9
Bà ngồi ăn bữa sáng vào lúc bảy giờ. Qua cửa sổ nhìn ra hồ nước, bà thấy trời đã nổi gió. Một người đàn ông kéo xe trượt tuyết, trên xe có hai đứa bé ních chặt quần áo ấm. Nhìn cảnh ấy khiến bà nhớ lại mình đã phải cố gắng như thế nào để kéo được những đứa con của mình lên đỉnh dốc. Đó là một trong những cảm giác lạ lùng nhất trong cuộc đời, chơi đùa với các con trong tuyết giữa lúc đầu vẫn nghĩ đến những bản án phức tạp. Tiếng reo hò, cười đùa của những đứa trẻ tương phản với những tình tiết đáng sợ trong các vụ trọng án.
Bà nhẩm tính lại trong cuộc đời làm thẩm phán, bà đã bỏ tù ba kẻ giết người có chủ định và bảy người do ngộ sát. Ngoài ra còn một loạt những kẻ cưỡng dâm và những gã đánh người gây thương tích mà chỉ là nhờ may mắn mới không chuyển thành tội giết người.
Những ý nghĩ ấy đã khiến bà cảm thấy bất an. Đong đếm cuộc sống của bà chỉ dựa trên số lượng những kẻ sát nhân bị bà bỏ tù: phải chăng đó thực sự là kết quả những cố gắng của bà?
Đã hai lần bà bị đe dọa. Lần đầu, cảnh sát Helsingborg cho rằng cần phải bố trí người bảo vệ bà. Việc này có liên quan đến một kẻ buôn bán ma túy đã có tiền án sử dụng xe máy để trấn lột. Ngày đó các con bà còn nhỏ. Đó là một quãng thời gian khó khăn cho cuộc sống gia đình bà: hầu như không có ngày nào là bà và Staffan không to tiếng với nhau.
Trong khi ăn bà tránh nhìn vào những tờ báo hẳn đã được lợi trong vụ ở Hesjövallen. Thay vào đó, bà cầm lấy tờ báo kinh tế, lơ đãng giở các trang: thị trường chứng khoán, số lượng phụ nữ trong hội đồng quản trị của các công ty Thụy Điển. Trong phòng ăn không có nhiều người. Bà lấy thêm cốc cà phê thứ hai và nghĩ liệu có nên chọn đường khác để trở về nhà không. Có thể theo hướng Tây, qua các khu rừng của Värmland?
Bỗng nhiên có ai đó nói với bà. Một người đàn ông ngồi một mình ở chiếc bàn không quá xa bà.
– Ông nói với tôi à?
– Tôi chỉ muốn biết Vivi Sundberg đã muốn gì ở bà?
Bà không biết người đàn ông này và không hiểu rõ ông ta vừa nói gì. Trước khi bà kịp trả lời, ông ta đứng lên đi đến bàn của bà. Ông ta kéo một chiếc ghế và ngồi xuống mà không cần hỏi liệu bà có đồng ý hay không.
Người đàn ông có mái tóc màu lửa, cỡ chừng sáu mươi tuổi, to béo và cơ thể bốc mùi.
Bà thấy bực và lập tức bảo vệ lãnh thổ của mình.
– Tôi muốn được yên lặng ăn xong bữa sáng.
– Thì bà đã ăn sáng xong rồi. Tôi chỉ muốn đặt một vài câuhỏi.
– Tôi không hề biết ông là ai.
– Lars Emanuelsson, phóng viên. Không phải một tay bồi bút. Tôi còn khá hơn họ. Tôi không viết những chuyện ngồi lê đôi mách. Các bài của tôi đều được viết kỹ lưỡng và có phong cách.
– Điều này còn lâu mới đủ cho ông cái quyền quấy rầy tôi trong bữa ăn sáng.
Lars Emanuelsson đứng dậy ngồi vào bàn bên cạnh.
– Thế này tốt hơn chứ?
– Vâng, tốt hơn. Và ông viết bài cho ai?
– Điều này thì tôi còn chưa quyết định. Trước tiên tôi cứ viết ra giấy đã, rồi mới quyết định ai là người nhận được nó. Tôi không tùy tiện bán cho bất kỳ ai.
Kiểu khoe khang khoác lác của ông ta càng lúc càng khiến bà bực mình. Ngoài ra bà còn ngửi thấy mùi ở ông ta, cái mùi lâu ngày không tắm rửa. Ông ta như bức hí họa một nhà báo hay quấy rối.
– Tôi được biết hôm qua bà đã nói chuyện với bà Vivi Sundberg. Đó không phải là một cuộc trao đổi thân tình đặc biệt. Hai nữ đối thủ ngờ vực lẫn nhau. Tôi nhầm chăng?
– Phải đấy. Ông đã nhầm. Tôi không có gì để nói với ông.
– Nhưng bà không thể chối cãi là đã nói chuyện với bà ấy chứ?
– Điều này tôi cũng không làm.
– Tôi tự hỏi một nữ thẩm phán từ Helsingborg làm gì ở đây? Bà có liên quan gì đến cuộc điều tra? Trong một làng nhỏ heo hút ở phía Bắc đã xảy ra những điều khủng khiếp và Birgitta Roslin phóng xe từ Helsingborg đến đây.
Bà giật nẩy mình.
– Ông muốn gì? Do đâu mà ông biết tôi là ai?
– Đó là chuyện phương pháp. Cả cuộc đời người ta tìm kiếm phương cách tốt nhất để đạt được mục đích của mình. Tôi cho rằng với một thẩm phán thì cũng tương tự thế thôi. Các quy tắc, sắc lệnh, đạo luật và pháp chế là một chuyện. Nhưng mỗi người đều có phương pháp của riêng mình. Tôi không còn biết mình đã viết về bao nhiêu cuộc điều tra hình sự nữa. Một năm trời, tính chính xác là ba trăm sáu mươi sáu ngày, tôi đã theo dõi cuộc điều tra vụ Olof Palme. Tôi đã sớm biết rằng sẽ không bao giờ tóm được kẻ giết người, vì cuộc điều tra đã thất bại trước cả khi nó bắt đầu. Cảnh sát và các công tố viên chịu trách nhiệm vụ đó chỉ tìm cách vênh vang trước các kênh truyền hình. Ngày đó có rất nhiều người cho rằng kẻ giết người là Christer Pettersson. Cho tới khi có một số điều tra viên thông minh nhận ra rằng ông ta không phải là hung thủ, bất luận ở phương diện nào. Nhưng chẳng có ai thèm nghe họ. Còn tôi thì dù gì cũng chỉ muốn đứng ngoài lề, đi vòng xung quanh hết thảy. Như thế có thể phát hiện ra được những điều mà người khác không thấy. Ví dụ như một nữ thẩm phán được một nữ cảnh sát ghé thăm - trong khi, nói chính xác ra, bà ta không có thời gian dành cho việc gì khác ngoài vụ điều tra mà bà ta phải làm việc hai mươi tư trên hai mươi tư giờ cho nó. Bà đã trao cho bà ấy cái gì?
