Phần 1 Việt Nam nòi giống Lạc Hồng Bao đời thắm gội máu dòng sử xanh Mẹ hiền sinh đấng hùng anh Xây nền tự chủ rạng danh nước nhà Khởi từ lịch sử dân ta Vua Hùng dựng nước tên là Văn Lang Lập ra phép tắc vua quan Võ quan Lạc tướng văn quan Lạc hầu Quan Bồ Chính nhỏ đầu tầu Địa phương mỗi vị dịp cầu dân gian Nam con vua gọi quan Lang Nữ con vua gọi Mỵ nương tước đời Cha truyền trai trưởng nối ngôi Chăm lo việc nước thay Trời giúp dân Dưới vua là các quần thần Chung tay xây dựng góp phần mai sau Đóng đô ở đất Phong châu Chia mười lăm bộ kế nhau trị vì Đến đời mười tám vận suy Thục vương làm phản cướp đi ngai rồng Cứ vào huyền sử Lạc Hồng Đế Minh là cháu thần Nông ba đời Phương nam tuần thú vui chơi Thương nàng tiên Ngũ Lĩnh thời kết duyên Sinh trai Lộc Tục ngoan hiền Phong con trưởng thứ mỗi miền một vương Đế Nghi trai trưởng bắc phương Thứ trai Lộc Tục nam phương vẫy vùng Kinh Dương vương Lộc Tục xưng Nước tên Xích Quỷ đất trưng bản đồ Bắc biên giới Động Đình hồ Hướng nam biên ải nước Hồ Tôn ranh Đông Nam Hải bể bao quanh Phía tây Ba Thục rừng xanh cõi bờ Cưới nàng Long Động Đình hồ Phu thê hòa thuận ước mơ thế trần Sinh Sùng Lãm Lạc Long quân Lên ngai kết mối tình thân tiên rồng Cùng Âu Cơ nghĩa vợ chồng Sinh ra một bọc Lạc Hồng trăm con Người dưới nước, kẻ trên non Sống chung xung khắc hao mòn lạt phai Lạc Long quân quyết chia hai Mỗi bên một nửa sinh nhai mỗi vùng Năm mươi lên quản núi rừng Năm mươi xuống biển thôn đồng mở mang Đẹp Trời con trưởng sai sang Phong làm vua nước Văn Lang một dòng Dựng lên Lạc Việt vua Hùng Giang sơn một dải ngư nông rộn ràng Bàn về cổ tích Hồng Bàng Đời Hùng thứ nhất còn trang sử rằng Người dân chài lưới ven sông Thường hay bị giống thuồng luồng bắt ăn Vua truyền chàm vẽ vào thân Để lừa thủy quái khó phân hại mình Hương Phù Đổng bộ Vũ Ninh Đời Hùng thứ sáu dân tình nguy nan Giặc Ân hung mạnh tràn sang Không ai chống nổi vua ban chỉ truyền Sứ rao dân chúng mọi miền Tìm người tài đức dẹp yên giặc này Tới làng Phù Đổng lạ thay Anh nhi ba tuổi xung tay tưởng đùa Đem về tâu lại cùng vua Vua cười vui vẻ bảo đưa bé vào Hỏi nhà ngươi biết ra sao Giặc Ân hung bạo kế nào phá đi Thưa rằng bệ hạ lo chi (1) Một roi ngựa sắt thần thì dẹp tan Chờ gươm roi ngựa sẵn sàng Vươn vai một cái kinh hoàng vua quan Thân cao một trương hiên ngang Vung roi thúc ngựa lên đàng đánh Ân Hai bên tướng sĩ dạ rân Giặc Ân sợ hãi lui quân cấp thời Đuổi xuôi xả giặc yên đời Ngựa người biến mất trong trời Sóc sơn Nhà vua cảm động tiếc thương Phong là Phù Đổng Thiên vương lập đền Hiện nay còn vẫn lưu truyền Tháng tư mùng chín hội đền nhớ ơn Sau khi dẹp giặc Ân xong Vua Hùng chú trọng việc con cung đình Truyền quan Lang đến dự tranh Ai làm được