Người Đàn Ông Đến Từ Bắc Kinh – Henning Mankell

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Nyanko, 11 Tháng mười hai 2021.

  1. Nyanko

    Bài viết:
    380
    9

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bà ngồi ăn bữa sáng vào lúc bảy giờ. Qua cửa sổ nhìn ra hồ nước, bà thấy trời đã nổi gió. Một người đàn ông kéo xe trượt tuyết, trên xe có hai đứa bé ních chặt quần áo ấm. Nhìn cảnh ấy khiến bà nhớ lại mình đã phải cố gắng như thế nào để kéo được những đứa con của mình lên đỉnh dốc. Đó là một trong những cảm giác lạ lùng nhất trong cuộc đời, chơi đùa với các con trong tuyết giữa lúc đầu vẫn nghĩ đến những bản án phức tạp. Tiếng reo hò, cười đùa của những đứa trẻ tương phản với những tình tiết đáng sợ trong các vụ trọng án.

    Bà nhẩm tính lại trong cuộc đời làm thẩm phán, bà đã bỏ tù ba kẻ giết người có chủ định và bảy người do ngộ sát. Ngoài ra còn một loạt những kẻ cưỡng dâm và những gã đánh người gây thương tích mà chỉ là nhờ may mắn mới không chuyển thành tội giết người.

    Những ý nghĩ ấy đã khiến bà cảm thấy bất an. Đong đếm cuộc sống của bà chỉ dựa trên số lượng những kẻ sát nhân bị bà bỏ tù: phải chăng đó thực sự là kết quả những cố gắng của bà?

    Đã hai lần bà bị đe dọa. Lần đầu, cảnh sát Helsingborg cho rằng cần phải bố trí người bảo vệ bà. Việc này có liên quan đến một kẻ buôn bán ma túy đã có tiền án sử dụng xe máy để trấn lột. Ngày đó các con bà còn nhỏ. Đó là một quãng thời gian khó khăn cho cuộc sống gia đình bà: hầu như không có ngày nào là bà và Staffan không to tiếng với nhau.

    Trong khi ăn bà tránh nhìn vào những tờ báo hẳn đã được lợi trong vụ ở Hesjövallen. Thay vào đó, bà cầm lấy tờ báo kinh tế, lơ đãng giở các trang: thị trường chứng khoán, số lượng phụ nữ trong hội đồng quản trị của các công ty Thụy Điển. Trong phòng ăn không có nhiều người. Bà lấy thêm cốc cà phê thứ hai và nghĩ liệu có nên chọn đường khác để trở về nhà không. Có thể theo hướng Tây, qua các khu rừng của Värmland?

    Bỗng nhiên có ai đó nói với bà. Một người đàn ông ngồi một mình ở chiếc bàn không quá xa bà.

    – Ông nói với tôi à?

    – Tôi chỉ muốn biết Vivi Sundberg đã muốn gì ở bà?

    Bà không biết người đàn ông này và không hiểu rõ ông ta vừa nói gì. Trước khi bà kịp trả lời, ông ta đứng lên đi đến bàn của bà. Ông ta kéo một chiếc ghế và ngồi xuống mà không cần hỏi liệu bà có đồng ý hay không.

    Người đàn ông có mái tóc màu lửa, cỡ chừng sáu mươi tuổi, to béo và cơ thể bốc mùi.

    Bà thấy bực và lập tức bảo vệ lãnh thổ của mình.

    – Tôi muốn được yên lặng ăn xong bữa sáng.

    – Thì bà đã ăn sáng xong rồi. Tôi chỉ muốn đặt một vài câuhỏi.

    – Tôi không hề biết ông là ai.

    – Lars Emanuelsson, phóng viên. Không phải một tay bồi bút. Tôi còn khá hơn họ. Tôi không viết những chuyện ngồi lê đôi mách. Các bài của tôi đều được viết kỹ lưỡng và có phong cách.

    – Điều này còn lâu mới đủ cho ông cái quyền quấy rầy tôi trong bữa ăn sáng.

    Lars Emanuelsson đứng dậy ngồi vào bàn bên cạnh.

    – Thế này tốt hơn chứ?

    – Vâng, tốt hơn. Và ông viết bài cho ai?

    – Điều này thì tôi còn chưa quyết định. Trước tiên tôi cứ viết ra giấy đã, rồi mới quyết định ai là người nhận được nó. Tôi không tùy tiện bán cho bất kỳ ai.

    Kiểu khoe khang khoác lác của ông ta càng lúc càng khiến bà bực mình. Ngoài ra bà còn ngửi thấy mùi ở ông ta, cái mùi lâu ngày không tắm rửa. Ông ta như bức hí họa một nhà báo hay quấy rối.

    – Tôi được biết hôm qua bà đã nói chuyện với bà Vivi Sundberg. Đó không phải là một cuộc trao đổi thân tình đặc biệt. Hai nữ đối thủ ngờ vực lẫn nhau. Tôi nhầm chăng?

    – Phải đấy. Ông đã nhầm. Tôi không có gì để nói với ông.

    – Nhưng bà không thể chối cãi là đã nói chuyện với bà ấy chứ?

    – Điều này tôi cũng không làm.

    – Tôi tự hỏi một nữ thẩm phán từ Helsingborg làm gì ở đây? Bà có liên quan gì đến cuộc điều tra? Trong một làng nhỏ heo hút ở phía Bắc đã xảy ra những điều khủng khiếp và Birgitta Roslin phóng xe từ Helsingborg đến đây.

    Bà giật nẩy mình.

    – Ông muốn gì? Do đâu mà ông biết tôi là ai?

    – Đó là chuyện phương pháp. Cả cuộc đời người ta tìm kiếm phương cách tốt nhất để đạt được mục đích của mình. Tôi cho rằng với một thẩm phán thì cũng tương tự thế thôi. Các quy tắc, sắc lệnh, đạo luật và pháp chế là một chuyện. Nhưng mỗi người đều có phương pháp của riêng mình. Tôi không còn biết mình đã viết về bao nhiêu cuộc điều tra hình sự nữa. Một năm trời, tính chính xác là ba trăm sáu mươi sáu ngày, tôi đã theo dõi cuộc điều tra vụ Olof Palme. Tôi đã sớm biết rằng sẽ không bao giờ tóm được kẻ giết người, vì cuộc điều tra đã thất bại trước cả khi nó bắt đầu. Cảnh sát và các công tố viên chịu trách nhiệm vụ đó chỉ tìm cách vênh vang trước các kênh truyền hình. Ngày đó có rất nhiều người cho rằng kẻ giết người là Christer Pettersson. Cho tới khi có một số điều tra viên thông minh nhận ra rằng ông ta không phải là hung thủ, bất luận ở phương diện nào. Nhưng chẳng có ai thèm nghe họ. Còn tôi thì dù gì cũng chỉ muốn đứng ngoài lề, đi vòng xung quanh hết thảy. Như thế có thể phát hiện ra được những điều mà người khác không thấy. Ví dụ như một nữ thẩm phán được một nữ cảnh sát ghé thăm - trong khi, nói chính xác ra, bà ta không có thời gian dành cho việc gì khác ngoài vụ điều tra mà bà ta phải làm việc hai mươi tư trên hai mươi tư giờ cho nó. Bà đã trao cho bà ấy cái gì?

