, tin chắc Assef và lũ bạn sẽ phục kích chúng tôi mỗi lần bọn tôi rẽ theo góc phố. Chúng không phục kích, và điều đó nhẽ ra đã làm chúng tôi an tâm một chút. Nhưng không phải như thế. Không một chút nào.

    Trong hai năm sau đó, những từ phát triển kinh tế và cải cách rộn ràng trên môi nhiều người dân Kabul. Chế độ quân chủ lập hiến đã bị bãi bỏ, thay thế bằng một nền cộng hòa lãnh đạo bởi tổng thống của nước cộng hòa. Trong ít lâu, một tinh thần trẻ trung và quyết tâm lan tràn khắp đất nước. Nhân dân nói về quyền của phụ nữ và công nghệ hiện đại.

    Và đối với phần lớn các thành phần xã hội, mặc dù một nhà lãnh đạo mới đã vào ở trong Arg - cung điện hoàng gia tại Kabul - cuộc sống vẫn tiếp tục như trước. Người dân đi làm thứ Bảy tới đến thứ Năm và tụ tập lại để ăn uống, picnic vào những ngày thứ Sáu ở các công viên, trên bờ hồ Ghargha, trong những vườn cây của Paghman. Những xe buýt đủ sắc màu sặc sỡ và những xe tải đầy hành khách lăn bánh qua mọi đường phố chật hẹp của Kabul, được điều khiển bởi tiếng quát tháo không ngừng của đám phụ xe ngồi dạng chân trên bệ chắn đuôi xe và hét to chỉ đường cho bác tài bằng cái giọng Kabul nằng nặng. Vào ngày lễ Eid, lễ ba ngày sau tháng lễ Ramadan, dân Kabul mặc những bộ quần áo đẹp nhất, mới nhất và đi thăm thân quyến. Mọi người ôm chầm lấy nhau, hôn nhau, chúc mừng nhau "Eid Mubarak", Chúc lễ Eid Hạnh phúc. Trẻ con mở những hộp quà và chơi nghịch nhưng quả trứng luộc nhuộm màu.

    Vào khoảng đầu mùa đông sau đó, năm 1974, Hassan và tôi một hôm đang chơi ngoài sân trò xây pháo đài tuyết thì Ali gọi cậu ta vào:

    - Hassan, Agha sahib muốn nói chuyện với con.

    Ông đang đứng trước cửa, mặc đồ trắng, hai tay luồn hai bên nách, miệng thở ra những làn hơi.

    Hassan và tôi mỉm cười nhìn nhau. Cả ngày hôm ấy chúng tôi vẫn đang chờ ông gọi. Đó là ngày sinh nhật của Hassan.

    - Chuyện gì vậy, cha, cha có biết không? Nói cho chúng con biết được không?

    Hassan nói. Mắt sáng lên.

    Ông Ali nhún vai:

    - Agha sahib không thảo luận việc đó với cha.

    - Thôi nào, ông Ali, kể cho chúng cháu nghe đi, - tôi ép. - Có phải một cuốn sách tranh không? Có thể một khẩu súng mới chăng?

    Giống như Hassan, ông Ali không thể nói dối. Năm nào ông cũng vờ như không biết Baba đã mua thứ gì cho Hassan hoặc cho tôi, vào ngày sinh của chúng tôi. Và năm nào, đôi mắt ông cũng phản lại ông và chúng tôi cũng thuyết phục để moi được tin ở ông. Lần này, tuy vậy hình như ông nói thực.

    Baba không bao giờ quên sinh nhật của Hassan. Ông thường hỏi Hassan muốn thứ gì, nhưng lại thôi ngay, bởi vì Hassan luôn luôn quá rụt rè, không dám đề nghị một món quà. Vì vậy mùa đông nào Baba cũng tự mình đoán được. Năm này, ông mua cho cậu ấy chiếc xe tải đồ chơi của Nhật, năm khác một đầu tàu chạy điện và cả đoàn tàu. Năm trước, Baba làm cho Hassan ngạc nhiên bằng chiếc mũ cao bồi bằng da, giống hệt chiếc mà Clint Eastwood đội trong phim Người tốt, kẻ xấu và tên vô lại 8, đã đánh bại phim Bảy anh chàng cừ khôi trở thành bộ phim cao bồi ưa thích của chúng tôi. Cả mùa đông ấy, Hassan và tôi thay nhau đội chiếc mũ và hát to theo đoạn nhạc hay nhất của bộ phim, trong khi trèo lên các ụ tuyết và đòm chết nhau.

    Chúng tôi tháo găng tay và cởi bỏ những đôi ủng bám đầy tuyết ở trước cửa. Khi chúng tôi bước vào tiền sảnh, thì thấy Baba đang ngồi cạnh chiếc lò sưởi gang đốt củi than cùng một người đàn ông Ấn Độ vừa hói vừa thấp mặc một bộ đồ nâu, đeo cravát đỏ.

    - Hassan, - Baba nói, mỉm cười bẽn lẽn. - Đón quà sinh nhật của cháu đi. Hassan và tôi ngây ra nhìn nhau. Chẳng thấy hộp quà nào hết. Không túi. Không đồ chơi. Chỉ có mỗi ông Ali ở sau chúng tôi và Baba cùng với ông bạn Ấn Độ thanh mảnh, trông hơi giống một thầy dạy toán. Người đàn ông mặc bộ đồ nâu mỉm cười chìa tay ra cho Hassan, và nói:

    - Tôi là bác sĩ Kumar. Rất vui được gặp cháu.

    Ông nói tiếng Farsi bằng một giọng nằng nặng và uốn lưỡi.

    - Salaam alaykum 9 - Hassan chào gượng gạo. Cậu khẽ nghiêng đầu lễ phép, nhưng mắt lại thăm dò cha mình đang đứng ở phía sau. Ông Ali bước lại gần, đặt tay lên vai Hassan.

    Baba bắt gặp ánh mắt dè chừng và bối rối của Hassan.

    - Ta đã mời Bác sĩ Kumar ở New Delhi tới. Bác sĩ Kumar là một nhà phẫu thuật tạo hình.

    - Cháu có biết thế nghĩa là gì không? - Ông Ấn Độ - bác sĩ Kumar hỏi.

    Hassan lắc đầu. Cậu ta nhìn tôi ra ý hỏi, nhưng tôi nhún vai. Tất cả những gì tôi biết, là bạn đến một nhà phẫu thuật để chữa bệnh, khi bạn bị viêm ruột thừa. Tôi biết điều này vì một trong những bạn học cùng lớp với tôi đã chết vì bệnh ấy năm trước, và thầy giáo đã bảo với chúng tôi họ đợi lâu quá mới đem cậu ấy đến một nhà phẫu thuật. Cả hai chúng tôi đều nhìn ông Ali, nhưng tất nhiên bạn chẳng bao giờ có thể khẳng định được điều gì. Nét mặt ông vẫn thản nhiên như mọi khi, dù một cái gì đó có vẻ điềm tĩnh đã tan ra trong đôi mắt ông.

    - À, - Bác sĩ Kumar nói, - nghề của bác là chữa các tật trên cơ thể con người. Đôi khi mặt họ nữa.

    - Ồ, Hassan nói. Cậu ấy nhìn từ bác sĩ Kumar sang Baba, rồi sang ông Ali, tay sờ lên môi trên. Lại tiếp - ồ.

    - Đây là món quà lạ, ta biết, - Baba nói. - Va có thể không phải như cháu nghĩ đâu, nhưng món quà này sẽ mãi mãi còn lại với cháu.

    - Ô, - Hassan nói. Cậu liếm môi. Hắng giọng. - Agha sahib, sẽ.. sẽ..

    - Không làm sao hết, - Bác sĩ Kumar nói chen vào, miệng cười thân mật. - Sẽ không làm đau cháu chút nào đâu. Thật ra, ta sẽ cho cháu uống một liều thuốc, và cháu sẽ chẳng nhớ được điều gì nữa.

    - Ô, - Hassan nói. Cậu mỉm cười đáp lại, vẻ nhẹ nhõm. Dẫu sao cũng hơi nhẹ nhõm. - Cháu không sợ đâu, Agha sahib, cháu chỉ..

    Hassan có thể bị lừa nhưng tôi thì không. Tôi hiểu khi các bác sĩ nói sẽ không đau đâu, đó là khi bạn biết bạn đang rắc rối to. Tôi khiếp hãi nhớ lại lễ cắt bao quy đầu của tôi năm ngoái. Bác sĩ cũng nói với tôi như thế, cam đoan với tôi sẽ không làm đau tôi tí nào. Nhưng khuya đêm đó khi thuốc tê đã tan đi, cảm giác như ai đó đang ấn một cục than hồng vào hai bên háng tôi. Tại sao Baba phải chờ đến khi tôi mười tuổi mới bắt tôi cắt bao quy đầu, tôi không hiểu nổi, và đó là một trong những điều tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông.

    Tôi ước tôi cũng có một loại sẹo nào đó để gây được sự thương cảm ở Baba. Thế là không công bằng. Hassan chẳng làm trò gì cũng chiếm được tình cảm của Baba, cậu ấy chỉ có mỗi việc bị đẻ ra với cái môi hẻ vớ vẩn đó.

    Việc phẫu thuật tiến hành tốt đẹp. Chúng tôi hơi choáng khi lúc đầu họ tháo băng, nhưng rồi lại cười ngay đúng như những gì bác sĩ Kumar đã dặn. Thật cũng không dễ dàng, bởi vì môi trên của Hassan giờ là một cục thịt mọng sưng phồng kỳ cục. Tôi mong Hassan kêu lên khiếp hãi khi y tá đưa cho cậu cái gương. Ông Ali giữ tay cậu trong khi Hassan nhìn đăm chiêu khá lâu vào trong gương. Cậu lẩm bẩm một điều gì đó tôi không hiểu. Tôi ghé tai vào miệng cậu. Cậu lại thì thào:

    - Tashakor. - Cảm ơn cậu. Rồi môi cậu xoắn lại và ngay lúc đó, tôi hiểu chính xác là cậu đang làm gì. Cậu đang mỉm cười. Đúng như cậu đã từng cười, khi đang tòi ra từ bụng mẹ.

    Chỗ sưng phồng xẹp xuống, và vết thương lành dần. Chẳng mấy chốc, nó chỉ còn là một vệt màu hồng không đều nói trên môi. Đến mùa đông năm sau, nó chỉ còn là một vết sẹo mờ. Thế mới mỉa mai. Bởi vì đó là cái mùa đông mà Hassan thôi mỉm cười.

    * * *

    1 Pine-nut: Loại hạt thông ăn được.

    2 Khan: Một tước hiệu quan chức ở Afghanistan và một số nước khác ở châu Á, Trung Đông.

    3 Sociopath: Chỉ một hạng người bị bệnh tâm thần, xử sự với người khác một cách hiếu chiến và nguy hiểm. Sociopath hợp thành từ tiền tố Socio: Xã hội và path: Con đường, hướng đi.

    4 Mard: Nghĩa đàn ông. Mard với mard nghĩa là đàn ông với nhau.

    5 Watan: Lớp trẻ, thanh niên.

    6 Quwant: Sức mạnh, quyền lực.

    7 Kasseef: Bẩn thỉu.

    8 The good, the bad, the ugly.

    9 Salaam alaykum: Xin chào, chúc được bình yên.
     
  8. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG VI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mùa đông.

    Đây là những gì tôi làm vào ngày tuyết rơi đầu tiên hàng năm. Tôi bước ra khỏi nhà vào buổi sáng sớm, vẫn mặc quần áo ngủ, hai cánh tay co ro để chống lại cái lạnh. Tôi thấy lối xe vào, chiếc xe hơi của cha tôi, những bức tường, những nóc nhà và cả những dãy đồi nữa, thảy đều bị vùi dưới lớp tuyết dày chừng ba mươi phân. Tôi mỉm cười. Bầu trời không một gợn mây, xanh biếc, tuyết trắng đến nỗi mắt tôi nhức nhối. Tôi vốc đầy vốc tay tuyết mới rơi bỏ vào miệng, lắng nghe sự tĩnh lặng bao trùm chỉ bị phá vỡ bởi tiếng quạ kêu. Tôi bước xuống bậc thềm trước cửa, chân trần, và gọi Hassan ra ngoài xem.

    Mùa đông là mùa ưa thích của mọi đứa trẻ ở Kabul, ít nhất cũng là những đứa mà cha nó có đủ tiền mua một chiếc lò sưởi bằng gang loại tốt. Lý do thật đơn giản: Người ta đóng cửa trường học vào mùa băng tuyết. Mùa đông đối với tôi là sự kết thúc bất đồng kéo dài, và đặt tên cho thủ đô Bulgaria, và sự khởi đầu của ba tháng chơi bài bên lò sưởi với Hassan, xem phim Nga miễn phí vào các sáng thứ Ba tại Công viên Điện ảnh, là qurma 1 củ cải ngọt ăn với cơm cho bữa trưa, sau cả buổi sáng đắp người tuyết.

    Và diều, đương nhiên. Thả điều. Và đua diều.

    Đối với một số ít đứa trẻ không may, mùa đông không có nghĩa kết thúc năm học. Có những cái gọi là khóa học mùa đông tự nguyện. Không bao giờ có đứa trẻ nào tôi biết lại tự nguyện đến các lớp học ấy, đương nhiên cha mẹ làm cái việc tự nguyện hộ chúng. May cho tôi, Baba không phải là một trong bọn họ. Tôi nhớ một đứa, thằng Ahmad sống ở dãy bên kia phố tôi. Bố nó là một bác sĩ gì gì đấy, tôi nghĩ vậy. Ahmad bị động kinh và luôn luôn mặc áo vest len, đeo đôi kính dày cộm gọng đen. Nó là một trong nhưng nạn nhân đều đặn của Assef. Sáng nào tôi cũng từ cửa số phòng ngủ của tôi quan sát người đày tớ Hazara của họ xúc tuyết khỏi đường xe vào nhà, dọn lối cho chiếc Opel màu đen. Tôi luôn cố xem thằng Ahmad và bố nó chui vào xe như thế nào, Ahmad trong chiếc áo vest len và áo khoác ngoài mùa đông, cặp đầy sách và bút chì. Tôi đợi cho đến khi họ đi khỏi, rẽ theo một góc phố, rồi lại chui vào giường trong bộ quần áo ngủ bằng flanen mỏng. Tôi kẻo chăn tới tận cằm và ngắm nhìn những ngọn đồi phủ tuyết ở phía Bắc qua cửa sổ. Ngắm những ngọn đồi cho đến khi lại mơ màng chìm vào giấc ngủ.

    Tôi yêu mùa đông ở Kabul. Tôi yêu nó vì những bông tuyết mềm mại vỗ nhẹ vào cửa sổ phòng tôi ban đêm, vì tuyết mới rơi lạo xạo dưới đôi ủng cao su đen của tôi, vì hơi ấm của chiếc lò sưởi gang khi gió rít qua sân, qua đường phố. Nhưng chủ yếu bởi vì khi mà cây cối cóng lạnh và băng giá từng lớp phủ những con đường, cái lạnh lẽo giữa Baba và tôi tan ra đôi chút. Và lý do của điều đó là diều. Baba và tôi sống trong cùng một ngôi nhà, nhưng lại trong những bầu sinh quyển khác nhau. Những cánh diều là những làn giấy mỏng ở nơi giao cắt giữa hai bầu sinh quyển đó.

    Mùa đông nào, các quận của Kabul cũng tổ chức cuộc thi đấu diều. Và nếu bạn là một đứa con trai sống ở Kabul, thì ngày thi đấu chắc chắn là sự kiện nổi bật của mùa lạnh giá. Tôi không bao giờ ngủ được đêm trước hôm thi đấu. Tôi thường trằn trọc trở mình, làm bóng những con vật trên tường, thậm chí ngồi trên lan can trong đêm tối, chăn quấn quanh người. Tôi cảm thấy như một người lính cố ngủ trong chiến hào vào đêm trước trận đánh lớn. Và cũng chẳng khác mấy. Ở Kabul, thi thả diều quả hơi giống như đi ra trận.

    Như bất cứ cuộc chiến nào, anh phải chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến. Hassan và tôi thường bỏ ra một khoảng thời gian làm những chiếc diều riêng cho chúng tôi. Chúng tôi để dành tiền tiêu vặt hàng tuần vào mùa thu, bỏ tiền vào một con ngựa sành nhỏ mà Baba một lần đã đem từ Herat về. Khi những cơn gió mùa đông bắt đầu thổi và tuyết rơi đáng kể rồi chúng tôi cậy vỡ lớp mỏng dưới bụng con ngựa. Chúng tôi ra phố chợ mua tre, keo, dây và giấy. Môi ngày chúng tôi bỏ ra nhiều giờ để gọt ruột tre và uốn khung diều, cắt những miếng giấy mỏng mịn để dễ phết keo bồi diều. Và rồi, cố nhiên chúng tôi phải làm dây diều riêng cho mình, còn gọi là tar. Nếu diều là súng thì dây bọc bột thủy tinh sắc cạnh là đạn trong ổ súng. Chúng tôi thường ra ngoài sân tuốt độ một trăm năm mươi mét dây qua hỗn hợp thủy tinh nghiền và keo nhựa. Rồi treo lên giữa các thân cây để phơi khô. Hôm sau, chúng tôi quấn thứ dây đó sẵn sàng cho trận đánh đó vào một ống cuộn bằng gỗ. Đúng lúc tuyết tan và mưa xuân đổ xuống, đứa con trai nào ở Kabul cũng phải chịu những vết cứa ngang lộ rõ trên các ngón tay, từ cả một mùa đông đấu diều. Tôi còn nhớ vẫn thường cùng bọn ở lớp tụ tập với nhau vào ngày đầu năm học để so những vết sẹo chiến của chúng tôi. Những vết cứa đau buốt, vài tuần lễ sau không lành, nhưng tôi không buồn để ý. Chúng là những vật lưu niệm của một mùa yêu dấu đã lại một lần nữa trôi qua quá nhanh. Thế rồi lớp trưởng thường thổi còi và cả bọn lại đều bước thành một hàng duy nhất vào lớp, nhớ nhung mùa đông đã qua thay vì chào đón bóng ma của một năm học khác dài dặc.

    Nhưng rõ ràng Hassan và tôi đã nhanh chóng trở thành những chiến binh đấu diều hơn là người làm diều. Một khiếm khuyết nào đó, hoặc có điều gì trong thiết kế của chúng tôi, khiến cái diều của chúng tôi chẳng đâu vào đâu. Vì vậy, Baba đem chúng tôi đến cửa hiệu Saifo để mua diều. Saifo là một ông già gần như mù, làm moochi - tức nghề chữa giày. Nhưng ông cũng là một người làm diều nổi tiếng nhất của thành phố, làm việc ngoài túp lều nhỏ trên phố Jadeh Maywand, một phố đông dân phía Nam hai bờ lầy lội của sông Kabul. Tôi vẫn nhớ, bạn phải khom người chui vào cái cửa hàng cỡ bằng xà lim nhà lao rồi phải nhấc một cửa sập để trườn xuống cầu thang gỗ, tới một tầng hầm nhớp nhúa là kho chứa những chiếc diều được người ta thèm muốn của ông. Baba thường mua cho chúng tôi mỗi đứa ba chiếc diều giống hệt nhau và những cuộn dây thủy tinh. Nếu tôi đổi ý và đòi mua một chiếc diều lớn hơn, lạ lùng hơn, Baba cũng vẫn mua cho tôi, nhưng ông cũng mua luôn cho Hassan nữa. Đôi khi tôi mong muốn ông đừng làm như vậy. Muốn ông hãy để cho tôi được là đứa con cưng.

    Thi đấu diều là truyền thống mùa đông lâu đời ở Afghanistan. Nó được bắt đầu vào sáng sớm ngày thi, và chỉ kết thúc khi nào còn duy nhất một chiếc diều thắng cuộc bay trên bầu trời. Tôi vẫn nhớ một năm cuộc thi đấu tàn ngày vẫn chưa xong. Dân chúng tụ tập bên lề đường, trên nóc nhà, reo lên hoan hô những chiếc diều của họ. Phố xá đầy những chiến binh đấu diều, giật dây, kéo diều của mình, mắt liếc lên bầu trời, cố chiếm lấy vị trí để cắt đứt dây diều của đối phương. Mỗi người đấu diều có một phụ tá - với tôi là Hassan - giữ ống cuộn dây và thả dây.

    Có lần, một thằng nhóc Hindi, gia đình nó mới chuyển đến ở quanh vùng, kể cho chúng tôi nghe rằng, ở thị trấn quê nó, đấu diều có những luật lệ và quy tắc chặt chẽ. "Anh phải chơi ở một khu vực được khoanh lại và phải đứng ngược gió," nó kiêu hãnh nói. "Và anh không được dùng nhôm để làm dây thủy tinh."

    Hassan và tôi nhìn nhau. Cười phá. Thằng nhóc Hindi rồi sẽ nhanh chóng học được những gì người Anh học được hồi đầu thế kỷ này, và những gì người Nga cuối cùng đã học được vào những năm cuối thập kỷ tám mươi rằng người Afghan là một dân tộc độc lập. Người Afghan yêu quý phong tục nhưng ghê tởm các luật lệ. Và với việc đấu diều cũng thế. Luật lệ thật đơn giản: Không luật lệ nào. Thả diều của bạn lên. Cắt hạ đối thủ. Chúc may mắn.

