Hai ngày sau, khi kết thúc phiên tòa, Birgitta Roslin đã biết bản án sẽ như thế nào. Abdul Ibn-Yamed, người đàn ông lớn tuổi hơn, đứng đầu đường dây đưa người, sẽ lãnh án ba năm hai tháng tù. Người đàn ông ít tuổi hơn, Yassir al-Habi, bị tuyên án một năm tù. Cả hai sau khi thụ án xong sẽ bị trục xuất.
Bà so sánh những bản án trước đây trong các trường hợp tương tự và không thể đi đến cách đánh giá nào khác: đây là một tội nghiêm trọng. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc là đúng đắn. Nhiều người được đưa vào Thụy Điển bị đe dọa, bị ngược đãi nếu như họ không trả khoản tiền làm giấy tờ nhập cảnh giả và các chi phí khác cho chuyến đi. Birgitta cảm thấy ghê tởm đối với bị cáo lớn tuổi hơn. Bằng những lý lẽ giàu tình cảm ông ta van xin bà và công tố viên rồi quả quyết rằng không bao giờ giữ riêng cho mình một đồng nào trong số tiền của những người lánh nạn, mà chỉ quyên góp số tiền đó cho các mục đích từ thiện ở quê hương mình. Trong lúc nghỉ giải lao giữa phiên xử, công tố viên đã đến uống cà phê trong phòng của bà. Ông ta như tiện mồm nhắc đến việc đã nhìn thấy Adbul Ibn-Yamed phóng lung tung khắp mọi nơi với chiếc xe Mercedes gần một triệu krona.
Thủ tục kiện tụng trong tòa án rất căng thẳng và mệt nhọc. Ngày như kéo dài, bà hầu như chẳng còn có thể làm được việc gì khác ngoài ăn, ngủ, nghiên cứu ghi chép của mình, trước khi lại phải ngồi lên chiếc ghế thẩm phán. Hai đứa con gái sinh đôi của bà gọi điện bảo bà đến Lund với chúng nó, nhưng bà đâu có thời gian. Sau vụ những kẻ đưa lậu người, lại một mớ bòng bong hầu như không gỡ ra được đang chờ bà - đó là mấy tay lừa đảo thẻ tín dụng người Rumani.
Vào lúc này bà không còn có thể tiếp tục theo dõi được những gì đang diễn ra ở Hälsingland nữa. Sáng sáng bà giở qua các tờ báo, buổi tối thì đã quá mệt mỏi, đến mức không còn có thể xem chương trình thời sự trên ti vi được nữa.
Vào buổi sáng, giữa lúc chuẩn bị cho phiên xử mấy tay lừa đảo người Rumani, bà phát hiện trong lịch làm việc của mình có ghi hẹn thăm khám ở chỗ bác sĩ gia đình. Đây là cuộc kiểm tra sức khỏe định kỳ hằng năm. Bà nghĩ không biết có nên lui hẹn này lại hai tuần nữa hay không. Ngoài việc thấy mệt mỏi, thiếu tập trung trong công việc và đôi khi cảm thấy hoang mang lo sợ, bà không nghĩ rằng mình bị bệnh. Bà vẫn sinh hoạt đều đặn, không hề bị cảm lạnh. Nhưng bà quyết định không gọi điện xin hoãn lại, mà giữ đúng hẹn khám.
Phòng mạch nằm không xa nhà hát thành phố. Bà không dùng xe mà đi bộ đến đó. Trời không có gió, lạnh và trong veo. Đợt tuyết rơi mấy ngày trước đến nay đã bắt đầu tan. Bà dừng lại trước một tủ kính bày hàng, ngắm nhìn bộ trang phục phụ nữ. Cái giá của nó làm bà giật mình. Với số tiền đó bà có thể mua được mấy chai rượu nho loại ngon.
Trên trang nhất tờ báo để trên bàn trong phòng chờ có đăng tin mới về vụ thảm sát ở Hälsingland. Bà chưa kịp đọc đã được gọi vào phòng khám. Bác sĩ là một người đàn ông đã nhiều tuổi làm cho bà nhớ đến những nét ở ông thẩm phán vừa là sếp vừa là đồng nghiệp trước đây của bà. Bà đến khám bệnh ở chỗ ông đã được hơn mười năm nay qua một đồng nghiệp giới thiệu. Ông hỏi bà thấy trong người thế nào, có được khỏe không, có hay bị đau thắt cơ không, và sau khi nghe bà trả lời, ông bảo bà sang phòng cô y tá để lấy mẫu máu. Xong việc bà trở lại phòng chờ. Tờ báo vừa rồi đã có một bệnh nhân mới đến đang cầm đọc. Birgitta Roslin nhắm mắt lại chờ đợi. Bà nghĩ đến gia đình mình, cố gắng hình dung xem mỗi người đang làm gì vào lúc này, hoặc ít ra thì cũng đang ở đâu. Staffan đang có mặt trên con tàu chạy về Hallsberg. Ông ấy sẽ về nhà muộn. David đang làm việc trong phòng thí nghiệm ở AstraZeneca gần Göteborg. Còn Anna hiện đang có mặt ở đâu thì thật khó nói. Theo như lần cuối bà nhận được tin tức của con gái đã cách đây vài tháng thì nó đang ở Nepal. Hai cô con gái song sinh thì đang ở Lund và mong muốn bà đến thăm chúng.