    – Tôi không trả lời câu hỏi này.

    – Vậy thì tôi có thể cắt nghĩa việc đó như thế này: bà đã nhúng sâu vào chuyện này. Tôi có thể chạy một hàng tít lớn: "Nữ thẩm phán từ Scanie dính líu vào thảm kịch ở Hesjövallen."

    Bà uống cạn tách cà phê rồi đứng dậy. Ông ta đi theo bà đến quầy lễ tân.

    – Một khi bà cho tôi cái gì đó, tôi sẽ đền đáp lại bà.

    – Tôi tuyệt đối không có gì để nói với ông. Không phải vì tôi có điều bí mật nào đó, mà vì tôi thật sự không có gì có thể làm cho một nhà báo quan tâm.

    Lars Emanuelsson bĩu môi:

    – Phóng viên. Không phải là nhà báo. Tôi cũng đâu có gọi bà là người "bóp méo sự thật".

    Một ý nghĩ bỗng nảy ra trong đầu bà:

    – Có phải ông là người đêm qua đã gọi điện thoại cho tôi?

    – Không phải.

    – Vậy thì dù sao tôi cũng đã được biết.

    – Điện thoại của bà đổ chuông? Vào giữa ban đêm khi bà đang ngủ? Tôi có nên quan tâm đến điều này không?

    Bà không trả lời, ấn nút gọi thang máy.

    – Có điều tôi muốn tiết lộ cho bà biết, Lars Emanuelsson nói. Cảnh sát đang giấu giếm một chi tiết quan trọng. Nếu như người ta có thể gọi một con người là một chi tiết.

    Cửa thang máy mở ra. Bà bước vào bên trong.

    – Không phải chỉ có người già bị giết. Tại một trong những ngôi nhà ở đó, người ta còn tìm thấy một đứa bé.

    Cửa thang máy khép lại. Lên đến tầng trên, bà lại ấn nút đi xuống. Ông ta vẫn chờ bà. Họ cùng ngồi xuống bên một chiếc bàn. Lars Emanuelsson châm thuốc hút.

    – Ở đây cấm hút thuốc.

    – Bà lại nói ra cái điều mà tôi không quan tâm.

    Ông ta dùng chậu hoa trên bàn làm gạt tàn.

    – Cần phải luôn tìm kiếm cái mà cảnh sát không muốn tiết lộ. Như thế ta có thể hiểu được họ nghĩ gì, họ tin sẽ tìm ra được hung thủ theo hướng nào. Trong số những người bị giết, có một cậu bé mười hai tuổi. Họ biết ai là những người họ hàng của nó và nó làm gì ở làng đó. Nhưng họ không công khai thông tin ấy.

    – Do đâu mà ông biết được điều này?

    – Đó là bí mật của tôi. Trong một cuộc điều tra hình sự, ở đâu đó luôn có một chỗ rò rỉ thông tin ra bên ngoài. Cần phải biết cách tìm kiếm nó, sau đó phải ghé sát tai vào đó.

    – Đứa bé ấy là ai?

    – Giờ thì chưa nói tên được. Tôi biết thằng bé tên là gì, nhưng tôi không có ý định cho bà biết. Nó đến thăm người bà con. Đáng lẽ ra nó phải đi học, nhưng đang được nghỉ ốm vì mổ mắt. Thằng bé đáng thương đó bị lác. Bây giờ mắt của nó đã nằm đúng vị trí. Đèn chớp đã tắt, có thể ví như thế. Vậy mà nó lại bị chém chết. Giống như hai ông bà già mà nó đến thăm. Nhưng không hoàn toàn như thế.

    – Tại sao không? Khác biệt ở chỗ nào?

    Lars Emanuelsson ngả người ra sau ghế. Cái bụng của ông ta lòi ra khỏi cạp quần. Birgitta Roslin thấy ông ta khả ố không thể tưởng được. Ông ta biết điều này nhưng mặc kệ.

    – Còn bây giờ đến lượt bà. Vivi Sundberg, những cuốn sổ và những bức thư.

    – Tôi có họ hàng xa với hai trong số các nạn nhân. Tôi đã đưa cho bà Vivi Sundberg một số tài liệu mà bà ấy đề nghị tôi cung cấp.

    Ông ta nheo mắt quan sát bà.

    – Và tôi nên tin điều đó?

    – Ông hãy tin những gì ông muốn.

    – Sổ sách gì vậy? Thư từ gì vậy?

    – Nó có liên quan đến việc làm sáng tỏ mối quan hệ gia đình.

    – Gia đình nào?

    – Brita và August Andrén.

    Ông ta gật đầu ngẫm nghĩ rồi bất ngờ dụi mạnh điếu thuốc vào chậu hoa.

    – Nhà số hai hoặc số bảy. Cảnh sát dành cho mỗi một ngôi nhà một mật mã riêng. Nhà số hai có mật mã là 2/3. Điều này đương nhiên có nghĩa là ở trong nhà này có ba người bị giết.

    Ông ta không rời mắt khỏi bà trong lúc móc từ trong bao đựng thuốc nhăn nheo ra nửa điếu thuốc đã hút dở.

    – Điều không giải thích được là vì sao hai bà lại tỏ ra lạnh lùng với nhau như vậy.

    – Bà ấy rất vội. Còn điều khác biệt ở đứa bé là gì?

    – Điều này tôi vẫn chưa làm sáng tỏ được. Phải thừa nhận rằng lần này cảnh sát ở Hudiksvall và lực lượng tăng viện từ Stockholm đã thực sự biết giữ mồm giữ miệng. Nhưng tôi tin rằng thằng bé không bị giết bởi cùng thứ bạo lực mù quáng như những người khác.

    – Ý ông là gì?

    – Tôi muốn nói gì ư? Nó đã bị giết chết ngay mà không phải chịu những đau đớn không cần thiết, không bị hành hạ. Do vậy mà đương nhiên người ta có thể rút ra được hàng nghìn kết luận khác nhau, cái này lôi cuốn và đương nhiên là sai lầm hơn cái khác. Nhưng kết luận như thế nào tôi để bà tự rút ra. Trong trường hợp bà quan tâm đến nó.

    Ông ta đứng dậy sau khi lại dụi mẩu thuốc vào chậu hoa.

    – Còn bây giờ tôi lại phải tiếp tục đi vòng vòng đây, ông ta nói. Có thể chúng ta sẽ lại gặp nhau trên đường. Ai mà biết được?

    Bà trở lên phòng để gói ghém va li. Nhưng bà dừng lại bên cửa sổ và quan sát người đàn ông không mệt mỏi kéo những đứa con trên xe trượt tuyết. Bà nghĩ tới Lars Emanuelsson. Thật ra người đàn ông khó chịu ấy đã nói gì và ông ta có thật sự khó chịu như bà nghĩ không? Có lẽ ông ta cũng chỉ làm công việc của mình. Bà đã không niềm nở với ông ta. Giá như bà xử sự khác, có thể ông ta còn kể cho bà nghe nhiều chuyện nữa.