    Tất nhiên không phải chỉ có thế. Trò vui thực sự bắt đầu khỉ một chiếc diều bị hạ. Là khi những đấu thủ thả diều ào đến, bọn trẻ ấy đuổi theo chiếc diều bị gió thổi cuốn đi, qua những vùng lân cận, cho đến khi nó quay mòng mòng lộn xuống cánh đồng, rơi vào sân nhà ai đó, mắc trên ngọn cây hoặc một nóc nhà. Cuộc rượt đuổi cực kỳ dữ dội, từng đám trẻ đua diều kéo đàn trên đường phố, xô đẩy lấn lướt nhau, giống những người ở Tây Ban Nha như chạy trốn những con bò tót tôi đã có lần được đọc. Một năm, có đứa trẻ hàng xóm trèo lên cây thông để tìm diều. Cái cành gãy răng rắc dưới sức nặng của nó, và nó rơi từ gần mười mét xuống. Gãy lưng và không bao giờ đi lại được nữa. Nhưng nó ngã mà chiếc diều vẫn ôm trong hai tay. Và khi một người đấu diều đặt hai tay lên chiếc diều, không ai có thể cướp được của họ. Đó không phải một luật lệ. Đó là phong tục.

    Đối với những người đấu diều, giải thưởng đáng thèm muốn nhất là chiếc diều cuối cùng bị rơi của cuộc đấu diều mùa đông. Nó là một giải thưởng của danh dự, một cái gì đó để trưng trên tấm áo khoác, cho khách khứa trầm trồ. Khi bầu trời đã quang diều và chỉ còn hai chiếc cuối cùng trụ lại, mỗi người đua diều đều chuẩn bị sẵn sàng cho cơ may giật giải. Cậu ta chọn cho mình một vị trí nghĩ rằng sẽ đem lại cho mình lợi thế hơn. Những cơ bắp căng cứng đã sẵn sàng duỗi ra. Những chiếc cổ nghển lên. Những con mắt nheo lại. Những cuộc chiến nổ ra. Và khi chiếc diều cuối cùng bị hạ, thế là ồn ĩ loạn xạ cả lên.

    Trải qua nhiều năm, tôi đã từng chứng kiến bao chàng trai đua diều. Nhưng Hassan vượt xa người đua diều vĩ đại nhất mà tôi từng thấy. Điều hoàn toàn lạ lùng là cung cách cậu luôn luôn nắm được vị trí chiếc diều tiếp đất, cả trước khi nó thật sự đáp xuống, như thể cậu có một sự định hướng sâu kín nào đó.

    Tôi nhớ một ngày đông ảm đạm, Hassan và tôi đang thả diều. Tôi đang đuổi theo cậu qua những vùng quanh đó, nhảy qua nhưng rãnh nước, len lỏi qua những đường phố hẹp. Tôi hơn cậu ấy một tuổi, nhưng cậu chạy nhanh hơn, và tôi tụt lại phía sau.

    - Hassan, đợi với! - Tôi hét lên, thở gấp và giận dữ.

    Cậu quay vòng lại, vẫy tay: "Lối này!", cậu gọi trước khi vụt rẽ theo một góc phố khác, tôi ngước nhìn lên, thấy hướng chúng tôi đang chạy ngược với hướng diều rơi.

    - Chúng ta lạc rồi! Chúng ta nhầm đường rồi! - Tôi kêu toáng lên.

    - Tin tôi đi.

    Tôi nghe thấy tiếng cậu gọi ở phía trước. Tôi đến góc đường và thấy Hassan vụt chạy, đầu cúi xuống, không thèm nhìn lên trời, mồ hôi đầm đìa trên lưng áo sơ mi. Tôi vấp chân lúc bước qua một hòn đá và ngã nhào - tôi không chỉ chậm hơn Hassan mà còn vụng về hơn. Tôi luôn luôn ghen với sức vóc lực lưỡng bẩm sinh của cậu ấy. Khi loạng choạng đứng lên, tôi thoáng nhìn thấy Hassan biến mất quanh góc phố khác. Tôi tập tễnh chạy theo cậu ấy, mà như có kim châm đau nhức liên hồi chọc vào hai đầu gối trầy xước của tôi.

    Tôi thấy chúng tôi hóa ra đã ở trên một con đường bẩn thỉu đầy vệt bánh xe, gần trường Trung học Isteqlal. Một bên có cánh đồng rau diếp mọc vào mùa hè, bên kia là một rặng cây anh đào chua. Tôi thấy Hassan đang bắt tréo chân ngồi dưới gốc cây, ăn một nắm dâu tằm khô.

    - Chúng ta định làm gì ở đây nào? - Tôi hổn hển, bụng quặn lên muốn nôn.

    Cậu ta mỉm cười.

    - Ngồi xuống đây với tôi, Amir agha. Tôi ngồi phịch xuống gần cậu ta, trên một lớp tuyết mỏng, thở phì phò:

    - Cậu đang làm mất thì giờ của chúng ta. Nó đi theo lối khác rồi, cậu không thấy ư?

    Hassan tóp tép một quả dâu tằm trong miệng, nói:

    - Sắp đến rồi.

    Tôi không thể thở nổi nữa, còn cậu ta vẫn chẳng hề tỏ ra mệt mỏi.

    Tôi hỏi:

    - Làm sao cậu biết?

    - Tôi biết.

    - Làm sao cậu có thể biết được?

    Cậu ta quay lại phía tôi. Mấy giọt mồ hôi lăn từ lớp da đầu hói của cậu ta xuống:

    - Amir agha, đã bao giờ tôi nói dối cậu chưa?

    Chợt tôi quyết định đùa cậu ấy một chút:

    - Tôi không biết, - cậu có thể làm vậy?

    - Tôi thà ăn bẩn còn hơn, - Hassan giận dữ nhìn tôi nói.

    - Thật ư? Cậu thà làm thế thật ư?

    Cậu ta nhìn tôi một cách đắn đo:

    - Làm gì?

    - Ăn bẩn, nếu tôi bảo cậu thế. - tôi nói.

    Tôi biết tôi đang tàn nhẫn, giống như khi tôi cợt nhạo cậu ấy nếu cậu ấy không biết một từ bóng bẩy nào đó. Nhưng có một cái gì đó có vẻ hấp dẫn - dù hơi độc ác - trong việc trêu chọc Hassan. Đại loại như khi chúng tôi chơi trò hành hạ côn trùng ấy. Chỉ khác lúc này cậu ấy là con kiến, và tôi đang cầm chiếc kính lúp.

    Đôi mắt cậu ấy thăm dò mặt tôi một lúc lâu. Chúng tôi ngồi đó, hai thằng con trai dưới một gốc cây anh đào chua, bất chợt nhìn, nhìn thật sự vào nhau. Lại xảy ra điều đó: Mặt Hassan biến đổi. Có lẽ không biến đổi, không thật sự, nhưng bất chợt tôi cảm thấy đang nhìn vào hai bộ mặt, bộ mặt này tôi biết, bộ mặt là ký ức ban đầu của tôi, và bộ mặt kia, bộ mặt thứ hai, bộ mặt lẩn tránh ngay dưới vẻ bề ngoài. Trước, tôi đã từng thấy nó - nó luôn làm tôi bị sốc đôi chút. Bộ mặt khác chỉ hiện ra trong một khoảnh khắc, đủ lâu để đem lại cho tôi một cảm giác bất ngờ là có thể trước đây tôi đã từng gặp nó ở đâu đó. Thế rồi, Hassan vụt loé sáng và lại đúng là cậu ta. Vẫn chỉ Hassan.

    - Nếu cậu yêu cầu, tôi sẽ làm, - cuối cùng cậu ấy nhìn thẳng vào mặt tôi, nói.

    Tôi cụp mắt xuống. Từ ngày hôm ấy, tôi thấy khó mà nhìn thẳng vào những người như Hassan, những kẻ nghĩ gì nói nấy.

    - Nhưng tôi vẫn không hiểu, - cậu nói thêm. - Cậu đã bao giờ yêu cầu tôi làm điều như thế đâu, hở Amir agha?

    Và thật bất ngờ, cậu đã ném vào tôi một phép thử nhỏ riêng của cậu. Nếu tôi định đùa với cậu, và thử thách lòng trung thành của cậu, vậy thì cậu cũng đùa lại với tôi, thử lương tâm và đạo đức của tôi.

    Uớc gì tôi đừng khơi ra chuyện đó. Tôi cố gượng cười:

    - Đừng có ngớ ngẩn, Hassan. Cậu biết là tôi không mà.

    Hassan mỉm cười trở lại. Chỉ khác là nụ cười của cậu không có vẻ gượng ép. Rồi nói:

    - Tôi biết chứ.

    Và đó chính là điểm đặc biệt về những người nghĩ gì nói nấy. Họ nghĩ mọi người khác cũng như họ.

    - Đây nó đến rồi - Hassan nói, tay chỉ lên trời. Cậu kiễng chân lên, đi mấy bước về bên trái. Tôi nhìn lên, thấy chiếc diều đang rơi thẳng về phía chúng tôi. Tôi nghe thấy tiếng bước chân, tiếng la hét, một đám hỗn loạn trẻ đua diều đang tới gần. Nhưng chúng chỉ phí thời gian. Bởi vì Hassan đã đứng đó, hai cánh tay dang rộng, mỉm cười, đang đợi chiếc diều. Và mong Thượng đế - là nếu Ngài có tồn tại - hãy chọc mù mắt tôi đi, nếu chiếc diều không rơi đúng vào hai cánh tay dang thẳng ra của cậu ấy.

    Vào mùa đông năm 1975, tôi thấy Hassan săn đuổi một chiếc diều lần cuối cùng.

    Thường thường, mỗi vùng tổ chức một cuộc đua diều riêng. Nhưng năm đó, một cuộc thi đấu lớn sẽ được tổ chức ở quận tôi. Wazir Akbar Khan, và mấy quận khác - Karteh-Char, Karteh-Parwan, Mekro-Rayan và Koteh-Sangi - đã được mời. Bạn khó có thể đi bất cứ đâu mà không nghe thấy nói về cuộc tỉ thí đang sắp đến. Đồn rằng, đó sẽ là cuộc thi đấu lớn nhất trong hai mươi nhăm năm qua.

    Một tối mùa đông đó, cuộc thi lớn chỉ còn cách có bốn ngày, Baba và tôi ngồi ở phòng đọc của ông, trong những ghế tựa đệm da căng phồng bên hơi ấm của lò sưởi. Chúng tôi đang vừa nhấp trà vừa trò chuyện. Ông Ali đã dọn bữa tối sớm hơn, khoai tây và súp lơ nấu cary ăn với cơm, và đã rút lui về ngủ với Hassan. Baba đang vỗ béo tẩu thuốc và tôi đang đòi ông kể cho tôi nghe câu chuyện về mùa đông, có một đàn chó sói từ như dãy núi ở Herat xuống và buộc ai nấy phải ở lì trong nhà cả một tuần lễ, thì ông quẹt một que diêm, rồi bất chợt bảo:

    - Bố nghĩ có thể con sẽ thắng cuộc đấu năm nay. Con nghĩ thế nào?

    Tôi không biết phải nghĩ gì. Hoặc nói gì. Có phải đó là những gì sẽ xảy ra không? Hay ông vừa giúi cho tôi một chiếc chìa khóa? Tôi là một chiến binh đấu diều giỏi. Thực tế, một chiến binh rất giỏi nữa. Một vài lần, tôi thậm chí đã đến sát việc thắng giải cuộc thi đấu mùa đông. Một lần tôi đã từng lọt vào trong số ba người cuối cùng. Nhưng đến sát không đồng nghĩa thắng cuộc, chẳng phải thế sao? Baba đã không đến sát. Ông thắng, bởi vì những người vượt trội chiến thắng và mọi người khác chịu bỏ về nhà. Baba quen với thắng cuộc, thắng trong mọi chuyện ông có ý định thắng. Chẳng phải ông có quyền mong đợi điều tương tự ở con trai ông ư? Và cứ thử tưởng tượng xem. Nếu tôi thắng..

    Baba hút tẩu thuốc và trò chuyện. Tôi giả vờ lắng nghe. Nhưng tôi không thể lắng nghe, không thật sự, bởi lời bình nhỏ của Baba đã gieo vào đầu tôi một hạt giống: Nhất quyết tôi sẽ thắng trong cuộc thi đấu mùa đông này. Tôi sẽ thắng, không còn chọn lựa nào khác. Tôi sẽ thắng và tôi sẽ đuổi bắt chiếc diều cuối cùng. Rồi tôi sẽ đem nó về nhà và phô nó với Baba. Cho ông xem một lần và về tất cả những gì con trai ông xứng đáng. Rồi có thể cuộc đời vật vờ như một bóng ma của tôi trong ngôi nhà này cuối cùng sẽ qua đi. Tôi mặc sức mơ mộng: Tôi tưởng tượng những cuộc chuyện trò và tiếng cười suốt bữa tối, thay vì sự im lìm chỉ bị phá vỡ bởi tiếng lanh canh của dao dĩa bằng bạc và tiếng càu nhàu thỉnh thoảng buông ra. Tôi mường tượng, chúng tôi dùng ngày thứ Sáu để lái chiếc xe hơi của Baba đến Paghman, giữa đường dừng lại ở hồ Ghargha ăn món cá hồi chiên và khoai tây. Chúng tôi sẽ đến vườn thú xem con sư tử Marjan, và có thể Baba sẽ không ngáp và lén nhìn đồng hồ tay. Có thể, Baba sẽ đọc một trong những truyện ngắn của tôi. Tôi sẽ viết cho ông một trăm truyện, nếu tôi nghĩ rằng ông sẽ đọc một thôi. Có thể ông sẽ gọi tôi là Amir jan, như chú Rahim Khan gọi. Và có thể, chỉ có thể thôi, cuối cùng tôi sẽ được tha thứ vì đã giết chết mẹ tôi.

    Baba vẫn đang kể cho tôi nghe cái lần ông đã hạ mười bốn chiếc diều trong cùng một ngày. Tôi mỉm cười, gật đầu, cười đúng chỗ, nhưng tôi hầu như chẳng nghe thấy một từ nào ông nói. Bây giờ tôi đã có một sứ mệnh. Và tôi không định làm thất vọng Baba. Không phải lần này.

    Tuyết rơi nặng đêm trước hôm tôi đấu. Hassan và thi ngồi bên dưới cái bàn sưởi kursi và chơi bài panjpar, trong khi những cành cây bị gió thổi soàn soạt vỗ vào cửa sổ. Trước hôm đó, đã bảo ông Ali trang bị một cái kursi cho chúng tôi, về cơ bản nó là một lò sưởi điện dưới một cái bàn thấp trùm một chiếc chăn dày. Xung quanh bàn, ông xếp những tấm đệm và gối nệm, để chừng hai mươi người có thể ngồi và luồn chân vào dưới bàn. Hassan và tôi thường trải qua tất cả những ngày tuyết rơi, rúc vào nhau bên dưới cái bàn sưởi kursi, chơi cờ, bài, phần nhiều là chơi bài panjpar.

    Tôi diệt con mười rô của Hassan và đánh ra hai con Ji với một con sáu. Liền cửa bên, trong phòng đọc của Baba, Baba và chú Rahim Khan đang tranh luận với hai người đàn ông khác - một trong hai người tôi nhận ra là bố của Assef. Qua tường ngăn, tôi có thể nghe thấy tiếng sột soạt của Đài Phát thanh Kabul.

    Hassan diệt con sáu và ôm hai con Ji. Trên radio, Daoud Khan đang thông báo gì đó về đầu tư nước ngoài.

    Tôi nói:

    - Ông ta bảo một ngày nào đó, chúng ta sẽ có vô tuyến truyền hình ở Kabul. - Ai nói? - Daoud Khan, ông tổng thống ấy, ngu thế.

    Hassan cười khúc khích.

    - Tôi được nghe nói, ở Iran đã có.

    Tôi thở dài:

    - Bọn người Iran ấy..

    Đối với số đông người Hazara, Iran đại diện cho một thánh đường giả hiệu. - Tôi đoán như thế, bởi vì giống như người Hazara, hầu hết người Iran đều là tín đồ Hồi giáo Shi'a. Nhưng tôi nhớ ra một điều gì đó thầy giáo từng nói hồi mùa hè năm ấy về người Iran, họ là những kẻ ăn nói ngọt xớt, nhăn nhở cười, một tay vỗ vào lưng bạn, còn tay kia móc túi bạn. Tôi kể lại cho Baba chuyện đó, và ông bảo thầy giáo tôi là một trong những kẻ Afghan ghen ghét, ghen ghét vì Iran là một cường quốc đang nổi lên ở châu Á, còn phần lớn dân các nước thậm chí không tìm nổi Afghanistan trên bản đồ thế giới. Ông nhún vai bảo: "Nói thế cũng đau đấy. Nhưng thà bị đau bởi sự thật còn hơn được vỗ về bằng sự dối trá."

    - Rồi tôi sẽ mua một chiếc cho cậu, - tôi bảo.

    Mặt Hassan rạng rỡ lên:

    - Một máy thu hình ư? Thật không?

    - Nhất định thế. Và cũng không phải loại đen trắng đâu. Có thể lúc đó chúng ta đã là những người trưởng thành rồi, nhưng tôi sẽ mua cho chúng ta hai chiếc. Một cho cậu và một cho tôi.

    - Tôi sẽ đặt nó trên chiếc bàn tôi vẫn thường vẽ, - Hassan nói.

    Câu nói của cậu làm tôi thấy buồn buồn. Buồn vì nỗi Hassan là ai, sống ở đâu. Buồn vì làm sao cậu ấy lại chấp nhận sự thể sẽ sống đến già trong túp lều tranh vách đất như bố cậu đã sống.

    Tôi rút con bài cuối cùng và chơi cậu một đôi Q với một con mười. Hassan nhấc những con Q lên:

    - Cậu biết không, cậu sẽ làm cho Agha sahib ngày mai rất tự hào.

    - Cậu nghĩ thế ư?

    - Inshallah, - Hassan nói. - Cầu trời phù hộ.

    - Inshallah! Tôi hô theo, dẫu câu "Trời phù hộ" từ miệng tôi thốt ra có vẻ không thành thực. Đó là chuyện với Hassan. Cậu ấy quá trong sáng, khiến tôi cảm thấy như mình là kẻ giả dối đâu đó quanh cậu.

    Tôi diệt con K của cậu và chơi con bài cuối cùng, con đầm píc. Cậu phải nhặt lên. Tôi đã thắng, nhưng lúc xáo ván bài mới, tôi có linh cảm là rõ ràng Hassan đã để cho tôi thắng.

    - Amir agha này.

    - Cái gì?

    - Cậu biết không.. Tôi thích nơi tôi sống. - Cậu luôn như thế, luôn đọc được trong đầu tôi như thế. - Đây là nhà tôi.

    - Dù thế nào, - tôi nói, - cũng phải chuẩn bị thua lần nữa đi thôi.

    * * *

    1 Qurma: Món súp rau hầm truyền thống của Afghanistan.
     
  9. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG VII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sáng hôm sau, trong khi pha trà đen cho bữa điểm tâm, Hassan bảo tôi cậu ấy mới có một giấc mơ:

    - Chúng ta ở hồ Ghargha, cậu, tôi, cha tôi, Agha sahib, chú Rahim Khan và hàng nghìn người khác. Trời ấm và có nắng. Mặt hồ trong sáng như gương. Nhưng không ai bơi bởi vì người ta bảo có một con quỷ đã đến chiếc hồ đó. Nó đang bơi ở dưới ấy, chờ đợi.

    Hassan rót cho tôi một tách trà thêm đường vào, thổi qua loa một chút rồi đặt trước mặt tôi.

    - Vì vậy ai nấy đều sợ lội xuống nước, bất ngờ cậu đá văng đôi giày đi, Amir agha, rồi cởi áo sơ mi ra, cậu nói: "Không có quỷ nào ở đây, tôi sẽ chứng minh cho mọi người." Và trước khi ai đó kịp ngăn, cậu lao xuống nước và bắt đầu bơi ra xa. Tôi lao theo cậu và cả hai chúng ta cùng đang bơi.

    - Nhưng cậu có bơi được đâu.

    Hassan cười:

    - Amir agha, đó là giấc mơ, người ta có thể làm bất cứ điều gì. Tóm lại, mọi người vẫn kêu thét lên: "Lên đi! Lên đi! Nhưng chúng ta cứ bơi trong nước lạnh. Chúng ta bơi tiếp ra giữa hồ và dừng lại. Chúng ta quay về phía bờ và vẫy tay chào mọi người. Trông họ bé như những con kiến nhưng bọn mình vẫn nghe tiếng họ vỗ tay. Bây giờ thì họ thấy rồi. Không có quỷ nào hết, chỉ có nước thôi. Sau đó họ đổi tên hồ và gọi là" Hồ của Amir và Hassan, hai Sultan của Kabul, "và chúng ta sẽ bắt mọi người trả tiền để bơi trên đó.

    Tôi hỏi:

    - Vậy giấc mơ ấy ngụ ý gì?

