Bạn được Lầm tomi mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
679 ❤︎ Bài viết: 187 Tìm chủ đề
73 0
Kiếm tiền
Phước Dương đã kiếm được 730 đ
Người đàn bà nuôi con cho chồng

Tác giả: Dương

Thể loại: Truyện ngắn

Không hiểu sao tôi lại thích viết về thân phận những người phụ nữ, dù vui hay buồn. Nếu có theo dõi tôi, thì bạn sẽ thấy tỷ lệ những câu chuyện về người phụ nữ chiếm đa số. Tôi viết như cách thể hiện tình cảm dành cho những nhân phụ nữ trong truyện của mình. Hy vọng bạn cũng đồng cảm với tôi.

54866740448_89df253a45_o.png

***

Hồi về làm vợ Phú, Trúc vừa bước sang tuổi ba mươi chín. Mọi người mừng cho chị, vì ở nhà ai cũng nghĩ chắc chị không lấy được chồng.

Trúc không xấu nhưng dáng người thấp, con mắt phải bị hỏng do năm lên tám bị con mèo hàng xóm cào trúng. Chị đã quen với những ánh mắt tò mò của bạn bè khi còn nhỏ, vô cảm trước những cái nhìn ái ngại khi lớn lên trở thành thiếu nữ. Con gái trong khu Trúc ở lần lượt đi lấy chồng, hai đứa em trai của chị cũng lấy vợ, đi làm xa. Chỉ còn chị lặng lẽ bên ba má. Rồi ba má cũng qua đời, bỏ lại Trúc một mình.

Nhiều người nghĩ rằng Trúc sẽ khó lấy được chồng, chắc phải ở giá cả đời. Bản thân chị cũng thấy vậy nên lắm lúc, nhìn mấy đứa bạn hồi xưa dắt con đi ngang qua nhà, gật đầu cười với Trúc, chị cười lại mà trong lòng nhói đau. Trúc luôn cảm thấy tủi thân và cô độc.

Thế nên khi Phú ngỏ lời, Trúc tưởng anh giỡn chơi. Trong đầu chị thoáng qua suy nghĩ: "Người như mình, mắt thì mù, dáng thì xấu, ai mà để ý. Chắc ảnh chọc mình thôi." Đến khi anh đem mâm quả sang nhà, chị ngỡ ngàng, không ngờ cuộc đời mình lại xuất hiện phép màu. Lúc đó, Trúc đã ba mươi chín, cái tuổi mà người ta hay mỉa mai là "quá lứa lỡ thì". Chị không dám mơ đến chuyện được yêu thương như trong phim, chỉ thấy may mắn vì có một mái nhà để bước vào, có vài đứa trẻ để gọi là con, dù chỉ là con riêng của chồng.

Phú góa vợ, có bốn đứa con, đứa lớn mới lên mười, bé út chỉ hơn một tuổi. Vợ anh mất vì kiệt sức sau khi sinh đứa con thứ tư. Phú nói, biết Trúc hiền lành, đảm đang nên thương và muốn cưới chị. Anh thẳng thắn nói rằng các con cần một người mẹ, anh cũng cần một người vợ tốt, và Trúc là người anh chọn.

Sau một thời gian qua lại, Trúc tin Phú có thương mình, dù tình thương đó chưa sâu đậm. Em trai trên Sài Gòn gọi điện về khuyên can, bảo Phú chỉ cần người chăm con cho anh ta, chứ không có tình cảm với chị đâu. Vài người hàng xóm cũng nói vậy. Nhưng Trúc gạt đi. Chị không muốn nghĩ xấu về người đàn ông cho chị cơ hội làm vợ, làm mẹ, dù chỉ là mẹ ghẻ. Ở tuổi này, chị đâu còn có quyền chọn lựa, cũng chẳng còn hơi sức để cân đo thiệt hơn.