    Bà ngồi xuống bên chiếc bàn viết nhỏ và bắt đầu ghi chép. Như mọi khi, bà suy nghĩ được sáng rõ hơn khi cầm bút chì trong tay. Bà chưa đọc thấy ở đâu nói rằng có một bé trai bị giết chết. Có lẽ nó là đứa bé duy nhất bị giết, trong trường hợp không có nạn nhân nào khác mà cộng đồng không được biết. Những ám chỉ của Lars Emanuelsson về một thứ bạo lực mù quáng có nghĩa là những người khác trong nhà ấy đã bị ngược đãi, thậm chí bị tra tấn trước khi bị giết. Lý do nào mà đứa bé đã được bỏ qua, không bị tra tấn? Có thể đơn giản vì nó còn là một đứa bé và hung thủ đã không tàn nhẫn đối với nó? Hay còn một lý do nào khác?

    Không có câu trả lời nào tự nhiên mà có. Đó cũng không phải là vấn đề của bà. Bà vẫn còn cảm thấy xấu hổ về việc đã xảy ra hôm qua. Bà biết hành vi của mình là không thể bào chữa được. Bà không dám hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu bà bị một nhà báo phát hiện. Lúc đó bà chỉ còn nước, nói nhẹ đi, là rút lui một cách nhục nhã về Scanie.

    Bà gói ghém xong đồ đạc và chuẩn bị trả phòng. Trước khi đi bà bật vô tuyến để xem dự báo thời tiết rồi sau đó mới quyết định đi theo đường nào về nhà. Bà mở đúng chương trình phát cuộc họp báo ở sở cảnh sát Hudiksvall. Có ba nhân vật ngồi trên khán đài nhỏ: Vivi Sundberg là người phụ nữ duy nhất. Tim bà thắt lại. Nếu như Vivi Sundberg định thông báo rằng một nữ thẩm phán từ Helsingborg đã bị bắt quả tang như một tên trộm tầm thường thì sao, bà thầm nghĩ. Bà ngồi lên thành giường vặn to tiếng hơn. Người đàn ông ngồi ở giữa, Tobias Ludwig, đang phát biểu.

    Đây là một chương trình phát trực tiếp. Khi Tobias Ludwig nói xong, người đàn ông thứ hai, công tố viên Robertsson, kéo chiếc micro về phía mình và nhấn mạnh rằng cảnh sát đang rất cần có những thông tin từ người dân. Mỗi một quan sát, dù đó là xe ô tô, hoặc người lạ mặt, trong thời gian xảy ra vụ án đã xuất hiện ở đây, tất cả, những gì khác lạ so với thông thường, đều mang ý nghĩa quan trọng cho công tác điều tra.

    Sau công tố viên, đến lượt Vivi Sundberg. Bà giơ cao chiếc túi nilon. Ống kính máy quay zoom lại gần: trong đó chứa một dải lụa màu đỏ. Vivi Sundberg nói rằng cảnh sát rất muốn biết liệu có ai nhận ra dải lụa này không.

    Birgitta Roslin ghé sát mặt vào màn hình. Không phải là mình đã nhìn thấy ở đâu đó một dải lụa đỏ giống như thế kia hay sao? Bà ngồi xổm xuống trước màn hình để có thể nhìn được rõ hơn. Dải lụa đỏ nhắc cho bà nhớ tới một cái gì đó. Bà lục lại trong trí nhớ, nhưng uổng công.

    Cuộc họp báo được tiếp tục với những câu hỏi của cánh nhà báo. Hình ảnh cuộc họp biến mất, thay vào đó là một bản đồ khí tượng: dọc theo miền duyên hải phía Đông có thể có mưa tuyết từ vịnh Phần Lan tràn vào.

    Birgitta Roslin quyết định đi theo tuyến đường sâu trong nội địa. Bà thanh toán tiền phòng bằng séc ở quầy lễ tân. Trên đường ra chỗ đỗ xe, bà thấy gió lạnh như cắt da. Bà để va li lên hàng ghế sau, xem lại bản đồ giao thông và dự kiến đi qua các khu rừng về Järvsö rồi từ đó sẽ đi xuống phía Nam.

    Khi ra tới đường quốc lộ, bỗng nhiên bà cho xe tạt vào một trạm nghỉ. Dải lụa đỏ trong vô tuyến không chịu ra khỏi đầu bà. Nó gợi bà nhớ đến một cái gì đó mà bà đã từng thấy. Hình ảnh lờ mờ trong ký ức chỉ bị ngăn cách với tiềm thức rõ ràng của bà bởi một lớp màng mỏng. Nhưng bà vẫn không thể nào nắm bắt được hình ảnh ấy. Một khi mình đã phải đi xa như thế này thì bất luận thế nào cũng phải cố tìm cho ra cái mà mình chưa sực nhớ ra được, bà nghĩ, và gọi điện thoại đến sở cảnh sát. Một vài chiếc xe chở gỗ chạy qua chỗ bà đỗ xe, cuốn theo những lớp tuyết, che mất tầm nhìn của bà trong chốc lát. Mãi lâu sau mới có người nhấc máy điện thoại. Nữ nhân viên trực điện thoại xem ra có vẻ mệt mỏi. Bà đề nghị cô ta nối máy cho mình nói chuyện với Erik Huddén.

    – Việc này có liên quan đến công tác điều tra, bà giải thích. Ở Hesjövallen.

    – Tôi nghĩ khó mà gặp được ông ấy. Nhưng tôi sẽ thử xem.

    Cuối cùng Erik cũng nhấc máy khi mà hy vọng của bà tưởng như đã mất. Giọng nói của anh cũng mang vẻ vội vàng và sốt ruột.

    – Huddén nghe đây.

    – Tôi không biết, liệu ông có nhớ ra tôi không, bà nói. Tôi là nữ thẩm phán đã có lần tới chỗ ông và cứ khăng khăng đòi được nói chuyện với bà Sundberg.

    – Tôi nhớ ra rồi.

    Bà thầm hỏi liệu Vivi Sundberg có nói với anh ta về sự kiện đêm qua hay không. Nhưng bà có ấn tượng Erik Huddén không biết gì về chuyện đó. Có lẽ Vivi Sundberg thực sự giữ kín chuyện này như đã hứa chăng? Thật may cho mình, dĩ nhiên là việc để mình vào trong ngôi nhà ấy là không đúng quy định.

    – Việc này có liên quan đến dải lụa đỏ mà các vị đã đưa lên vô tuyến, bà nói.

    – Đáng tiếc đó là một sai lầm khi công bố nó, Huddén nói.

    – Vì sao vậy?

    – Hiện nay tổng đài của chúng tôi đang bị các cuộc điện thoại gọi đến làm cho tắc nghẽn, ai cũng khẳng định là mình đã nhìn thấy dải băng đó. Thậm chí là nhìn thấy trên hộp quà Noel của họ!

    – Nhưng ký ức của tôi thì lại nói đến một cái gì đó hoàn toàn khác. Tôi tin là mình đã nhìn thấy nó.