    Hassan phết mứt quả lên bánh naan của tôi, đặt lên một cái đĩa:

    - Tôi không biết. Tôi đang mong cậu có thể bảo cho tôi biết.

    - Ồ, nó là một giấc mơ vớ vẩn. Chẳng có gì xảy ra trong đó.

    - Cha tôi nói những giấc mơ luôn luôn ngụ ý điều gì đó.

    Tôi nhấp một ngụm trà.

    - Vậy sao cậu không hỏi ông ấy? Ông ấy sáng suốt lắm mà.

    Tôi nói cộc lốc, tuy không định thế. Cả đêm tôi đã không ngủ được. Cổ và lưng tôi giống như những chiếc lò xo, và mắt tôi nhức nhối.

    Tôi đã nhỏ nhen với Hassan. Suýt nữa tôi đã xin lỗi, rồi lại thôi. Hassan hiểu tôi đang căng thẳng. Hassan luôn hiểu về tôi.

    Tôi nghe thấy tiếng nước chảy trong phòng tắm của Baba, ở trên gác.

    Các đường phố lấp lánh tuyết mới rơi, và bầu trời một màu xanh biếc. Tuyết phủ lên thành lớp trên mọi nóc nhà, và trĩu trên những cành cây dâu tằm cằn cỗi thẳng hàng trên đường phố chúng tôi. Suốt đêm, tuyết đổ vào mọi khe suối và rãnh nước. Tôi nheo mắt trước màu trắng lóa mắt khi Hassan và tôi bước qua chiếc cổng sắt. Ali đóng cổng lại cho chúng tôi. Tôi nghe thấy ông lẩm bẩm cầu nguyện trong hơi thở. Ông luôn đọc một câu kinh, khi con trai ông rời khỏi nhà.

    Tôi chưa từng thấy nhiều người đến thế trên đường phố của chúng tôi. Lũ trẻ đang ném những quả cầu tuyết, cãi cọ ầm ĩ, rượt đuổi nhau, cười khúc khích. Những chiến binh đấu diều đang cụm lại với những người giữ cuộn dây của họ, chuẩn bị lần cuối. Từ những đường phố liền kề nhau, tôi nghe thấy tiếng cười và tiếng chuyện gẫu. Trên các nóc nhà, đã chật cứng những khán giả ngả người trên ghế vải lanh, trà nóng bốc hơi từ những phích nước, và nhạc của Ahmad Zahir oang oang từ những máy cát xét. Nhạc của Ahmad Zahir mang tính đại chúng rộng rãi đã cách mạng hóa âm nhạc Afghan và xúc phạm những người theo chủ nghĩa thuần túy bằng việc thêm ghi-ta điện, trống và kèn vào loại trống vỗ và đàn harmonium truyền thống. Trên sàn diễn, hoặc tại các buổi tiệc tùng, ông tránh lối hát đơn điệu, gần như ảm đạm của các ca sĩ già hơn, và thực tế vừa hát ông vừa cười - thậm chí có lúc cười cả với phụ nữ. Tôi quay sang nhìn lên nóc nhà của chúng tôi, thấy Baba và chú Rahim Khan ngồi trên một chiếc ghế dài, cả hai đều mặc áo len, đang nhấp trà, Baba vẫy tay. Tôi không thể nói ông đang vẫy tôi hay Hassan.

    - Ta bắt đầu thôi. - Hassan nói. Cậu đi đôi ủng cao su đen, mặc chiếc áo chapan xanh tươi ra ngoài chiếc áo len dày và chiếc quần dài bằng nhung kẻ đã bạc màu. Ánh nắng loáng lên gương mặt cậu, và trên đó, tôi thấy vết sẹo hồng trên môi đã lành hẳn.

    Chợt tôi muốn rút lui. Ngừng tất cả thôi, về nhà. Tôi đang nghĩ gì nhỉ? Tại sao tôi phải thử thách mình như vậy, khi tôi đã biết kết quả rồi? Baba đang ở trên mái nhà, dõi theo tôi. Tôi cảm thấy cái nhìn nhức nhối của ông lên tôi, giống như hơi nóng của mặt trời rực cháy. Điều đó có lẽ là một thất bại lớn, cả đối với tôi.

    - Tôi không chắc tôi muốn thả diều hôm nay, - tôi nói.

    - Hôm nay là một ngày đẹp trời, - Hassan bảo.

    Tôi xê dịch đôi chân. Cố để khỏi phải nhìn lên nóc nhà của chúng tôi:

    - Tôi không biết. Có lẽ ta nên về nhà thôi.

    Thế là Hassan bước đến cho tôi, bằng một giọng trầm trầm, nói một điều khiến tôi hơi hoảng:" Hãy nhớ. Amir agha. Không có con quỷ nào, mà chỉ có một ngày đẹp trời. "Làm sao tôi có thể là một cuốn sách mở ngỏ như thế cho cậu, khi phần lớn thời gian tôi chẳng hề biết tới những gì đang quay cuồng trong đầu cậu? Tôi là kẻ cắp sách đến trường, biết đọc, biết viết. Tôi là người thông minh, còn Hassan không thể đọc nổi cuốn sách vỡ lòng nhưng cậu có thể thấu hiểu tôi rất nhiều. Điều đó có đôi chút bất ngờ, nhưng ở một mức độ, lại là điều an ủi, vì có được một người luôn biết những gì bạn cần.

    - Không có quỷ, - tôi nói, và ngạc nhiên cảm thấy khá hơn đôi chút.

    Cậu mỉm cười:

    - Không có quỷ.

    - Cậu chắc không?

    Hassan nhắm mắt lại. Gật đầu.

    Tôi nhìn lũ trẻ chạy nhảy tung tăng dưới đường phố, ném những quả cầu tuyết.

    - Một ngày đẹp trời, có phải không?

    - Ta cho bay thôi, - Hassan nói.

    Thế rồi tôi chợt nghĩ, có thể Hassan đã bịa ra giấc mơ. Có thể thế chăng? Tôi khẳng định không thể. Hassan không tinh quái đến thế. Tôi cũng không tinh quái đến thế. Nhưng bịa hay không, thì giấc mơ ngớ ngẩn đó cũng cất bớt cho tôi đôi chút lo lắng. Có lẽ tôi nên cởi áo ra, bơi thử một cái trong hồ. Tại sao lại không nhỉ.

    - Ta tiến hành thôi, - tôi nói.

    Mặt Hassan sáng ngời lên và nói:

    - Tốt.

    Rồi cậu nâng diều của chúng tôi lên, chiếc diều màu đỏ, viền vàng, và ngay phía dưới, chỗ thanh trung tâm và thanh ngang gặp nhau, có chữ ký không thể nhầm lẫn vào đâu được của ông Saifo. Cậu liếm ngón tay, giơ lên cao để thử gió, rồi chạy theo hướng gió - trong một số trường hợp hiếm hoi, chúng tôi thả diều vào mùa hạ, cậu đá bụi tung lên để xem gió thổi hướng nào. Ống dây tở ra trong hai tay tôi, cho tới khi Hassan dừng lại, cách xa khoảng mười lăm mét. Cậu nâng diều lên cao quá đầu, như một lực sĩ thế vận hội nâng chiếc huy chương vàng. Tôi giật mạnh dây diều hai lần, dấu hiệu quen thuộc của chúng tôi, và Hassan tung diều lên.

    Bị giằng co giữa Baba và các giáo sĩ ở nhà trường, tôi vẫn chưa biết chắc liệu có Thượng đế hay không. Nhưng khi những thánh thi ayat 1tôi đã học trong lớp diniyat của tôi dâng lên môi, tôi vẫn lẩm bẩm đọc. Tôi hít một hơi sâu, thở mạnh và kéo dây diều. Trong vòng một phút, chiếc diều của tôi bay vút lên trời. Nghe như tiếng một con chim giấy vỗ cánh. Hassan vỗ tay, huýt sáo, và chạy lại chỗ tôi. Tôi trao cho cậu ống cuộn, và tiếp tục điều khiển dây diều, còn cậu thì quay nhanh ống cuộn để thả dây diều ra.

    Ít nhất cũng có tới hai chục chiếc diều đã lơ lửng trên bầu trời như những con cá mập giấy lang thang tìm mồi. Trong vòng một giờ, con số đã lên gấp đôi, và diều đỏ, diều xanh, diều vàng bay liệng, nhào lộn trên bầu trời. Một luồng gió lạnh lùa qua tóc tôi. Gió thuận cho việc thả diều, chỉ vừa đủ mạnh để nâng lên, làm cho diều cuốn theo dễ dàng hơn. Đứng gần tôi, Hassan giữ ống cuộn, tay đã ứa máu vì dây cứa.

    Chẳng mấy chốc, đến lúc cắt dây diều, loạt đầu tiên những diều bị đánh bại, quay tít, mất điều khiển. Chúng rơi từ trên trời xuống như sao sa với những chiếc đuôi lấp lánh, ngoằn ngoèo, làm thành trận mưa chiến lợi phẩm xuống những vùng quanh đó cho những người đua diều. Lúc này tôi có thể nghe rõ tiếng la hét của những người đua diều chạy trên các đường phố. Ai đó lớn tiếng thuật lại một cuộc chiến cách đó hai phố.

    Tôi vẫn lén nhìn lên chỗ Baba ngồi với chú Rahim Khan trên mái nhà, không hiểu ông đang nghĩ gì. Ông có đang cổ vũ tôi không? Hay một phần trong ông thích ngắm tôi thất bại? Điều quan trọng khi thả diều đó là: Tâm trí anh trôi dạt với diều.

    Lúc này diều đang rớt xuống khắp mọi nơi, và tôi vẫn đang bay. Tôi vẫn đang bay. Cái nhìn của tôi vẫn lướt trên người Baba, ôm lấy chiếc áo len của ông. Ông có ngạc nhiên thấy tôi vẫn bay được lâu như thế không? Đừng ngước mắt mãi lên trời, sẽ không chịu được lâu đâu. Tôi đột ngột quay phắt lại nhìn lên trời. Một chiếc diều đỏ đang tiến sát vào tôi - Tôi bắt được chiếc diều đó vừa đúng lúc. Tôi mắc mớ với nó một chút, cuối cùng chiếm ưu thế hơn, khi nó trở nên sốt ruột và định cắt hạ tôi từ phía dưới.

    Tới rồi lui trên đường phố, những người đua diều đang quay lại với bộ dạng chiến thắng, những chiếc diều bị bắt được giơ cao lên. Họ đem khoe chúng với cha mẹ mình, bạn bè mình. Nhưng tất cả đều hiểu chiếc diều vô địch vẫn chưa tới. Giải lớn nhất của tất cả vẫn đang bay. Tôi cắt một chiếc diều vàng rực rỡ có cái đuôi trắng xoắn. Việc đó khiến tôi phải trả giá, bằng một vết cứa nữa ở ngón tay trỏ, và máu rỉ xuống gan bàn tay tôi. Tôi bảo Hassan giữ dây, liếm máu cho khô, rồi chùi ngón tay vào quần bò của tôi.

    Trong khoảng một giờ nữa thôi, số diều sống sót giảm xuống có thể từ năm mươi chỉ còn khoảng một chục. Tôi là một trong số đó. Tôi sẽ thuộc một chục cuối cùng. Tôi biết phần này của cuộc thi đấu sẽ khá dài, bởi vì nhưng kẻ trụ được lâu như vậy đều giỏi - họ sẽ không dễ dàng rơi vào những bẫy đơn giản như cái mẹo cổ lỗ sĩ nhào lên lộn xuống, mẹo tủ của Hassan.

    Vào khoảng ba giờ chiều, những cụm mây giạt đến và mặt trời đã luồn vào sau các đám mây. Những bóng râm bắt đầu dài ra. Khán giả trên các mái nhà co ro lại trong khăn quàng và áo khoác dày. Chúng tôi đã giảm xuống tới mức chỉ còn nửa tá, tôi vẫn bay. Hai chân tôi tê nhức và cổ tôi cứng đuỗn. Nhưng với mỗi chiếc diều bị đánh bại, hy vọng lại nhen lên trong lòng tôi, như tuyết đang dồn lại trên một bức tường, mỗi lúc dày thêm một lớp.

    Mắt tôi vẫn quay lại nhìn chiếc diều xanh đang đánh phá vào giờ cuối cùng này. Tôi hỏi:

    - Nó hạ được bao nhiêu chiếc rồi?

    - Tôi đếm được mười một, - Hassan nói.

    - Cậu có biết có thể là của ai không?

    Hassan chậc lưỡi và vênh mặt lên. Đó là một điệu bộ riêng của Hassan, có nghĩa là không biết. Chiếc diều xanh cắt ngọt một chiếc diều lớn màu tía đỏ và quét hai lần vòng thắt lớn. Mười phút sau, nó cắt hạ hai chiếc khác nữa, tạo điều kiện cho một bầy trẻ đua diều đua nhau đuổi bắt những diều bị hạ.

    Thêm ba mươi phút nữa, chỉ còn bốn chiếc diều trụ lại. Và tôi vẫn bay. Có vẻ như tôi khó lòng mắc một động tác sai lầm, như thể mỗi đợt gió đều làm lợi cho tôi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy vững vàng đến thế, may mắn đến thế. Làm cho tôi cảm thấy say sưa hứng khởi. Tôi không dám nhìn lên mái nhà. Không dám rời mắt khỏi bầu trời. Tôi phải tập trung tư tưởng, để chơi thật thông minh. Lại thêm mười lăm phút nữa, và những gì tựa như một giấc mơ tức cười sáng hôm đó đã bất ngờ trở thành thực tế: Chỉ còn mỗi tôi và chàng trai kia. Chiếc diều xanh.

    Sự căng thăng trên bầu trời cũng căng ngang với dây trộn thủy tinh mà tôi đang kéo giật mạnh với hai bàn tay ứa máu. Mọi người đang giậm chân vỗ tay, huýt sáo hát vang" Boboresh! Boboresh! Hạ nó đi! Hạ nó đi! "Tôi không biết liệu tiếng của Baba có hòa trong tiếng của bọn họ không. Nhạc vang dội. Mùi bánh bao Mantu 2hấp và Pakora 3rán tỏa từ trên mái nhà và những cánh cửa mở rộng.

    Nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy - tất cả những gì tôi muốn nghe - là tiếng máu giật thình thịch trong đầu tôi. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là chiếc diều xanh. Tất cả những gì tôi ngửi thấy là chiến thắng. Cứu rỗi. Chuộc tội. Nếu Baba nhầm và có một Thượng đế như họ nói ở trường học, thì Ngài sẽ để tôi chiến thắng. Tôi không biết anh chàng kia đang giở trò gì, có thể chỉ là những trò khoác lác. Nhưng đó lại là một cơ may của tôi để trở thành một người được nhìn vào, chứ không phải nhìn thấy, lắng nghe chứ không phải nghe thấy. Nếu có một Thượng đế, Ngài sẽ dẫn dắt để gió thổi về phía tôi, sao cho bằng một cái giật mạnh dây diều, tôi sẽ dứt được nỗi đau của tôi, lòng khao khát của tôi. Tôi đã phải chịu đựng quá nhiều, đã đi quá xa. Và bất ngờ, hệt như thế, hy vọng trở thành thực tế. Tôi sắp thắng. Vấn đề chỉ là khi nào thôi.

    Hóa ra nó lại sớm chứ không muộn. Một đợt gió mạnh nâng diều tôi lên, và tôi chiếm lợi thế. Thả dây ra, giật lại. Lượn vòng diều tôi lên đỉnh chiếc diều xanh. Tôi giữ nguyên tư thế. Chiếc diều xanh biết nó đang trong thế quẫn. Nó đang cố một cách vô vọng hòng thoát ra khỏi thế bị kẹt, nhưng tôi không để nó thoát. Tôi giữ vững tư thế. Đám đông cảm thấy chung cuộc đã trong tầm tay. Tiếng hô đồng thanh" Hạ nó đi! Hạ nó đi! "Càng to hơn, giống như dân La Mã động viên các đấu sĩ giết, giết!

    - Sắp được rồi! Amir agha! Sắp rồi! - Hassan hổn hển nói.

    Rồi thời khắc đó cũng đến. Tôi nhắm mắt lại, và nới lỏng tay nắm dây diều. Nó lại cứa vào các ngón tay tôi trong khi gió giật kéo. Và rồi.. Tôi chẳng cần nghe tiếng đám đông hô ầm lên mới biết. Tôi cũng chăng cần nhìn. Hassan đang hét lên và vòng hai cánh tay ôm lấy cổ tôi.

    - Hoan hô, hoan hô, Amir agha!

    Tôi mở mắt, thấy chiếc diều xanh đang điên cuồng quay lộn như một chiếc lốp xe tuột khỏi chiếc xe đua. Tôi chớp mắt cố nói một điều gì đó. Chẳng nói ra được điều gì. Bất chợt tôi như đang bay liệng, từ bên trên nhìn xuống bản thân tôi. Áo khoác da đen, khăn quàng đỏ, quần bò bạc màu. Một đứa con trai mảnh mai, hơi xanh tái, một thằng nhóc thấp bé hơn tuổi mười hai của nó. Nó có đôi vai hẹp và một chút quầng đen quanh đôi mắt màu nâu tái. Gió nhẹ vờn bay mớ tóc màu nâu nhạt của nó. Nó ngước lên nhìn tôi và chúng tôi mỉm cười với nhau.

    Thế rồi tôi hét to lên, và mọi vật đều rực rỡ sắc màu và âm vang, mọi vật đều sống động và tốt đẹp. Hai tay tôi ôm lấy Hassan và chúng tôi cùng nhảy tới nhảy lui, cả hai chúng tôi cùng cười, cả hai cùng khóc với nhau." Amir agha, cậu thắng rồi, thắng rồi! "

    " Chúng ta thắng rồi! Chúng ta thắng rồi! "Là tất cả những gì lẽ ra tôi có thể nói. Nhưng điều đó biết đâu lại không xảy ra. Một lát nữa thôi, có thể tôi sẽ chớp mắt và tỉnh dậy khỏi giấc mơ đẹp, ra khỏi giường, xuống bếp ăn điểm tâm với duy nhất Hassan để trò chuyện. Mặc quần áo. Đợi Baba. Từ bỏ. Trở lại cuộc sống cũ của tôi. Thế rồi, tôi thấy Baba trên mái nhà của chúng tôi. Ông đang đứng ở rìa mái, vung lên vung xuống cả hai nắm đấm của ông. Reo hò và vỗ tay. Và đó là giây phút quan trọng nhất và duy nhất của mười hai năm đời tôi, được thấy Baba trên cái nóc nhà đó, cuối cùng đã tự hào về tôi.

    Nhưng lúc này, ông đang làm điều gì đó, xua xua hai tay một cách khẩn thiết. Thế là tôi hiểu.

    - Hassan, chúng ta.

    - Tôi hiểu, - Hassan nói, gỡ vòng tay ôm của chúng tôi ra. - Inshallah, chúng ta sẽ ăn mừng sau. Ngay bây giờ, tôi sẽ đuổi bắt chiếc diều xanh cho cậu. Hassan buông ống cuộn xuống và vụt chạy, vạt áo chapan xanh của cậu quét tuyết phía sau.

    - Hassan! - Tôi gọi. - Trở về với chiếc diều nhé!

    Cậu đã ngoặt ở góc phố, đôi ủng cao su đá vung tuyết lên. Dừng, rồi rẽ. Cậu bắc loa mồm nói to:

    - Vì cậu cả ngàn lần rồi!

    Rồi cậu cười nụ cười của Hassan và biến mất quanh góc phố. Lần thứ hai tôi được thấy cậu nụ cười rộng mở đó, là hai mươi sáu năm sau, trong tấm ảnh đã ngả màu, chụp từ máy Polaroid.

    Tôi bắt đầu kéo diều của mình xuống, trong khi mọi người đổ đến chúc mừng. Tôi bắt tay họ nói cảm ơn. Mấy thằng bé ít tuổi hơn nhìn tôi mắt long lanh tỏ ra kinh sợ: Tôi là một anh hùng. Những bàn tay vỗ nhẹ lưng tôi và xoa xoa tóc tôi. Tôi vẫn kéo dây và mỉm cười đáp lại, nhưng đầu óc tôi đang ở chỗ chiếc diều xanh.

    Cuối cùng, tôi cũng đã có chiếc diều của tôi trong tay. Tôi quấn mớ dây diều đã thu lại dưới chân quanh ống cuộn, bắt tay thêm vài người nữa, và lon ton chạy về nhà. Đến chiếc cổng sắt, ông Ali đã đợi bên kia đường. Ông thò hai tay qua song sắt, nói:

    - Xin chúc mừng! Tôi đưa chiếc diều và cuộn dây của tôi cho ông, bắt tay ông:

    - Tashakor, cảm ơn Ali jan.

    - Tôi cầu nguyện cho cậu suốt.

    - Vậy ông cầu tiếp đi. Chúng tôi đã xong đâu.