– Tôi không trả lời câu hỏi này.
– Vậy thì tôi có thể cắt nghĩa việc đó như thế này: bà đã nhúng sâu vào chuyện này. Tôi có thể chạy một hàng tít lớn: "Nữ thẩm phán từ Scanie dính líu vào thảm kịch ở Hesjövallen."
Bà uống cạn tách cà phê rồi đứng dậy. Ông ta đi theo bà đến quầy lễ tân.
– Một khi bà cho tôi cái gì đó, tôi sẽ đền đáp lại bà.
– Tôi tuyệt đối không có gì để nói với ông. Không phải vì tôi có điều bí mật nào đó, mà vì tôi thật sự không có gì có thể làm cho một nhà báo quan tâm.
Lars Emanuelsson bĩu môi:
– Phóng viên. Không phải là nhà báo. Tôi cũng đâu có gọi bà là người "bóp méo sự thật".
Một ý nghĩ bỗng nảy ra trong đầu bà:
– Có phải ông là người đêm qua đã gọi điện thoại cho tôi?
– Không phải.
– Vậy thì dù sao tôi cũng đã được biết.
– Điện thoại của bà đổ chuông? Vào giữa ban đêm khi bà đang ngủ? Tôi có nên quan tâm đến điều này không?
Bà không trả lời, ấn nút gọi thang máy.
– Có điều tôi muốn tiết lộ cho bà biết, Lars Emanuelsson nói. Cảnh sát đang giấu giếm một chi tiết quan trọng. Nếu như người ta có thể gọi một con người là một chi tiết.
Cửa thang máy mở ra. Bà bước vào bên trong.
– Không phải chỉ có người già bị giết. Tại một trong những ngôi nhà ở đó, người ta còn tìm thấy một đứa bé.
Cửa thang máy khép lại. Lên đến tầng trên, bà lại ấn nút đi xuống. Ông ta vẫn chờ bà. Họ cùng ngồi xuống bên một chiếc bàn. Lars Emanuelsson châm thuốc hút.
– Ở đây cấm hút thuốc.
– Bà lại nói ra cái điều mà tôi không quan tâm.
Ông ta dùng chậu hoa trên bàn làm gạt tàn.
– Cần phải luôn tìm kiếm cái mà cảnh sát không muốn tiết lộ. Như thế ta có thể hiểu được họ nghĩ gì, họ tin sẽ tìm ra được hung thủ theo hướng nào. Trong số những người bị giết, có một cậu bé mười hai tuổi. Họ biết ai là những người họ hàng của nó và nó làm gì ở làng đó. Nhưng họ không công khai thông tin ấy.
– Do đâu mà ông biết được điều này?
– Đó là bí mật của tôi. Trong một cuộc điều tra hình sự, ở đâu đó luôn có một chỗ rò rỉ thông tin ra bên ngoài. Cần phải biết cách tìm kiếm nó, sau đó phải ghé sát tai vào đó.
– Đứa bé ấy là ai?
– Giờ thì chưa nói tên được. Tôi biết thằng bé tên là gì, nhưng tôi không có ý định cho bà biết. Nó đến thăm người bà con. Đáng lẽ ra nó phải đi học, nhưng đang được nghỉ ốm vì mổ mắt. Thằng bé đáng thương đó bị lác. Bây giờ mắt của nó đã nằm đúng vị trí. Đèn chớp đã tắt, có thể ví như thế. Vậy mà nó lại bị chém chết. Giống như hai ông bà già mà nó đến thăm. Nhưng không hoàn toàn như thế.
– Tại sao không? Khác biệt ở chỗ nào?
Lars Emanuelsson ngả người ra sau ghế. Cái bụng của ông ta lòi ra khỏi cạp quần. Birgitta Roslin thấy ông ta khả ố không thể tưởng được. Ông ta biết điều này nhưng mặc kệ.
– Còn bây giờ đến lượt bà. Vivi Sundberg, những cuốn sổ và những bức thư.
– Tôi có họ hàng xa với hai trong số các nạn nhân. Tôi đã đưa cho bà Vivi Sundberg một số tài liệu mà bà ấy đề nghị tôi cung cấp.
Ông ta nheo mắt quan sát bà.
– Và tôi nên tin điều đó?
– Ông hãy tin những gì ông muốn.
– Sổ sách gì vậy? Thư từ gì vậy?
– Nó có liên quan đến việc làm sáng tỏ mối quan hệ gia đình.
– Gia đình nào?
– Brita và August Andrén.
Ông ta gật đầu ngẫm nghĩ rồi bất ngờ dụi mạnh điếu thuốc vào chậu hoa.
– Nhà số hai hoặc số bảy. Cảnh sát dành cho mỗi một ngôi nhà một mật mã riêng. Nhà số hai có mật mã là 2/3. Điều này đương nhiên có nghĩa là ở trong nhà này có ba người bị giết.
Ông ta không rời mắt khỏi bà trong lúc móc từ trong bao đựng thuốc nhăn nheo ra nửa điếu thuốc đã hút dở.
– Điều không giải thích được là vì sao hai bà lại tỏ ra lạnh lùng với nhau như vậy.
– Bà ấy rất vội. Còn điều khác biệt ở đứa bé là gì?
– Điều này tôi vẫn chưa làm sáng tỏ được. Phải thừa nhận rằng lần này cảnh sát ở Hudiksvall và lực lượng tăng viện từ Stockholm đã thực sự biết giữ mồm giữ miệng. Nhưng tôi tin rằng thằng bé không bị giết bởi cùng thứ bạo lực mù quáng như những người khác.
– Ý ông là gì?
– Tôi muốn nói gì ư? Nó đã bị giết chết ngay mà không phải chịu những đau đớn không cần thiết, không bị hành hạ. Do vậy mà đương nhiên người ta có thể rút ra được hàng nghìn kết luận khác nhau, cái này lôi cuốn và đương nhiên là sai lầm hơn cái khác. Nhưng kết luận như thế nào tôi để bà tự rút ra. Trong trường hợp bà quan tâm đến nó.
Ông ta đứng dậy sau khi lại dụi mẩu thuốc vào chậu hoa.
– Còn bây giờ tôi lại phải tiếp tục đi vòng vòng đây, ông ta nói. Có thể chúng ta sẽ lại gặp nhau trên đường. Ai mà biết được?