    – Ở đâu?

    – Điều này tôi còn chưa nhớ ra. Nhưng dù sao thì cũng không phải trên hộp quà Noel.

    Huddén thở dài trên điện thoại, dường như chưa biết phải quyết định như thế nào.

    – Tôi sẽ cho bà xem dải lụa đó, cuối cùng anh cũng nói. Nếu như lúc này bà có thể đến chỗ tôi.

    – Nửa tiếng nữa nhé?

    – Nhưng tôi chỉ có thể dành cho bà hai phút, không hơn.

    Huddén đón bà ở phòng thường trực, vừa ho vừa hắt hơi. Chiếc túi nilon bên trong có dải lụa nằm trên bàn làm việc của anh. Anh lấy nó ra và để lên mặt tờ giấy trắng.

    – Nó dài chính xác mười chín centimet, anh nói. Rộng gần một centimet. Ở đầu dây có một lỗ thủng, cho thấy dải băng này đã được buộc vào một cái gì đó. Chất liệu của nó là vải bông và polyester, nhưng trông giống như là vải lụa. Chúng tôi tìm thấy nó ở trong tuyết. Một trong những chú chó đã đánh hơi thấy.

    Bà cố gắng hết sức. Bà chắc chắn là đã từng nhìn thấy dải băng. Nhưng lại không nhớ ở đâu.

    – Tôi đã từng thấy nó, bà nói. Tôi có thể thề như thế. Có lẽ không chính xác là cái này. Nhưng tương tự.

    – Ở đâu?

    – Điều đó tôi lại chưa nhớ ra được.

    – Một khi bà nhìn thấy một dải băng tương tự ở Scanie, thì nó sẽ chẳng giúp gì được cho chúng tôi đâu.

    – Không, bà nghiêm túc nói. Tôi đã thấy nó ở đâu đây thôi.

    Trong khi bà quan sát dải băng, Erik Huddén ngả lưng tựa vào tường và chờ đợi.

    – Bà đã nhớ ra chưa?

    – Chưa. Đáng tiếc là chưa.

    Huddén lại nhét dải băng vào túi nilon và đi cùng với bà xuống phòng thường trực.

    – Khi nào bà nhớ ra hãy gọi điện cho chúng tôi, anh nói. Nhưng nếu nó chỉ là một dây buộc quà tặng thì bà không cần phải báo đâu.

    Lars Emanuelsson đứng trên đường đợi bà. Chiếc mũ lông đã cũ được ông ta kéo trùm hết trán. Khi phát hiện ra ông ta, bà phẫn nộ:

    – Tại sao ông lại theo dõi tôi?

    – Tôi đâu có làm việc đó. Tôi đi lòng vòng thôi mà, như tôi đã giải thích với bà. Vừa rồi tình cờ tôi nhìn thấy bà đi vào sở cảnh sát, vậy là tôi nghĩ mình có thể chờ bà ra. Ngay lúc này tôi đang tự hỏi cuộc viếng thăm sở cảnh sát ngắn ngủi của bà có ý nghĩa gì.

    – Ông sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó. Giờ thì hãy để cho tôi được yên trước khi tôi bực mình.

    Bà bỏ đi nhưng vẫn nghe thấy tiếng ông ta nói ở phía sau.

    – Bà đừng quên rằng tôi có thể viết.

    Bà quay ngoắt người lại:

    – Ông đe dọa tôi đấy à?

    – Hoàn toàn không.

    – Tôi đã giải thích cho ông nghe vì sao tôi có mặt ở đây. Hoàn toàn không có lý do nào để tôi bị lôi kéo vào cuộc điều tra.

    – Công chúng rộng rãi đọc những gì sẽ được viết ra, dù nó có là sự thật hay không.

    Lần này thì Lars Emanuelsson quay người bỏ đi. Bà kinh tởm nhìn theo ông ta và hy vọng sẽ không bao giờ còn phải gặp lại ông ta nữa.

    Birgitta Roslin trở về xe của mình. Vừa ngồi vào sau tay lái, bà sực nhớ ra mình đã nhìn thấy dải lụa đỏ ấy ở đâu. Mọi ký ức bỗng nhiên xuất hiện như từ cõi hư vô. Bà nhầm lẫn chăng? Không, bà nhìn thấy nó rất rõ ràng trước mặt mình.

    Bà phải chờ hai tiếng đồng hồ, vì nơi bà muốn ghé thăm còn đóng cửa. Trong khoảng thời gian này, bà đi lang thang trong phố giống như một hồn ma bất an, thiếu kiên nhẫn, không hài lòng, vì không xác nhận được ngay cái mà bà tin là đã phát hiện thấy.

    Quán ăn Trung Quốc mở cửa vào lúc mười một giờ trưa. Birgitta Roslin lại ngồi vào chiếc bàn mà lần trước đã chọn. Bà quan sát những chiếc đèn lồng treo trên các bàn ăn. Chúng được làm bằng chất liệu trong suốt, như là một loại vải sợi nhân tạo mỏng, đem lại ấn tượng như những chiếc đèn lồng bằng giấy. Những chiếc đèn này có hình trụ dài. Ở mép dưới treo bốn dải băng đỏ.

    Sau lần đến gặp Erik Huddén, bà biết dải băng dài mười chín centimet. Chúng được móc vào chao đèn bởi những chiếc móc sắt xâu qua đầu trên dải băng.

    Cô gái hầu như không biết tiếng Thụy Điển cầm trên tay quyển thực đơn đi đến chỗ bà. Cô cười khi nhận ra bà. Birgitta Roslin chọn các món ăn buffet, mặc dù không cảm thấy đói. Trong lúc tự chọn thức ăn trên bàn buffet, bà có điều kiện nhìn quanh phòng ăn. Bà đã tìm thấy cái cần tìm bên một chiếc bàn dành cho hai khách trong một góc phòng: chiếc đèn lồng treo trên chiếc bàn đó thiếu một dải đỏ.

    Bà đứng lại và nín thở.

    Người đó đã ngồi ở đây, bà nghĩ. Trong góc tối nhất. Rồi sau đấy, người đó đứng dậy, rời khỏi quán ăn và đi về Hesjövallen.

    Người đó hẳn là đàn ông. Chắc chắn là một người đàn ông.

    Bà nhìn quanh căn phòng. Cô phục vụ mỉm cười. Từ trong bếp vọng ra tiếng trò chuyện bằng tiếng Trung Quốc.

    Bà nghĩ rằng không chỉ bản thân bà mà cả cảnh sát cũng không hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Nó rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, bí ẩn hơn so với những gì mà họ có thể tưởng tượng ra.

    Nói đúng ra, họ hoàn toàn không biết được gì.
     
    Liên PhúcNgọc Thiền Sầu thích bài này.
  2. Nyanko

    Bài viết:
    380
    Phần thứ hai

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Người da đen và người Tàu (1863)

    CỬA ẢI LÂU SƠN*
    Gió Tây rít
    Trời sương, nhạn kêu trong bóng nguyệt
    Trong bóng nguyệt
    Vó câu sồn soạt
    Tiếng kèn da diết.