    Tôi vội quay lại đường phố. Tôi không hỏi ông Ali về Baba. Tôi chưa muốn gặp ông. Trong đầu tôi, tôi đã sắp xếp tất cả: Tôi sẽ phải đi vào một cách trịnh trọng, phần thưởng cho người anh hùng hiện ra trong đôi tay đẫm máu của tôi. Những cái đầu sẽ quay lại và những đôi mắt sẽ nhắm nghiền. Rostam và Sohrab sẽ phán xử lẫn nhau. Một khoảnh khắc kịch tính của sự câm lặng. Rồi người chiến binh già sẽ bước tới người chiến binh trẻ, ôm hôn và công nhận sự xứng đáng của con mình. Chứng thực. Cứu rỗi. Chuộc tội. Và rồi sao? Ồ.. tất nhiên, hạnh phúc mãi về sau. Gì nữa?

    Những đường phố của quận Wazir Akbar Khan được đánh số và vuông góc với nhau như kẻ ô. Đó là một khu dân cư mới đang phát triển, với nhiều khoảnh đất trống và những nhà đang xây dựng dở dang trên mọi đường phố giữa các khu nhà có tường cao khoảng hai mét rưỡi bao quanh. Tôi chạy tới chạy lui mọi phố tìm Hassan. Ở đâu, dân chúng cũng đều đang bận rộn xếp dọn ghế, gói ghém thức ăn và đồ nhà bếp sau một ngày dài tiệc tùng. Một số người vẫn còn ngồi trên nóc nhà, hô to những lời chúc mừng tôi.

    Cách phố chúng tôi về phía Nam bốn phố, tôi gặp Omar, con trai một kỹ sư, một ông bạn của Baba. Nó đang chơi bóng cùng với em trai trên bãi cỏ phía trước nhà chúng. Omar là một đứa con trai rất tốt. Chúng tôi đã từng là bạn học cùng lớp bốn, và một bận, nó đã cho tôi một chiếc bút máy, loại bút phải lắp một ống mực vào. Nó nói:

    - Mình nghe thấy nói cậu thắng, Amir, chúc mừng cậu.

    - Cảm ơn. Cậu có thấy Hassan không?

    - Thằng Hazara của cậu à?

    Tôi gật đầu.

    Omar đánh đầu quả bóng cho em trai mình:

    - Mình nghe nói nó là một tay đua diều giỏi.

    Em trai đánh đầu bóng lại cho Omar. Omar bắt bóng, tung lên, tung xuống.

    - Mặc dầu mình vẫn luôn không hiểu nó điều khiển thế nào. Mình muốn nói với đôi mắt ti hí ấy, nó làm thế nào nhìn thấy được cái gì?

    Em trai Omar bật cười, đòi trả lại bóng. Omar lờ nó đi.

    - Cậu có nhìn thấy Hassan không?

    Omar bật ngón tay cái qua vai chỉ về phía Tây Nam:

    - Mình trông thấy nó chạy về phía khu phố chợ lúc nãy.

    - Cảm ơn.

    Tôi chạy vọt đi.

    Lúc tôi chạy tới khu phố chợ, mặt trời đã gần như lặn sau những dãy đồi và hoàng hôn nhuộm hồng, nhuộm tía bầu trời. Cách mấy dãy nhà cao lớn, từ nhà thờ Haji Yaghoub, ông giáo sĩ trầm trầm đọc vang kinh Azan, kêu gọi những tín đồ trải thảm nhỏ của họ ra và cúi đầu hướng về phía Tây trong khi cầu nguyện. Hassan không bao giờ bỏ bất kỳ buổi nào trong năm buổi cầu nguyện ban ngày. Cả khi chúng tôi định chơi trò gì đó, cậu ấy cũng cáo lỗi, kéo nước giếng sâu lên, rửa ráy, rồi biến vào túp lều. Mấy phút sau, cậu đi ra, tươi cười thấy tôi đang ngồi tựa vào tường hoặc vắt vẻo trên một cành cây. Đêm nay, cậu sẽ bỏ lỡ buổi cầu nguyện, dẫu sao cũng tại tôi.

    Khu phố chợ chẳng mấy chốc vắng tanh, các thương nhân đang kết thúc nốt công việc mua bán mặc cả trong ngày. Tôi chạy trong bùn giữa những dãy lều quán san sát, có thể mua ở đây một con chim trĩ vừa mới giết thịt đồng thời một cái máy tính ở ngay quầy bên cạnh. Tôi luồn lách qua đám đông đang vãn dần, những kẻ ăn mày què mặc không biết bao nhiêu lớp giẻ rách, những người bán hàng đội thảm trên hai vai, các nhà buôn vải và hàng thịt đóng cửa hàng về nghỉ. Tôi không thấy bóng dáng Hassan đâu.

    Tôi dừng lại bên một khóm cây quả héo khô, tả hình dạng Hassan cho một ông lão thương nhân đang tải lên lưng con lừa cái của ông những thùng gỗ chứa hạt thông và nho, đầu đội một chiếc khăn tu-ban màu xanh lơ nhạt.

    Ông dừng lại nhìn tôi một lúc lâu trước khi trả lời:

    - Có thể tôi đã gặp nó.

    - Cậu ấy đi theo đường nào?

    Ông ta nhìn đi nhìn lại tôi:

    - Một người như cậu mà lại ở đây vào lúc chạng vạng này, để đi tìm một thằng Hazara ư?

    Ông ta liếc nhìn mãi chiếc áo khoác da và quần bò của tôi, tỏ vẻ ngưỡng mộ - quần cao bồi, chúng tôi vẫn quen gọi thế. Ở Afghanistan, sở hữu bất kỳ thứ gì của Mỹ, nhất là khi nó lại không phải đồ cũ, là một dấu hiệu của sự giàu có.

    - Agha, tôi cần tìm cậu ấy.

    - Nó với cậu là thế nào với nhau? - Ông ta nói..

    Tôi không rõ ngụ ý câu hỏi, nhưng tôi nhắc mình có sốt ruột cũng sẽ không làm cho ông ta cho biết nhanh hơn. Tôi nói:

    - Cậu ấy là con trai người giúp việc của chúng tôi.

    Ông già ngước đôi lông mày ngả màu muối tiêu lên:

    - Thế kia à? Một tên Hazara may mắn có được cậu chủ quan tâm đến thế. Bố nó nên quỳ xuống, lấy lông mi quét bụi chân cho cậu.

    - Ông có định nói cho tôi biết hay không nào?

    Ông ta cứ để nguyên cánh tay trên lưng con la, chỉ về hướng Nam:

    - Tôi cho là tôi đã gặp thằng bé cậu vừa tả, chạy theo lối đó. Nó cầm một một chiếc diều trong tay, chiếc diều xanh.

    - Cậu ấy cầm thật à - Tôi hỏi.

    Vì cậu, một nghìn lần rồi. Cậu ấy đã hứa mà. Hassan yêu quý tội nghiệp. Hassan thân thiết tội nghiệp. Cậu đã giữ lời hứa và đuổi bắt chiếc diều cho tôi.

    - Tất nhiên bây giờ thì chúng đã tóm được nó - ông thương nhân già càu nhàu nói và chất thêm một bọc nữa lên lưng con la.

    - Ai cơ?

    - Những thằng bé khác - Ông nói - Những đứa đang săn đuổi nó. Chúng cũng ăn mặc như cậu - Ông liếc mắt nhìn lên trời và thở dài. - Thôi, đi đi, cậu đang làm tôi chậm buổi cầu kinh namaz đấy.

    Nhưng tôi đã sẵn sàng lao ngay xuống ngõ hẻm đó.

    Tôi lần lượt tìm khắp khu phố chợ trong mấy phút sau nhưng vô ích. Có thể ông già thương nhân đã nhìn nhầm. Trừ phi ông ta nhìn thấy chiếc diều xanh thật. Ý nghĩ tôi sẽ đặt tay lên chiếc diều đó.. Tôi chui đầu vào mọi ngõ hẻm, mọi cửa hàng. Không có dấu hiệu nào của Hassan.

    Tôi bắt đầu lo bóng đêm đổ xuống trước khi tìm thấy Hassan, bỗng nghe thấy tiếng người ở phía trước. Tôi đã tới một con đường hẻo lánh lầy lội. Con đường này vuông góc với đoạn cuối của đại lộ chính phân đôi khu phố chợ. Tôi rẽ theo những vết chân và đi theo hướng có tiếng người. Ủng tôi nhóp nhép trong bùn mỗi bước tôi đi, và hơi thở tôi phả ra như khói trắng trước mặt. Lối đi hẹp chạy song song một bên khe suối phủ đầy tuyết mà tới mùa xuân một dòng nước có thể đổ về cuồn cuộn. Phía bên kia sừng sững những hàng cây bách nặng nề tuyết phủ giữa những ngôi nhà bằng đất sét mái bằng - đa phần không hơn những túp lều là mấy - cách nhau bằng các ngõ hẹp.

    Tôi lại nghe thấy tiếng người, lần này to hơn, từ một trong những ngõ nhỏ ấy. Tôi rón rén đến sát đầu ngõ. Nín thở, liếc nhìn quanh ngõ.

    Hassan đang đứng ở cuối ngõ cụt trong tư thế thách thức, hai nắm đấm vặn lên, chân hơi xoạc ra. Đằng sau cậu, trên một đống phế thải và gạch vụn, vôi cát là chiếc diều xanh. Chiếc chìa khóa mở cửa trái tim của Baba.

    Chặn lối ra của Hassan là ba đứa con trai, vẫn ba thằng hôm đó ở trên đồi, một ngày sau cú đảo chính của Daoud Khan, khi Hassan đã cứu chúng tôi bằng chiếc súng cao su của cậu. Wali đứng ở một bên, Kamal đứng bên kia và Assef đứng giữa. Tôi cảm thấy cơ thể tôi thót lại, và hơi gai lạnh sống lưng. Assef có vẻ thoải mái, tự tin. Nó đang quay quay hai quả đấm thép của nó. Hai thằng kia rụt rè nhích chân, hết nhìn Assef lại nhìn Hassan, như thể chúng đang dồn con thú vào một góc mà chỉ có Assef mới có thề thuần hóa nổi.

    - Súng cao su của mày đâu rồi, thằng Hazara? - Assef vừa nói vừa xoay hai quả đấm thép trong tay. - Mày đã nói cái gì nhỉ?" Chúng nó sẽ phải gọi mày là thằng Assef Một Mắt. "Đúng rồi Assef Một Mắt. Tài giỏi. Tài giỏi thực sự đấy. Nhưng mà, nếu mày đang cầm một thứ vũ khí nạp đạn thì tài giỏi cũng dễ thôi.

    Tôi nhận ra tôi vẫn còn chưa thở được. Tôi thở ra, chậm rãi và lặng lẽ. Tôi cảm thấy bị tê liệt. Tôi nhìn chúng tiến sát lại đứa con trai mà tôi đã cùng lớn lên, đứa con trai có bộ mặt môi hẻ là ký ức đầu đời của tôi.

    - Nhưng hôm nay là một ngày may mắn của mày, thằng Hazara kia, - Assef nói. Lưng nó quay lại phía tôi, nhưng tôi dám cược là nó đang nhăn nhở. - Tao đang trong tâm trạng muốn tha thứ. Chúng mày bảo sao, hai thằng kia?

    - Thế là rộng lượng, - Kamal nói ngay. - Nhất là sau cái bộ dạng láo xược nó tỏ với chúng ta bận trước. - Nó cố nói giống giọng Assef, ngoại trừ vẫn rung rung trong giọng nói. Thế là tôi hiểu: Nó không sợ Hassan, thực sự không sợ. Nó sợ bởi vì nó không biết Assef nghĩ gì trong đầu.

    Assef vẫy vẫy bàn tay tỏ ý khinh miệt:

    - Bakhshida 4. Miễn tội. Thế là xong. - Giọng nó hạ xuống một chút. - Tất nhiên, không có gì cho không trên đời này, và việc tha thứ của tao phải kèm theo một giá nhỏ.

    - Thế mới phải chứ, - Kamal nói.

    - Không gì miễn phí hết, - Wali thêm vào.

    - Mày là một thằng Hazara may mắn đấy, - Assef vừa nói vừa nhích một bước về phía Hassan. - Bởi vì hôm nay, mày sẽ chỉ phải trả bằng cái diều xanh kia thôi. Rất biết điều, phải không, mấy đứa?

    - Còn hơn biết điều ấy chứ - Kamal nói.

    Thậm chí từ nơi đang đứng, tôi cũng thấy được nỗi sợ hãi đang bò vào đôi mắt Hassan, nhưng cậu lắc đầu:

    - Amir agha đã thắng trong cuộc thi đấu, và tôi phải đuổi bắt chiếc diều này cho cậu ấy. Tôi đuổi bắt nó đúng luật. Chiếc diều này là của Amir agha.

    - Một thằng Hazara trung thành, trung thành như một con chó, - Assef nói.

    Kamal cười lên the thé và bồn chồn.

    - Nhưng trước khi mày hy sinh bản thân cho nó, hãy nghĩ tới điều này: Liệu nó có làm thế cho mày không? Mày đã bao giờ thắc mắc, tại sao nó chẳng bao giờ cho mày vào chơi cùng khi nó có khách không? Tại sao nó chỉ chơi với mày khi không có ai khác quanh nó? Tao sẽ bảo cho mày biết tại sao, Hazara. Bởi vì đối với nó, mày chẳng là gì ngoài một con chó xấu xí. Một con vật gì đó nó có thể chơi với khi nó buồn chán, một con vật gì đó nó có thể đá đi khi nó tức giận. Đừng tự lừa dối mình nữa và nghĩ mày là thứ gì đó hơn thế.

    - Amir agha và tôi là những người bạn, - Hassan nói. Cậu có vẻ đỏ mặt.

    - Những người bạn ư? - Assef vừa nói vừa cười - Mày, đồ ngốc đáng thương! Một ngày nào đó, mày sẽ tỉnh ra khỏi cái ý nghĩ ngông cuồng nho nhỏ của mày và sẽ hiểu nó là một thằng bạn tốt đến mức nào. Còn bây giờ, mẹ kiếp! Đủ rồi. Đưa cái diều ấy cho chúng tao.

    Hassan cúi xuống nhặt một hòn đá.

    Assef nao núng. Nó lùi một bước rồi dừng lại:

    - Hazara, cơ hội cuối cùng đấy.

    Hassan trả lời bằng việc giơ tay đang cầm hòn đá lên.

    - Tùy mày thôi.

    Assef cởi khuy áo khoác mùa đông, rồi cởi hẳn ra, từ từ và cẩn thận gấp lại. Nó để áo vào chân tường. Tôi mở miệng, suýt nói ra một điều gì đó. Suýt thôi. Phần còn lại của đời tôi có thể đã khác đi nếu tôi nói. Nhưng tôi không nói. Tôi chỉ xem thôi. Tê liệt.

    Assef vẫy tay ra hiệu, và hai thằng kia tách ra tạo thành nửa đường tròn vây Hassan trong ngõ. Assef nói:

    - Tao đổi ý rồi. Hazara, tao vẫn để mày giữ chiếc diều. Tao vẫn để cho mày giữ nó, để nó sẽ mãi mãi nhắc nhở mày về những gì tao định làm đây.

    Rồi nó tấn công. Hassan dùng hết sức ném hòn đá. Hòn đá đập vào trán Assef. Nó thét lên và lao người vào Hassan, đánh Hassan ngã xuống đất. Wali và Kamal đánh hôi. Tôi cắn nắm đấm của tôi. Mắt nhắm lại.

    Mày có biết Hassan và mày được nuôi từ cùng một bầu vú không? Mày có biết điều đó không, Amir agha? Sakina là tên bà. Bà là một phụ nữ Hazana xinh đẹp, mắt xanh, từ Bamiyan đến và bà ru mày bằng những bài ca hôn lễ cổ. Người ta bảo có tình anh em máu mủ giữa những người được nuôi từ cùng một bầu vú. Mày có biết điều đó không?

    Một hồi ức:

    " Lũ trẻ, mỗi đứa một đồng rupia. Mỗi đứa chỉ một rupia thôi, và ta sẽ vén bức màn sự thật. "Ông già ngồi dựa vào bờ tường đất. Đôi mắt mù lòa của ông như bạc nấu chảy bám chặt sâu hoắm bên trong, hai chiếc hố sinh đôi. Cúi xuống chiếc gậy chống, ông thầy bói xoa xoa bàn tay xương xẩu lên đôi má hõm của mình. Bàn tay khum lại trước mặt chúng tôi." Không mất nhiều để hỏi sự thật đâu, chỉ một rupia mỗi cháu thôi, phải không nào? "Hassan bỏ một đồng vào lòng bàn tay như da thuộc. Tôi cũng bỏ một đồng vào." Nhân danh Thánh Allah đại phúc đức đại nhân từ ", ông thầy bói già lẩm bẩm. Ông cầm bàn tay của Hassan trước, lấy một móng tay cứng như sừng cào gan bàn tay cậu, cào quanh rồi lại quanh. Rồi ngón tay uể oải đưa lên mặt Hassan, từ từ vạch theo đường cong đôi má, đường viền của môi, làm thành một âm thanh sồn sột khô khan. Những ngón tay thành chai của ông cọ phải mắt của Hassan. Bàn tay dừng ở đó. Nấn ná. Một bóng mờ lướt qua khuôn mặt ông già. Hassan và tôi liếc nhìn nhau. Ông già nắm lấy tay Hassan và trả lại đồng rupia vào lòng bàn tay cậu, ông quay lại phía tôi. Ông nói:" Còn cậu thế nào, anh bạn trẻ? "Bên kia bức tường một con gà trống gáy. Ông già giơ tay nắm tay tôi và tôi rụt lại.

    Một giấc mơ:

    Tôi bị lạc trong một trận bão tuyết, gió gào rít ném những bông tuyết lạnh buốt vào tôi. Tôi loạng choạng lê bước dưới những lớp tuyết trắng trượt. Tôi kêu cứu, nhưng gió dập những tiếng kêu của tôi đi. Tôi ngã và nằm thở hổn hển trên tuyết, chìm trong màu trắng, gió hú trong tai tôi. Tôi nhìn tuyết vùi xóa dấu chân tôi. Tôi nghĩ, giờ thì ta đã là một con ma, con ma không có dấu chân. Tôi lại kêu váng lên, niềm hy vọng ờ nhạt theo dấu chân tôi. Nhưng lần này, một tiếng ú ớ đáp lại. Tôi che mắt và tìm cách ngồi dậy. Tôi thoáng nhìn thấy, ngoài lớp màn tuyết đang đu đưa, một cái gì đó chuyển động, một cơn gió sắc màu. Một hình bóng thân quen hiện ra. Một bàn tay vươn ra cho tôi. Tôi nhìn thấy mấy vết cứa sâu, song song với nhau trong gan bàn tay, máu đang nhỏ, vấy đỏ lên tuyết. Tôi nắm lấy bàn tay và bất chợt tuyết biến mất. Chúng tôi đang đứng trên một cánh đồng táo đầy cỏ xanh với những sợi mây mỏng trôi dạt bên trên. Tôi nhìn lên và thấy trời quan đầy những chiếc diều, xanh, vàng, đỏ, da cam. Chúng lung linh trong ánh sáng ban chiều.

    ° ° °

    >Một đống phế thải, gạch vụn vôi vữa đổ bừa trên lối ngõ. Lốp xe đạp cũ, chai lọ bóc nhãn, những tạp chí rách nát, những nhật báo ngả vàng, tất cả rải rác giữa một đống gạch và mảnh sắc xi-măng. Cái lò sưởi gang han gỉ với một lỗ thủng ở thành lò, nghiêng nghiêng dựa vào tường. Nhưng có hai vật giữa đống rác thải đó mà tôi không thể không nhìn: Một thứ là chiếc diều xanh dựng vào tường sát với cái lò sưởi gang, thứ nữa là chiếc quần dài nhung tăm màu nâu của Hassan ném trên đống gạch cũ.

    - Tôi không biết, - Wali đang nói. - Bố tôi bảo thế là có tội - Giọng nó tỏ ra không chắc chắn, đồng thời hồi hộp và khiếp sợ. Hassan nằm, cằm cắm xuống đất. Wali và Kamal mỗi đứa kẹp chặt một cánh tay, vặn cong khuỷu tay để hai tay Hassan ép vào sau lưng. Assef đứng bên chúng theo dõi, gót ủng đi tuyết của nó nghiến lên gáy của Hassan.

    - Bố mày cũng không biết được đâu, - Assef nói. - Và chẳng có gì là tội lỗi khi dạy cho con lừa láo xược một bài học. - Tôi không biết, - Wali lẩm bẩm. - Tùy mày, - Assef nói rồi quay lại Kamal. - Còn mày thế nào?

    - Tôi.. ờ..

    - Chỉ là một thằng Hazara, - Assef nói. Nhưng Kamal vẫn nhìn đi đâu.

    - Thôi được, - Assef sốt ruột nói. - Tất cả những gì tao muốn lũ yếu như sên chúng mày làm là ghì chặt nó xuống. Có làm được không?

    Wali và Kamal gật đầu. Chúng có vẻ yên tâm hơn.

    Assef quỳ xuống phía sau Hassan, đưa hai tay lên háng Hassan lột trần đôi mông của cậu ra. Nó vẫn để một tay lên lưng Hassan, và tay kia tháo khóa dây lưng của nó, mở khóa kéo quần bò của nó. Ném quần lót của nó xuống. Nó quỳ sát phía sau Hassan. Hassan không chống lại. Cũng không rên rỉ. Cậu hơi ngóc đầu lên, và tôi lờ mờ thấy khuôn mặt cậu ấy. Thấy sự cam chịu trên đó. Đó là một cái nhìn tôi từng thấy trước đây. Đó là cái nhìn của con cừu non.

