Welcome! You have been invited by Risoles to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem

Rùa Siêu Tốc

Rùa ngoan nhất
Bài viết: 452 Tìm chủ đề
857 2
Phần 1

Việt Nam nòi giống Lạc Hồng

Bao đời thắm gội máu dòng sử xanh

Mẹ hiền sinh đấng hùng anh

Xây nền tự chủ rạng danh nước nhà



Khởi từ lịch sử dân ta

Vua Hùng dựng nước tên là Văn Lang

Lập ra phép tắc vua quan

Võ quan Lạc tướng văn quan Lạc hầu

Quan Bồ Chính nhỏ đầu tầu

Địa phương mỗi vị dịp cầu dân gian

Nam con vua gọi quan Lang

Nữ con vua gọi Mỵ nương tước đời

Cha truyền trai trưởng nối ngôi

Chăm lo việc nước thay Trời giúp dân

Dưới vua là các quần thần

Chung tay xây dựng góp phần mai sau

Đóng đô ở đất Phong châu

Chia mười lăm bộ kế nhau trị vì

Đến đời mười tám vận suy

Thục vương làm phản cướp đi ngai rồng



Cứ vào huyền sử Lạc Hồng

Đế Minh là cháu thần Nông ba đời

Phương nam tuần thú vui chơi

Thương nàng tiên Ngũ Lĩnh thời kết duyên

Sinh trai Lộc Tục ngoan hiền

Phong con trưởng thứ mỗi miền một vương

Đế Nghi trai trưởng bắc phương

Thứ trai Lộc Tục nam phương vẫy vùng

Kinh Dương vương Lộc Tục xưng

Nước tên Xích Quỷ đất trưng bản đồ

Bắc biên giới Động Đình hồ

Hướng nam biên ải nước Hồ Tôn ranh

Đông Nam Hải bể bao quanh

Phía tây Ba Thục rừng xanh cõi bờ

Cưới nàng Long Động Đình hồ

Phu thê hòa thuận ước mơ thế trần

Sinh Sùng Lãm Lạc Long quân

Lên ngai kết mối tình thân tiên rồng

Cùng Âu Cơ nghĩa vợ chồng

Sinh ra một bọc Lạc Hồng trăm con

Người dưới nước, kẻ trên non

Sống chung xung khắc hao mòn lạt phai

Lạc Long quân quyết chia hai

Mỗi bên một nửa sinh nhai mỗi vùng

Năm mươi lên quản núi rừng

Năm mươi xuống biển thôn đồng mở mang

Đẹp Trời con trưởng sai sang

Phong làm vua nước Văn Lang một dòng

Dựng lên Lạc Việt vua Hùng

Giang sơn một dải ngư nông rộn ràng



Bàn về cổ tích Hồng Bàng

Đời Hùng thứ nhất còn trang sử rằng

Người dân chài lưới ven sông

Thường hay bị giống thuồng luồng bắt ăn

Vua truyền chàm vẽ vào thân

Để lừa thủy quái khó phân hại mình



Hương Phù Đổng bộ Vũ Ninh

Đời Hùng thứ sáu dân tình nguy nan

Giặc Ân hung mạnh tràn sang

Không ai chống nổi vua ban chỉ truyền

Sứ rao dân chúng mọi miền

Tìm người tài đức dẹp yên giặc này

Tới làng Phù Đổng lạ thay

Anh nhi ba tuổi xung tay tưởng đùa

Đem về tâu lại cùng vua

Vua cười vui vẻ bảo đưa bé vào

Hỏi nhà ngươi biết ra sao

Giặc Ân hung bạo kế nào phá đi

Thưa rằng bệ hạ lo chi (1)