Bà trở lên phòng để gói ghém va li. Nhưng bà dừng lại bên cửa sổ và quan sát người đàn ông không mệt mỏi kéo những đứa con trên xe trượt tuyết. Bà nghĩ tới Lars Emanuelsson. Thật ra người đàn ông khó chịu ấy đã nói gì và ông ta có thật sự khó chịu như bà nghĩ không? Có lẽ ông ta cũng chỉ làm công việc của mình. Bà đã không niềm nở với ông ta. Giá như bà xử sự khác, có thể ông ta còn kể cho bà nghe nhiều chuyện nữa.
Bà ngồi xuống bên chiếc bàn viết nhỏ và bắt đầu ghi chép. Như mọi khi, bà suy nghĩ được sáng rõ hơn khi cầm bút chì trong tay. Bà chưa đọc thấy ở đâu nói rằng có một bé trai bị giết chết. Có lẽ nó là đứa bé duy nhất bị giết, trong trường hợp không có nạn nhân nào khác mà cộng đồng không được biết. Những ám chỉ của Lars Emanuelsson về một thứ bạo lực mù quáng có nghĩa là những người khác trong nhà ấy đã bị ngược đãi, thậm chí bị tra tấn trước khi bị giết. Lý do nào mà đứa bé đã được bỏ qua, không bị tra tấn? Có thể đơn giản vì nó còn là một đứa bé và hung thủ đã không tàn nhẫn đối với nó? Hay còn một lý do nào khác?
Không có câu trả lời nào tự nhiên mà có. Đó cũng không phải là vấn đề của bà. Bà vẫn còn cảm thấy xấu hổ về việc đã xảy ra hôm qua. Bà biết hành vi của mình là không thể bào chữa được. Bà không dám hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu bà bị một nhà báo phát hiện. Lúc đó bà chỉ còn nước, nói nhẹ đi, là rút lui một cách nhục nhã về Scanie.
Bà gói ghém xong đồ đạc và chuẩn bị trả phòng. Trước khi đi bà bật vô tuyến để xem dự báo thời tiết rồi sau đó mới quyết định đi theo đường nào về nhà. Bà mở đúng chương trình phát cuộc họp báo ở sở cảnh sát Hudiksvall. Có ba nhân vật ngồi trên khán đài nhỏ: Vivi Sundberg là người phụ nữ duy nhất. Tim bà thắt lại. Nếu như Vivi Sundberg định thông báo rằng một nữ thẩm phán từ Helsingborg đã bị bắt quả tang như một tên trộm tầm thường thì sao, bà thầm nghĩ. Bà ngồi lên thành giường vặn to tiếng hơn. Người đàn ông ngồi ở giữa, Tobias Ludwig, đang phát biểu.
Đây là một chương trình phát trực tiếp. Khi Tobias Ludwig nói xong, người đàn ông thứ hai, công tố viên Robertsson, kéo chiếc micro về phía mình và nhấn mạnh rằng cảnh sát đang rất cần có những thông tin từ người dân. Mỗi một quan sát, dù đó là xe ô tô, hoặc người lạ mặt, trong thời gian xảy ra vụ án đã xuất hiện ở đây, tất cả, những gì khác lạ so với thông thường, đều mang ý nghĩa quan trọng cho công tác điều tra.
Sau công tố viên, đến lượt Vivi Sundberg. Bà giơ cao chiếc túi nilon. Ống kính máy quay zoom lại gần: trong đó chứa một dải lụa màu đỏ. Vivi Sundberg nói rằng cảnh sát rất muốn biết liệu có ai nhận ra dải lụa này không.
Birgitta Roslin ghé sát mặt vào màn hình. Không phải là mình đã nhìn thấy ở đâu đó một dải lụa đỏ giống như thế kia hay sao? Bà ngồi xổm xuống trước màn hình để có thể nhìn được rõ hơn. Dải lụa đỏ nhắc cho bà nhớ tới một cái gì đó. Bà lục lại trong trí nhớ, nhưng uổng công.
Cuộc họp báo được tiếp tục với những câu hỏi của cánh nhà báo. Hình ảnh cuộc họp biến mất, thay vào đó là một bản đồ khí tượng: dọc theo miền duyên hải phía Đông có thể có mưa tuyết từ vịnh Phần Lan tràn vào.
Birgitta Roslin quyết định đi theo tuyến đường sâu trong nội địa. Bà thanh toán tiền phòng bằng séc ở quầy lễ tân. Trên đường ra chỗ đỗ xe, bà thấy gió lạnh như cắt da. Bà để va li lên hàng ghế sau, xem lại bản đồ giao thông và dự kiến đi qua các khu rừng về Järvsö rồi từ đó sẽ đi xuống phía Nam.
Khi ra tới đường quốc lộ, bỗng nhiên bà cho xe tạt vào một trạm nghỉ. Dải lụa đỏ trong vô tuyến không chịu ra khỏi đầu bà. Nó gợi bà nhớ đến một cái gì đó mà bà đã từng thấy. Hình ảnh lờ mờ trong ký ức chỉ bị ngăn cách với tiềm thức rõ ràng của bà bởi một lớp màng mỏng. Nhưng bà vẫn không thể nào nắm bắt được hình ảnh ấy. Một khi mình đã phải đi xa như thế này thì bất luận thế nào cũng phải cố tìm cho ra cái mà mình chưa sực nhớ ra được, bà nghĩ, và gọi điện thoại đến sở cảnh sát. Một vài chiếc xe chở gỗ chạy qua chỗ bà đỗ xe, cuốn theo những lớp tuyết, che mất tầm nhìn của bà trong chốc lát. Mãi lâu sau mới có người nhấc máy điện thoại. Nữ nhân viên trực điện thoại xem ra có vẻ mệt mỏi. Bà đề nghị cô ta nối máy cho mình nói chuyện với Erik Huddén.
– Việc này có liên quan đến công tác điều tra, bà giải thích. Ở Hesjövallen.
– Tôi nghĩ khó mà gặp được ông ấy. Nhưng tôi sẽ thử xem.
Cuối cùng Erik cũng nhấc máy khi mà hy vọng của bà tưởng như đã mất. Giọng nói của anh cũng mang vẻ vội vàng và sốt ruột.
– Huddén nghe đây.
– Tôi không biết, liệu ông có nhớ ra tôi không, bà nói. Tôi là nữ thẩm phán đã có lần tới chỗ ông và cứ khăng khăng đòi được nói chuyện với bà Sundberg.
– Tôi nhớ ra rồi.
Bà thầm hỏi liệu Vivi Sundberg có nói với anh ta về sự kiện đêm qua hay không. Nhưng bà có ấn tượng Erik Huddén không biết gì về chuyện đó. Có lẽ Vivi Sundberg thực sự giữ kín chuyện này như đã hứa chăng? Thật may cho mình, dĩ nhiên là việc để mình vào trong ngôi nhà ấy là không đúng quy định.
– Việc này có liên quan đến dải lụa đỏ mà các vị đã đưa lên vô tuyến, bà nói.