    Ngày mai là ngày thứ Mười của Dhul Hijjah, tức tháng cuối theo lịch đạo Hồi, cũng là ngày đầu của lễ ba ngày Eid Al-Adha, hay Eid-e-Qorban như người Afghan vẫn gọi - ngày để tôn vinh nhà tiên tri Ibrahim suýt nữa đã hy sinh con trai mình cho Thượng đế. Baba năm nay đã lại tự tay chọn ra một con cừu nữa, một con đốm trắng với hai tai cúp màu đen.

    Tất cả chúng tôi đều đứng ở sân sau, Hassan, Ali, Baba và tôi. Ông giáo sĩ đọc kinh cầu nguyện, vò râu mình. Baba lẩm bẩm. Tiếp tục lẩm bẩm chẳng ai nghe rõ. Ông tỏ vẻ phiền với việc cầu nguyện dài dòng này, cái nghi lễ làm món thịt halal. Baba nhạo báng câu chuyện đằng sau lễ Eid này, giống như ông vẫn nhạo báng mọi thứ mang màu sắc tôn giáo. Nhưng ông tôn trọng truyền thống của lễ Eid-e-Qorban. Tục lệ là chia thịt ra thành ba, một phần cho gia đình, một phần cho bạn hữu, một phần cho người nghèo. Năm nào, Baba cũng đem tất cả cho người nghèo. Người giàu béo đủ rồi, ông bảo thế.

    Giáo sĩ kết thúc bài cầu kinh. Ameen. Ông chọn con dao bếp có lưỡi dài. Tục lệ là không được để con cừu nhìn thấy con dao. Ông Ali cho con vật ăn một miếng đường, một tục lệ khác, để làm cho cái chết ngọt ngào hơn. Con cừu đá chân, nhưng không nhiều. Giáo sĩ nắm lấy phía dưới xương hàm nó và kề lưỡi dao vào cổ. Đúng một giây trước khi ông cắt họng con cừu bằng một động tác sành sỏi, tôi nhìn thấy mắt con cừu. Đó là cái nhìn ám ảnh những giấc mơ của tôi suốt nhiều tuần lễ. Tôi không hiểu tại sao tôi lại quan sát cái nghi lễ hàng năm này ở sân sau. Những cơn ác mộng của tôi cứ kéo dài mãi sau khi vết máu trên cỏ đã phai màu. Nhưng tôi vẫn cứ quan sát. Tôi quan sát vì cái nhìn chấp thuận trong đôi mắt con vật. Tôi tưởng tượng con vật hiểu rằng cái chết sắp đến của mình là vì một mục đích cao cả hơn. Đó là cái nhìn..

    ° ° °

    Tôi ngừng quan sát, quay ra khỏi ngõ. Một cái gì âm ấm đang chảy xuống cổ tay tôi. Tôi chớp chớp mắt, thấy mình vẫn còn đang cắn nắm đấm, mạnh đến bật máu từ những đốt ngón tay. Tôi nhận ra một cái gì khác. Tôi đang khóc. Đúng tới gần cho rẽ, tôi nghe thấy tiếng hự hự đều nhịp và nhanh của Assef. Tôi có một cơ may cuối cùng để ra quyết định. Một cơ hội tối hậu để quyết định tôi sẽ là người thế nào. Tôi có thể bước vào cái ngõ đó hỗ trợ Hassan - đúng như cái cách cậu ấy đã từng giải cứu tôi mọi lần trong quá khứ - và chấp nhận bất cứ chuyện gì xảy ra với mình. Hoặc tôi chạy trốn.

    Cuối cùng, tôi chạy trốn.

    Tôi chạy trốn bởi vì tôi là một thằng hèn. Tôi sợ Assef và tất cả những gì nó có thể làm đối với tôi. Tôi sợ bị đánh. Đó là những gì tôi đã tự nhủ lúc tôi quay ra khỏi cái ngõ đó. Tôi thực sự cảm nhận được sự hèn hạ, bởi vì lý do có thật và duy nhất khiến tôi chạy trốn là Assef có lý: Không có gì cho không trên đời này. Có thể Hassan là cái giá tôi phải trả, con cừu non tôi phải giết hại để giành được Baba. Phải chăng đó là cái giá tương xứng? Câu trả lời bồng bềnh trôi dạt đến trí não tỉnh táo của tôi trước khi tôi có thể gạt đi: Cậu ấy chỉ là một thằng Hazara, chẳng phải thế ư?

    Tôi chạy về theo con đường tôi đã đến, chạy khỏi cái khu phố chợ hầu như hoang vắng ấy. Tôi loạng choạng chạy đến một quầy hàng, dựa người vào cánh cửa có khóa móc đang lắc lư. Tôi đứng đó thở hổn hển, mồ hôi vã ra, mong sao mọi chuyện khác đi.

    Khoảng mười lăm phút sau, tôi nghe thấy những tiếng nói và tiếng bước chân. Tôi nép người sau cái quầy và thấy Assef cùng hai thằng kia chạy vụt qua, cười cợt khi chúng vội vã rút khỏi cái ngõ hoang vắng ấy. Tôi miễn cưỡng đợi thêm mười phút nữa. Rồi tôi bước chân quay lại cái lối đi đầy vết bánh xe dọc theo khe suối đầy tuyết. Tôi liếc nhìn trong ánh sáng lờ mờ và phát hiện ra Hassan đang bước chậm rãi về phía tôi. Tôi gặp cậu bên một cây phong trụi lá trên bờ suối.

    Cậu cầm chiếc diều xanh trong hai tay, đó là vật đầu tiên tôi nhìn thấy. Và bây giờ tôi không thể dối trá mà bảo rằng, mắt tôi không liếc nhìn mấy vết rách. Áo chapan của cậu đầy nhưng vết bùn hoen bẩn ở phía trước và áo sơ mi bị xé toạc đến tận cổ. Cậu dừng lại. Chân lảo đảo như sắp gục ngã. Rồi tự đứng vững được, trao cho tôi chiếc diều.

    - Cậu ở đâu? Tôi đã đi tìm cậu, - Tôi nói. Thốt ra những lời đó như đang nhai đá.

    Hassan kéo ống tay áo đưa lên ngang mặt, lau nước mũi và nước mắt. Tôi đợi cho cậu nói một điều gì, nhưng chúng tôi chỉ đứng đó trơ trơ trong im lặng, trong ánh sáng mờ nhạt. Tôi phải biết ơn bóng tối đến sớm đổ lên khuôn mặt Hassan và che mặt tôi đi. Tôi lấy làm mừng vì tôi đã không nhìn trả lại cái nhìn chằm chằm của cậu. Cậu có biết tôi biết không? Và nếu cậu biết, thì liệu tôi sẽ thấy gì nếu phải nhìn vào đôi mắt của cậu? Trách mắng? Tức giận? Hoặc, cầu Thượng đế ngăn lại, những gì tôi sợ nhất: Sự tận tụy ngây thơ? Hơn tất cả mọi thứ, đó là điều mà tôi không thể nhìn nổi.

    Cậu định nói một điều gì đó, nhưng giọng nghẹn lại. Cậu mím miệng, mở miệng, rồi lại mím chặt lại. Lùi một bước. Lau mặt. Đó là tất cả những gì Hassan và tôi từng đả động đến về chuyện đã xảy ra trong cái ngõ ấy. Tôi nghĩ cậu sẽ bật khóc, nhưng cậu không thế, khiến tôi an tâm, và tôi vờ như không nghe thấy tiếng nghẹn tắc trong giọng cậu. Hệt như tôi giả vờ không trông thấy vết bẩn ở đũng quần cậu. Hoặc những giọt nhỏ xíu đó nhỏ xuống từ giữa hai chân cậu làm vấy bẩn mặt tuyết.

    " Agha sahib sẽ lo lắng"là tất cả nhưng gì cậu nói. Cậu ngoảnh đi và khập khiễng rời khỏi chỗ tôi.

    ° ° °

    Chuyện đó xảy ra đúng như tôi tưởng tượng.

    Tôi mở cửa phòng đọc đầy khói thuốc và bước vào. Baba và chú Rahim Khan đang uống trà, vừa nghe tin tức bị nhiễu trên radio. Những cái đầu quay lại. Rồi một nụ cười nở trên đôi môi cha tôi. Ông dang hai cánh tay ra. Tôi đặt chiếc diều xuống, và bước vào hai cánh tay mập mạp lông lá của ông. Tôi vùi mặt vào hơi ấm ngực ông và khóc. Baba ôm chặt lấy tôi, lắc qua lắc lại, lắc lui lắc tới người tôi. Trong cánh tay ông, tôi quên những gì tôi đã làm. Và thế cũng hay.

    * * *

    1 Ayat: Số nhiều của từ Ayah, nghĩa tiếng Ẳ rập làdấu hiệu hay phép thần diệu, ở đây ý nói đến các thánh thi trích trong kinh Koran. Người Hồi giáo coi kinh Koran như dấu hiệu từ Thượng đế.

    2 Mantu: Bánh bao Afghan nhồi thịt cừu hoặc bê.

    3 Pakora: Một loại món ăn Ấn Độ hay Pakistan với thành phần gồm gà, hành tây, khoai tây, cà chua, ớt, tẩm bột và rán.

    4 Bakhshida: Miền tội.
     
  10. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG VIII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Liền một tuần lễ, tôi hầu như không gặp Hassan. Tôi thức dậy đã thấy bánh nướng, trà pha sẵn, một quả trứng luộc trên bàn ăn. Quần áo tôi ngày hôm ấy đã được là và gấp lại, để trên chiếc ghế mây trong tiền sảnh, chỗ Hassan thường là quần áo. Cậu ấy vẫn quen đợi tôi ngồi vào bàn ăn điểm tâm trước khi bắt đầu là, để chúng tôi có thể chuyện trò. Vẫn thường hát nữa, át tiếng réo của bàn là hơi, hát những bài ca Hazara cổ về những cánh đồng hoa tuylíp. Bây giờ chỉ còn đống quần áo đã gấp đón chào tôi. Thế thôi, và bữa điểm tâm tôi hiếm khi ăn hết.

    Một buổi sáng ảm đạm, trong khi tôi đang lăn lăn quả trứng luộc trên chiếc đĩa của tôi, ông Ali bước vào, bê theo một ôm củi chẻ rồi. Tôi hỏi ông Hassan đang ở đâu.

    - Nó lại về ngủ rồi, - Ali vừa nói vừa quỳ xuống trước lò sưởi ông kéo cánh cửa lò vuông nhỏ mở ra.

    Liệu Hassan có thể chơi hôm nay không?

    Ông Ali dừng lại với khúc củi trong tay. Một cái nhìn lo lắng hiện lên khuôn mặt ông.

    - Gần đây, tất cả những gì nó muốn là ngủ. Nó vẫn làm những việc lặt vặt. - Tôi trông chừng nó mà - nhưng sau rồi nó chỉ muốn chui vào chăn. Tôi có thể hỏi cậu một điều không?

    - Nếu ông cần hỏi.

    - Sau cuộc thi đấu diều, nó về nhà, chảy máu đôi chút, áo sơmi rách toạc. Tôi hỏi nó, xảy ra chuyện gì, nó nói chẳng có chuyện gì, xô xát đôi chút với mấy đứa về cái diều thôi.

    Tôi không nói gì. Chỉ tiếp tục lăn lăn quả trứng trên chiếc đĩa của tôi.

    - Amir agha, đã xảy ra chuyện gì với nó ư? Chuyện gì mà nó không nói cho tôi biết?

    Tôi nhún vai:

    - Tôi làm sao biết được?

    - Cậu nên nói cho tôi biết, phải không nào? Inshallah, lạy trời cậu sẽ nói cho tôi biết, nếu đã xảy ra chuyện gì phải không?

    - Như tôi đã nói đấy, làm sao tôi biết được chuyện gì xảy ra với cậu ấy? - Tôi sốt ruột bảo. - Có thể cậu ấy ốm. Ông Ali, mọi người vẫnthường ốm đấy thôi. Lúc này tôi đang sắp chết cóng đây, hôm nay ông có định đốt lò lên không?

    Đêm đó, tôi hỏi Baba liệu thứ Sáu này, tôi có thể đi Jalalabad không. Ông đang xoay xoay trên chiếc ghế quay đệm da đằng sau bàn viết, đọc một tờ nhật báo. Ông đặt báo xuống, bỏ đôi kính lão mà tôi không ưa chút nào ra. - Baba chưa già, không già chút nào và Baba còn sống nhiều năm nữa, vậy tại sao ông cứ phải đeo đôi kính vớ vẩn ấy?

    - Sao lại không! - Ông nói. Gần đây Baba đồng ý với tôi mọi yêu cầu của tôi. Không chỉ có thế, đúng hai đêm trước đây, ông hỏi tôi liệu tôi có muốn xem phim El cid 1 với Charlton Heston ở rạp chiếu phim Aryana không.

    - Con có muốn bảo Hassan đi cùng đến Jalalabad không?

    Tại sao Baba lại phải làm hỏng chuyến đi như thế?

    - Cậu ấy đang mareez 2, - tôi nói. - Cảm thấy không được khoẻ.

    - Thật ư? - Baba ngừng xoay đi xoay lại trong chiếc ghế - Có chuyện gì với nó ư?

    Tôi nhún vai và ngồi thụt vào chiếc sofa bên lò sưởi:

    - Cậu ấy bị cảm lạnh hoặc một bệnh gì đó. Ông Ali bảo, cậu ấy đang ngủ cho đỡ hơn.

    - Bố không hay gặp Hassan, mấy ngày gần đây, - Baba nói. - Vậy có đúng chỉ là bị lạnh không?

    Tôi không khỏi căm ghét cách ông nhíu lông mày lại tỏ ra lo lắng.

    - Chỉ là bị lạnh thôi. Vậy thứ Sáu chúng ta đi chứ, Baba?

    - Ừ, ừ, - Baba vừa nói vừa vùng ra khỏi bàn làm việc - Tội cho Hassan quá. Bố nghĩ nếu nó đi cùng con có thể được vui hơn.

    - Ồ, cả hai chúng ta có thể vui với nhau, - tôi nói.

    Baba mỉm cười. Nháy mắt. Rồi nói:

    - Mặc ấm vào.

    Lẽ ra đã chỉ có hai chúng tôi thôi - tôi muốn như thế - thì tới tối thứ Tư, Baba đã thu xếp mời thêm hai tá người khác nữa. Ông gọi cho người anh họ Homayoun và nói ông sắp đi Jalalabad thứ Sáu này. Homayoun đã từng học chế tạo máy ở Pháp, có một ngôi nhà ở Jalalabad, nói rằng anh vẫn thích tất cả mọi người qua đấy, và anh sẽ đem theo lũ trẻ, hai bà vợ, rồi khi anh ở đó, thì cô em họ Shafiqa và gia đình cô từ Herat cũng tới thăm, có thể cô sẽ thích đi cùng họ, và vì cô đang ở với anh họ Nader ở Kabul, gia đình ông anh cũng phải được mời, mặc dù Homayoun và Nader còn một chút cừu thù cố hữu, và nếu Nader được mời, chắc chắn người em trai Faruq cũng phải được mời, nếu không sẽ cảm thấy bị xúc phạm và anh ta có thể sẽ không mời họ dự lễ cưới con gái mình vào tháng sau, và..

    Chúng tôi ngồi đầy ba chiếc xe. Tôi ngồi cùng xe với Baba, Rahim Khan và Kaka Homayoun - Baba đã dạy tôi từ lúc còn nhỏ, phải gọi bất kỳ họ hàng đàn ông lớn tuổi hơn nào bằng Kaka, hoặc chú bác, bất kỳ họ hàng đàn bà lớn tuổi hơn nào bằng Khala, hoặc cô dì. Hai người vợ Kaka Homayoun cũng ngồi cùng xe với chúng tôi. Người vợ nhiều tuổi hơn có một bộ mặt nhăn nhó với nhưng mụn cóc trên hai bàn tay, người vợ trẻ lúc nào cũng sực nức mùi nước hoa, còn luôn khiêu vũ với đôi mắt nhắm nghiền - hai đứa con gái sinh đôi của Kaka Homayoun cũng vậy. Tôi ngồi ở hàng sau, say xe và chóng mặt, bị kẹp như chiếc bánh sandwich giữa hai đứa con gái sinh đôi bảy tuổi, cứ đè qua đùi tôi để phát vào người nhau. Con đường đi đến Jalalabad là chặng đường vất vả, hai giờ đồng hồ ngoằn ngoèo dọc theo những dốc núi dựng đứng, và bụng tôi nôn nao ở mỗi chỗ ngoặt gấp. Từng người trong xe đều trò chuyện, trò chuyện ầm ĩ và cùng lúc gần như rít lên, như người Afghan thường nói. Tôi hỏi một trong hai chị em sinh đôi - Fazila hoặc Karima, tôi chẳng bao giờ có thể biết tên nào vào với tên nào - xem có thể đổi chỗ ngồi gần cửa xe cho tôi, để tôi có thể thở hít khí trời vì tôi bị say xe. Nó thè lưỡi ra và bảo không. Tôi bảo nó, tốt thôi, nhưng tôi sẽ không thể chịu trách nhiệm về việc nôn vào bộ váy áo mới của nó. Một phút sau, tôi thò đầu ra ngoài cửa xe. Tôi ngắm con đường ven vực thẳm lên lên xuống xuống, ngoằn ngoèo theo sườn núi, và đếm những chiếc xe tải nhiều màu, nhồi chặt cứng những người ngồi xổm, bị vượt qua. Tôi cố nhắm mắt lại, mặc cho gió tạt vào hai má, mở miệng để nuốt không khí trong sạch. Tôi vẫn không cảm thấy khá hơn. Một ngón tay thọc vào sườn tôi. Chắc là Fazila/Larima gì đó. Tôi hỏi:

    - Cái gì?

    - Bố vừa kể cho mọi người về cuộc thi đấu - Baba nói, từ sau tay lái. Kaka Homayoun và hai bà vợ từ hàng ghế giữa mỉm cười với tôi.

    - Hôm đó phải đến một trăm chiếc diều hả? - Baba nói. - Có đúng thế không, Amir?

    - Con đoán phải thế, - tôi lúng búng.

    - Một trăm chiếc diều, Homayoun jan. Không laaf đâu. Và chiếc duy nhất còn bay vào phút cuối của ngày hôm đó là diều của Amir. Nó có 67 chiếc diều cuối cùng bị hạ ở nhà ấy, một chiếc diều xanh đẹp. Hassan và Amir cùng đuổi bắt đấy.

    - Chúc mừng, - Kaka Homayoun nói. Người vợ cả, người có những mụn cóc, vỗ tay, "Wah wah 3! Chà chà! Amir jan, tất cả chúng ta rất tự hào về cháu!". Người vợ trẻ cùng phụ họa theo. Rồi tất cả đều vỗ tay, ca ngợi ầm ĩ, bảo tôi đã khiến cho bọn họ tự hào. Chỉ mỗi chú Rahim Khan, ngồi trên ghế khách cạnh Baba là im lặng. Chú chằm chằm nhìn vào tôi rất lạ.

    - Baba, đỗ xe lại đi, - tôi nói.

    - Gì vậy? - Con say xe, - tôi lúng búng, ngả người vào thành ghế, ép chặt vào hai cô con gái của Kaka Homayoun. Mặt của Fazila/Karima nhăn lại, chúng kêu nheo nhéo.

    - Đỗ lại đi Kaka! Mặt anh ấy vàng ra rồi! Cháu không muốn anh ấy phun vào bộ áo mới của cháu!

    Baba cho xe đỗ lại, nhưng tôi không nôn. Vài phút sau, tôi ngồi trên một tảng đá bên đường trong khi mọi người ra khỏi xe hít thở. Baba đang hút thuốc với Kaka Homayoun, ông này bảo Fazila/Karima đừng khóc nữa và sẽ mua cho một bộ váy áo mới ở Jalalabad. Tôi nhắm mắt lại. Quay mặt về phía mặt trời. Những bóng hình nho nhỏ hình thành sau bờ mi tôi, như trò chơi dùng tay tạo bóng trên tường. Chúng xoắn lại, hòa vào nhau, tạo thành một hình ảnh duy nhất: Chiếc quần nhung kẻ màu nâu bị tụt ra vứt trên đống gạch cũ trong cái ngõ.

    Ngôi nhà hai tầng trắng của Kaka Homayoun ở Jalalabad có một ban công nhìn bao quát cả khu vườn rộng có tường ngăn, trồng táo và hồng quả. Ở đó có những bờ giậu mà về mùa hè người làm vườn uốn tỉa thành những con vật và một bể bơi với gạch lát màu ngọc bích. Tôi ngồi trên bờ bể bơi cạn nước, ngoại trừ những lớp tuyết đang tan ở dưới đáy, chân đung đưa trong bể. Lũ trẻ nhà Kaka Homayoun đang chơi trò trốn tìm ở cuối sân. Những người phụ nữ đang nấu ăn và tôi ngửi thấy mùi hành phi, nghe thấy tiếng phù phù của bếp ga, tiếng nhạc và tiếng cười. Baba, chú Rahim Khan, Kaka Homayoun và Kaka Nadel đang ngồi trên bao lơn hút thuốc. Kaka Homayoun đang nói cho họ rằng ông mang theo máy chiếu để xem ảnh chụp nước Pháp. Đã mười năm kể từ ngày ông rời khỏi Paris và ông vẫn chiếu những bức ảnh ngớ ngẩn đó.