Trúc bước vào cuộc sống làm vợ, làm mẹ sau một đám cưới đơn giản. Chị cho người ta thuê căn nhà của ba má, dọn sang nhà Phú. Trúc lao vào công việc. Chị giặt giũ, nấu cơm, dọn dẹp, cố gắng làm mọi thứ chu toàn. Phú là tài xế xe tải chở hàng đường dài, mỗi chuyến cả tuần, có khi nửa tháng. Ở nhà, Trúc một mình xoay xở mọi chuyện và chăm mấy đứa nhỏ. Chúng gọi chị là dì Ba. Thằng lớn tên Thành, tính lạnh lùng, ít nói, chỉ gật đầu khi chị gọi ăn cơm. Đứa thứ hai là con Nhanh, lanh lẹ như tên nhưng hay cãi. Mạnh là đứa thứ ba, con trai mà luôn rụt rè, mít ướt. Còn bé Hạnh nhỏ nhất, cứ bám lấy Trúc, đòi chị bế đi chơi. Mỗi lần bế nó, chị lại tự nhủ: "Chỉ cần có đứa nhỏ này quấn quýt, mình cũng thấy ấm lòng rồi, còn ai thương hay không cũng chẳng sao." Trúc thương nó nhiều, vì con bé chẳng có ký ức gì về mẹ ruột, nên với nó, dì Ba là người gần gũi nhất.

Một tháng, Phú chắc ở nhà được vài ngày. Thời gian đầu còn quan tâm vài chuyện lặt vặt, nhưng sau đó thì chỉ biết móc bóp như cái máy, lấy mấy tờ năm trăm để lên bàn, không nói gì; rồi kêu thằng Thành hay con Nhanh đi mua chai rượu thuốc ngoài tiệm ông Phì Lủ người Tiều, ngồi uống rượu một mình với mấy con khô chị chuẩn bị sẵn mỗi khi anh về. Trúc hỏi han, anh trả lời nhát gừng, thậm chí không buồn nói. Buổi tối, anh kéo chị vào buồng, nhưng chẳng có chút yêu thương nào trong những cái ôm. Trúc nằm bên cạnh, nghe tiếng ngáy của Phú và cảm nhận sự lạnh lẽo. Trúc biết, ngay từ đầu, Phú đã không hề yêu chị. Chỉ là anh thương hại chị thôi.

Người ta xì xào, bảo Phú có người đàn bà khác ở trạm dừng chân nào đó. Chị không hỏi. Chị sợ câu trả lời sẽ làm chị đau. Vì vậy, chị chọn im lặng, chọn tiếp tục chăm lo cho bốn đứa con của anh. Đó là cách chị được tồn tại trong ngôi nhà này, được nghe tiếng cười nói, cãi nhau của các con, nhìn chúng lớn từng ngày. Dù sao điều đó cũng tốt hơn là lặng lẽ một mình cho đến chết.

Thời gian trôi qua, cả bốn đứa con của Phú đều đã lớn. Thành học xong cấp ba, theo bạn đi làm công nhân ở khu công nghiệp trên Bình Dương. Nhanh lấy chồng sớm, theo chồng về Phan Thiết. Mạnh học nghề may, cũng rời nhà đi làm ở tỉnh. Chỉ còn bé Hạnh ở lại, nhưng nó cũng dần lớn lên, không còn quấn dì Ba nhiều nữa. Trúc hiểu, bọn trẻ luôn kính trọng chị, vì dù sao chị cũng đã chăm lo cho chúng nhiều năm. Tuy nhiên, nếu hỏi các con có yêu thương và xem Trúc như mẹ không, thì chắc chắn một điều là không. Chị biết rõ điều đó từ lâu, và cũng không trách, vì làm sao bắt người ta thương mình chỉ vì mình đã hy sinh. Chị chỉ là dì Ba, người chăm lo, người ở lại trong căn nhà để giữ ấm ngọn lửa gia đình, nhưng chị không phải là mẹ của chúng.

Một ngày giáp Tết, Phú bị tai nạn. Trong chuyến hàng ra Bắc, xe tải của anh lao xuống vực sâu, xe và hàng đè lên người anh. Nghe bên chủ xe báo tin, Trúc tưởng như trời sập. Chị không khóc. Hay nói chính xác, chị không có thời gian để khóc vì phải lo đưa thi thể Phú về. Chị lo đám tang, lo giấy báo tử, lo mọi thứ. Các con về đủ mặt, đứng quanh quan tài cha, khóc rưng rứt. Chị nhìn chúng, lòng đau nhói nhưng vẫn cố tỏ ra bình thương, an ủi chúng. Sau đám tang, Thành trở lại khu công nghiệp, Nhanh trở lại nhà chồng, Mạnh lại đi làm xa. Chỉ còn Hạnh ở lại, chừng nửa tháng sau cũng khăn gói lên Sài Gòn, theo cô Út đi may giày xuất khẩu. Nó ôm chị, khóc và nói: "Dì Ba, con thương dì nhiều lắm." Trúc cười xúc động vì lần đầu tiên nghe một đứa con của chồng nói thương mình.