    Chớ rằng cửa quan vững như thép
    Hôm nay ta vượt qua đầu hết
    Qua đầu hết
    Núi xanh như biển
    Mặt trời tàn như huyết.
    – MAO TRẠCH ĐÔNG

    ───
    * Bản dịch Hoàng Trung Thông, Nam Trân.
     
    Liên PhúcNgọc Thiền Sầu thích bài này.
  3. Nyanko

    Bài viết:
    380
    Đường đến Quảng Châu

    * * *

    10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đã là thời gian nắng nóng nhất năm 1863. Và cũng là ngày thứ hai trong cuộc di cư dài ngày của Sáng và hai người anh em trai đến miền duyên hải Quảng Châu. Đầu buổi chiều, họ đã tới được một ngã tư, nơi có ba cái đầu bị chặt được cắm trên những chiếc cọc tre nhọn đóng sâu xuống lòng đất. Không thể biết được chúng được cắm ở đó bao lâu rồi. Vũ, đứa em út của họ cho rằng ít nhất cũng đã được một tuần, vì những con mắt và phần lớn má của những cái đầu đó đã bị quạ rỉa. Quốc Sĩ, người anh cả, thì cho rằng chúng mới chỉ bị chặt cách đây một vài ngày. Anh ta tin rằng mình vẫn còn nhận ra nỗi khủng khiếp trên những cái mồm méo mó biến dạng.

    Sáng không nói gì cả. Trong mọi trường hợp, chẳng bao giờ Sáng chịu nói ra những gì mình nghĩ. Những cái đầu bị chặt kia có thể là một dấu hiệu gợi nhắc điều có thể xảy đến với ba anh em. Họ đã chạy thoát thân ra khỏi ngôi làng hẻo lánh thuộc tỉnh Quảng Tây. Và cuộc gặp gỡ rùng rợn này nhắc họ nhớ rằng cuộc sống của ba anh em vẫn tiếp tục gặp nguy hiểm.

    Họ rời khỏi cái nơi mà trong ý nghĩ Sáng đã đặt cho cái tên: "Ngã tư ba đầu". Trong khi Quốc Sĩ và Vũ tranh cãi nhau liệu đó có phải là những tên cướp bị chặt đầu, hay là những người nông dân đã chọc giận một địa chủ quyền thế, thì Sáng lại nghĩ về quá khứ đã dồn họ vào cuộc bỏ trốn. Mỗi bước đi là họ lại tiếp tục cách xa thêm cuộc sống trước đây của mình. Trong sâu thẳm tâm hồn, có lẽ hai anh em của Sáng đều hy vọng rằng đến một ngày nào đó lại có thể trở về Vân Hải, ngôi làng mà ở đó họ đã lớn lên. Còn về phần mình, Sáng lại không rõ. Có lẽ những người nông dân và con cái của họ sẽ chẳng bao giờ có thể thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực mà họ đang phải sống trong đó. Anh em họ chờ đợi gì ở Quảng Châu? Nghe kể, tại đó người ta có thể lẻn lên những chiếc tàu thủy vượt đại dương đi về hướng Đông, rồi đến được một đất nước nơi những con sông cuốn đi trong lòng mình những cục vàng lấp lánh sáng, to như quả trứng gà. Tin đồn này lan đến tận ngôi làng Vân Hải xa xôi hẻo lánh: ở đất nước ấy có bọn "quỷ trắng xa lạ" đang sống, một đất nước giàu có tới mức mà những người Trung Hoa chất phác nếu làm việc tại đó cũng có thể thoát khỏi nghèo nàn, đến với quyền lực và giàu có.

    Sáng không biết mình nên tin cái gì. Những người nghèo luôn mơ ước đến một cuộc sống mà ở đó họ không bị địa chủ hành hạ. Và bản thân anh cũng vậy, ngay từ khi còn rất nhỏ, anh đã phải đứng bên vệ đường, mặt cúi gằm mỗi khi có một người đàn ông quyền thế nào đó ngồi trong kiệu có mái che đi qua. Anh luôn tự hỏi vì sao con người lại có những cuộc đời quá khác nhau như vậy.

    Có lần anh hỏi ông Bái, cha mình, về điều đó, nhưng chỉ nhận được một bạt tai thay cho câu trả lời. Người ta không nên đặt ra những câu hỏi không cần thiết. Các vị thần thánh sống trên cây, dưới suối, trong rừng đã tạo ra thế giới này và con người sống ở đó. Để vũ trụ thần bí này có được sự cân bằng thần thánh, cần phải có người giàu và kẻ nghèo, những người nông dân phải đi theo sau con trâu để cày ruộng, và những người giàu có, quyền thế thì hầu như không phải đặt chân lên mảnh đất vẫn nuôi sống họ.

    Từ đó Sáng không bao giờ hỏi cha mẹ mình xem họ cầu xin gì trước các vị thần linh. Họ sống cuộc sống của mình, bị giam cầm trong khổ nhục và hành hạ. Sao lại có những người phải làm việc nặng nhọc mà lại nhận được rất ít? Anh không bao giờ có thể hỏi được ai câu đó, vì lẽ tất cả mọi người sống trong làng đều nghèo khổ, đều sợ hãi trước những điền chủ vô hình, thông qua những tay quản lý của chúng, dùng roi vọt cưỡng bức tá điền làm việc. Anh đã nhìn thấy những con người từ thuở nằm nôi cho đến khi xuống mồ phải làm việc quần quật như kéo lê một gánh nặng ngày càng nặng nề hơn. Dường như gánh nặng đó đã đè lên lưng những đứa trẻ khiến chúng bị gù ngay cả trước khi tập đi. Tối tối, dân làng ngủ trên những manh chiếu được trải ngay trên nền đất lạnh giá, đầu gối lên những chiếc gối bằng ống tre. Ngày nối ngày theo một nhịp điệu không đổi từ ngàn đời, theo các mùa trong năm. Họ cầm cày theo sau những con trâu lầm lì, gieo mạ, cấy lúa, hy vọng một mùa bội thu đủ nuôi sống mình. Những năm mất mùa hầu như họ không còn gì để ăn, hết gạo là chỉ còn biết sống bằng lá cây.

    Hoặc là nằm xuống và chết. Không còn cách nào khác.

    Sáng xua ý nghĩ ấy đi. Bóng đêm bắt đầu buông. Anh đưa mắt nhìn quanh tìm chỗ thích hợp để ngủ. Ven đường đi có một lùm cây, ngay sát mấy tảng đá hình như vốn thuộc dãy núi nằm ở chân trời phía Tây. Họ trải chiếu, chia nhau nắm cơm còn lại, đủ ăn cho tới khi đến được Quảng Châu. Sáng nhìn hai người anh em của mình. Liệu họ có đến đích được không? Anh phải làm gì khi một trong hai người đó bị ốm? Bản thân anh vẫn đủ sức để đi, nhưng nếu phải cõng một trong hai người chắc anh không làm nổi.