Bà thiu thiu ngủ thiếp đi và giật mình tỉnh dậy khi cô y tá giúp việc bác sĩ vỗ nhẹ lên vai bà.
– Bà có thể vào phòng của bác sĩ.
Mình đâu đã kiệt sức đến mức phải ngủ gật trong phòng đợi, Birgitta Roslin thầm nghĩ khi đi vào phòng bác sĩ rồi ngồi xuống ghế.
– Kết quả xét nghiệm máu của bà không hoàn toàn ổn, ông bác sĩ lên tiếng. Số lượng hồng cầu quá thấp. Chúng ta có thể tìm cách khắc phục nó bằng thuốc bổ sung sắt.
– Sau đó nghĩa là tôi sẽ không bị thiếu hồng cầu nữa? Và ngoài vấn đề này ra, tôi không sao chứ?
– Tính đến giờ, tôi đã theo dõi bà được nhiều năm. Trên khuôn mặt bà, người ta có thể nhận thấy rất rõ cảm giác mệt mỏi mà bà có nhắc đến, xin thứ lỗi vì tôi nói thẳng như vậy.
– Ông nói vậy nghĩa là thế nào?
– Huyết áp của bà quá cao. Có lẽ bà đã làm việc quá sức. Bà ngủ có ngon giấc không?
– Tôi nghĩ là có, nhưng thường hay bị thức giấc.
– Cảm giác chóng mặt?
– Không.
– Sợ sệt?
– Vâng.
– Thường xuyên?
– Đôi khi thậm chí tôi bị hoảng loạn. Lúc đó tôi phải tựa người vào tường, vì tôi nghĩ nếu không làm thế sẽ ngã mất. Hoặc có thể trái đất này sẽ sụp đổ.
– Tôi sẽ viết giấy nghỉ ốm cho bà. Bà cần phải được nghỉ ngơi. Các chỉ số của bà cần phải được tốt hơn, nhất là huyết áp phải được ổn định. Điều này chúng tôi cần phải kiểm tra kỹ hơn.
– Ông không thể viết giấy nghỉ ốm cho tôi được. Tôi còn quá nhiều việc phải làm.
– Chính vì lẽ đó đấy.
Bà nhìn ông dò hỏi:
– Nghiêm trọng đến thế sao?
– Đủ để phải điều trị.
– Tôi có cần phải lo ngại không?
– Nếu như bà không làm theo những gì tôi nói, thì có đấy. Trường hợp khác thì không.
Vài phút sau, Birgitta Roslin đã ở trên phố và ngạc nhiên nghĩ mình không được làm việc trong hai tuần tới. Ông bác sĩ đã khiến cuộc sống của bà bị xáo trộn theo cách đầy bất ngờ.
Bà đến nơi làm việc và nói chuyện với Hans Mattsson, cấp trên của mình. Họ cùng nhau tìm được một giải pháp, cách giải quyết với hai phiên tòa mà Birgitta Roslin phải tiến hành. Sau đó, bà nói chuyện với nữ thư ký của mình, gửi đi vài bức thư còn đang đợi, rồi bà đến hiệu thuốc và trở về nhà.
Bà ăn bữa trưa rồi sau đó ngồi xuống ghế sofa, lấy báo ra đọc. Đã hơn bốn ngày mà vẫn chưa thấy đăng tên của những người chết ở Hesjövallen. Một cảnh sát hình sự có tên là Sundberg lên tiếng kêu gọi cộng đồng cung cấp cho cảnh sát bằng chứng. Cho đến nay, người ta vẫn chưa có được những dấu vết cụ thể. Dù khó có thể tin được nhưng đến giờ người ta vẫn cho rằng không có nhiều thủ phạm tham gia vụ thảm sát này.
Ở một đoạn khác là ý kiến của một công tố viên tên là Robertsson. Cuộc điều tra được tiến hành trên diện rộng và khách quan. Cảnh sát Hudiksvall yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan trung ương và đã nhận được sự hỗ trợ.
Robertsson gây một ấn tượng chắc thắng: "Chúng tôi sẽ bắt được kẻ gây án. Chúng tôi không đầu hàng."
Bài báo tiếp theo nói về nỗi sợ hãi đang lan rộng trong các khu rừng Hälsingland. Ở vùng này, có nhiều làng ít người sinh sống. Nghe nói mọi người ở đó đã sắm vũ khí, nuôi chó, lắp đặt thiết bị báo động và chặn cửa bằng chướng ngại vật.