– Đáng tiếc đó là một sai lầm khi công bố nó, Huddén nói.
– Vì sao vậy?
– Hiện nay tổng đài của chúng tôi đang bị các cuộc điện thoại gọi đến làm cho tắc nghẽn, ai cũng khẳng định là mình đã nhìn thấy dải băng đó. Thậm chí là nhìn thấy trên hộp quà Noel của họ!
– Nhưng ký ức của tôi thì lại nói đến một cái gì đó hoàn toàn khác. Tôi tin là mình đã nhìn thấy nó.
– Ở đâu?
– Điều này tôi còn chưa nhớ ra. Nhưng dù sao thì cũng không phải trên hộp quà Noel.
Huddén thở dài trên điện thoại, dường như chưa biết phải quyết định như thế nào.
– Tôi sẽ cho bà xem dải lụa đó, cuối cùng anh cũng nói. Nếu như lúc này bà có thể đến chỗ tôi.
– Nửa tiếng nữa nhé?
– Nhưng tôi chỉ có thể dành cho bà hai phút, không hơn.
Huddén đón bà ở phòng thường trực, vừa ho vừa hắt hơi. Chiếc túi nilon bên trong có dải lụa nằm trên bàn làm việc của anh. Anh lấy nó ra và để lên mặt tờ giấy trắng.
– Nó dài chính xác mười chín centimet, anh nói. Rộng gần một centimet. Ở đầu dây có một lỗ thủng, cho thấy dải băng này đã được buộc vào một cái gì đó. Chất liệu của nó là vải bông và polyester, nhưng trông giống như là vải lụa. Chúng tôi tìm thấy nó ở trong tuyết. Một trong những chú chó đã đánh hơi thấy.
Bà cố gắng hết sức. Bà chắc chắn là đã từng nhìn thấy dải băng. Nhưng lại không nhớ ở đâu.
– Tôi đã từng thấy nó, bà nói. Tôi có thể thề như thế. Có lẽ không chính xác là cái này. Nhưng tương tự.
– Ở đâu?
– Điều đó tôi lại chưa nhớ ra được.
– Một khi bà nhìn thấy một dải băng tương tự ở Scanie, thì nó sẽ chẳng giúp gì được cho chúng tôi đâu.
– Không, bà nghiêm túc nói. Tôi đã thấy nó ở đâu đây thôi.
Trong khi bà quan sát dải băng, Erik Huddén ngả lưng tựa vào tường và chờ đợi.
– Bà đã nhớ ra chưa?
– Chưa. Đáng tiếc là chưa.
Huddén lại nhét dải băng vào túi nilon và đi cùng với bà xuống phòng thường trực.
– Khi nào bà nhớ ra hãy gọi điện cho chúng tôi, anh nói. Nhưng nếu nó chỉ là một dây buộc quà tặng thì bà không cần phải báo đâu.
Lars Emanuelsson đứng trên đường đợi bà. Chiếc mũ lông đã cũ được ông ta kéo trùm hết trán. Khi phát hiện ra ông ta, bà phẫn nộ:
– Tại sao ông lại theo dõi tôi?
– Tôi đâu có làm việc đó. Tôi đi lòng vòng thôi mà, như tôi đã giải thích với bà. Vừa rồi tình cờ tôi nhìn thấy bà đi vào sở cảnh sát, vậy là tôi nghĩ mình có thể chờ bà ra. Ngay lúc này tôi đang tự hỏi cuộc viếng thăm sở cảnh sát ngắn ngủi của bà có ý nghĩa gì.
– Ông sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó. Giờ thì hãy để cho tôi được yên trước khi tôi bực mình.
Bà bỏ đi nhưng vẫn nghe thấy tiếng ông ta nói ở phía sau.
– Bà đừng quên rằng tôi có thể viết.
Bà quay ngoắt người lại:
– Ông đe dọa tôi đấy à?
– Hoàn toàn không.
– Tôi đã giải thích cho ông nghe vì sao tôi có mặt ở đây. Hoàn toàn không có lý do nào để tôi bị lôi kéo vào cuộc điều tra.
– Công chúng rộng rãi đọc những gì sẽ được viết ra, dù nó có là sự thật hay không.
Lần này thì Lars Emanuelsson quay người bỏ đi. Bà kinh tởm nhìn theo ông ta và hy vọng sẽ không bao giờ còn phải gặp lại ông ta nữa.
Birgitta Roslin trở về xe của mình. Vừa ngồi vào sau tay lái, bà sực nhớ ra mình đã nhìn thấy dải lụa đỏ ấy ở đâu. Mọi ký ức bỗng nhiên xuất hiện như từ cõi hư vô. Bà nhầm lẫn chăng? Không, bà nhìn thấy nó rất rõ ràng trước mặt mình.
Bà phải chờ hai tiếng đồng hồ, vì nơi bà muốn ghé thăm còn đóng cửa. Trong khoảng thời gian này, bà đi lang thang trong phố giống như một hồn ma bất an, thiếu kiên nhẫn, không hài lòng, vì không xác nhận được ngay cái mà bà tin là đã phát hiện thấy.
Quán ăn Trung Quốc mở cửa vào lúc mười một giờ trưa. Birgitta Roslin lại ngồi vào chiếc bàn mà lần trước đã chọn. Bà quan sát những chiếc đèn lồng treo trên các bàn ăn. Chúng được làm bằng chất liệu trong suốt, như là một loại vải sợi nhân tạo mỏng, đem lại ấn tượng như những chiếc đèn lồng bằng giấy. Những chiếc đèn này có hình trụ dài. Ở mép dưới treo bốn dải băng đỏ.
Sau lần đến gặp Erik Huddén, bà biết dải băng dài mười chín centimet. Chúng được móc vào chao đèn bởi những chiếc móc sắt xâu qua đầu trên dải băng.
Cô gái hầu như không biết tiếng Thụy Điển cầm trên tay quyển thực đơn đi đến chỗ bà. Cô cười khi nhận ra bà. Birgitta Roslin chọn các món ăn buffet, mặc dù không cảm thấy đói. Trong lúc tự chọn thức ăn trên bàn buffet, bà có điều kiện nhìn quanh phòng ăn. Bà đã tìm thấy cái cần tìm bên một chiếc bàn dành cho hai khách trong một góc phòng: chiếc đèn lồng treo trên chiếc bàn đó thiếu một dải đỏ.
Bà đứng lại và nín thở.
Người đó đã ngồi ở đây, bà nghĩ. Trong góc tối nhất. Rồi sau đấy, người đó đứng dậy, rời khỏi quán ăn và đi về Hesjövallen.
Người đó hẳn là đàn ông. Chắc chắn là một người đàn ông.