    Họ không nói chuyện nhiều với nhau. Sáng đã bảo hai người không nên phí chút sức lực còn lại cho các cuộc cãi vã, tranh luận. "Mỗi câu nói ra là mất đi một bước chân đấy."

    Hai người không ai cãi lại. Sáng biết họ tin anh. Bây giờ, khi cha mẹ không còn sống nữa, họ lại đang trên đường chạy trốn, nên họ cho rằng Sáng sẽ là người đưa ra những quyết định đúng đắn.

    Anh em họ nằm co ro trên manh chiếu, vắt đuôi tóc ra sau lưng rồi nhắm mắt. Sáng nghe, thoạt đầu là Quốc Sĩ, sau đến Vũ chìm vào giấc ngủ. Hai anh em cứ như là trẻ con, Sáng nghĩ, mặc dù họ đã ngoài hai mươi tuổi. Bây giờ, hai người họ chỉ còn lại có mình, như thể là một người già cả, biết được cái gì xấu, cái gì tốt đối với họ. Nhưng mình cũng còn trẻ mà.

    Sáng nghĩ hai người anh em của mình khác nhau biết bao. Vũ cứng đầu cứng cổ, luôn khó vâng theo lời người khác. Cha mẹ đã lo lắng cho tương lai của nó và thường hay trách mắng nó là cứ mở miệng là cãi như thế thì sau này nó sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc đời. Quốc Sĩ, ngược lại, là người chậm chạp, chưa bao giờ làm cho cha mẹ phiền lòng. Anh là đứa con trai biết vâng lời, luôn được đưa ra làm gương cho Vũ noi theo.

    Còn mình, mình có chút gì đó hòa trộn giữa hai người kia, Sáng nghĩ. Nhưng thực ra mình là ai? Mình có đủ khả năng gánh những trách nhiệm bị buộc phải gánh lấy hay không?

    Xung quanh Sáng có mùi ẩm ướt và mùi bùn đất. Anh nằm ngửa mặt lên trời, nhìn những vì sao.

    Tối tối mẹ hay chỉ cho anh xem bầu trời. Khi ấy gương mặt mệt mỏi của mẹ nở ra một nụ cười. Những ngôi sao như an ủi mẹ trong cuộc sống khó nhọc của bà. Phần lớn đời mình, mẹ đều cắm mặt xuống đất, mảnh đất hút lấy những nhánh mạ của mẹ, trong lúc chờ đến ngày hút mất luôn chính mẹ. Mỗi khi mẹ ngẩng mặt lên nhìn những vì sao, thì trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy mẹ không phải nhìn thấy mặt đất dưới chân mình.

    Sáng lướt nhìn bầu trời đêm. Mẹ đã đặt tên cho một vài vì sao. Một ngôi sao sáng trong một chòm sao trông giống như con rồng được mẹ đặt tên là Sáng. "Đó là con," mẹ đã nói vậy. "Con đến từ chỗ đó, và rồi có ngày con sẽ trở về nơi ấy."

    Ý nghĩ đến từ một vì sao làm cho anh sợ hãi. Nhưng anh đã không nói gì cả, vì hình như mẹ tìm được niềm vui ở đó.

    Sáng nhớ lại những chuyện khủng khiếp đã bất ngờ ập đến dồn đuổi anh em Sáng phải bỏ trốn. Một trong những tay cai thợ mới của điền chủ có tên là Phàn kêu ca rằng cha mẹ anh đã không hoàn thành mức khoán công việc hằng ngày. Sáng biết cha mình đau lưng nặng và không còn làm nổi những công việc nặng nhọc nữa. Mặc dù cha được mẹ giúp sức, nhưng họ vẫn bị chậm. Lúc này, Phàn tới đứng trước túp lều vách đất của họ, cái lưỡi cứ thò ra thụt vào giữa hai hàm răng của gã như một con rắn nguy hiểm. Phàn còn trẻ, chỉ tầm tuổi Sáng. Nhưng hai người đến từ hai thế giới khác nhau. Phàn nhìn chằm chằm vào cha mẹ Sáng với những chiếc nón rơm trên tay, đầu cúi xuống, khom lưng trước mặt gã giống như những con côn trùng mà vào bất cứ lúc nào gã cũng có thể giẫm chết. Nếu như không làm nổi những việc công nhật, họ sẽ bị quăng ra khỏi nhà và sẽ phải đi ăn mày.

    Vào một đêm, Sáng nghe thấy cha mẹ thầm thì với nhau, nhưng anh không nghe rõ họ nói những gì.

    Sáng sớm hôm sau, chỉ còn trơ lại chiếc chiếu nơi họ nằm. Lập tức Sáng hoảng sợ. Trong túp lều chật chội này mọi người thường cùng thức dậy. Chắc chắn cha mẹ đã lẻn ra ngoài để không làm các con thức giấc. Sáng thận trọng đứng dậy mặc lên người chiếc quần rách và chiếc áo duy nhất của mình.

    Mặt trời vẫn còn chưa mọc. Phía chân trời mới hửng sáng màu hồng. Đâu đó có tiếng gà gáy. Mọi người trong làng đã thức dậy trừ cha mẹ anh. Họ thắt cổ chết trên thân cây vốn cho bóng mát vào mùa nóng nhất trong năm. Thân thể họ khẽ đung đưa trong cơn gió buổi sáng.

    Những gì xảy ra tiếp theo, Sáng chỉ còn có thể nhớ được lờ mờ. Anh không muốn những người anh em của mình nhìn thấy cảnh cha mẹ treo cổ trên dây thừng, miệng há hốc. Anh đã cắt dây thừng bằng chiếc liềm mà cha anh vẫn sử dụng trong công việc đồng áng. Họ rơi xuống, đè nặng lên người anh như thể muốn đem theo anh vào cõi chết.

    Hàng xóm đã gọi cho ông Báo, người già nhất trong làng đến. Ông già mắt kém, người run lên bần bật, đứng không vững. Ông kéo Sáng sang một bên và nói, tốt nhất là anh em Sáng nên trốn đi. Phàn chắc chắn sẽ trả thù họ, sẽ giam giữ họ trong ngục thất ở nhà hắn, hoặc sẽ hành quyết họ. Ở đây, không có quan tòa, không có luật pháp mà chỉ có luật lệ riêng của điền chủ do Phàn thay mặt tuyên bố và hành xử. Anh em Sáng lên đường trước cả khi đống than hỏa thiêu xác cha mẹ họ lụi tàn.

    Bây giờ anh nằm đây, dưới bầu trời đầy sao, bên cạnh là Quốc Sĩ và Vũ đang say ngủ. Anh không biết điều gì đang chờ đợi họ trong tương lai. Ông già Báo nói rằng họ nên theo đường đến miền biển, đến thành phố Quảng Châu tìm việc làm ở đó. Sáng hỏi ông ở đó có việc gì để làm. Nhưng lão Báo không có câu trả lời. Ông chỉ giơ bàn tay run rẩy chỉ về hướng Đông.