    Nhẽ ra không nên cảm thấy thế này. Baba và tôi cuối cùng đã thân thiết với nhau. Chúng tôi đã đến vườn thú vài ngày trước xem con sư tử Marjan, và tôi đá ném mạnh một viên sỏi vào con gấu khi không có ai để ý. Sau đó chúng tôi đã đến Nhà hàng Kabob của Dadkhoda ở phía bên kia Công viên Điện ảnh, ăn món cừu kabob cùng bánh naan mới nướng từ lò nướng tandoor 4. Baba kể cho tôi nghe chuyện về những chuyến đi Ấn Độ và sang Nga của ông, những người dân ông đã gặp, như một cặp vợ chồng cụt tay cụt chân ở Bombay đã cưới nhau được bốn mươi bảy năm và nuôi lớn mười một đứa con. Được trải qua một ngày như thế với Baba, nghe những chuyện của ông, nhẽ ra phải vui. Cuối cùng tôi đã có những gì tôi muốn suốt những năm đó. Chỉ trừ giờ đây tuy đã có nó, nhưng tôi lại cảm thấy rỗng tuếch như cái bể bơi bị bỏ quên mà tôi đang đung đưa đôi chân vào này.

    Các bà vợ và mấy cô con gái phục vụ bữa tối - cơm, thịt viên kofta, qurma gà giò - lúc mặt trời lặn. Chúng tôi ăn tối theo lối truyền thống, ngồi trên những tấm đệm nhỏ quanh phòng ăn, khăn ăn trải trên sàn, ăn bốc theo từng mâm bốn năm người một. Tôi không đói nhưng cũng ngồi xuống ăn lấy lệ cùng Baba, Kaka Faruq, và hai con trai của Kaka Homayoun. Baba đã làm một chút scotch trước khi ăn, vẫn đang huênh hoang về cuộc thi đấu diều, tôi đã bay lâu hơn tất cả như thế nào, tôi đã trở về nhà cùng với chiếc diều cuối cùng bị hạ ra sao. Giọng nói như bom nổ của ông át hết cả phòng. Mọi người đều ngẩng đầu lên khỏi mâm thức ăn hò reo chúc mừng. Kaka Faruq dùng bàn tay sạch vỗ vỗ vào lưng tôi. Tôi cảm thấy như bị đâm dao vào mắt.

    Sau đó, lúc quá nửa đêm, sau mấy giờ chơi bài poke giữa Baba và những người họ hàng, đàn ông nằm ngủ trên những chiếc đệm trải song song vẫn trong cái phòng chúng tôi ăn tối, đàn bà lên trên gác. Một giờ sau tôi vẫn không ngủ được. Tôi lăn bên nọ, quay bên kia trong khi những người họ hàng tôi, ư ử thở dài, ngáy trong khi ngủ. Tôi ngồi dậy. Một mảnh trăng lùa qua cửa sổ.

    - Mình đã chứng kiến Hassan bị hiếp, - tôi nói

    - Chẳng với ai. Baba cựa quậy trong giấc ngủ. Kaka Homayoun ư ử. Một phần con người tôi mong ai đó tỉnh giấc, và nghe thấy, để tôi sẽ không phải sống với sự dối trá này thêm nữa. Nhưng không ai tỉnh dậy và trong sự im lặng tiếp theo, tôi hiểu ra bản chất lời nguyền mới của tôi: Tôi sẽ phải xoay xở để thoát khỏi chuyện đó.

    Tôi nghĩ tới giấc mơ của Hassan, giấc mơ chúng tôi bơi trong một cái hồ. Không có quỷ nào hết, cậu đã nói, chỉ có nước thôi. Trừ phi cậu đã nhầm về điều đó. Có một con quỷ ở trong hồ. Nó đã túm lấy hai mắt cá chân Hassan, kéo tụt cậu xuống dưới đáy hồ tăm tối. Tôi là con quỷ đó.

    Đó là cái đêm tôi trở thành người mất ngủ.

    Tôi không nói chuyện với Hassan mãi tới tận giữa tuần sau. Tôi chỉ mới ăn hết nửa bữa trưa, và Hassan đang làm những món ăn cho tôi. Tôi đang bước lên gác để về phòng tôi thì Hassan hỏi tôi có muốn đi bộ lên đồi không. Tôi bảo tôi mệt. Hassan trông cũng mệt - cậu sút cân và những quầng thâm xuất hiện dưới đôi mắt lồi lên của cậu. Nhưng khi cậu hỏi lại, tôi miễn cưỡng đồng ý.

    Chúng tôi vất vả leo lên đồi, ủng của chúng tôi lép nhép trong bùn tuyết. Chẳng ai trong chúng tôi nói gì. Chúng tôi ngồi dưới gốc cây lựu quen thuộc, và tôi biết tôi đã làm một việc sai lầm. Lẽ ra tôi không được lên đồi. Những chữ tôi đã khắc lên thân cây bằng con dao bếp của ông Ali: Amir và Hassan: Hai Sultan của Kabul. Lúc này tôi không chịu nổi khi nhìn vào chúng.

    Cậu nhờ tôi đọc cuốn Shahnamah cho cậu nghe và tôi bảo cậu tôi đã đổi ý. Bảo tôi chỉ muốn về phòng. Cậu nhìn đi chỗ khác, nhún vai. Chúng tôi bước xuống con đường ban nãy chúng tôi vừa mới leo lên: Trong im lặng. Và lần đầu tiên trong đời tôi không thể đợi đến mùa xuân.

    Ký ức về phần còn lại của mùa đông năm 1975 ấy hầu như mờ mịt. Tôi nhớ, tôi khá sung sướng khi Baba ở nhà. Chúng tôi ăn cùng, cùng đi xem phim, thăm Kaka Homayoun hay Kaka Faruq. Đôi khi chú Rahim Khan đến thăm và Baba cho phép tôi ngồi trong phòng đọc của ông, uống trà cùng hai người. Ông cũng đã để tôi đọc cho ông nghe một trong số những truyện tôi viết. Thật là sung sướng, và tôi muốn như thế mãi mãi. Và tôi tin Baba cũng tin như thế. Cả hai chúng tôi hẳn đã hiểu nhau hơn. Ít nhất vài tháng sau cuộc đấu diều, Baba và tôi đã hòa quyện vào nhau trong một ảo tưởng ngọt ngào, nhìn nhau theo cách trước đây chúng tôi chưa từng có. Chúng tôi thực tế đã lừa dối nhau đến mức nghĩ rằng, một thứ đồ chơi làm bằng giấy dai, keo dán, và tre, theo cách nào đó có thể lấp kín được hố sâu ngăn cách giữa chúng tôi.

    Nhưng khi Baba đi vắng - mà đi vắng rất thường xuyên, tôi lại tự nhốt mình trong phòng riêng. Cứ đôi ba ngày tôi lại đọc hết một quyển sách, viết truyện ngắn, học cách vẽ ngựa. Tôi thường nghe thấy tiếng chân Hassan loẹt quẹt quanh bếp vào buổi sáng, tiếng leng keng của dao dĩa bạc, tiếng phì hơi của ấm đun trà. Tôi thường đợi cho đến khi nghe thấy tiếng đóng cửa lúc đó tôi mới đi xuống ăn sáng. Trên tờ lịch của tôi, tôi khoanh tròn đánh dấu ngày vào năm học, và bắt đầu đếm ngược. Hassan vẫn cố nhen nhóm lại mọi chuyện giữa chúng tôi làm tôi phát ngán. Tôi nhớ lần cuối cùng. Tôi đang ở trong phòng đọc một bản dịch vắn tắt bằng tiếng Farsi truyện Ivanhoe 5, thì cậu gõ cửa.

    - Chuyện gì đấy?

    - Tôi định đến hiệu bánh mua bánh naan, - cậu nói ở ngoài cửa. - Tôi không biết liệu cậu.. liệu cậu có muốn đi cùng không.

    - Tôi nghĩ tôi chỉ định đọc sách. - Tôi nói, xoa xoa hai bên thái dương. Ít lâu nay, mỗi khi Hassan đến gần, tôi lại nhức đầu.

    - Hôm nay là ngày nắng đẹp, - cậu nói.

    - Tôi biết.

    - Đi dạo một chút cũng thú đấy.

    - Cậu cứ đi.

    - Nhưng tôi muốn cậu đi cùng, - cậu nói. Rồi dừng lại. Một cái gì đó đâm sầm vào cánh cửa, có thể là trán cậu ấy. - Tôi không biết tôi đã làm gì, Amir agha. Tôi mong cậu nói cho tôi biết. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại không chơi với nhau nữa.

    - Cậu chẳng làm gì cả. Cứ đi đi.

    - Cậu có thể nói cho tôi biết. Tôi sẽ thôi không thế nữa.

    Tôi gục đầu xuống lòng mình, hai đầu gối kẹp chặt hai bên thái dương, như một cái bệ kẹp, hai mắt bị ép nhắm lại và nói:

    - Tôi sẽ bảo cho cậu biết điều tôi muốn cậu thôi đừng làm.

    - Gì cũng được.

    - Tôi muốn cậu đừng quấy rầy tôi. Tôi muốn cậu xéo khỏi đây, - tôi cáu tiết nói. Tôi mong cậu trả đũa tôi ngay, đẩy bật cửa, nói thẳng ra với tôi - như thế mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn, tốt hơn. Nhưng cậu lại không làm bất cứ điều gì như thế, và mấy phút sau - tôi mở cửa, cậu không còn đấy nữa. Tôi ngã vật xuống giường, vùi mặt dưới gối và khóc.

    Từ đó trở đi Hassan chỉ loanh quanh ở vòng ngoài cuộc đời tôi. Tôi sắp xếp mọi việc trong ngày để đảm bảo chúng tôi giáp mặt nhau càng ít càng tốt. Bởi vì khi cậu quanh quẩn bên tôi, khí trời rò rỉ hết khỏi phòng. Ngực tôi thắt lại và tôi không thể hít thở đủ không khí. Tôi thường đứng đó, thở hổn hển trong cái bong bóng bị hút hết khí trời bé nhỏ của riêng tôi. Nhưng ngay cả khi không còn quanh quẩn, cậu vẫn như thấp thoáng đâu đây. Cậu ở đó trong bộ quần áo giặt bằng tay và được là phẳng, trên chiếc ghế mây, đôi dép lê ấm áp để ngoài bậc cửa, bên củi sưởi rực cháy trong lò khi tôi xuống ăn điểm tâm. Tôi ngoảnh đi đâu cũng thấy những dấu hiệu lòng trung thành của cậu, lòng trung thành trơ trơ, trời đánh thánh vật của cậu.

    Đầu mùa xuân đó, vài ngày trước khi bắt đầu năm học mới, Baba và tôi trồng hoa tuylíp ở trong vườn. Tuyết đã tan gần hết, và những dãy đồi phía Bắc đã lốm đốm những đám cỏ xanh. Đó là một buổi sáng mát mẻ, hơi u ám, Baba đang ngồi xổm bên tôi, đào đất và trồng những củ cây tôi đưa cho ông. Ông đang nói cho tôi biết, phần lớn mọi người nghĩ trồng tuylíp vào mùa thu sẽ tốt hơn, và điều đó không đúng như thế nào, dù tôi buột miệng nói ra:

    - Baba, đã bao giờ Baba nghĩ đến chuyện thuê người ở mới chưa?

    Ông ném củ hoa tuylíp xuống, vùi cái bay vào đống phân. Tháo bao tay làm vườn ra. Tôi đã làm ông giật mình.

    - Hả, con vừa nói cái gì?

    - Con chỉ thắc mắc, có thế thôi.

    - Tại sao ta lại muốn làm việc đó nhỉ? - Baba nói cộc lốc.

    - Con đoán bố sẽ không mà. Đó chỉ là một câu hỏi thôi. - Tôi nói giọng nhi nhí dần trở thành gần như tiếng thầm thì. Tôi thấy tiếc đã nói như thế.

    - Có phải do chuyện con và Hassan không? Ta biết có chuyện gì đấy đang xảy ra giữa hai đứa, nhưng bất cứ thế nào, hai đứa cũng phải giải quyết với nhau, chứ không phải là ta. Ta đứng ngoài chuyện đó.

    - Con xin lỗi Baba.

    Ông lại đeo bao tay vào:

    - Ta lớn lên cùng với Ali, - ông nói, răng nghiến lại. - Cha ta mang ông ấy về nhà, ông yêu Ali như chính con trai mình. Bốn mươi năm ông Ali từng sống với gia đình ta. Bốn mươi năm chết tiệt à? Và con nghĩ ta định đuổi ông ấy đi ư? - Lúc này ông quay lại tôi, mặt đỏ như hoa tuylíp. - Amir, ta chưa lần nào đụng tay vào người con, nhưng con mà nói như thế nữa.. - Ông ngoảnh đi, lắc đầu. - Con làm ta xấu hổ. Và Hassan.. Hassan sẽ chẳng đi đâu cả, con có hiểu không?

    Tôi cắm mặt xuống và bốc một vốc tay đất lạnh. Để đất lọt qua kẽ ngón tay tôi.

    - Ta nói, con có hiểu không? - Baba gầm lên.

    Tôi giật thót:

    - Có, thưa Baba..

    - Hassan sẽ không đi đâu cả, - Baba ngắt lời. Ông lấy bay đào một hố mới, hất phân xuống mạnh hơn cần thiết. Nó sẽ ở ngay tại đây với chúng ta, nơi mà nó có quyền ở. Đừng bao giờ hỏi ta một câu như thế nữa.

    - Con sẽ không hỏi, thưa Baba, con xin lỗi. Chúng tôi trồng nốt những củ tuylíp trong yên lặng.

    Tôi thấy khuây khỏa khi trường khai giảng, tuần sau đó. Bọn học sinh với những cuốn vở mới và bút chì vót nhọn trong tay, lang thang trong sân trường, đá bụi lên, chuyện gẫu từng nhóm, đợi các lớp trưởng thổi còi. Baba lái xe xuống cái ngõ đầy bụi dẫn đến cổng trường. Trường là một tòa nhà hai tầng cũ kỹ với cửa kính vỡ và mờ đục, những lối đi rải sỏi, những vết loang lổ của lớp sơn tường đầu tiên màu vàng xỉn, vẫn còn lộ ra giữa nhiều lớp vôi vữa bị long tróc. Phần lớn lũ con trai đi bộ đến trường, và chiếc xe đen Mustang của Baba càng làm cho nhiều con mắt thèm thuồng. Nhẽ ra tôi phải tươi cười hãnh diện khi Baba cho tôi xuống xe - trước đây vẫn thường như thế - nhưng tất cả những gì tôi còn dám làm là thu mình lại hơi bối rối. Chỉ thế và trống rỗng. Baba lái xe đi không thèm tạm biệt tôi.

    Tôi tránh không tham gia vào cái trò so sánh sẹo đấu diều và đứng vào hàng. Chuông reo, chúng tôi xếp thành đôi đều bước vào lớp học đã được phân. Tôi ngồi ở hàng ghế sau. Khi thầy giáo dạy tiếng Farsi phát cho chúng tôi sách giáo khoa, tôi nài xin ông cho tôi thật nhiều bài tập về nhà.

    Trường học cho tôi cái cớ để ở lì hàng mấy tiếng đồng hồ trong phòng. Và trong một thời gian, nó cất khỏi tâm trí tôi những gì đã xảy ra mùa đông đó, những gì tôi đã để xảy ra. Mấy tuần liền, tôi để hết tâm trí vào trọng lực và lực mô men, nguyên tử và tế bào, cuộc chiến giữa Anh quốc và Afghanistan, thay vì nghĩ tới Hassan và những gì đã xảy ra với cậu. Nhưng, tâm trí tôi luôn luôn quay lại cái ngõ ấy, cái quần nhung kẻ màu nâu của Hassan vứt trên đống gạch, và những giọt máu nhỏ vấy bẩn lên tuyết màu đỏ bầm, gần như đen lại.

    Một buổi chiều mù sương, lãng đãng đầu hè năm đó, tôi rủ Hassan trèo lên đồi với tôi. Bảo với cậu tôi muốn đọc cho cậu nghe một truyện tôi mới viết. Cậu đang phơi quần áo ngoài sân và tôi thấy rõ nhiệt tình của cậu khi làm nhanh như ăn cướp cho xong công việc.

    Chúng tôi vừa leo lên đồi vừa chuyện trò linh tinh với nhau. Cậu hỏi tôi về nhà trường, tôi học những gì, còn tôi nói về các thầy giáo của tôi, đặc biệt là giáo viên chính dạy toán, phạt học trò nói chuyện bằng cách kẹp một chiếc roi sắt giữa hai ngón tay rồi siết mạnh. Hassan nhăn mặt lại, nói mong tôi không bao giờ phải nếm trải hình phạt đó. Tôi nói cho đến giờ tôi vẫn gặp may, dẫu biết may mắn chẳng liên quan gì đến chuyện này. Tôi cũng đã dự phần nói chuyện trong lớp đấy chứ. Nhưng cha tôi giàu và mọi người đều biết ông, vì vậy tôi được tha xử phạt bằng roi sắt.

    Chúng tôi ngồi dựa vào dãy tường thấp của nghĩa trang, dưới bóng ngả của cây lựu. Một hay hai tháng nữa thôi, những đám cỏ dại úa vàng thường sẽ phủ kín sườn đồi, nhưng năm đó, mưa rào mùa xuân kéo dài hơn thường lệ, lấn sang cả mùa hè đến sớm, và cỏ vẫn còn xanh, lốm đốm những chùm hoa hướng dương. Phía dưới chỗ chúng tôi, những ngôi nhà mái bằng tường trắng nhạt nhòa trong ánh nắng mặt trời, đám quần áo giặt sạch phơi trên các dây phơi ở ngoài sân, bị gió nhẹ làm cho uốn lượn như những cánh bướm.

    Chúng tôi hái xuống một tá quả lựu từ trên cây. Tôi mở cái truyện ngắn mang theo, lật trang đầu rồi đặt xuống. Tôi đứng dậy, nhặt một trái lựu chín rục rơi xuống đất.

    - Cậu sẽ làm gì nếu tôi ném cậu bằng quả này? - Tôi vừa nói, vừa tung lên tung xuống quả lựu.

    Nụ cười của Hassan héo rũ xuống. Cậu ấy trông già hơn là tôi nhớ. Không, không già hơn, mà già. Có thể thế chăng? Những đường khắc sâu lên khuôn mặt sạm nắng gió và những nếp nhăn viền quanh mắt, miệng của cậu. Cũng có thể chính tôi đã cầm một con dao và khắc những nếp nhăn ấy.

    - Cậu sẽ làm gì? - Tôi nhắc lại.

    Mặt cậu tái đi. Cạnh cậu, những trang giấy ghim chặt với nhau của cái truyện ngắn tôi đã hứa đọc cho cậu bay phần phật trong gió. Tôi ném mạnh quả lựu, trúng vào ngực cậu ấy, quả lựu vỡ ra, tung toé ruột đỏ. Tiếng khóc của Hassan đầy vẻ ngạc nhiên và đau đớn.

    - Ném trả lại tôi đi! - Tôi cáu tiết. Hassan hết nhìn những vết bẩn trên ngực mình lại nhìn tôi.

    - Đứng lên! Đánh tôi đi! - Tôi nói.

    Hassan vùng dậy nhưng chỉ đứng đó, trông sững sờ như một người bị sóng triều xoáy cuốn xuống đại dương, mà mới chỉ một lúc trước thôi còn đang thích thú tuyệt vời dạo chơi trên bãi biển. Tôi ném vào cậu một quả lựu khác, lần này trúng vai. Nước lựu bắn lên mặt cậu.

    - Ném trả tôi đi! - Tôi khạc ra. - Ném trả đi, đồ trời đánh thánh vật!

    Tôi mong cậu sẽ ném trả. Tôi mong cậu sẽ ném trả. Tôi mong cậu sẽ cho tôi sự trừng phạt mà tôi khát khao, như vậy có thể cuối cùng ban đêm tôi sẽ ngủ được. Có thể rồi mọi chuyện giữa chúng tôi sẽ trở lại như cũ. Nhưng Hassan vẫn không làm gì trong khi tôi tiếp tục ném túi bụi nữa, rồi lại nữa vào cậu.

    - Cậu là một thằng hèn! - tôi nói. - Chẳng là gì hết ngoài một thằng hèn chết tiệt!

    Tôi không biết tôi đã ném cậu bao nhiêu lần. Tất cả những gì tôi biết là cuối cùng khi tôi ngừng lại kiệt sức thở hổn hển, Hassan bê bếttrong màu đỏ, như bị bắn bằng một loạt súng. Tôi quỵ gối xuống mệt mỏi, kiệt sức, thất vọng. Thế rồi Hassan đã nhặt một quả lựu lên, bước về phía tôi, bửa quả lựu ra và nghiền nát vào trán mình. Khàn giọng nói: "Vào đây này!", nước đỏ nhỏ xuống mặt cậu như máu. "Cậu đã thỏa mãn chưa? Đã cảm thấy dễ chịu hơn chưa?" Nói rồi quay người đi và bước xuống đồi.