Một roi ngựa sắt thần thì dẹp tan

Chờ gươm roi ngựa sẵn sàng

Vươn vai một cái kinh hoàng vua quan

Thân cao một trương hiên ngang

Vung roi thúc ngựa lên đàng đánh Ân

Hai bên tướng sĩ dạ rân

Giặc Ân sợ hãi lui quân cấp thời

Đuổi xuôi xả giặc yên đời

Ngựa người biến mất trong trời Sóc sơn

Nhà vua cảm động tiếc thương

Phong là Phù Đổng Thiên vương lập đền

Hiện nay còn vẫn lưu truyền

Tháng tư mùng chín hội đền nhớ ơn



Sau khi dẹp giặc Ân xong

Vua Hùng chú trọng việc con cung đình

Truyền quan Lang đến dự tranh

Ai làm được món ngon lành lạ hay

Nói lên ý nghĩa cỗ bày

Thì ta sẽ chọn lên ngai nối dòng

Các quan Lang thế như rồng

Đua nhau đi tới núi rừng đảo xa

Sơn hào hải vị tìm ra

Với hy vọng được vua cha hài lòng

Riêng con mười tám vua Hùng

Tiết Liêu hiền hiếu thảo cùng mẹ cha

Chọn nơi thôn dã là nhà

Mẹ đà mất sớm cậy bà vú chăm

Ngày đêm lo lắng buồn tâm

Một hôm mộng thấy thần thầm mách cho

Này con đừng có âu lo

Gạo thì nuôi sống quý cho con người

Lấy làm bánh tượng Đất Trời

Sinh thành dưỡng dục ở đời lá nhân

Nhớ lời chỉ dạy của thần

Tiết Liêu ngâm gạo nếp mần bánh chưng

Tượng hình Đất bánh hình vuông

Lá dong xanh gói nếp nương nhân vàng

Tượng hình Cha Mẹ cưu mang

Thương yêu đùm bọc hết lòng vì con

Giã xôi làm bánh hình tròn

Tượng hình Trời trắng giẹp thon bánh dầy

Đến ngày chấm điểm sum vầy

Của ngon vật lạ cỗ đầy mâm bưng

Tiết Liêu hai bánh dầy chưng

Vua cha thấy vậy hỏi chừng là sao

Liền đem chuyện mộng thần vào

Kể ra chi tiết Trời cao Đất dày

Công ơn Cha Mẹ là đây

Ngụ trong ý đẹp bánh dầy bánh chưng

Vua cha nếm thử vui mừng

Ban cho ngôi báu truyền chung tết này

Cúng Trời Đất Tổ Tiên bày

Dâng mâm của lễ bánh dầy bánh chưng



Tích đời mười tám Hùng vương

Mỵ nương tính nết khiêm nhường đẹp xinh

Chàng Sơn Tinh với Thủy Tinh

Cả hai đều muốn se tình bách niên

Vua truyền ai thắm lương duyên

Ngày mai tới trước con hiền sẽ ban

Hôm sau sính lễ lên đàng

Sơn Tinh lẹ bước rước nàng Mỵ luôn

Thủy Tinh trễ mất người thương

Giận làm gió nổi mưa tuôn lũ trào

Sơn Tinh làm núi dưng cao

Nước dâng nhiêu trượng núi bao nấy tầm

Và dùng sấm chớp ầm ầm

Ở trên liên tiếp búa tầm sét công

Thủy Tinh thua thẹn trong lòng

Bèn toan rút nước hòa dòng biển sông



Học chương huyền sử Lạc Hồng

Là tìm gốc tích cội nguồn dân ta

Ban đầu mờ mịt sử gia

Tục truyền ôn lại viết ra cho đời

Nước nào cũng thế mà thôi

Có Thần Tiên Thánh chủng nòi vẻ vang