    Họ đã đi cho tới khi bàn chân rớm máu, môi khô nẻ vì khát. Anh và em trai của Sáng đã khóc, vì cha mẹ chết, vì sợ hãi trước những gì xa lạ đang đón chờ họ. Sáng tìm cách an ủi hai người, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở họ không được đi quá chậm. Phàn như một con rắn độc. Gã có ngựa, gã có đám thuộc hạ với gươm giáo mài sắc, luôn luôn có thể đuổi kịp được anh em Sáng.

    Sáng vẫn tiếp tục nhìn lên các vì sao. Anh nghĩ đến lão điền chủ sống trong một thế giới khác, nơi những người nghèo không bao giờ được đặt chân tới. Lão chưa xuất hiện lấy một lần ở làng, lão chỉ là một cái bóng đầy hăm dọa hòa lẫn vào đêm đen.

    Cuối cùng Sáng cũng ngủ thiếp đi. Ba cái đầu bị chặt len lỏi vào giấc mơ của Sáng. Anh cảm thấy lưỡi kiếm lạnh tì vào cổ mình. Còn hai người anh em của anh đã chết, đầu họ lăn lông lốc trên cát, máu từ những chiếc cổ bị đứt phun ra. Anh giật mình tỉnh dậy, giải phóng mình ra khỏi mộng mị, nhưng hễ anh nhắm mắt ngủ thì chúng lại trở về.

    Họ lên đường vào sáng sớm hôm sau khi đã uống hết bình nước mà Quốc Sĩ đeo theo ở cổ bằng một sợi dây da. Họ buộc phải tìm thấy nước uống trong ngày. Họ tiếp tục đi trên con đường đầy đá sỏi và thỉnh thoảng gặp những người ra đồng làm hoặc đội trên đầu, vác trên vai những túi hàng nặng. Sáng thầm hỏi con đường này đến khi nào mới kết thúc. Có thể sẽ không có biển. Có thể cũng chẳng có thành phố Quảng Châu, nhưng anh không bao giờ nói ra ý nghĩ này với Quốc Sĩ và Vũ, nó chỉ làm nặng thêm bước chân họ.

    Một con chó mực có đốm trắng ở ngực đi theo họ. Sáng không biết nó đến từ đâu. Đơn giản là nó bất ngờ xuất hiện. Sáng tìm cách đuổi nó đi, nhưng con chó luôn quay lại. Họ lấy đá ném đuổi, nó chạy mất, nhưng không bao lâu sau nó lại đuổi kịp.

    – Chắc phải gọi con chó này là Đông Phố, "Thành phố lớn bên kia bờ biển", Sáng nói.

    Giữa trưa trời nắng chang chang, họ nghỉ lại dưới gốc cây trong một ngôi làng nhỏ. Dân làng cho họ nước uống, đổ nước vào bình cho họ mang theo. Con chó nằm bên cạnh chân Sáng, thở hổn hển, lưỡi thè ra.

    Sáng quan sát nó thật kỹ. Ở con vật này có gì đó đặc biệt. Liệu có thể mẹ từ âm phủ đã gửi nó dẫn đường cho họ? Một con vật dẫn đường có thể từ chỗ những người chết chạy đến với những người đang sống không? Sáng không biết, anh chưa khi nào thực sự tin vào những vị thần thánh mà cha mẹ anh và dân làng thờ phụng. Làm sao người ta lại có thể cầu xin, sùng bái một cái cây không biết trả lời, một cái cây không có tai và không có mồm? Hoặc là một con chó hoang? Nếu như có thần thánh thì vào chính lúc này anh em của Sáng đang cần đến sự phù hộ giúp đỡ của các vị đó.

    Buổi chiều họ lại tiếp tục lên đường. Trước mặt họ là con đường ngoằn ngoèo, vô tận.

    Sau khi đi được ba ngày, họ thấy trên đường đã có nhiều người đi lại hơn. Những chiếc xe ba gác chất đầy cói, bao gạo vượt qua họ, trong khi đó lại có những chiếc xe không chở hàng đi ngược chiều họ. Sáng cố lấy hết can đảm hỏi thăm người đàn ông ngồi trên chiếc xe không.

    – Từ đây đến biển còn xa nữa không hả bác?

    – Khoảng hai ngày nữa. Không hơn. Ngày mai các cậu đã có thể ngửi thấy mùi của Quảng Châu rồi đấy. Các cậu không sợ lạc đường đâu.

    Nói xong lão cười và tiếp tục đánh xe đi. Sáng nhìn theo. Ông ta nói ngửi thấy mùi thành phố có nghĩa là gì nhỉ?

    Cũng vào buổi chiều hôm đó bỗng nhiên anh em họ lọt vào giữa một đàn bướm. Những con bướm trong mờ, màu vàng, khi đập cánh bay, phát ra tiếng kêu sột soạt như những tờ giấy vò vào nhau. Sáng kinh ngạc dừng lại giữa đám mây bướm, giống như là bước chân vào một ngôi nhà có những bức tường làm bằng cánh bướm. Mình thích được ở lại đây, anh nghĩ. Mình mong giá như ngôi nhà này không có cửa. Ở lại đây để được nghe thấy tiếng cánh bướm, cho đến một ngày nằm xuống chết.

    Nhưng ở ngoài kia Sáng còn có hai người anh em của mình, anh không không thể bỏ mặc họ. Anh lấy tay gạt đàn bướm sang hai bên rẽ lối đi và mỉm cười với hai người. Anh sẽ không bao giờ rời xa họ.

    Họ ngủ thêm một đêm nữa dưới một gốc cây sau khi đã ăn ít cơm. Tất cả đều đói, họ ôm nhau ngủ.

    Ngày hôm sau, họ đến Quảng Châu. Con chó vẫn đi theo họ. Càng lúc Sáng càng tin rằng từ âm phủ, mẹ đã gửi nó đến để bảo vệ họ. Trước kia, anh chưa bao giờ tin vào những điều như vậy. Còn lúc này, khi đứng trước cổng thành, anh tự hỏi liệu có thật thế không.

    Họ tiến vào cái thành phố nườm nượp người, chào đón họ với cái mùi không lẫn vào đâu được, một cái mùi khó ngửi. Sáng sợ lạc mất anh em trong dòng người xa lạ chen chúc nhau trên đường phố. Chính vì sợ như vậy nên anh đã cuốn vào thắt lưng mình một chiếc khăn dài rồi buộc đầu kia vào Quốc Sĩ và Vũ. Bây giờ thì chẳng còn sợ lạc nhau nữa, trừ khi chiếc khăn bị đứt. Họ từ từ mở đường đi, ngạc nhiên trước những ngôi nhà đồ sộ, những ngôi chùa, những thứ hàng hóa bày bán.

    Bỗng chiếc khăn căng ra. Vũ giơ tay chỉ trỏ.

    Sáng nhìn xem cái gì đã khiến nó dừng lại. Một người đàn ông ngồi trên một chiếc kiệu. Những tấm rèm, thường được buông xuống để che người ngồi bên trong giờ được cuộn lên. Không còn nghi ngờ gì nữa, người đàn ông ấy đã chết, mặt trắng nhợt như thể có ai đó đã xoa phấn trắng lên hai má ông ta. Hay ông ta là kẻ độc ác. Quỷ vương luôn sai phái đám yêu quái với khuôn mặt trắng bệch xuống trần gian. Ngoài ra người đàn ông này lại không có bím tóc đuôi sam và có khuôn mặt dài xấu xí với chiếc mũi to, khoằm.