Căn nhà trống vắng, Trúc lại lặng lẽ một mình như thể số phận đã định sẵn từ lâu. Chị mở một gian hàng nhỏ bán bánh kẹo cho trẻ con trong xóm, lấy đó làm niềm vui. Nhìn lũ trẻ, chị nhớ các con của chồng.

Hàng xóm vẫn hay ghé qua, người mang ít rau, kẻ đưa chút đồ ăn, miệng hỏi: "Mấy đứa nhỏ nhà bà có hay gọi về không?" Chị cười hiền, đáp gọn: "Ừ, cách ngày tụi nó gọi, không đứa này thì đứa kia." Nhưng sau khi quay lưng, nụ cười của chị vụt tắt. Thật ra, không biết do bận rộn hay vì lý do gì đó mà các con ít gọi cho chị. Thỉnh thoảng, khi nhớ đứa nào, Trúc lấy điện thoại gọi cho đứa đó, hỏi vài câu, dặn dò vài điều như ngày xưa. Chị tự an ủi: "Tụi nhỏ bận, có gia đình, có công việc riêng, mình phải thông cảm." Nhưng sâu thẳm trong lòng, chị thèm một lần được thấy bóng dáng các con về thăm, ngồi ăn bữa cơm gia đình, kể vài câu chuyện hồi nhỏ. Chị không mong gì nhiều, chỉ cần biết chúng vẫn khỏe là thấy vui. Cả đời chị đã quen với việc mình ở ngoài rìa những yêu thương lớn, chỉ cần được nghe một câu chào, một tiếng hỏi han từ các con là đã thấy đủ.

Nhiều năm nữa cứ thế lướt đi. Vào một buổi tối trời giông bão, Trúc ngồi trong căn nhà lạnh lẽo, nghe tiếng gió rít qua khe cửa. Chị cảm thấy mệt, nhưng chẳng muốn đi ngủ, tựa lưng trên chiếc ghế mây, ráng ngồi coi hết tuồng cải lương Tô Ánh Nguyệt phát đi phát lại nhiều lần trên ti vi. Xem lại lần nào, chị cũng khóc. Bất giác, Trúc bỗng dưng nhớ chồng, nhớ bốn đứa con, nhớ những ngày tháng đã qua. Mọi thứ lướt qua sao mà rõ ràng đến lạ. Hơn hai mươi năm rồi, chị chưa bao giờ thấy hối tiếc điều gì. Chị đã sống hết lòng, đã làm mọi thứ có thể. Trúc chỉ buồn vì dù chị thương yêu chúng nhiều vậy mà các con vẫn không xem chị như mẹ. Chúng vẫn quen gọi chị là "dì Ba". Trúc thèm nghe một tiếng "Mẹ" nhưng sao mà khó quá.

Trúc với tay lấy cái điều khiển tắt ti vi. Chị bước vào phòng, ngã người xuống giường, khẽ nhắm mắt và thiếp đi.

Sáng hôm sau, hàng xóm không thấy Trúc ra mở hàng bánh kẹo. Họ gọi, không thấy trả lời. Họ phá cửa vào, thấy chị nằm trên giường, cơ thể đã lạnh. Trúc đã đi, lặng lẽ. Trên bàn vẫn còn mấy gói bánh kẹo mới mua hồi sáng hôm qua ngoài chợ, chưa kịp xếp vào mấy cái hủ nhựa.

Hai em trai về lo hậu sự cho chị, gọi điện cho bọn trẻ. Nhưng hết ngày vẫn chưa thấy ai về. Người ta xì xào bàn tán, không lẽ tụi nhỏ quên Trúc rồi sao?

Đến ngày thứ hai, cả bốn lần lượt về tới, dẫn theo vợ chồng, con cái, đông đủ. Có người hỏi: "Sao tụi bây về trễ vậy?" Thành trả lời: "Dạ, tụi con biết tin, cũng sốt ruột lắm, nhưng phải sắp xếp cho tất cả các cháu về để tang bà nội nên về trễ chút." Tối hôm đó, các con, dâu, rể và các cháu đeo tang, đứng quanh quan tài của Trúc. Không ai khóc, nhưng gương mặt ai cũng buồn.

Nhìn đàn con cháu lặng lẽ đi sau chiếc xe tang, nhiều người hàng xóm rưng rưng. Vậy là cuối đời, Trúc không cô đơn vì cũng có con, có cháu tiễn đưa. Chị đã có thể mỉm cười ở một nơi nào đó bên chồng, bên ba má.
 

Những người đang xem chủ đề này

Back