Ai thì biết thuở hồng hoang

Ta từ đâu đến vương mang cõi phàm



Lật trang sử cổ Hồng Bàng

Xem trang sử tiếp ngai vàng Thục gia

Thục trong sách sử dân ta

Không là Ba Thục quê nhà chú Ba

Dẫn y như sử China

Nhà Tần ngày ấy chiếm Ba Thục rồi

Thêm vào đường sá xa khơi

Núi sông ngăn trở khó thời làm nên

Thục là Thục Phán họ tên

Họ nào độc lập ở liền nước ta

Sử Hùng mười tám ghi là

Mỵ nương nhan sắc mặn mà dễ thương

Có người danh phận Thục vương

Dạm xin vua cưới Mỵ nương bất thành

Sinh lòng đố kỵ đua tranh

Dặn sau con cháu lấy thành Hùng vương

Cậy mình tướng dũng binh cường

Rượu chè vui thú coi thường đối phương

Nhân tình thế cháu Thục vương

Là ông Thục Phán am tường đánh ngang

Hùng vương thua chạy cùng đàng

Tự trầm xuống giếng tạ hàng tiên vương

Sau này vua Thục nhớ ơn

Xây đền quốc tổ Hùng vương lưu đời

Tháng ba âm lịch mùng mười

Hàng năm làm giỗ kính Người thượng hương



Dẹp yên binh loạn bốn phương

Lên ngôi niên hiệu An Dương vương quyền

Hai năm bảy trước công nguyên (257 TCN)

Nước tên Âu Lạc đô miền Phong Khê

Dân đông trù phú tiện bề

Hai đường thủy bộ đi về thông thương

Đến năm bính ngọ Thục vương (255 TCN)

Nối gò đắp lũy hào mương xây thành

Ngoài nhìn trôn ốc xoay quanh

Cho nên ta gọi là thành Cổ Loa

Thăng trầm vận nước trải qua

Vẫn còn dấu tích thành Loa Lạc Hồng



Tục truyền vua Thục khởi công

Yêu ma quấy nhiễu xây xong đổ thành

Lập đàn vua khẩn cầu lành

Thần Kim Quy giúp xây thành mới an

Lại ban một cái móng chân

Làm cò lẫy gọi nỏ thần Kim Quy

Giặc vào bắn phát thị uy

Tên bay hàng loạt giết đi vài ngàn



An Dương khai phá mở mang

Rộng lên phía bắc sang phần Quảng Tây

Biên cương Âu Lạc đo đầy

Bao gồm Tượng quận cấy cày nông gia.
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 452 Tìm chủ đề
Phần 2

Cùng thời vua Thục bên ta

Nhà Tần thống nhất China nắm quyền

Hai mười bốn trước công nguyên (214 TCN)

Thủy Hoàng nhòm ngó đất miền Lĩnh Nam

Sai Đồ Thư tướng chinh Nam

Đánh quân Bách Việt chiếm thành lấy dân

An Dương vương cũng phục Tần

Vua Tần sắp đặt quan quân chia làm

Quế Lâm quận hướng tây nam

Hướng đông quận thứ hai Nam Hải và

Hướng nam Tượng quận nước ta

Nhưng dân bản xứ tránh xa người Tàu

Giống dòng Bách Việt rủ nhau

Kéo vào rừng ở ít lâu quân Tần

Không quen thủy thổ suy dần

Tinh thần sa sút bịnh hành liên miên

Người dân Bách Việt nổi lên

Chém Đồ Thư chết Lâu Thuyền vỡ tan



Năm tân mão vận Tần tàn (210 TCN)