Bà nhìn quanh căn phòng. Cô phục vụ mỉm cười. Từ trong bếp vọng ra tiếng trò chuyện bằng tiếng Trung Quốc.
Bà nghĩ rằng không chỉ bản thân bà mà cả cảnh sát cũng không hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Nó rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, bí ẩn hơn so với những gì mà họ có thể tưởng tượng ra.
Nói đúng ra, họ hoàn toàn không biết được gì.
Bà nhẩm tính lại trong cuộc đời làm thẩm phán, bà đã bỏ tù ba kẻ giết người có chủ định và bảy người do ngộ sát. Ngoài ra còn một loạt những kẻ cưỡng dâm và những gã đánh người gây thương tích mà chỉ là nhờ may mắn mới không chuyển thành tội giết người.
Những ý nghĩ ấy đã khiến bà cảm thấy bất an. Đong đếm cuộc sống của bà chỉ dựa trên số lượng những kẻ sát nhân bị bà bỏ tù: phải chăng đó thực sự là kết quả những cố gắng của bà?
Đã hai lần bà bị đe dọa. Lần đầu, cảnh sát Helsingborg cho rằng cần phải bố trí người bảo vệ bà. Việc này có liên quan đến một kẻ buôn bán ma túy đã có tiền án sử dụng xe máy để trấn lột. Ngày đó các con bà còn nhỏ. Đó là một quãng thời gian khó khăn cho cuộc sống gia đình bà: hầu như không có ngày nào là bà và Staffan không to tiếng với nhau.
Trong khi ăn bà tránh nhìn vào những tờ báo hẳn đã được lợi trong vụ ở Hesjövallen. Thay vào đó, bà cầm lấy tờ báo kinh tế, lơ đãng giở các trang: thị trường chứng khoán, số lượng phụ nữ trong hội đồng quản trị của các công ty Thụy Điển. Trong phòng ăn không có nhiều người. Bà lấy thêm cốc cà phê thứ hai và nghĩ liệu có nên chọn đường khác để trở về nhà không. Có thể theo hướng Tây, qua các khu rừng của Värmland?
Bỗng nhiên có ai đó nói với bà. Một người đàn ông ngồi một mình ở chiếc bàn không quá xa bà.
– Ông nói với tôi à?
– Tôi chỉ muốn biết Vivi Sundberg đã muốn gì ở bà?
Bà không biết người đàn ông này và không hiểu rõ ông ta vừa nói gì. Trước khi bà kịp trả lời, ông ta đứng lên đi đến bàn của bà. Ông ta kéo một chiếc ghế và ngồi xuống mà không cần hỏi liệu bà có đồng ý hay không.
Người đàn ông có mái tóc màu lửa, cỡ chừng sáu mươi tuổi, to béo và cơ thể bốc mùi.
Bà thấy bực và lập tức bảo vệ lãnh thổ của mình.
– Tôi muốn được yên lặng ăn xong bữa sáng.
– Thì bà đã ăn sáng xong rồi. Tôi chỉ muốn đặt một vài câuhỏi.
– Tôi không hề biết ông là ai.
– Lars Emanuelsson, phóng viên. Không phải một tay bồi bút. Tôi còn khá hơn họ. Tôi không viết những chuyện ngồi lê đôi mách. Các bài của tôi đều được viết kỹ lưỡng và có phong cách.
– Điều này còn lâu mới đủ cho ông cái quyền quấy rầy tôi trong bữa ăn sáng.
Lars Emanuelsson đứng dậy ngồi vào bàn bên cạnh.
– Thế này tốt hơn chứ?
– Vâng, tốt hơn. Và ông viết bài cho ai?
– Điều này thì tôi còn chưa quyết định. Trước tiên tôi cứ viết ra giấy đã, rồi mới quyết định ai là người nhận được nó. Tôi không tùy tiện bán cho bất kỳ ai.
Kiểu khoe khang khoác lác của ông ta càng lúc càng khiến bà bực mình. Ngoài ra bà còn ngửi thấy mùi ở ông ta, cái mùi lâu ngày không tắm rửa. Ông ta như bức hí họa một nhà báo hay quấy rối.
– Tôi được biết hôm qua bà đã nói chuyện với bà Vivi Sundberg. Đó không phải là một cuộc trao đổi thân tình đặc biệt. Hai nữ đối thủ ngờ vực lẫn nhau. Tôi nhầm chăng?
– Phải đấy. Ông đã nhầm. Tôi không có gì để nói với ông.
– Nhưng bà không thể chối cãi là đã nói chuyện với bà ấy chứ?
– Điều này tôi cũng không làm.
– Tôi tự hỏi một nữ thẩm phán từ Helsingborg làm gì ở đây? Bà có liên quan gì đến cuộc điều tra? Trong một làng nhỏ heo hút ở phía Bắc đã xảy ra những điều khủng khiếp và Birgitta Roslin phóng xe từ Helsingborg đến đây.
Bà giật nẩy mình.
– Ông muốn gì? Do đâu mà ông biết tôi là ai?
– Đó là chuyện phương pháp. Cả cuộc đời người ta tìm kiếm phương cách tốt nhất để đạt được mục đích của mình. Tôi cho rằng với một thẩm phán thì cũng tương tự thế thôi. Các quy tắc, sắc lệnh, đạo luật và pháp chế là một chuyện. Nhưng mỗi người đều có phương pháp của riêng mình. Tôi không còn biết mình đã viết về bao nhiêu cuộc điều tra hình sự nữa. Một năm trời, tính chính xác là ba trăm sáu mươi sáu ngày, tôi đã theo dõi cuộc điều tra vụ Olof Palme. Tôi đã sớm biết rằng sẽ không bao giờ tóm được kẻ giết người, vì cuộc điều tra đã thất bại trước cả khi nó bắt đầu. Cảnh sát và các công tố viên chịu trách nhiệm vụ đó chỉ tìm cách vênh vang trước các kênh truyền hình. Ngày đó có rất nhiều người cho rằng kẻ giết người là Christer Pettersson. Cho tới khi có một số điều tra viên thông minh nhận ra rằng ông ta không phải là hung thủ, bất luận ở phương diện nào. Nhưng chẳng có ai thèm nghe họ. Còn tôi thì dù gì cũng chỉ muốn đứng ngoài lề, đi vòng xung quanh hết thảy. Như thế có thể phát hiện ra được những điều mà người khác không thấy. Ví dụ như một nữ thẩm phán được một nữ cảnh sát ghé thăm - trong khi, nói chính xác ra, bà ta không có thời gian dành cho việc gì khác ngoài vụ điều tra mà bà ta phải làm việc hai mươi tư trên hai mươi tư giờ cho nó. Bà đã trao cho bà ấy cái gì?
– Tôi không trả lời câu hỏi này.