món ngon lành lạ hay Nói lên ý nghĩa cỗ bày Thì ta sẽ chọn lên ngai nối dòng Các quan Lang thế như rồng Đua nhau đi tới núi rừng đảo xa Sơn hào hải vị tìm ra Với hy vọng được vua cha hài lòng Riêng con mười tám vua Hùng Tiết Liêu hiền hiếu thảo cùng mẹ cha Chọn nơi thôn dã là nhà Mẹ đà mất sớm cậy bà vú chăm Ngày đêm lo lắng buồn tâm Một hôm mộng thấy thần thầm mách cho Này con đừng có âu lo Gạo thì nuôi sống quý cho con người Lấy làm bánh tượng Đất Trời Sinh thành dưỡng dục ở đời lá nhân Nhớ lời chỉ dạy của thần Tiết Liêu ngâm gạo nếp mần bánh chưng Tượng hình Đất bánh hình vuông Lá dong xanh gói nếp nương nhân vàng Tượng hình Cha Mẹ cưu mang Thương yêu đùm bọc hết lòng vì con Giã xôi làm bánh hình tròn Tượng hình Trời trắng giẹp thon bánh dầy Đến ngày chấm điểm sum vầy Của ngon vật lạ cỗ đầy mâm bưng Tiết Liêu hai bánh dầy chưng Vua cha thấy vậy hỏi chừng là sao Liền đem chuyện mộng thần vào Kể ra chi tiết Trời cao Đất dày Công ơn Cha Mẹ là đây Ngụ trong ý đẹp bánh dầy bánh chưng Vua cha nếm thử vui mừng Ban cho ngôi báu truyền chung tết này Cúng Trời Đất Tổ Tiên bày Dâng mâm của lễ bánh dầy bánh chưng Tích đời mười tám Hùng vương Mỵ nương tính nết khiêm nhường đẹp xinh Chàng Sơn Tinh với Thủy Tinh Cả hai đều muốn se tình bách niên Vua truyền ai thắm lương duyên Ngày mai tới trước con hiền sẽ ban Hôm sau sính lễ lên đàng Sơn Tinh lẹ bước rước nàng Mỵ luôn Thủy Tinh trễ mất người thương Giận làm gió nổi mưa tuôn lũ trào Sơn Tinh làm núi dưng cao Nước dâng nhiêu trượng núi bao nấy tầm Và dùng sấm chớp ầm ầm Ở trên liên tiếp búa tầm sét công Thủy Tinh thua thẹn trong lòng Bèn toan rút nước hòa dòng biển sông Học chương huyền sử Lạc Hồng Là tìm gốc tích cội nguồn dân ta Ban đầu mờ mịt sử gia Tục truyền ôn lại viết ra cho đời Nước nào cũng thế mà thôi Có Thần Tiên Thánh chủng nòi vẻ vang Ai thì biết thuở hồng hoang Ta từ đâu đến vương mang cõi phàm Lật trang sử cổ Hồng Bàng Xem trang sử tiếp ngai vàng Thục gia Thục trong sách sử dân ta Không là Ba Thục quê nhà chú Ba Dẫn y như sử China Nhà Tần ngày ấy chiếm Ba Thục rồi Thêm vào đường sá xa khơi Núi sông ngăn trở khó thời làm nên Thục là Thục Phán họ tên Họ nào độc lập ở liền nước ta Sử Hùng mười tám ghi là Mỵ nương nhan sắc mặn mà dễ thương Có người danh phận Thục vương Dạm xin vua cưới Mỵ nương bất thành Sinh lòng đố kỵ đua tranh Dặn sau con cháu lấy thành Hùng vương Cậy mình tướng dũng binh cường Rượu chè vui thú coi thường đối phương Nhân tình thế cháu Thục vương Là ông Thục Phán am tường đánh ngang Hùng vương thua chạy cùng đàng Tự trầm xuống giếng tạ hàng tiên vương Sau này vua Thục nhớ ơn Xây đền quốc tổ Hùng vương lưu đời Tháng ba âm lịch mùng mười Hàng năm làm giỗ kính Người thượng