Birgitta Roslin đặt tờ báo sang bên cạnh. Ngôi nhà trống trải, lặng im. Cảnh nhàn rỗi bất ngờ của bà như đến từ cõi hư vô. Bà đi xuống hầm lấy lên một cuốn catalog rượu vang. Bà đặt qua mạng một thùng Barolo Arione đã chọn. Thực ra đối với bà đây cũng là một khoản tiền lớn, nhưng bà muốn tự cho phép mình hưởng thụ một chút. Sau đó bà dự định dọn dẹp nhà cửa, việc mà bà hầu như không đủ thời gian để làm. Nhưng khi lấy máy hút bụi ra, bà lại nghĩ khác. Bà ngồi xuống bên bàn bếp suy nghĩ mình nên làm gì. Bà được nghỉ ốm mà lại không ốm thật. Bác sĩ đã kê đơn cho bà ba loại thuốc viên khác nhau để hạ huyết áp và cải thiện các chỉ số. Bà phải thừa nhận rằng bác sĩ đã thấy vấn đề của bà rõ hơn là bà dám tự thân nhìn nhận. Thực sự bà không còn cách xa hội chứng suy nhược trầm trọng là mấy. Việc ngủ không ngon giấc, cảm giác sợ hãi hoảng loạn đôi khi tấn công bà rất có thể sẽ có lần xuất hiện khi bà đang ngồi trên ghế thẩm phán: gây ra cho bà những vấn đề lớn hơn là những gì cho đến nay bà thừa nhận.
Birgitta Roslin nhìn mấy tờ báo nằm trên bàn và tiếp tục nghĩ đến mẹ và thời trẻ của bà ấy. Bỗng nhiên một ý nghĩ đến với bà. Bà kéo máy điện thoại về phía mình rồi gọi đến sở cảnh sát đề nghị cho nối máy nói chuyện với thanh tra Hugo Malmberg. Hai người quen biết nhau đã nhiều năm nay.
Birgitta Roslin nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng của ông trong ống nghe. Một khi người ta hình dung ra cảnh sát thường gắt gỏng như thế nào thì thật sự Hugo Malmberg không phù hợp với sự chờ đợi. Ông giống như người đã về hưu, ngồi trên ghế băng cho chim ăn hơn là một cảnh sát.
Bà hỏi thăm sức khỏe của ông và muốn biết ông có thời gian gặp bà một chút hay không.
– Về vụ nào vậy?
– Chẳng vụ nào cả. Ít ra thì cũng không phải là vụ liên can đến chúng ta. Vấn đề chỉ ở chỗ, anh có thời gian không?
– Một cảnh sát nghiêm túc với nghề nghiệp và nói có thời gian thì có nghĩa là anh ta nói dối. Nhưng khi nào thì chị qua chỗ tôi được?
– Tôi sẽ đi bộ từ nhà đến chỗ anh. Khoảng một tiếng đồng hồ nữa.
– Tôi chờ chị.
Khi Birgitta Roslin bước vào phòng làm việc của Hugo Malmberg, thì cũng là lúc ông đang nói chuyện điện thoại. Ông ra hiệu cho bà ngồi. Bà nghe cuộc trao đổi của ông liên quan đến vụ đánh người gây thương tích xảy ra vào ngày hôm qua. Có thể vào một lúc nào đó vụ này sẽ "hạ cánh" ở chỗ mình cũng nên, bà thầm nghĩ. Chừng nào mình uống hết các viên sắt, huyết áp tụt xuống và mình lại có thể làm việc.
Cuộc điện thoại kết thúc. Hugo Malmberg vui vẻ cười với bà:
– Chị uống cà phê nhé?
– Tốt hơn là không.
– Chị nói thế là thế nào?
– Cà phê ở sở cảnh sát chỗ anh chắc cũng chẳng ngon nghẻ gì như ở chỗ chúng tôi.
Ông đứng dậy:
– Chúng ta sang bên phòng họp, ông nói. Ở đây, điện thoại réo không ngừng. Giống như mọi cảnh sát Thụy Điển khác, tôi cũng có cảm giác rằng chỉ có mình tôi là thực sự làm việc.
Hai người ngồi vào bên chiếc bàn bầu dục, trên đó còn ngổn ngang đủ loại cốc uống nước bằng giấy bồi và vỏ chai nhựa. Malmberg lắc đầu vẻ không tán thành.
– Mọi người không bao giờ thu dọn sạch sẽ khi họ rời khỏi phòng họp. Người ta ngồi trao đổi công việc, họp hành với nhau và sau đó thì bỏ lại tất cả mọi thứ không còn dùng đến nữa ở trên bàn. Nào, tôi có thể giúp gì chị đây?