– Vậy thì tôi có thể cắt nghĩa việc đó như thế này: bà đã nhúng sâu vào chuyện này. Tôi có thể chạy một hàng tít lớn: "Nữ thẩm phán từ Scanie dính líu vào thảm kịch ở Hesjövallen."
Bà uống cạn tách cà phê rồi đứng dậy. Ông ta đi theo bà đến quầy lễ tân.
– Một khi bà cho tôi cái gì đó, tôi sẽ đền đáp lại bà.
– Tôi tuyệt đối không có gì để nói với ông. Không phải vì tôi có điều bí mật nào đó, mà vì tôi thật sự không có gì có thể làm cho một nhà báo quan tâm.
Lars Emanuelsson bĩu môi:
– Phóng viên. Không phải là nhà báo. Tôi cũng đâu có gọi bà là người "bóp méo sự thật".
Một ý nghĩ bỗng nảy ra trong đầu bà:
– Có phải ông là người đêm qua đã gọi điện thoại cho tôi?
– Không phải.
– Vậy thì dù sao tôi cũng đã được biết.
– Điện thoại của bà đổ chuông? Vào giữa ban đêm khi bà đang ngủ? Tôi có nên quan tâm đến điều này không?
Bà không trả lời, ấn nút gọi thang máy.
– Có điều tôi muốn tiết lộ cho bà biết, Lars Emanuelsson nói. Cảnh sát đang giấu giếm một chi tiết quan trọng. Nếu như người ta có thể gọi một con người là một chi tiết.
Cửa thang máy mở ra. Bà bước vào bên trong.
– Không phải chỉ có người già bị giết. Tại một trong những ngôi nhà ở đó, người ta còn tìm thấy một đứa bé.
Cửa thang máy khép lại. Lên đến tầng trên, bà lại ấn nút đi xuống. Ông ta vẫn chờ bà. Họ cùng ngồi xuống bên một chiếc bàn. Lars Emanuelsson châm thuốc hút.
– Ở đây cấm hút thuốc.
– Bà lại nói ra cái điều mà tôi không quan tâm.
Ông ta dùng chậu hoa trên bàn làm gạt tàn.
– Cần phải luôn tìm kiếm cái mà cảnh sát không muốn tiết lộ. Như thế ta có thể hiểu được họ nghĩ gì, họ tin sẽ tìm ra được hung thủ theo hướng nào. Trong số những người bị giết, có một cậu bé mười hai tuổi. Họ biết ai là những người họ hàng của nó và nó làm gì ở làng đó. Nhưng họ không công khai thông tin ấy.
– Do đâu mà ông biết được điều này?
– Đó là bí mật của tôi. Trong một cuộc điều tra hình sự, ở đâu đó luôn có một chỗ rò rỉ thông tin ra bên ngoài. Cần phải biết cách tìm kiếm nó, sau đó phải ghé sát tai vào đó.
– Đứa bé ấy là ai?
– Giờ thì chưa nói tên được. Tôi biết thằng bé tên là gì, nhưng tôi không có ý định cho bà biết. Nó đến thăm người bà con. Đáng lẽ ra nó phải đi học, nhưng đang được nghỉ ốm vì mổ mắt. Thằng bé đáng thương đó bị lác. Bây giờ mắt của nó đã nằm đúng vị trí. Đèn chớp đã tắt, có thể ví như thế. Vậy mà nó lại bị chém chết. Giống như hai ông bà già mà nó đến thăm. Nhưng không hoàn toàn như thế.
– Tại sao không? Khác biệt ở chỗ nào?
Lars Emanuelsson ngả người ra sau ghế. Cái bụng của ông ta lòi ra khỏi cạp quần. Birgitta Roslin thấy ông ta khả ố không thể tưởng được. Ông ta biết điều này nhưng mặc kệ.
– Còn bây giờ đến lượt bà. Vivi Sundberg, những cuốn sổ và những bức thư.
– Tôi có họ hàng xa với hai trong số các nạn nhân. Tôi đã đưa cho bà Vivi Sundberg một số tài liệu mà bà ấy đề nghị tôi cung cấp.
Ông ta nheo mắt quan sát bà.
– Và tôi nên tin điều đó?
– Ông hãy tin những gì ông muốn.
– Sổ sách gì vậy? Thư từ gì vậy?
– Nó có liên quan đến việc làm sáng tỏ mối quan hệ gia đình.
– Gia đình nào?
– Brita và August Andrén.
Ông ta gật đầu ngẫm nghĩ rồi bất ngờ dụi mạnh điếu thuốc vào chậu hoa.
– Nhà số hai hoặc số bảy. Cảnh sát dành cho mỗi một ngôi nhà một mật mã riêng. Nhà số hai có mật mã là 2/3. Điều này đương nhiên có nghĩa là ở trong nhà này có ba người bị giết.
Ông ta không rời mắt khỏi bà trong lúc móc từ trong bao đựng thuốc nhăn nheo ra nửa điếu thuốc đã hút dở.
– Điều không giải thích được là vì sao hai bà lại tỏ ra lạnh lùng với nhau như vậy.
– Bà ấy rất vội. Còn điều khác biệt ở đứa bé là gì?
– Điều này tôi vẫn chưa làm sáng tỏ được. Phải thừa nhận rằng lần này cảnh sát ở Hudiksvall và lực lượng tăng viện từ Stockholm đã thực sự biết giữ mồm giữ miệng. Nhưng tôi tin rằng thằng bé không bị giết bởi cùng thứ bạo lực mù quáng như những người khác.
– Ý ông là gì?
– Tôi muốn nói gì ư? Nó đã bị giết chết ngay mà không phải chịu những đau đớn không cần thiết, không bị hành hạ. Do vậy mà đương nhiên người ta có thể rút ra được hàng nghìn kết luận khác nhau, cái này lôi cuốn và đương nhiên là sai lầm hơn cái khác. Nhưng kết luận như thế nào tôi để bà tự rút ra. Trong trường hợp bà quan tâm đến nó.
Ông ta đứng dậy sau khi lại dụi mẩu thuốc vào chậu hoa.
– Còn bây giờ tôi lại phải tiếp tục đi vòng vòng đây, ông ta nói. Có thể chúng ta sẽ lại gặp nhau trên đường. Ai mà biết được?
Bà trở lên phòng để gói ghém va li. Nhưng bà dừng lại bên cửa sổ và quan sát người đàn ông không mệt mỏi kéo những đứa con trên xe trượt tuyết. Bà nghĩ tới Lars Emanuelsson. Thật ra người đàn ông khó chịu ấy đã nói gì và ông ta có thật sự khó chịu như bà nghĩ không? Có lẽ ông ta cũng chỉ làm công việc của mình. Bà đã không niềm nở với ông ta. Giá như bà xử sự khác, có thể ông ta còn kể cho bà nghe nhiều chuyện nữa.