    Tôi để mặc nước mắt tuôn trào, choáng váng, lảo đảo khuỷu xuống "Hassan, tôi sẽ làm gì với cậu đây? Tôi sẽ làm gì với cậu đây." Nhưng cho đến lúc, nước mắt tôi khô, và tôi lê bước xuống chân đồi, tôi đã biết câu trả lời cho câu hỏi đó.

    Tôi mười ba tuổi vào mùa hè năm 1975 đó, Afghanistan đã gần tới mùa hè hòa bình và vô danh cuối cùng. Mọi chuyện giữa Baba và tôi đã lại nguội lạnh đi. Tôi nghĩ mọi việc bắt đầu từ lời nhận xét ngu ngốc tôi đưa ra hôm chúng tôi trồng tuylíp, về việc mướn người ở mới. Tôi hối tiếc đã nói như thế, tôi thật sự hối tiếc, nhưng tôi lại nghĩ dù tôi không nói thì cái quãng thời gian xen kẽ hạnh phúc ngắn ngủi của chúng tôi cũng sẽ phải kết thúc. Có thể không sớm đến thế, nhưng sẽ phải kết thúc. Đến cuối mùa hè, tiếng leng keng của thìa dĩa vào bát đĩa đã thay thế cho riêng chuyện gẫu tại bàn ăn bữa tối và sau bữa ăn, Baba lại thu mình trong phòng đọc. Và đóng kín cửa. Tôi cũng trở về với cái kiểu giơ ngón tay cái ra hiệu Hãfez 6 và Khayyám 7, gặm móng tay đến tận thịt, về với các câu chuyện mà tôi viết ra. Tôi giữ những truyện ngắn thành một đống dưới gậm giường của tôi, giữ chúng chỉ để phòng xa, mặc dầu tôi vẫn ngờ Baba sẽ không bao giờ đòi tôi đọc cho ông nghe nữa.

    Phương châm của Baba về việc mở tiệc là thế này: Phải mời toàn thế giới, bằng không thì không phải là tiệc tùng. Tôi nhớ mình đã liếc qua danh sách khách mời một tuần trước tiệc sinh nhật của tôi và không nhận ra ít nhất ba phần tư trong số hơn bốn trăm Kaka và Khala sẽ đến để mang quà cho tôi và chúc mừng tôi đã sống được mười ba tuổi. Rồi tôi nhận ra họ đến không thật sự vì tôi. Đó là ngày sinh của tôi, nhưng tôi biết ai mới là ngôi sao thực sự của buổi diễn.

    Mấy ngày liền, ngôi nhà đầy những người Baba thuê giúp việc. Có cả ông hàng thịt Saeahuddin, có mặt cùng với một con bê, hai con cừu dắt theo, từ chối không nhận tiền cho bất cứ con nào trong số ba con. Ông tự tay chọc tiết mấy con vật ở ngoài sân, bên gốc cây dương liễu. "Máu tốt cho cây lắm," tôi vẫn nhớ ông nói thế khi cỏ quanh cây liễu đỏ sậm. Những người đàn ông tôi không biết là ai trèo lên những cây sồi với cuộn dây điện dài hàng trăm mét và những bóng điện nhỏ. Những người khác kê hàng lô bàn ở ngoài sân, trải khăn bàn lên đó. Đêm trước ngày đại tiệc, ông bạn Del Muhammed của Baba, người sở hữu một Nhà hàng Kabob ở Shar-e-Nau, đến nhà tôi với những thứ đồ gia vị. Giống như ông hàng thịt, ông Del Muhammed - hay Dello, như Baba gọi, từ chối tiền trả cho những dịch vụ của ông. Ông nói Baba đã giúp đỡ nhiều cho gia đình ông. Chính chú Rahim Khan nói nhỏ cho tôi biết, lúc ông Dello nấu món xốt thịt, Baba cho ông ấy vay tiền để mở tiệm ăn. Baba đã không chịu nhận món tiền trả lại mãi tới khi ông Dello xuất hiện trong chiếc xe Benz ở lối xe vào nhà tôi và khăng khăng không chịu rời khỏi đó cho đến khi Baba chịu nhận tiền.

    Tôi cho rằng, xét về nhiều khía cạnh, hay ít nhất cũng trên phương diện tổ chức tiệc tùng, sự cố gắng cho sinh nhật của tôi là một thành công lớn. Tôi chưa bao giờ thấy ngôi nhà đông người đến thế, khách khứa rượu trên tay, chuyện gẫu với nhau ở các hành lang, hút thuốc trên những cầu thang gác, tựa lưng vào các khung cửa. Họ ngồi ở bất kỳ chỗ nào thấy trống, trên quầy bếp, trong tiền sảnh, cả dưới lan can cầu thang. Trong sân sau, họ đứng lẫn với nhau dưới ánh sáng xanh lơ, đỏ, xanh lá cây nhấp nháy trên các tàng cây, mặt họ được chiếu sáng bởi những ngọn đèn dầu hỏa kê ở khắp nơi. Baba cho dựng một sàn trình diễn trên bao lơn bao quát khu vườn và treo những loa điện khắp sân. Ahmad Zahir chơi đàn phong cầm và hát trên sàn diễn, phía trên những đám người đang nhảy múa.

    Tôi phải đón chào từng vị khách một - có thế Baba mới yên tâm. Ngày hôm sau, sẽ không ai ngồi lê đôi mách về việc ông không biết dạy con trai cách cư xử. Tôi hôn hàng trăm chiếc má, ôm ghì toàn bộ khách lạ, cảm ơn họ đã cho quà. Mặt tôi đau đớn vì căng ra với nụ cười mụ mị.

    Tôi đang đứng cùng với Baba gần quầy rượu trong sân, thì ai đó nói: "Amir, chúc sinh nhật hạnh phúc". Đó là Assef đi cùng bố mẹ nó. Bố của Assef, ông Mahmood, thuộc loại người thấp, gầy gò, da sạm và mặt choắt. Mẹ nó, bà Tania là một người đàn bà nhỏ nhắn, nóng nảy luôn luôn mỉm cười và chớp mắt. Lúc này Assef đang đứng giữa hai người, cười nhăn nhở, trông cao lớn át cả bố mẹ, hai cánh tay đặt trên vai hai người. Nó dẫn họ về phía chúng tôi như thể nó đem họ đến đây. Như nó là cha mẹ, còn cha mẹ lại là con cái. Một con sóng choáng váng ập tới xuyên qua người tôi. Baba cảm ơn họ đã đến.

    - Chính tôi chọn quà cho cậu đấy - Assef nói. Mặt bà Tania cau lại, đôi mắt hết nhìn Assef lại nhìn tôi. Rồi bà miễn cưỡng mỉm cười, và nháy mắt. Tôi không biết Baba có để ý thấy không.

    - Vẫn chơi bóng đá chứ, Assef jan? - Baba hỏi. Ông luôn muốn tôi là bạn của Assef.

    Assef mỉm cười. Thật khủng khiếp khi thấy nó tạo cho nụ cười ấy vẻ chân thật ngọt ngào đến thế.

    - Tất nhiên, thưa Kaka jan.

    - Vẫn cánh phải như bác nhớ chứ?

    - Năm nay, thực tế cháu đã chuyển sang tiền đạo trung tâm, - Assef nói. - Chơi tuyến ấy có thể ghi bàn nhiều hơn. Tuần sau chúng cháu đá với đội Mekro - Rayan. Chắc sẽ là một trận đá hay. Bọn họ có những cầu thủ giỏi.

    Baba gật đầu.

    - Cháu biết không, bác cũng chơi tiền đạo trung tâm thời còn trẻ đấy.

    - Cháu dám cược bác vẫn có thể chơi nếu bác muốn đấy, - Assef nói. Nó nháy mắt hiền lành nịnh Baba.

    Baba cũng nháy mắt:

    - Ta thấy bố cháu đã dạy cháu những thói tâng bốc nổi tiếng thế giới của ông ấy đấy, - ông hích bố Assef, gần như hạ nốc ao ông bạn bé nhỏ.

    Tiếng cười của ông Mahmood có vẻ hồn nhiên như nụ cười của bà Tania, và tôi chợt băn khoăn tự hỏi liệu có phải, ở mức độ nào đó, con trai họ cũng làm họ khiếp sợ.

    Tôi cố tạo ra một nụ cười vờ vĩnh nhưng tất cả những gì tôi làm được chỉ là hơi nhếch mép - bụng tôi quặn lên buồn nôn khi nhìn cha tôi thân mật với Assef.

    Assefvội nhìn sang tôi:

    - Wali và Kamal cũng ở đây đấy, chúng nó không thể vắng mặt trong sinh nhật của cậu vì bất cứ điều gì.

    Nó vừa nói vừa cười hời hợt bề ngoài. Tôi lặng lẽ gật đầu.

    - Bọn mình đang định tổ chức một cuộc đấu bóng chuyền nhỏ ngày mai, ở nhà mình, - nó nói. - Cậu có thể tham gia với chúng mình. Mang theo cả Hassan nếu cậu muốn.

    - Cũng hay đấy - Baba nói, mặt rạng rỡ hơn lên. - Amir, con nghĩ thế nào?

    - Con thật sự không thích bóng chuyền, - tôi lúng búng. Tôi nhìn thấy ánh chớp loé ra từ ánh mắt Baba, và một sự im lặng khó chịu tiếp theo.

    - Xin lỗi, Assef jan, - Baba nhún vai nói. Nó làm tôi nhức nhối, cái lời xin lỗi thay cho tôi đó.

    - Không, không sao đâu, - Assef nói. - Nhưng Amir jan, cậu sẽ có giấy mời chính thức. Dẫu thế nào, tôi nghe nói cậu thích đọc, nên tôi đã mang đến cho cậu một cuốn sách. Một trong những cuốn tôi ưa thích. - Nó chìa một gói quà sinh nhật cho tôi. Chúc sinh nhật hạnh phúc.

    Nó mặc một chiếc áo sơ mi sợi bông, quần dài xanh, đeo cà vạt lụa đỏ và đi đôi giày da đế mềm đen bóng. Người nó sực mùi nước hoa, và mớ tóc hung đỏ chải mượt hất về phía sau. Bề ngoài, nó là hiện thân giấc mơ của mọi bậc cha mẹ, một đứa con trai cao to, cường tráng, ăn mặc tinh tươm, biết ứng xử với những dáng vẻ đầy ấn tượng và tài năng, chưa kể đến sự hóm hỉnh để đùa với một người lớn. Nhưng với tôi, đôi mắt của nó đã phản bội nó. Khi tôi nhìn sâu vào đôi mắt ấy, cái mã ngoài lung lay xiêu vẹo đi, thấp thoáng lộ ra vẻ điên dại ẩn giấu đằng sau.

    - Amir, con có định nhận không đấy? - Baba nói.

    - Gì ạ?

    - Quà của con, - Baba bực bội nói - Assef jan cho con một món quà.

    - Ồ, - tôi nói và cầm cái hộp của Assef rồi nhìn gằm xuống. Tôi ước gì có thể được một mình trong phòng riêng của tôi với những cuốn sách của tôi, thoát khỏi những người này.

    - Thế nào? - Baba nói.

    - Gì ạ?

    Baba nói khẽ, như vẫn thường nói mỗi khi tôi làm ông ngượng ngùng trước mọi người:

    - Con không định cảm ơn Assef jan hay sao? Như thế là nó rất quan tâm đến con đấy.

    Tôi ước gì Baba đừng gọi nó là jan như thế. Ông đã gọi tôi bằng "Amir jan" được bao nhiêu lần?

    - Cảm ơn, - tôi nói.

    Mẹ của Assef nhìn tôi như thể bà muốn nói một điều gì, nhưng bà không nói được, và tôi nhận ra chẳng ai trong bố mẹ Assef nói một tiếng nào. Trước khi tôi có thể làm cho tôi và Baba không còn lúng túng nữa - nhưng chủ yếu là để thoát khỏi Assef và sự nhăn nhở của nó - tôi bước lảng đi và nói:

    - Cảm ơn đã đến.

    Tôi đi vòng vèo qua đám đông khách khứa và chuồn ra ngoài cổng sắt. Cách nhà tôi hai ngôi nhà, có một bãi đất trống rất rộng, cằn cỗi và bẩn thỉu. Tôi đã được nghe Baba kể với chú Rahim Khan, là một ông thẩm phán đã mua miếng đất đó và một kiến trúc sư hiện đang thiết kế. Lúc này, bãi đất vẫn còn trống trơn, chỉ có phân, đá và cỏ dại. Tôi bóc giấy bọc gói quà của Assef và đọc tên bìa sách dưới ánh trăng. Đó là cuốn tiểu sử của Hitler. Tôi ném nó vào giữa đám cỏ dại.

    Tôi dựa vào dãy tường nhà hàng xóm, ngồi bệt xuống đất. Tôi cứ ngồi trong bóng tối như thế một lúc lâu, đầu gối tì vào ngực ngước nhìn sao vừa đợi cho đêm trôi qua.

    - Cháu không cần tiếp khách ư? - Một giọng thân quen nói.

    Chú Rahim Khan đang bước lại phía tôi, dọc theo bức tường.

    - Họ không cần cháu việc ấy. Baba ở đó, chú nhớ chứ? - Tôi nói.

    Miếng nước đá trong cốc rượu của chú Rahim Khan va lanh canh, chú ngồi xuống cạnh tôi, - cháu không biết chú say đấy.

    - Hóa ra chú say, - chú nói. Trêu tôi. - Nhưng chỉ vào những dịp quan trọng nhất thôi.

    Tôi mỉm cười:

    - Cảm ơn chú.

    Chú chìa cốc rượu về phía tôi và tợp một ngụm. Chú châm một điếu thuốc lá, loại thuốc lá Pakistan không có đầu lọc mà chú và Baba vẫn hút:

    - Đã bao giờ chú kể cho cháu nghe, một lần suýt nữa chú đã cưới vợ chưa?

    - Thật ạ? - Tôi nói, hơi mỉm cười trước cái khái niệm mơ hồ, chú Rahim Khan lấy vợ. Tôi luôn luôn nghĩ về chú như một hóa thân thầm lặng của Baba, như một người thầy vĩ đại của tôi, bạn cố tri của tôi, người không bao giờ quên mang tới cho tôi một món quà lưu niệm, một saughat 8, mỗi khi trở về từ một chuyến ra nước ngoài. Nhưng một người chồng ư? Một người cha ư?

    Chú gật đầu:

    - Đúng đấy. Chú mười tám. Tên cô ấy là Homaira. Cô ấy là người Hazara, con gái một người ở của ông hàng xóm của chúng ta. Cô ấy đẹp như một pari, tóc nâu mượt, đôi mắt to màu nâu biếc. Cô ấy có tiếng cười.. đôi khi chú vẫn còn có thể nghe thấy. - Ông lắc lắc cốc rượu, - bọn ta thường bí mật gặp nhau trong vườn táo của cha chú, luôn luôn sau nửa đêm, khi mọi người đã đi ngủ. Bọn ta thường dạo bước dưới các gốc táo và chú thường cầm tay cô ấy.. Chú có làm cháu ngượng không, Amir jan?

    - Một chút thôi ạ.

    - Sẽ không làm chết cháu đâu, - chú nói, rít thêm một hơi thuốc nữa. - Bất kể thế nào bọn ta vẫn nuôi ảo tưởng ấy. Bọn ta sẽ có một đám cưới linh đình và mời họ hàng, bạn bè từ Kabul tới Kandahar. Ta sẽ xây cho chúng ta một ngôi nhà lớn với hàng hiên lát đá trắng và cửa sổ lớn. Chúng ta sẽ trồng cây ăn quả trong vườn và trồng thêm đủ các loài hoa, có một bãi cỏ để con cái của chúng ta chơi trên đó, vào ngày thứ Sáu, sau lễ cầu kinh Namaz ở nhà thờ Hồi giáo, mọi người sẽ đến tụ tập ở nhà chúng ta để ăn trưa, và chúng ta sẽ ăn ở trong vườn, dưới những gốc cây anh đào, uống nước mát ở dưới giếng. Rồi uống trà với kẹo trong khi chúng ta ngắm lũ trẻ của mình chơi với anh chị em họ chúng..

    Chú hớp một ngụm dài rượu scotch và ho:

    - Giá cháu thấy cái nhìn trên bộ mặt của cha ta, khi ta nói cho ông biết. Mẹ ta ngất xỉu. Các chị ta té nước vào mặt bà. Họ quạt cho bà, và nhìn ta như thể ta đã cắt họng họ. Ông anh trai Falal của ta thì đi tìm khẩu súng săn của ông ấy trước khi cha ta kịp ngăn ông ấy lại. - Chú Rahim Khan cười gằn cay đắng. - Như là chú và Homaira đã chống lại cả thế giới. Và chú muốn nói cho cháu biết điều này: Cuối cùng thì thế giới luôn luôn thắng. Đó mới là con đường của mọi sự.

    - Vậy điều gì đã xảy ra?

    - Ngay ngày hôm ấy, cha chú đem Homaira và cả gia đình cô ấy lên một chiếc xe tải, và tống họ về Hazarajat. Chú không bao giờ gặp lại cô ấy nữa.

    - Cháu rất tiếc. - Tôi nói.

    - Dẫu sao, vẫn có thể như thế là tốt nhất. - Chú Rahim Khan nhún vai nói tiếp, - cô ấy sẽ chịu đau khổ. Gia đình chú sẽ chẳng bao giờ chấp nhận cô ấy được bình đẳng. Cháu không thể ra lệnh cho ai đó đánh giày cho mình hôm nay và gọi người đó bằng "em gái" ngày hôm sau được, - chú nhìn tôi. - Cháu hiểu chú, cháu có thể nói cho chú bất kỳ chuyện gì cháu muốn, Amir jan. Bất cứ lúc nào.

    - Cháu hiểu, - tôi do dự nói.

    Chú nhìn tôi một lúc lâu, như thể đang chờ đợi, đôi mắt đen sâu thẳm của chú ngụ ý giữa chúng tôi có một bí mật chưa được nói ra. Trong một khắc, tôi suýt đã kể cho chú. Suýt kể hết cho chú mọi chuyện. Nhưng rồi chú sẽ nghĩ thế nào về tôi? Chú sẽ ghét tôi. Cũng phải thôi.

    - Đây, - chú trao cho tôi vật gì đó. - Suýt nữa chú quên. Chúc mừng sinh nhật.

    Đó là một cuốn sổ bọc da nâu. Tôi miết ngón tay lên lớp chỉ kim tuyến may ở mép sách. Tôi ngửi thấy mùi da thuộc. Chú nói:

    - Cho những truyện ngắn cháu viết.

    Tôi đang định cảm ơn chú thì một thứ gì đó nổ và bắn lên sáng cả bầu trời.

    - Pháo hoa.

    Chúng tôi vội trở về nhà và thấy khách khứa tất cả đều đang đứng trong sân, nhìn lên trời. Trẻ con huýt sáo và la hét, mỗi khi có tiếng nổ giòn và tiếng phụt lên. Người lớn reo hò, bật ra nhưng tiếng hoan hô, mỗi lần những bó lửa loe to và nổ bùng thành những chùm hoa lửa. Cứ vài giây một, sân sau lại bất chợt bùng sáng lên những luồng sáng màu đỏ, xanh, vàng.

    Trong một đợt bùng sáng ngắn ngủi ấy, tôi nhìn thấy một cảnh tượng mà tôi sẽ không bao giờ quên được: Hassan bưng rượu mời Assef và Wali trên một chiếc khay bạc. Ánh sáng vụt tắt, một tiếng rít và tiếng nổ giòn, rồi lại một đợt vụt sáng khác màu da cam: Assef nhăn nhở, ngoáy mạnh vào ngực Hassan quả đấm thép.

    Rồi, may sao, bóng tối.

    * * *

    1 El cid: Dựa theo vở kịch cổ điển Le cid của nhà văn Pháp Comeille thế kỷ 17.

    2 Mareez trong nguyên bản có nghĩa là ốm.

    3 Wah wah: Tiếng reo tỏ ý vui mừng, hoan hô, tạm dịch Chà chà!

    4 Một loại lò bằng đất sét dùng nướng thịt hoặc bánh bằng xiên sắt theo lối của người Hindu.

    5 Tiểu thuyết nổi tiếng của Walker Scott, nhà văn cổ điển Anh (1771-1832).

    6 Hãfez: Tạm biệt.

    7 Khayyám: Chúc ngủ ngon.

    8 Saughat: Cũng có nghĩa quà lưu niệm.
     
  11. Buckwheat

    Bài viết:
    129
    CHƯƠNG IX



    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sáng hôm sau, ngồi ở giữa phòng, tôi xé mở hết hộp quà này đến hộp quà khác. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi chỉ thấy buồn bực, tôi chỉ chán ngán liếc nhìn chúng và quăng chúng vào góc phòng. Cả đống ùn lên ở đó, có cả chiếc máy ảnh Polaroid, một máy thu thanh bán dẫn, một đoàn tàu chạy điện phức tạp và nhiều phong bì dán kín đựng tiền. Tôi biết, tôi sẽ chẳng bao giờ tiêu xài đến tiền hoặc nghe máy thu thanh, chiếc tàu điện sẽ chẳng bao giờ chạy trên đường ray trong phòng tôi. Tôi chẳng muốn bất cứ thứ gì của cái đống đó hết - tất cả đều là đồng tiền máu. Baba sẽ chẳng bao giờ tổ chức cho tôi một bữa tiệc như thế, nếu tôi không thắng trong cuộc đấu diều.