Birgitta Roslin kể lại cho ông nghe về phát hiện của mình, rằng hình như có một mối liên hệ lờ mờ nào đó giữa bà với vụ thảm sát mới xảy ra.
– Tóm lại là tôi tò mò, bà nói. Qua báo chí và truyền hình, người ta chỉ được biết có nhiều người bị chết và cảnh sát chưa lần ra được dấu vết nào.
– Tôi phải thú nhận rằng tôi thấy mừng vì không phải làm nhiệm vụ ở đó. Sự kiện này thật khủng khiếp đối với những đồng nghiệp của tôi ở đó. Chưa bao giờ tôi được nghe về một vụ tương tự như vậy. Sẽ ầm ĩ đấy. Đây là vụ lớn, chỉ xếp sau vụ thủ tướng Palme bị sát hại.
– Anh có biết gì hơn những điều báo chí đã đưa tin không?
– Có lẽ ở đất nước này, không có một cảnh sát nào lại không muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Chúng tôi trao đổi với nhau về vụ này trong hành lang. Mọi người ai cũng có giả thuyết riêng. Đó là một chuyện huyễn hoặc mà cảnh sát chúng tôi không tưởng tượng ra được một cách hợp lý và theo nguyên tắc. Lập tức chúng tôi bắt đầu phỏng đoán cái gì đã xảy ra.
– Còn anh tin vào cái gì?
Ông nhún vai và ngẫm nghĩ một lúc trước khi trả lời.
– Tôi không biết nhiều hơn chị. Đó là nhiều người chết, là tàn bạo. Nhưng không một thứ gì bị lấy đi, nếu như tôi nhìn nhận đúng. Có thể một kẻ bệnh hoạn đã làm chuyện này. Về những gì ẩn sau sự điên khùng ấy, người ta chỉ có thể phỏng đoán. Tôi cho rằng các đồng nghiệp ở trên đó đang tìm kiếm trong bọn bạo hành nổi tiếng có kẻ nào mắc chứng rối loạn tâm thần hay không. Chắc chắn họ đã có liên lạc với Interpol hoặc Europol để giúp tìm ra dấu vết. Nhưng việc này sẽ mất thời gian. Ngoài ra tôi hoàn toàn không biết gì nữa.
– Anh quen biết nhiều cảnh sát trong nước. Anh có quan hệ với người nào trên Hälsingland không? Một ai đó mà tôi có thể gọi điện thoại đến được?
– Tôi đã có lần gặp sếp của họ, Malmberg nói. Một người có tên là Ludwig. Nói thật là anh ta không gây cho tôi một ấn tượng nào đặc biệt. Chị cũng biết là tôi hay hoài nghi những công chức cảnh sát chưa bao giờ có mặt ở hiện trường. Nhưng dù sao tôi cũng sẽ gọi điện và hỏi han anh ta.
– Tôi hứa sẽ không quấy rầy ai một cách không cần thiết. Tôi chỉ muốn biết, có phải bố mẹ nuôi của mẹ tôi đã chết không, hay đó là con của họ. Hoặc tôi đã hoàn toàn nhầm lẫn.
– Đó là một lý do hợp lý. Tôi sẽ xem mình có thể làm được gì. Còn bây giờ chị phải thứ lỗi cho tôi. Tôi có một cuộc thẩm cung không mấy vui vẻ với một gã bạo hành.
Buổi tối bà kể cho Staffan nghe chuyện đã xảy ra. Ông vồn vã bảo rằng bác sĩ đã làm đúng và có lẽ bà nên hưởng thụ một chuyến du lịch về phương Nam. Sự thiếu quan tâm của ông làm cho bà thấy tủi thân. Nhưng bà không hề nói gì.
Hôm sau, ngay trước bữa trưa, lúc Birgitta Roslin ngồi bên máy tính, nhấn chuột tìm các mục mời chào du lịch, thì nghe có tiếng chuông điện thoại.
– Tôi đã có một cái tên cho chị, Hugo Malmberg nói. Đó là Sundberg, một nữ thanh tra hình sự.
– Tôi đã đọc thấy cái tên này trong các báo. Nhưng tôi không biết đó lại là một phụ nữ.
– Tên của bà ấy là Vivian, gọi tắt là Vivi. Ludwig bảo sẽ nói cho bà ấy biết tên của chị để bà ấy biết chị là ai, một khi chị gọi điện thoại đến. Tôi có số điện thoại rồi.
– Tôi ghi đây.
– Tôi đã hỏi công việc của họ tiến triển ra sao. Họ vẫn chưa có được dấu vết nào. Không còn nghi ngờ gì nữa, vụ này có liên quan đến một kẻ điên khùng. Ludwig đã nói như vậy.
Bà nhận ra vẻ hoài nghi của Malmberg trong câu nói cuối cùng.
– Nhưng anh không tin Ludwig?