Thủy Hoàng thác bọn quyền thần nôn nao

Bấy giờ quan úy Nhâm Ngao

Quận Nam Hải muốn vươn cao cơ đồ

Chiếm Âu Lạc nhập dưới cờ

Lập nhà nước tự chủ bờ cõi Nam

Nhưng hoài bão lớn chưa làm

Úy Nhâm Ngao mất Triệu Đà phó thay

Rắp tâm đeo đuổi việc này

Dùng con Trọng Thủy ý bày thầm sâu

Cưới công chúa Thục Mỵ Châu

Dò la sự thể tình đầu nước ta



Nghĩ phò mã hỏi xuê xoa

Mỵ Châu vui miệng nói ra nỏ thần

Trúng ngay diệu kế hòa thân

Nào hay chồng tráo móng chân lẫy cò

Bo bo Trọng Thủy giả đò

Tôi về bên nớ âu lo cho nàng

Sợ mai chiến địa đôi đàng

Người nam kẻ bắc tìm nàng ở mô

Mỵ Châu lòng vẫn ngây thơ

Áo em lông ngỗng phòng hờ bên ni

Rứt lông em thử vận thì

Chàng đi lối ấy có chi buồn rầu



Giã nàng muôn dặm vó câu

Linh Quang Kim Trảo nỏ tâu Triệu Đà

Biết rành tình thế nước ta

Nhằm năm quý tỵ Triệu Đà cất quân

Thục vương cậy có nỏ thần

Đợi quân Triệu áp đến gần bắn qua

Không ngờ thua trí sui gia

Lẫy cò bị tráo nỏ đà hết linh

An Dương vương bỏ cung đình

Vội cùng công chúa bôn trình vào nam

Tới chân Mộ Dạ - Nghệ An

Kề nơi bờ biển khấn thần Kim Quy

Triệu Đà bám sát lâm nguy

Xin thần chỉ dẫn đường đi lánh nàn

Kim Quy báo ngã ba đàng

Mỵ Châu để dấu chồng nàng nga mao

Vua An Dương tức nghẹn ngào

Vung gươm chém Mỵ Châu nào được an

Nỗi niềm bào xé tâm can

Biển xanh Mộ Dạ - Nghệ An gieo mình



Nóng lòng Trọng Thủy xua binh

Ngựa phi kíp quá khắc tình phu thê

Gặp nhau trong cảnh não nề

Lặng ôm xác vợ trở về Cổ Loa

Sai người cấp táng hương hoa

Rồi ra nhảy giếng thành Loa theo nàng

Triệu Đà sao nỡ phũ phàng

Oái oăm tình sử bẽ bàng thiên duyên



Hai không bảy trước công nguyên (207 TCN)

Mưu gian Trọng Thủy thắng liền Thục vương

Triệu Đà xưng Triệu Vũ vương

Lên ngai cai quản một vùng phía Nam

Nước ta Nam Hải lân bang

Nhập thành Nam Việt hiên ngang vẫy vùng

Đóng đô ở đất Phiên Ngung

Ung dung việc nước dập khuôn mẫu Tàu

Tinh thần độc lâp phai mau

Chư hầu sau cũng gốc Tàu nở hoa



Tạm thời gác chuyện Triệu gia

Lướt xem phong kiến ngàn xa xưa Tàu

Mỗi châu một vị cầm đầu

Gọi là vua nước chư hầu địa phương

Phải thần phục cống Tàu vương

Mỗi đời số tiểu quốc thường khác nhau

Như vua Hạ hội chư hầu

Có hàng vạn nước đến chầu Đồ sơn

Khi nhà Chu thắng Trụ vương

Tám trăm cả thảy Vũ vương chia làm

Công Hầu Bá Tử và Nam

Bảy mươi người được vua ban chư hầu

Nước trăm dặm tước Công Hầu

Bảy mươi tước Bá tước cầu Tử Nam

Năm mươi dặm lại gia ban

Phụ Dung nước nhỏ hơn hàng Tử Nam



Nhà Chu quan chế sáu Quan

Mỗi Quan có sáu mươi quan đổ đồng

Là ba trăm sáu mươi ông

Địa Thiên Xuân Hạ Thu Đông lục dòng

Thái sư, phó, bảo tam công

Thiếu sư, phó, bảo tam cô đại thần

Để bàn việc nước an dân

Chứ về hành chính không can dự phần



Ân Chu pháp chế chặt chân

Đánh roi da xích tù nhân gọt đầu

Lăng trì mổ muối vạc dầu

Xé thây phơi xác bêu đầu .v..v...