    Baba cho tôi hai món quà, một món chắc chắn trở thành sự thèm thuồng của mọi đứa trẻ trong vùng; một kiểu dáng mới của hãng Schwinn Stingray, vua của mọi loại xe đạp. Chỉ một dúm trẻ con ở toàn Kabul sở hữu một chiếc Stingray mới, và lúc này tôi là một trong bọn chúng. Nó có bộ tay cầm vươn cao, tay nắm bằng cao su đen, và bộ yên hình nải chuối nổi tiếng. Càng xe màu vàng và khung xe màu đỏ, như một chiếc kẹo táo. Hoặc máu. Bất kỳ đứa trẻ nào khác cũng muốn nhảy lên xe ngay lập tức và phóng một vòng mấy dãy nhà. Tôi đã có thể làm được điều đó nếu là vài tháng trước.

    - Con thích nó chứ? - Baba nói, tựa lưng vào khung cửa phòng tôi.

    Tôi ngượng ngùng nhe răng cười với ông và nói câu cảm ơn thật nhanh. Giá mà tôi đã có thể can đảm hơn thế.

    - Chúng ta có thể cưỡi xe đi một lúc, - Baba nói. Một lời mời, nhưng chỉ thật lòng phân nửa thôi.

    - Có lẽ lát nữa. Con đang hơi mệt, - tôi nói.

    - Được thôi. - Baba đáp. - Baba ạ?

    - Có chuyện gì?

    - Con cảm ơn vì pháo hoa, - tôi nói. Một lời cảm ơn nhưng cũng chỉ thật lòng một nửa.

    - Nghỉ một chút đi, - Baba vừa nói vừa bước về phòng mình.

    Món quà kia Baba cho tôi, và ông cũng chẳng thèm đợi xem tôi mở hộp quà - là một chiếc đồng hồ đeo tay. Nó có cái mặt xanh, đôi kim vàng hình tia chớp có dạ quang. Tôi cũng chẳng buồn đeo thử. Tôi quẳngnó vào cái đống ở góc phòng. Món quà duy nhất tôi không quăng lên núi quà, đó là cuốn sổ bọc da của chú Rahim Khan. Đó là món quà duy nhất mà tôi không cảm thấy như đồng tiền máu.

    Tôi ngồi ở mép giường, giở cuốn sổ trong tay, nghĩ về những gì chú Rahim Khan đã nói về Homaira, việc cha chú đã đuổi cô cuối cùng vẫn là điều tốt nhất như thế nào. Cô ấy hẳn sẽ đau khổ. Giống như những lần chiếc máy chiếu của Kaka Homayoun lưu luyến mãi một chớp hình, cái hình ảnh ấy vẫn còn loé sáng mãi trong tâm trí tôi: Hassan, mặt gằm xuống, đang hầu rượu cho Assef và Wali. Có thể đó mới là tốt nhất. Giảm bớt sự đau khổ của cậu ấy. Và của tôi nữa. Đằng nào thì, điều đó cũng quá rõ ràng: Một trong hai chúng tôi phải ra đi.

    Chiều muộn hôm đó, tôi đem chiếc xe đạp Schwinn ra cho bon lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Tôi đạp vòng quanh dãy nhà hai lần rồi trở về. Tôi đạp trên lối xe vào nhà đến sân sau, nơi Hassan và ông Ali đang dọn dẹp những đống rác rưởi từ bữa tiệc hôm trước. Những cốc giấy, những khăn ăn nát vụn, những vỏ chai soda lăn lóc ở sân. Ông Ali đang gấp ghế, đem dựng ở dọc tường. Ông trông thấy tôi liền vẫy vẫy.

    - Salaam, ông Ali! - Tôi chào và vẫy lại ông.

    Ông giơ một ngón tay lên, bảo tôi đợi, và bước về chỗ ăn nghỉ của ông. Một lát sau, ông hiện ra với thứ gì đó trong tay:

    - Đêm qua chẳng hở ra được lúc nào để Hassan và tôi tặng cậu món quà này, - ông vừa nói vừa trao cho tôi một chiếc hộp. - Nó là thứ tầm thường, không đáng gì với cậu. Amir agha ạ. Nhưng chúng tôi vẫn mong cậu thích nó. Chúc mừng sinh nhật.

    Một cái gì dâng lên như chẹn họng tôi. Tôi nói:

    - Cảm ơn, ông Ali.

    Ước gì họ đừng mua cho tôi bất cứ thứ gì. Tôi mở hộp thấy một cuốn sách Shahnamah 1 bìa cứng bọc vải, có những tranh minh họa vẽ màu trên giấy láng bóng phía dưới các đoạn trích. Đây là Ferangis đang chăm chú nhìn đứa con mới sinh của mình Kai Khosrau. Kia là Afrasiyab đang cưỡi con ngựa chiến, thanh kiếm tuốt trần, dẫn đầu đoàn quân. Và tất nhiên, có cả Rostam đâm một nhát chí tử vào con trai mình, chiến binh Sohrab.

    Tôi nói:

    - Đẹp quá.

    - Hassan bảo bản in của cậu cũ rách rồi, có chỗ lại thiếu trang, - ông Ali nói. - Tất cả những tranh trong này đều được về tay bằng mực và bút sắt, - ông tự hào bổ sung, dán mắt vào cuốn sách mà ông cũng như con trai ông đều không đọc nổi.

    - Thích thật, - tôi nói. Và đúng là thích thật. Và tôi cũng đoán chừng nó không hề rẻ. Tôi muốn nói với ông Ali là không phải quyển sách, mà là tôi không xứng đáng. Tôi lại nhảy lên chiếc xe đạp và bảo ông:

    - Cảm ơn Hassan hộ tôi.

    Cuối cùng thì tôi cũng quăng cuốn sách lên đống quà ở góc phòng tôi. Nhưng mắt tôi vẫn cứ ngoái lại dán vào đấy, vì vậy tôi vùi nó xuống đáy. Đêm đó trước khi lên giường ngủ, tôi hỏi Baba xem ông có thấy chiếc đồng hồ mới của tôi ở đâu không?

    Sáng hôm sau, tôi ở trong phòng đợi cho ông Ali dọn dẹp bàn ăn sáng ngoài bếp. Đợi ông rửa bát đã lau chùi quầy bếp xong. Tôi nhìn qua cửa sổ phòng ngủ của tôi và đợi, cho tới khi ông Ali và Hassan đi ra phố chợ mua hàng, đẩy chiếc xe cút kít trước mặt.

    Thế rồi tôi lấy vài cái phong bì tiền từ đống quà và cái đồng hồ của tôi, kiễng chân rón rén đi ra ngoài. Tôi dừng lại trước phòng đọc của Baba, nghe ngóng. Sáng nào ông cũng ở trong phòng, gọi điện thoại. Ông đang nói chuyện với ai đó về việc chuyến tàu biển chở thảm trải phải đến vào tuần sau. Tôi xuống thang gác, đi ngang qua sân, vào nơi ở của ông Ali và Hassan bên cây sơn trà. Tôi nâng tấm đệm của Hassan lên và nhét cái đồng hồ mới của tôi với một nắm tiền giấy Afghan xuống dưới.

    Tôi đợi ba mươi phút. Rồi tôi gõ cửa phòng Baba và kể cho ông nghe những gì tôi hy vọng sẽ là lần cuối cùng của cả một chuỗi dài dối trá.

    Qua cửa số phòng ngủ của tôi, tôi theo dõi ông Ali và Hassan đẩy chiếc xe cút kít chất đầy những thịt, bánh naan, trái cây và rau tươi trên lối xe vào. Tôi thấy Baba từ trong nhà đi ra, bước tới gặp ông Ali. Miệng mấp máy những tiếng gì tôi không nghe rõ. Baba chỉ về phía ngôi nhà và ông Ali gật đầu. Họ tách ra, Baba trở về nhà, ông Ali đi theo Hassan về phía túp lều đất của họ.

    Vài phút sau Baba gõ cửa phòng tôi. Ông nói:

    - Đến phòng làm việc của ta. Tất cả chúng ta sẽ ngồi xuống và giải quyết việc này.

    Tôi đến phòng đọc của Baba, ngồi lên ghế sofa da. Độ ba mươi phút, hay hơn thế, rồi Hassan và ông Ali đến góp mặt với chúng tôi.

    Cả hai đều khóc. Tôi có thể nhận ra từ đôi mắt họ sưng đỏ lên. Họ đứng trước Baba, tay trong tay, và tôi tự hỏi, làm thế nào và khi nào tôi lại trở thành kẻ có thể gây ra nỗi đau khổ này.

    Baba hỏi thẳng thừng:

    - Có phải cháu đã ăn cắp món tiền này không? Hassan, cháu đã ăn cắp chiếc đồng hồ của Amir à?

    Câu đáp lại của Hassan là một từ đơn độc, thốt ra bằng một tiếng nhỏ, cộc lốc:

    - Vâng.

    Tôi nao núng, như thể bị tát vào mặt. Tim tôi lịm đi, tôi suýt phải nói ra sự thật. Rồi tôi hiểu: Đây là lần hy sinh cuối cùng của Hassan cho tôi. Nếu cậu ấy nói không phải, Baba hẳn sẽ tin cậu ấy, bởi vì chúng tôi đều biết, Hassan chẳng bao giờ nói dối. Và nếu Baba tin cậu ấy, thì tôi mới là kẻ bị kết tội. Tôi sẽ phải giải thích, và sẽ bị vạch trần những gì tôi đáng phải nhận. Baba sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi, mãi mãi. Và điều đó lại dẫn đến một cách hiểu khác: Hassan biết. Biết tôi thấy hết mọi chuyện trong cái ngõ đó, biết tôi đứng đấy và không hề làm gì. Biết tôi đã phản bội cậu và tuy vậy, cậu đang cứu tôi một lần nữa, có thể là lần cuối cùng. Lúc đó, tôi yêu cậu, yêu cậu hơn bất kỳ ai tôi đã từng yêu, và tôi muốn nói thẳng với tất cả bọn họ rằng, tôi là một con rắn trong đám cỏ, một con quỷ trong lòng hồ. Tôi không xong đáng với sự hy sinh ấy, tôi là một kẻ dối trá, một tên lừa đảo, một đứa trộm cắp. Và tôi có lẽ đã nói, nếu không có chuyện một phần trong con người tôi lại thấy mừng. Mừng là tất cả sẽ sớm qua đi. Baba sẽ đuổi họ, sẽ có một chút đau khổ đấy, nhưng cuộc sống lại tiếp tục vận động. Tôi muốn thế, tiếp tục vận động, quên đi và bắt đầu bằng một lý lịch sạch sẽ. Tôi muốn lại có thể thở được.

    Ngoại trừ Baba đã làm tôi choáng váng, bằng câu nói:

    - Ta tha thứ cho cháu.

    Tha thứ ư? Nhưng trộm cắp là một tội không thể tha thứ, là mẫu số chung mọi tội lỗi. Khi con giết một người, là con đánh cắp một cuộc đời. Con ăn cắp quyền làm vợ của một người đàn bà, cướp người cha của những đứa con. Khi con nói dối, con ăn cắp quyền của ai đó đối với sự thật. Khi con lừa đảo, con ăn cắp quyền đối với sự chính trực. Không có hành động nào cực kỳ xấu xa hơn ăn cắp. Chẳng phải Baba đã bế tôi lên lòng ông và nói những lời ấy với tôi ư? Thế thì làm sao ông lại có thể chỉ tha thứ cho Hassan? Và nếu Baba có thể tha thứ chuyện đó, vậy tại sao ông lại không thể tha thứ cho tôi vì đã không là đứa con trai như ông hằng mong muốn? Tại sao?

    - Chúng tôi sẽ đi, Agha sahib, - ông Ali nói.

    - Cái gì - Baba nói, mặt tái đi.

    - Chúng tôi không thể sống ở đây được nữa, - ông Ali nói.

    - Nhưng tôi tha thứ cho nó, Ali, ông không nghe rõ à? - Baba nói.

    - Sống ở đây bây giờ là không thể đối với chúng tôi rồi, Agha sahib. Chúng tôi sẽ đi. - ông Ali kéo Hassan lại gần ông và quàng cánh tay qua vai con trai mình. Đó là một cử chỉ bảo vệ, và tôi biết ông Ali đang bảo vệ con mình khỏi ai. Ông Ali liếc nhìn xem thái độ của tôi bằng một cái nhìn lạnh lùng và không tha thứ, tôi biết Hassan đã kể lại cho ông. Cậu đã kể lại cho ông biết hết mọi chuyện, về những gì Assef và lũ bạn của nó đã làm đối với cậu, về chiếc diều, về tôi. Thật lạ lùng, là tôi lại lấy làm mừng, rằng ai đó đã biết tôi thực sự là người như thế nào. Tôi đã mệt mỏi vì phải giả vờ.

    - Tôi không quan tâm đến tiền và cái đồng hồ, - Baba nói, hai cánh tay ông mở ra, lòng bàn tay ngửa lên - Tôi không hiểu tại sao ông lại làm thế.. Ý ông nói "không thể" là thế nào?

    - Tôi xin lỗi, Agha sahib, nhưng đồ đạc của chúng tôi đã đóng gói cả rồi. Chúng tôi đã quyết định rồi.

    Baba đứng lên, một nỗi đau buồn thoáng lướt qua mặt ông:

    - Ali, phải chăng tôi đã không chu cấp đủ cho ông? Phải chăng tôi đã không tốt với ông và Hassan? Ông là người anh em ruột thịt mà tôi chẳng bao giờ có nữa, ông Ali, ông biết thế mà, xin ông đừng làm thế.

    - Agha sahib, xin đừng làm việc này khó khăn hơn nó vốn dĩ đã vậy, - ông Ali nói. Miệng ông xoắn lại, và trong một khắc, tôi nghĩ tôi thấy một cái nhăn mặt. Đó là khi tôi hiểu được chiều sâu của nỗi đau tôi đã gây ra, cái bóng đen của nỗi sầu đau tôi đã mang đến cho mọi người, đến nỗi ngay cả bộ mặt bị liệt của ông Ali cũng không thể ngụy trang được nỗi đau buồn. Tôi ép mình phải nhìn Hassan, nhưng cậu cúi gằm, hai vai cậu trễ xuống, ngón tay vê vê sợi dây rút ở gấu áo sơ mi.

    Lúc này, Baba đành nài xin:

    - Ít nhất cũng phải nói cho tôi biết tại sao chứ. Tôi cần phải biết.

    Ông Ali không nói cho Baba biết cũng như ông đã không phản đối khi Hassan thú nhận ăn cắp. Tôi sẽ không bao giờ biết tại sao, nhưng tôi có thể hình dung ra cả hai người trong cái lều nhỏ nhờ nhờ tối ấy, khóc lóc. Hassan nài xin ông đừng để lộ ra tôi. Nhưng tôi đã không thề tưởng tượng nổi sự kiềm chế mà ông Ali phải gắng để giữ lời hứa đó.

    - Ông sẽ cho chúng tôi đến bến xe buýt chứ?

    - Tôi cấm ông không được làm thế, - Baba rống lên. - Ông có nghe rõ tôi nói không? Tôi cấm ông!

    - Thưa, nhưng ông không thể cấm tôi bất cứ điều gì, Agha sahib. - ông Ali nói. - Chúng tôi không làm việc cho ông nữa.

    - Ông sẽ đi đâu - Baba hỏi, giọng rưng rưng.

    - Hazarajat.

    - Đến nhà họ hàng à?

    - Vâng. Ông sẽ đưa chúng tôi tới bến xe chứ, Agha sahib?

    Rồi tôi thấy Baba làm cái điều mà trước đó tôi chưa từng thấy bao giờ. Ông khóc. Nhìn một người lớn khóc khiến tôi hoang mang đôi chút. Các ông bố không được phép khóc.

    - Xin ông, - Baba nói, nhưng ông Ali đã quay ra đến cửa và Hassan đi theo ông. Tôi sẽ không bao giờ quên thái độ của Baba khi nói điều đó, nỗi đau đớn trong lời cầu xin của ông, nỗi sợ hãi.

    Ở Kabul, hiếm khi mưa vào mùa hè. Bầu trời xanh cao và xa thẳm, mặt trời như một khối sắt nung thui cháy gáy bạn. Những nhánh sông mà Hassan và tôi thia lia đá suốt mùa xuân đều đã trở nên khô cạn, và nhưng chiếc xe kéo khuấy bụi khi ầm ầm lăn bánh qua. Dân chúng đi đến các nhà thờ Hồi giáo thực hiện mười Raka't 2 buổi trưa, và rồi rút lui tới bất cứ nơi nào có bóng mát để đánh giấc ngủ trưa, đợi cái mát mẻ của buổi chiều sớm. Mùa hè có nghĩa những ngày dài dặc ở trường, nhễ nhại mồ hôi trong những lớp học chẳng hề thông thoáng dồn chặt người để học đọc các ayats trong kinh Koran, vất và với những từ uốn lưỡi ngoại lai Ẳ rập. Có nghĩa bắt ruồi bằng lòng bàn tay, trong khi ông giáo sĩ tiếp tục giọng đều đều đọc kinh và một làn gió nóng mang theo cả mùi phân từ cái nhà vệ sinh phía bên kia sân trường, khuấy bụi lầm lên quanh chiếc vòng bóng rổ xộc xệch, bơ vơ.

    Nhưng buổi chiều hôm Baba đem ông Ali và Hassan ra bến xe buýt, trời mưa. Những tràng sấm rền vang phủ khắp bầu trời một màu chì xám. Chỉ mấy phút, những vạt mưa đã quét rầm rập, tiếng rít không ngừng của nước đổ ào ào trong hai tai tôi.

    Baba ngỏ ý sẽ tự mình chở họ đến tận Bamiyan, nhưng ông Ali từ chối. Qua cửa sổ đầm đìa mờ mịt nước mưa phòng ngủ của tôi, tôi dõi theo ông Ali kéo cái vali cô độc đựng tất cả nhưng gì thuộc về ông tới chiếc ôtô của Baba đang nổ máy bên ngoài cánh cổng. Hassan lặc lè tấm đệm, bó chặt bằng sợi thừng, trên lưng. Cậu đã để lại tất cả đồ chơi của mình trong túp lều trống rỗng. - Ngày hôm sau, tôi phát hiện ra chúng được xếp đống ở góc nhà, giống hệt như đống quà sinh nhật trong phòng tôi.

    Những hạt nước mưa trơn tuột nhỏ ròng ròng xuống cửa sổ phòng tôi. Tôi thấy Baba đóng sầm cửa xe lại. Người ướt sũng ông bước sang bên phía ghế lái xe, ngả người vào trong xe nói một điều gì đó với ông Ali ở hàng ghế sau, có lẽ một cố gắng cuối cùng hòng thay đổi ý định của ông Ali. Họ nói chuyện như thế một lúc, Baba ướt sũng, cúi lom khom, một cánh tay dựa trên mui xe. Nhưng khi ông đứng thẳng lên, tôi chấy trên đôi vai rũ xuống của ông, cuộc đời mà tôi từng biết từ khi tôi được sinh ra đã qua rồi. Baba luồn vào trong xe. Đèn pha bật lên, rạch hai luồng sáng trong mưa. Nếu đó là một trong những bộ phim Hinđi Hassan và tôi vẫn thường xem, thì đoạn cảnh ấy sẽ là tôi chạy ùa ra ngoài, đôi chân trần của tôi đạp tung toé nước mưa, tôi sẽ đuổi theo chiếc xe, la hét thất thanh cho xe đừng lại. Tôi sẽ kéo Hassan ra khỏi hàng ghế sau và nói với cậu ấy, tôi xin lỗi, rất xin lỗi, nước mắt tôi hòa lẫn nước mưa. Nhưng đó không phải là bộ phim Hinđi. Tôi rất hối tiếc nhưng tôi không khóc, và không đuổi theo chiếc xe. Tôi nhìn chiếc xe của Baba lao khỏi lề đường, mang theo một con người, mà tiếng tập nói đầu tiên của người ấy là tên tôi. Tôi bắt được hình bóng cuối cùng mờ nhạt của Hassan ngồi rũ ở ghế sau trước lúc Baba rẽ trái chỗ góc phố, nơi chúng tôi từng chơi bi đá không biết bao nhiêu lần.

    Tôi lui vào và tất cả những gì tôi thấy là mưa lọt qua tấm kính cửa sổ trông như bạc nấu chảy.

    * * *

    1 Shahnamah: Trong nguyên bản là cuốn sách có tên làShahnamah Truyện về một quốc vương - ND.

    2 Raka't: Một lượt thi lễ Salat (cầu nguyện), gồm các động tác đứng, quỳ, phủ phục hai lần, và ngồi thiền.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...