– Tôi hoàn toàn không tin. Nhưng tối hôm qua tôi đã lục lọi trên mạng. Trong vụ này có một cái gì đó rất kỳ lạ.
– Anh nói cái gì lạ là sao?
– Nó đã được lên kế hoạch rất chu đáo.
– Ngay cả những kẻ điên khùng vẫn có thể chuẩn bị rất tốt cho các tội ác của chúng.
– Tôi không muốn nói như vậy. Đúng ra đây chỉ là cảm giác của tôi: theo một cách nào đấy, mọi chuyện quá điên, nên khó có thể là thật được. Nếu như ở vị trí của họ, tôi sẽ suy nghĩ về điều này, liệu hung thủ có tìm cách ngụy trang hành động của mình như là hành động của một kẻ điên không.
– Thế là thế nào?
– Tôi không biết. Chẳng phải chị là người sẽ gọi điện báo cho họ biết chị là người nhà của một trong những gia đình nạn nhân đó hay sao?
– Cảm ơn sự giúp đỡ của anh. À, có thể tôi sẽ đi xuống phía Nam. Anh đã có lần nào đến Tenerife chưa?
– Chưa bao giờ. Chúc chị may mắn!
Birgitta Roslin lập tức gọi điện vào số máy mà bà đã ghi lại. Hộp thư trả lời tự động yêu cầu người gọi để lại tin nhắn. Bà bắt đầu cảm thấy không yên. Bà lại cầm lấy máy hút bụi mà không quyết định nổi mình có bắt tay vào dọn dẹp hay không. Bà trở lại bên chiếc máy tính và sau khoảng một tiếng đồng hồ, bà quyết định đi Tenerife, khởi hành hai ngày sau ở Copenhagen. Bà lục ra tập bản đồ thời học trò và bắt đầu e dè mơ đến biển xanh cùng nho Tây Ban Nha.
Có lẽ mình cần đến những thứ đó, bà thầm nghĩ. Một tuần lễ không có Staffan, không có các bản án, không có cả những ngày làm việc trong tuần. Mình không có tài trong việc phân tích nội tâm, nhưng đến tuổi này rồi, mình cũng có khả năng nhìn nhận khá rõ về bản thân để biết nó khiếm khuyết ở đâu và thay đổi hướng đi như thế nào. Khi còn trẻ, mình thường mơ mộng sẽ là người phụ nữ đầu tiên giong thuyền buồm đi vòng quanh thế giới. Ước mơ này không thực hiện được. Nhưng bất luận thế nào, mình vẫn còn nhớ được một vài khái niệm hàng hải và biết cách cho con thuyền của mình lách qua những luồng hẹp. Có thể mình cần đến một vài ngày ngược xuôi trên eo Oresund hoặc qua một bãi biển ở Tenerife để tự hỏi xem liệu có phải tuổi già đã đến hay mình vẫn có thể tự thoát khỏi đầm lầy. Mình đã vượt qua thời kỳ mãn kinh nhưng mình không rõ chuyện gì đang xảy ra với mình lúc này. Mình sẽ cố tìm ra nó. Nhưng trước hết mình phải biết, liệu huyết áp của mình, những cơn sợ hãi của mình có liên quan đến Staffan hay không. Chuyện này không thể kéo dài lâu hơn nữa, nhất thiết cả hai cùng phải đưa cuộc sống vợ chồng ra khỏi tình trạng trì trệ hiện nay.
Bà lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho chuyến đi của mình. Vì gặp khó khăn trong việc đăng ký trực tuyến, nên bà gửi qua email tên tuổi, số điện thoại và nơi mình định đến. Lập tức bà nhận được trả lời: Trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, sẽ có người liên lạc với bà.
Một tiếng đồng hồ sắp qua thì điện thoại của bà đổ chuông. Nhưng đó không phải là cuộc điện thoại của văn phòng du lịch.
– Tôi là Vivi Sundberg. Tôi muốn nói chuyện với bà Birgitta Roslin.
– Tôi đây.
– Tôi được thông báo cho biết về bà. Nhưng tôi không biết chính xác là bà muốn hỏi về việc gì. Như bà có thể hình dung ra, ở đây chúng tôi có nhiều việc phải làm. Bà là thẩm phán?
– Đúng vậy. Tôi xin nói ngắn gọn. Mẹ của tôi, bà đã qua đời từ lâu, được một gia đình mang họ Andrén nhận làm con nuôi. Tôi đã nhìn thấy những tấm ảnh cho thấy mẹ tôi từng sống trong một ngôi nhà ở nơi xảy ra vụ thảm sát.
– Tôi không phụ trách việc báo tin cho người thân của nạn nhân. Tôi đề nghị bà nói chuyện với ông Erik Huddén.
– Nhưng trong làng có những người mang họ Andrén phải không?
– Thực tế gia đình Andrén là gia đình lớn nhất trong làng.