Bà ngồi xuống bên chiếc bàn viết nhỏ và bắt đầu ghi chép. Như mọi khi, bà suy nghĩ được sáng rõ hơn khi cầm bút chì trong tay. Bà chưa đọc thấy ở đâu nói rằng có một bé trai bị giết chết. Có lẽ nó là đứa bé duy nhất bị giết, trong trường hợp không có nạn nhân nào khác mà cộng đồng không được biết. Những ám chỉ của Lars Emanuelsson về một thứ bạo lực mù quáng có nghĩa là những người khác trong nhà ấy đã bị ngược đãi, thậm chí bị tra tấn trước khi bị giết. Lý do nào mà đứa bé đã được bỏ qua, không bị tra tấn? Có thể đơn giản vì nó còn là một đứa bé và hung thủ đã không tàn nhẫn đối với nó? Hay còn một lý do nào khác?
Không có câu trả lời nào tự nhiên mà có. Đó cũng không phải là vấn đề của bà. Bà vẫn còn cảm thấy xấu hổ về việc đã xảy ra hôm qua. Bà biết hành vi của mình là không thể bào chữa được. Bà không dám hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu bà bị một nhà báo phát hiện. Lúc đó bà chỉ còn nước, nói nhẹ đi, là rút lui một cách nhục nhã về Scanie.
Bà gói ghém xong đồ đạc và chuẩn bị trả phòng. Trước khi đi bà bật vô tuyến để xem dự báo thời tiết rồi sau đó mới quyết định đi theo đường nào về nhà. Bà mở đúng chương trình phát cuộc họp báo ở sở cảnh sát Hudiksvall. Có ba nhân vật ngồi trên khán đài nhỏ: Vivi Sundberg là người phụ nữ duy nhất. Tim bà thắt lại. Nếu như Vivi Sundberg định thông báo rằng một nữ thẩm phán từ Helsingborg đã bị bắt quả tang như một tên trộm tầm thường thì sao, bà thầm nghĩ. Bà ngồi lên thành giường vặn to tiếng hơn. Người đàn ông ngồi ở giữa, Tobias Ludwig, đang phát biểu.
Đây là một chương trình phát trực tiếp. Khi Tobias Ludwig nói xong, người đàn ông thứ hai, công tố viên Robertsson, kéo chiếc micro về phía mình và nhấn mạnh rằng cảnh sát đang rất cần có những thông tin từ người dân. Mỗi một quan sát, dù đó là xe ô tô, hoặc người lạ mặt, trong thời gian xảy ra vụ án đã xuất hiện ở đây, tất cả, những gì khác lạ so với thông thường, đều mang ý nghĩa quan trọng cho công tác điều tra.
Sau công tố viên, đến lượt Vivi Sundberg. Bà giơ cao chiếc túi nilon. Ống kính máy quay zoom lại gần: trong đó chứa một dải lụa màu đỏ. Vivi Sundberg nói rằng cảnh sát rất muốn biết liệu có ai nhận ra dải lụa này không.
Birgitta Roslin ghé sát mặt vào màn hình. Không phải là mình đã nhìn thấy ở đâu đó một dải lụa đỏ giống như thế kia hay sao? Bà ngồi xổm xuống trước màn hình để có thể nhìn được rõ hơn. Dải lụa đỏ nhắc cho bà nhớ tới một cái gì đó. Bà lục lại trong trí nhớ, nhưng uổng công.
Cuộc họp báo được tiếp tục với những câu hỏi của cánh nhà báo. Hình ảnh cuộc họp biến mất, thay vào đó là một bản đồ khí tượng: dọc theo miền duyên hải phía Đông có thể có mưa tuyết từ vịnh Phần Lan tràn vào.
Birgitta Roslin quyết định đi theo tuyến đường sâu trong nội địa. Bà thanh toán tiền phòng bằng séc ở quầy lễ tân. Trên đường ra chỗ đỗ xe, bà thấy gió lạnh như cắt da. Bà để va li lên hàng ghế sau, xem lại bản đồ giao thông và dự kiến đi qua các khu rừng về Järvsö rồi từ đó sẽ đi xuống phía Nam.
Khi ra tới đường quốc lộ, bỗng nhiên bà cho xe tạt vào một trạm nghỉ. Dải lụa đỏ trong vô tuyến không chịu ra khỏi đầu bà. Nó gợi bà nhớ đến một cái gì đó mà bà đã từng thấy. Hình ảnh lờ mờ trong ký ức chỉ bị ngăn cách với tiềm thức rõ ràng của bà bởi một lớp màng mỏng. Nhưng bà vẫn không thể nào nắm bắt được hình ảnh ấy. Một khi mình đã phải đi xa như thế này thì bất luận thế nào cũng phải cố tìm cho ra cái mà mình chưa sực nhớ ra được, bà nghĩ, và gọi điện thoại đến sở cảnh sát. Một vài chiếc xe chở gỗ chạy qua chỗ bà đỗ xe, cuốn theo những lớp tuyết, che mất tầm nhìn của bà trong chốc lát. Mãi lâu sau mới có người nhấc máy điện thoại. Nữ nhân viên trực điện thoại xem ra có vẻ mệt mỏi. Bà đề nghị cô ta nối máy cho mình nói chuyện với Erik Huddén.
– Việc này có liên quan đến công tác điều tra, bà giải thích. Ở Hesjövallen.
– Tôi nghĩ khó mà gặp được ông ấy. Nhưng tôi sẽ thử xem.
Cuối cùng Erik cũng nhấc máy khi mà hy vọng của bà tưởng như đã mất. Giọng nói của anh cũng mang vẻ vội vàng và sốt ruột.
– Huddén nghe đây.
– Tôi không biết, liệu ông có nhớ ra tôi không, bà nói. Tôi là nữ thẩm phán đã có lần tới chỗ ông và cứ khăng khăng đòi được nói chuyện với bà Sundberg.
– Tôi nhớ ra rồi.
Bà thầm hỏi liệu Vivi Sundberg có nói với anh ta về sự kiện đêm qua hay không. Nhưng bà có ấn tượng Erik Huddén không biết gì về chuyện đó. Có lẽ Vivi Sundberg thực sự giữ kín chuyện này như đã hứa chăng? Thật may cho mình, dĩ nhiên là việc để mình vào trong ngôi nhà ấy là không đúng quy định.
– Việc này có liên quan đến dải lụa đỏ mà các vị đã đưa lên vô tuyến, bà nói.
– Đáng tiếc đó là một sai lầm khi công bố nó, Huddén nói.
– Vì sao vậy?
– Hiện nay tổng đài của chúng tôi đang bị các cuộc điện thoại gọi đến làm cho tắc nghẽn, ai cũng khẳng định là mình đã nhìn thấy dải băng đó. Thậm chí là nhìn thấy trên hộp quà Noel của họ!