    Vũ và Quốc Sĩ ghé sát Sáng hỏi liệu đó là người hay là quỷ. Sáng cũng không biết. Anh chưa bao giờ nhìn thấy một thứ như thế, ngay cả trong những cơn ác mộng khủng khiếp nhất.

    Bỗng những tấm rèm được kéo xuống, chiếc kiệu được khiêng đi. Một người đàn ông đứng bên cạnh Sáng, nhổ nước bọt về phía chiếc kiệu.

    – Người đó là ai vậy? Sáng hỏi ông ta.

    Người đàn ông nhìn Sáng vẻ khinh miệt và bảo Sáng nhắc lại câu hỏi. Sáng nhận ra mọi người nói bằng những thổ ngữ rất khác nhau.

    – Người đàn ông trên kiệu. Ông ta là ai?

    – Một người đàn ông da trắng, sở hữu rất nhiều tàu bè ở hải cảng của chúng ta.

    – Ông ta bị bệnh à?

    Người đàn ông cười khinh miệt:

    – Không, giống người họ là thế. Trắng như những xác chết mà lẽ ra người ta đã phải thiêu từ lâu rồi.

    Anh em họ lại tiếp tục đi trong thành phố bẩn thỉu và bốc mùi khó chịu. Sáng quan sát mọi người. Có nhiều người ăn mặc sang trọng, quần áo không rách rưới như anh em họ. Anh bắt đầu đoán chừng thế giới này không hoàn toàn giống như anh tưởng.

    Sau khi lang thang trong thành phố nhiều tiếng đồng hồ, họ đã nhìn thấy nước qua các hẻm nhỏ. Vũ vội vàng chạy xuống chỗ có nước, vục đầu xuống uống nhưng lập tức ngẩng lên và nhổ ra khi thấy nước mằn mặn. Xác chết đã rữa của một con mèo trôi qua. Sáng nhìn dòng nước bẩn, không chỉ có xác súc vật mà còn cả phân người nổi lều bều. Sáng rùng mình kinh tởm. Ở quê nhà, phân người, phân gia súc được họ đem bón ruộng trồng rau. Còn ở đây, hình như người ta đổ trực tiếp những thứ này xuống kênh mương mà không dùng làm phân bón ruộng.

    Sáng nhìn lên mặt nước, không thể nhận ra bờ bên kia. Cái mà người ta gọi là biển, hẳn phải là một con sông rất rộng, anh thầm nghĩ.

    Anh em họ ngồi trên một cây cầu bằng gỗ ọp ẹp, hai bên có những con thuyền neo đậu, nhiều không đếm xuể. Khắp nơi vang lên tiếng gào thét, tiếng gọi nhau. Đó cũng là một trong những khác biệt giữa cuộc sống nơi thành phố với cuộc sống thôn dã quê anh. Ở đây con người không ngớt gào thét, dường như họ thường xuyên phải nói hoặc phàn nàn một cái gì đó. Không có chỗ nào yên tĩnh như Sáng đã vốn quen thế.

    Anh em họ ăn nốt phần cơm còn lại và chia nhau nước trong bình. Quốc Sĩ và Vũ rụt rè nhìn Sáng. Giờ là lúc anh cần chứng minh cho họ thấy anh xứng đáng với lòng tin của họ. Nhưng làm thế nào anh có thể tìm được việc làm trong cảnh ồn ào hỗn độn của con người nơi đây? Làm sao anh có thể kiếm được miếng ăn cho cả ba anh em? Họ sẽ ngủ ở đâu? Sáng nhìn con chó đang nằm, một cẳng chân gác lên mõm. Và giờ thì biết làm gì đây?

    Anh thấy cần được ngồi một mình để có thể đánh giá được tình cảnh của họ. Sáng đứng lên bảo hai người anh em cứ chờ ở đây cùng với con chó. Vì họ sợ anh bỏ đi, biến mất trong đám người đông đúc, không bao giờ quay trở lại nữa, nên anh nói để họ yên lòng:

    – Hai người hãy nghĩ đến một sợi dây vô hình buộc chặt chúng ta lại với nhau. Tôi sẽ quay trở lại ngay. Nếu có ai bắt chuyện, hãy lịch sự trả lời, nhưng nhớ không được rời khỏi đây. Nếu không tôi sẽ không tìm được hai người đâu.

    Sáng đi vào ngõ nhỏ, chốc chốc lại quay đầu nhìn lại để nhớ đường. Bỗng con phố nhỏ dẫn ra một bãi rộng có một ngôi chùa. Nhiều người đang quỳ hoặc đang cúi đầu trước một ban thờ có nhiều lễ vật và những thẻ hương đang nghi ngút cháy.

    Giá như mẹ ở đây, chắc là mẹ sẽ lập tức đi vào trong đó, Sáng thầm nghĩ. Cả cha cũng sẽ làm như vậy, nhưng sẽ do dự hơn. Mình không còn nhớ có khi nào ông đặt bàn chân này lên trước bàn chân kia mà không do dự không.

    Còn lúc này, người đó lại là anh, không biết mình phải làm gì.

    Trên bãi rộng có một vài tảng đá rời ra khỏi bức tường chùa. Anh lại ngồi lên đó vì bị say nắng sa sẩm mặt mày.

    Sau khi thấy đỡ chóng mặt, anh đứng dậy trở lại con sông, đi dọc theo bến tàu. Nhiều người khom lưng vác những kiện hàng nặng, cố giữ thăng bằng đi trên ván cầu ọp ẹp. Phía xa hơn, anh nhìn thấy những con tàu lớn, cột buồm được hạ xuống, chui qua dưới các cây cầu ngược dòng sông.

    Anh đứng lại nhìn những người phu khuân vác hàng, kiện này to hơn kiện khác. Một vài người đàn ông đứng bên cạnh ván cầu kiểm tra hàng hóa được chuyển lên tàu và từ tàu chuyển xuống, trả một vài xu tiền công cho phu khuân vác, trước khi họ biến mất vào các ngõ nhỏ.

    Bỗng Sáng hiểu ra. Họ phải khuân vác để kiếm sống. Chúng ta cũng có thể, anh nghĩ, chúng ta sẽ làm phu khuân vác. Ở đây không có ruộng, không có đồng lúa. Nhưng chúng ta có thể khuân vác, chúng ta đều khỏe mạnh.

    Anh quay trở lại chỗ Quốc Sĩ và Vũ đang ngồi chồm hỗm trên cầu tàu. Anh đứng lại hồi lâu nhìn hai người đang bám víu vào nhau.

    Chúng ta giống như những con chó, anh nghĩ. Ai cũng có thể hành hạ chúng ta và chúng ta sống nhờ vào những gì mà người khác vứt đi.

    Con chó nhìn thấy Sáng, đứng dậy chạy lại phía anh.

    Anh không giẫm đạp lên nó.
     
    Liên Phúc thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...