– Tất cả đã chết ư?
– Về việc này tôi không trả lời bà được. Bà có biết tên riêng cha mẹ nuôi của mẹ bà không?
Cặp đựng giấy tờ ở ngay bên cạnh Roslin. Bà mở ra và bắt đầu tìm trong đó.
– Tôi không thể chờ được, Vivi Sundberg nói. Bà hãy gọi lại khi nào tìm thấy tên của họ.
– Tôi đã thấy rồi. Brita và August Andrén. Họ hẳn đã ngoài chín mươi. Có thể là chín mươi lăm tuổi.
Một lúc sau, Sundberg mới trả lời. Birgitta Roslin nghe có tiếng giấy sột soạt.
– Tôi đã có tên của họ, đáng tiếc là cả hai người đã chết. Người lớn tuổi hơn năm nay chín mươi sáu. Tôi đề nghị bà không cung cấp thông tin này cho báo chí.
– Vì sao tôi lại phải làm việc đó?
– Bà là thẩm phán. Hẳn bà biết đôi khi sự việc sẽ diễn biến như thế nào. Và tại sao tôi lại đề nghị bà như vậy.
Birgitta Roslin biết rất rõ điều ấy. Bà thường hay nói chuyện với các đồng nghiệp của mình về việc họ hãn hữu hoặc không bao giờ bị các nhà báo quấy rầy, vì cánh nhà báo hầu như không tính đến khả năng nhận được từ các thẩm phán những thông tin cần phải giữ bí mật.
– Thế cuộc điều tra tiến triển đến đâu rồi? Birgitta đánh liều hỏi.
– Tất cả chúng tôi đáng tiếc đều không có thời gian để trả lời từng câu hỏi của cá nhân bà. Ở đây, chúng tôi đang bị các cơ quan truyền thông đại chúng bao vây. Nhiều người không tôn trọng lấy một lần đến rào cản của chúng tôi. Thậm chí hôm qua chúng tôi còn thấy một người đàn ông cầm máy ảnh trong một ngôi nhà ở đây. Đề nghị bà liên hệ với ông Huddén, bà có thể gọi điện đến Hudiksvall để gặp được ông ấy.
Giọng nói của Vivi Sundberg nghe ra đã có vẻ hết kiên nhẫn và bực bội. Birgitta Roslin hiểu được tâm trạng của Vivi. Bà nhớ lại lời nói của Hugo Malmberg rằng ông biết ơn vì mình không nằm ở trung tâm của cuộc điều tra.
– Cảm ơn bà đã gọi điện cho tôi. Tôi sẽ không tiếp tục quấy rầy bà nữa.
Cuộc trao đổi kết thúc. Birgitta Roslin nghĩ lại những điều mình đã nói. Bây giờ bà đã chắc chắn được rằng bố mẹ nuôi của mẹ bà nằm trong số những người bị giết hại. Bà cũng như người thân của những nạn nhân khác cần phải kiên nhẫn, trong khi cảnh sát làm việc.
Bà suy nghĩ không biết có nên gọi điện đến sở cảnh sát ở Hudiksvall để liên hệ với người đàn ông có tên là Erik Huddén hay không. Nhưng liệu người đó có thể cho bà biết thêm được gì khác? Bà quyết định từ bỏ ý định này. Thay vì thế, bà bắt đầu đọc kỹ những giấy tờ của bố mẹ để trong chiếc cặp bìa giấy cứng. Đã bao nhiêu năm trôi qua kể từ lần cuối bà mở nó ra. Trong cặp này có những tài liệu mà thậm chí bà còn chưa đọc.
Bà phân loại giấy tờ trong cặp ra làm ba chồng. Một chồng gồm những chuyện của người cha đã yên nghỉ trong vịnh Gävle. Dưới làn nước lợ của biển Baltic, hài cốt của ông không bị phân hủy ngay, nó nằm đâu đó dưới đáy biển, trong bùn đất. Chồng thứ hai đề cập đến cuộc sống chung của cha mẹ, trước và sau khi bà ra đời. Cuối cùng, còn lại xấp dày nhất nói về Gerda Lööf, người con gái sau này mang họ Andrén. Bà từ từ đọc qua hết những ghi chép này. Khi đọc đến những tài liệu nói về thời gian mẹ trở thành con nuôi của gia đình Andrén, bà đọc chậm hơn. Nhiều trang giấy đã úa vàng, thậm chí soi kính lúp vẫn thấy khó đọc.
Bà lấy ra một cuốn sổ, ghi lại những cái tên và ngày tháng.Bà được sinh ra vào năm 1948. Ngày đó mẹ của bà mới mười tám tuổi. Trong số giấy tờ này bà cũng tìm thấy ngày sinh của August và Brita. Bà Brita sinh vào tháng Tám năm 1909, còn ông August sinh vào tháng Mười hai năm 1910. Như vậy, khi hai người ở tuổi hai mươi mốt và hai mươi hai, thì Gerda ra đời và làm con nuôi của họ khi họ gần ba mươi tuổi.