– Nhưng ký ức của tôi thì lại nói đến một cái gì đó hoàn toàn khác. Tôi tin là mình đã nhìn thấy nó.
– Ở đâu?
– Điều này tôi còn chưa nhớ ra. Nhưng dù sao thì cũng không phải trên hộp quà Noel.
Huddén thở dài trên điện thoại, dường như chưa biết phải quyết định như thế nào.
– Tôi sẽ cho bà xem dải lụa đó, cuối cùng anh cũng nói. Nếu như lúc này bà có thể đến chỗ tôi.
– Nửa tiếng nữa nhé?
– Nhưng tôi chỉ có thể dành cho bà hai phút, không hơn.
Huddén đón bà ở phòng thường trực, vừa ho vừa hắt hơi. Chiếc túi nilon bên trong có dải lụa nằm trên bàn làm việc của anh. Anh lấy nó ra và để lên mặt tờ giấy trắng.
– Nó dài chính xác mười chín centimet, anh nói. Rộng gần một centimet. Ở đầu dây có một lỗ thủng, cho thấy dải băng này đã được buộc vào một cái gì đó. Chất liệu của nó là vải bông và polyester, nhưng trông giống như là vải lụa. Chúng tôi tìm thấy nó ở trong tuyết. Một trong những chú chó đã đánh hơi thấy.
Bà cố gắng hết sức. Bà chắc chắn là đã từng nhìn thấy dải băng. Nhưng lại không nhớ ở đâu.
– Tôi đã từng thấy nó, bà nói. Tôi có thể thề như thế. Có lẽ không chính xác là cái này. Nhưng tương tự.
– Ở đâu?
– Điều đó tôi lại chưa nhớ ra được.
– Một khi bà nhìn thấy một dải băng tương tự ở Scanie, thì nó sẽ chẳng giúp gì được cho chúng tôi đâu.
– Không, bà nghiêm túc nói. Tôi đã thấy nó ở đâu đây thôi.
Trong khi bà quan sát dải băng, Erik Huddén ngả lưng tựa vào tường và chờ đợi.
– Bà đã nhớ ra chưa?
– Chưa. Đáng tiếc là chưa.
Huddén lại nhét dải băng vào túi nilon và đi cùng với bà xuống phòng thường trực.
– Khi nào bà nhớ ra hãy gọi điện cho chúng tôi, anh nói. Nhưng nếu nó chỉ là một dây buộc quà tặng thì bà không cần phải báo đâu.
Lars Emanuelsson đứng trên đường đợi bà. Chiếc mũ lông đã cũ được ông ta kéo trùm hết trán. Khi phát hiện ra ông ta, bà phẫn nộ:
– Tại sao ông lại theo dõi tôi?
– Tôi đâu có làm việc đó. Tôi đi lòng vòng thôi mà, như tôi đã giải thích với bà. Vừa rồi tình cờ tôi nhìn thấy bà đi vào sở cảnh sát, vậy là tôi nghĩ mình có thể chờ bà ra. Ngay lúc này tôi đang tự hỏi cuộc viếng thăm sở cảnh sát ngắn ngủi của bà có ý nghĩa gì.
– Ông sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó. Giờ thì hãy để cho tôi được yên trước khi tôi bực mình.
Bà bỏ đi nhưng vẫn nghe thấy tiếng ông ta nói ở phía sau.
– Bà đừng quên rằng tôi có thể viết.
Bà quay ngoắt người lại:
– Ông đe dọa tôi đấy à?
– Hoàn toàn không.
– Tôi đã giải thích cho ông nghe vì sao tôi có mặt ở đây. Hoàn toàn không có lý do nào để tôi bị lôi kéo vào cuộc điều tra.
– Công chúng rộng rãi đọc những gì sẽ được viết ra, dù nó có là sự thật hay không.
Lần này thì Lars Emanuelsson quay người bỏ đi. Bà kinh tởm nhìn theo ông ta và hy vọng sẽ không bao giờ còn phải gặp lại ông ta nữa.
Birgitta Roslin trở về xe của mình. Vừa ngồi vào sau tay lái, bà sực nhớ ra mình đã nhìn thấy dải lụa đỏ ấy ở đâu. Mọi ký ức bỗng nhiên xuất hiện như từ cõi hư vô. Bà nhầm lẫn chăng? Không, bà nhìn thấy nó rất rõ ràng trước mặt mình.
Bà phải chờ hai tiếng đồng hồ, vì nơi bà muốn ghé thăm còn đóng cửa. Trong khoảng thời gian này, bà đi lang thang trong phố giống như một hồn ma bất an, thiếu kiên nhẫn, không hài lòng, vì không xác nhận được ngay cái mà bà tin là đã phát hiện thấy.
Quán ăn Trung Quốc mở cửa vào lúc mười một giờ trưa. Birgitta Roslin lại ngồi vào chiếc bàn mà lần trước đã chọn. Bà quan sát những chiếc đèn lồng treo trên các bàn ăn. Chúng được làm bằng chất liệu trong suốt, như là một loại vải sợi nhân tạo mỏng, đem lại ấn tượng như những chiếc đèn lồng bằng giấy. Những chiếc đèn này có hình trụ dài. Ở mép dưới treo bốn dải băng đỏ.
Sau lần đến gặp Erik Huddén, bà biết dải băng dài mười chín centimet. Chúng được móc vào chao đèn bởi những chiếc móc sắt xâu qua đầu trên dải băng.
Cô gái hầu như không biết tiếng Thụy Điển cầm trên tay quyển thực đơn đi đến chỗ bà. Cô cười khi nhận ra bà. Birgitta Roslin chọn các món ăn buffet, mặc dù không cảm thấy đói. Trong lúc tự chọn thức ăn trên bàn buffet, bà có điều kiện nhìn quanh phòng ăn. Bà đã tìm thấy cái cần tìm bên một chiếc bàn dành cho hai khách trong một góc phòng: chiếc đèn lồng treo trên chiếc bàn đó thiếu một dải đỏ.
Bà đứng lại và nín thở.
Người đó đã ngồi ở đây, bà nghĩ. Trong góc tối nhất. Rồi sau đấy, người đó đứng dậy, rời khỏi quán ăn và đi về Hesjövallen.
Người đó hẳn là đàn ông. Chắc chắn là một người đàn ông.
Bà nhìn quanh căn phòng. Cô phục vụ mỉm cười. Từ trong bếp vọng ra tiếng trò chuyện bằng tiếng Trung Quốc.
Bà nghĩ rằng không chỉ bản thân bà mà cả cảnh sát cũng không hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Nó rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, bí ẩn hơn so với những gì mà họ có thể tưởng tượng ra.
Nói đúng ra, họ hoàn toàn không biết được gì.