Về binh chế của Chu quân

Năm người một Ngũ Ngũ nhân năm là

Hăm lăm một Lượng nhân ra

Một trăm là Tốt Lữ là năm trăm

Một Sư là Lữ nhân năm

Nhân năm Sư lấy số làm một Quân

Nước Thiên Tử có sáu quân

Chư hầu lớn nhỏ vừa phân biệt là

Ba Quân cho đại quốc và

Hai cho trung quốc tiểu là một Quân

Việc binh chế ở trong dân

Tám nhà một Tỉnh Tỉnh nhân bốn là

Băm hai một Ấp tính ra

Khâu là bốn Ấp Điện là bốn Khâu

Điện thì phụ trách như nhau

Binh xa một cỗ số đầu quân trăm

Tải khiêng đồ nặng hăm lăm

Bảy hai bộ tốt giáp dăm ba còn

Bò mười hai ngựa bốn con

Lúc cần phục dịch nước non mọi miền



Ân Chu dùng phép tỉnh điền

Chia hình chữ Tỉnh tư diền tám khu

Công điền ở giữa một khu

Tám nhà một tỉnh công tư cày bừa

Công chừa hoa lợi đức vua

Tới đời Chiến Quốc các vua Ngụy Tần

Lý Khôi nước Ngụy canh tân

Đất không định hạn bắt dân rán mần

Công Tôn Ưởng tướng nhà Tần

Mở thiên mạch bỏ Chu Ân tỉnh điền

Mọi người tự tiện làm nên

Phép chia từ đó dần liền mất đi



Học linh hai cấp Chu ghi

Tiểu thì tám tuổi đại thì mười lăm

Thi thư lễ nhạc siêng chăm

Kính trên ứng đối trọng tăm tiếng đời

Nhà Chu học đã thịnh rồi

Đến Xuân Thu có lắm người tài danh

Khổng bàn hiếu đễ nghĩa nhân

Dương Chu vị kỷ thiệt thân không làm

Lẽ kiêm ái Mặc Địch bàn

Hàn Phi, Thân Bất Hại bàn trị dân

Lão bàn đạo các triết nhân

Điền Biền, Quỷ Cốc.v..v...mỗi người

Xướng ra một thuyết dạy đời

Biết điều phải quấy nói lời thiện ngay



Nước Tàu gốc sự cấy cày

Nuôi tằm dệt lụa thêu may vá rành

Bán buôn họp chợ tinh lanh

Lưới chài săn bắn đồ sành sứ quen

Gia đình nghiêm lắm dưới trên

Yêu nhau cùng họ cấm nên vợ chồng

Con theo cha vợ theo chồng

Gái trai bảy tuổi là không được nằm

Ăn ngồi một chiếu một mâm

Việc thờ phụng Tổ Tiên tâm chí thành

Nhà vua thường cũng lập đàn

Nam Dao tế Thượng Đế ban thái bình

Xem thì tam đại văn minh

Cuối Chu suy nổi đao binh chư hầu

Xuân Thu Chiến Quốc chia bâu

Sau Tần thống nhất xứ Tàu biến thiên

Bỏ phong kiến phép tỉnh điền

Lập ra quận huyện cấm truyền bá nho

Cốt dùng pháp luật trợ cho

Uy quyền chính trị mà gò bó dân

Đang khi phong tục cải lần

Xảy tranh chấp Hán Sở Tần xót xa



Vào triều vua Triệu Vũ ta

Tình hình chiến sự China thoái dần

Bá vương Hạng Võ trừ Tần

Lưu Bang diệt Sở dân lành thở yên

Hai không hai trước công nguyên (202 TCN)

Lên ngôi xưng Trẫm bỉnh quyền Bắc phương

Tức Cao Tổ Hán gia vương

Định quan chế đặt kỷ cương trị đời

Tới năm ất tỵ đương thời (196 TCN)

Thấy nhà Triệu cứ đất trời Lĩnh Nam

Lưu Bang nổi tiếng tham lam

Bèn sai Lục Giả sang đàm thí vương

Vũ vương bản tính quật cường

Đâu thần phục Hán nhậm vương chư hầu

Đến nơi Lục Giả vô chầu

Vũ vương tĩnh tọa cưỡng cầu cạnh căng

Bấy giờ Lục Giả nói rằng

"Nhà vua nguyên gốc tóc răng người Tàu

Họ hàng mồ mả cuống nhau

Ở châu Chân Định lẽ nào ganh đua

Nay nhà Hán đã làm vua

Triệu vương kháng cự sứ thừa lệnh phong

E là Hán đế không dung

Ba đời mồ mả họ hàng bất an"

Vũ vương nghe thế vội vàng

Đứng lên làm lễ tạ ân nói là

"Chắc gì Hán đế hơn ta

Nếu ta khởi nghiệp bên nhà một khi"
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back