Bà hoàn toàn không phát hiện được điều gì cho thấy họ đã sống ở Hesjövallen, nhưng tấm ảnh mà bà so sánh lại một lần nữa với tấm ảnh in trong báo đã thuyết phục bà. Nó không thể là một sự nhầm lẫn được.
Bà bắt đầu nhìn kỹ những người đứng thẳng và cứng đơ tạo dáng để chụp trong tấm ảnh. Trong đó có hai người còn trẻ, một đàn ông và một đàn bà, đứng hơi chếch sang một bên, bên cạnh là một cặp đã có tuổi đứng ở giữa. Phải chăng đó là Brita và August? Phía sau tấm ảnh không có ghi chú cũng không ghi ngày tháng. Bà tìm cách xác định tấm ảnh được chụp khi nào. Những bộ quần áo họ mặc trên người nói lên được điều gì? Những người trong tấm ảnh ăn mặc rất diện, nhưng họ sống ở nông thôn, nơi một bộ com lê theo con người ta suốt cả cuộc đời.
Bà gạt tấm ảnh sang một bên rồi tiếp tục đọc các bức thư và các tài liệu khác. Năm 1942, Brita được đưa đến bệnh viện ở Hudiksvall vì bệnh đau dạ dày. Gerda viết thư cho bà, chúc bà chóng khỏi bệnh. Ngày đó Gerda mới mười hai tuổi, chữ viết còn cứng. Một vài câu viết sai, bên lề bức thư được trang trí một bông hoa cánh không đều.
Birgitta Roslin xúc động khi thấy bức thư này và ngạc nhiên vì sao trước đây mình chưa từng nhìn thấy nó. Nó được kẹp trong một bức thư khác. Nhưng vì sao bà lại chưa khi nào mở nó ra? Phải chăng vì nỗi buồn sau cái chết của Gerda mà một thời gian rất lâu bà không muốn động đến bất cứ một cái gì có thể gợi nhớ tới mẹ?
Bà ngả người tựa ra sau ghế và nhắm mắt lại. Bà biết ơn mẹ về tất cả. Gerda, bản thân chưa từng học hết chương trình tiểu học, đã không mệt mỏi thúc đẩy con gái mình tiếp tục học hết đại học. Bây giờ đến lượt chúng ta, mẹ bà đã nói vậy. Bây giờ đã đến lúc con cái của giai cấp công nhân có cơ hội theo học ở các trường đại học. Điều này Birgitta Roslin đã làm được. Đó là trong những năm 1960, cách đó không lâu, chỉ có con cái các gia đình tư sản mới vào được các trường đại học. Giao du với các nhóm cánh tả cấp tiến đã trở thành một điều hiển nhiên với bà. Người ta sống không chỉ để hiểu, mà còn để thay đổi.
Bà lại mở mắt. Sự việc diễn biến không như mình nghĩ, bà tự nhủ. Tuy đã trở thành luật gia, nhưng mình đã từ bỏ quan điểm cấp tiến của mình mà không thực sự biết vì sao. Ngay cả bây giờ, khi đã gần sáu mươi, bà cũng chưa một lần dám tự hỏi cuộc đời mình đã thành ra thế nào rồi.
Bà lại xem tiếp tài liệu. Đây lại là một bức thư nữa. Chiếc phong bì màu xanh nhạt đã bạc màu được đóng dấu bưu điện Mỹ. Những dòng chữ rất nhỏ được viết kín trên tờ giấy mỏng. Bà xoay đèn bàn rọi lên bức thư cho sáng và bắt đầu đọc từng chữ qua chiếc kính phóng đại. Bức thư được viết bằng tiếng Thụy Điển, nhưng kèm theo khá nhiều từ tiếng Anh. Một người có tên Gustaf kể về công việc làm chủ trại chăn nuôi lợn của mình. Đứa con của ông ta tên là Emily vừa mới qua đời, trong nhà tràn đầy "sorrow lớn". Ông ta muốn biết ở Hälsingland hiện nay ra sao, gia đình như thế nào, rồi về mùa màng, gia súc. Bức thư đề ngày 19 tháng Sáu năm 1896.
Địa chỉ người nhận ghi ngoài phong bì: August Andrén, Hesjövallen, Thụy Điển.
Nhưng ngày đó bố nuôi của mẹ mình vẫn chưa sinh, bà nghĩ. Có lẽ bức thư này gửi cho August Cha, tức là bố của bố nuôi của mẹ vì nó được lưu giữ trong gia đình Gerda. Nhưng vì sao nó lại nằm ở chỗ mình?
Ở phần cuối bức thư có ghi địa chỉ người gửi: Mr. Gustaf Andrén, Bưu điện Minneapolis, Minnesota, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Bà lại giở quyển bản đồ. Minnesota là một vùng nông thôn. Như vậy là trước đây hơn một trăm năm, một thành viên của gia đình Andrén từ Hesjövallen đã di cư đến đó.
Nhưng bà còn thấy một bức thư khác, qua đó mới biết còn có một người nữa tên là Jan August Andrén đã đến một vùng khác của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hình như ông ta tham gia xây dựng hệ thống đường sắt nối liền miền duyên hải phía Đông với phía Tây của đất nước khổng lồ này. Trong thư ông ta hỏi thăm họ hàng, những người còn sống, những ai đã chết. Nhưng bức thư có những đoạn dài không đọc được, chữ viết bị nhòe.
Địa chỉ của Jan August Andrén là: Bưu điện Reno, Nevada, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Bà tiếp tục đọc nhưng không thấy gì hơn trong chồng giấy có liên quan đến gia đình Andrén.
Bà đẩy chồng giấy sang bên cạnh, vào mạng Internet và bắt đầu tìm địa chỉ ở Minneapolis mà Gustaf Andrén đã ghi trong thư dù không mấy hy vọng. Bà chờ đợi và rơi vào ngõ cụt. Sau đó bà tìm địa chỉ ở Nevada. Bà nhận được một chỉ dẫn về một tờ báo với cái tên Reno Gazette Journal. Giữa lúc này, điện thoại đổ chuông. Đó là văn phòng du lịch. Một thanh niên trẻ vui vẻ, giọng Đan Mạch, nói với bà mọi chi tiết của chuyến du lịch, miêu tả các khách sạn. Bà không do dự, đồng ý cho đăng ký tạm thời và hứa đến sáng hôm sau sẽ xác nhận.
Bà lại tìm cách nhấn chuột lên địa chỉ Reno Gazette Journal một lần nữa. Ở mép bên phải trang chủ có một loạt các chủ đề cùng các bài báo mà bà có thể lựa chọn. Khi định nhấn bỏ qua thì bà chợt nhớ ra là mình đã gõ cả cái tên Andrén cùng với tên tờ báo này vào ô tìm kiếm. Phải có một mối liên quan nào đó giữa cái tên này và tờ báo. Vậy nên bà bắt đầu đọc lần lượt tất cả các mục trên trang báo.
Bà giật nẩy mình khi trang báo ấy xuất hiện trên màn hình. Thoạt đầu bà đọc mà không hiểu gì cả, rồi đọc lần thứ hai, từ từ và hoài nghi. Bà đứng dậy, lùi xa máy tính một vài mét. Nhưng bài viết và những tấm ảnh trong đó không biến mất.
Bà in chúng ra và cầm theo vào phòng bếp. Bà từ từ đọc lại tất cả một lần nữa.
Ngày 4 tháng Giêng ở Ankersville, một thành phố nhỏ nằm ở phía Đông Bắc Reno đã xảy ra một vụ giết người dã man. Vào buổi sáng, người hàng xóm phát hiện thấy ông chủ xưởng cơ khí cùng toàn bộ gia đình của ông ta đã chết, ông lấy làm lạ vì thấy xưởng này không mở cửa như thường lệ. Cảnh sát không tìm ra được dấu vết. Nhưng sự việc thì đã quá rõ ràng, toàn bộ gia đình Andrén, Jack, vợ của ông ta, bà Connie, cùng hai đứa con Steven và Laura bị chém chết bằng dao, kiếm. Không có hiện tượng cho thấy đây là một vụ trộm, cướp, không có lấy một động cơ. Gia đình ông Andrén được mọi người quý mến và không có kẻ thù. Cảnh sát hướng sự truy tìm vào những đối tượng mắc bệnh tâm thần hoặc những kẻ nghiện ngập trong tình thế tuyệt vọng đã gây ra hành động khủng khiếp này.
Bà ngồi im lặng ở đó. Tiếng ồn ào của chiếc xe chở rác từ bên ngoài lọt qua cửa sổ vào trong nhà.
Đó không phải là một kẻ điên khùng, bà nghĩ. Cảnh sát ở Hälsingland cũng lầm lẫn y hệt cảnh sát ở Nevada. Đó là một thủ phạm quỷ quyệt - nếu không phải là nhiều thủ phạm - biết rõ hắn phải làm gì.
Lần đầu tiên bà cảm thấy một nỗi sợ hãi ngấm ngầm, như thể mình đang bị theo dõi mà không hay biết.
Bà đi ra ngoài hành lang, kiểm tra xem cửa nhà đã được khóa lại chưa. Rồi bà lại ngồi vào bên máy tính và tìm những bài báo trước đó trong Reno Gazette Journal.
Chiếc xe chở rác đã biến mất. Bóng tối đã phủ lên buổi chiều muộn.