hương Dẹp yên binh loạn bốn phương Lên ngôi niên hiệu An Dương vương quyền Hai năm bảy trước công nguyên (257 TCN) Nước tên Âu Lạc đô miền Phong Khê Dân đông trù phú tiện bề Hai đường thủy bộ đi về thông thương Đến năm bính ngọ Thục vương (255 TCN) Nối gò đắp lũy hào mương xây thành Ngoài nhìn trôn ốc xoay quanh Cho nên ta gọi là thành Cổ Loa Thăng trầm vận nước trải qua Vẫn còn dấu tích thành Loa Lạc Hồng Tục truyền vua Thục khởi công Yêu ma quấy nhiễu xây xong đổ thành Lập đàn vua khẩn cầu lành Thần Kim Quy giúp xây thành mới an Lại ban một cái móng chân Làm cò lẫy gọi nỏ thần Kim Quy Giặc vào bắn phát thị uy Tên bay hàng loạt giết đi vài ngàn An Dương khai phá mở mang Rộng lên phía bắc sang phần Quảng Tây Biên cương Âu Lạc đo đầy Bao gồm Tượng quận cấy cày nông gia.
Phần 2 Cùng thời vua Thục bên ta Nhà Tần thống nhất China nắm quyền Hai mười bốn trước công nguyên (214 TCN) Thủy Hoàng nhòm ngó đất miền Lĩnh Nam Sai Đồ Thư tướng chinh Nam Đánh quân Bách Việt chiếm thành lấy dân An Dương vương cũng phục Tần Vua Tần sắp đặt quan quân chia làm Quế Lâm quận hướng tây nam Hướng đông quận thứ hai Nam Hải và Hướng nam Tượng quận nước ta Nhưng dân bản xứ tránh xa người Tàu Giống dòng Bách Việt rủ nhau Kéo vào rừng ở ít lâu quân Tần Không quen thủy thổ suy dần Tinh thần sa sút bịnh hành liên miên Người dân Bách Việt nổi lên Chém Đồ Thư chết Lâu Thuyền vỡ tan Năm tân mão vận Tần tàn (210 TCN) Thủy Hoàng thác bọn quyền thần nôn nao Bấy giờ quan úy Nhâm Ngao Quận Nam Hải muốn vươn cao cơ đồ Chiếm Âu Lạc nhập dưới cờ Lập nhà nước tự chủ bờ cõi Nam Nhưng hoài bão lớn chưa làm Úy Nhâm Ngao mất Triệu Đà phó thay Rắp tâm đeo đuổi việc này Dùng con Trọng Thủy ý bày thầm sâu Cưới công chúa Thục Mỵ Châu Dò la sự thể tình đầu nước ta Nghĩ phò mã hỏi xuê xoa Mỵ Châu vui miệng nói ra nỏ thần Trúng ngay diệu kế hòa thân Nào hay chồng tráo móng chân lẫy cò Bo bo Trọng Thủy giả đò Tôi về bên nớ âu lo cho nàng Sợ mai chiến địa đôi đàng Người nam kẻ bắc tìm nàng ở mô Mỵ Châu lòng vẫn ngây thơ Áo em lông ngỗng phòng hờ bên ni Rứt lông em thử vận thì Chàng đi lối ấy có chi buồn rầu Giã nàng muôn dặm vó câu Linh Quang Kim Trảo nỏ tâu Triệu Đà Biết rành tình thế nước ta Nhằm năm quý tỵ Triệu Đà cất quân Thục vương cậy có nỏ thần Đợi quân Triệu áp đến gần bắn qua Không ngờ thua trí sui gia Lẫy cò bị tráo nỏ đà hết linh An Dương vương bỏ cung đình Vội cùng công chúa bôn trình vào nam Tới chân Mộ Dạ - Nghệ An Kề nơi bờ biển khấn thần Kim Quy Triệu Đà bám sát lâm nguy Xin thần chỉ dẫn đường đi lánh nàn Kim Quy báo ngã ba đàng Mỵ Châu để dấu chồng nàng nga mao Vua An Dương tức nghẹn ngào Vung gươm chém Mỵ Châu nào được an Nỗi niềm bào xé tâm can Biển xanh Mộ Dạ - Nghệ An gieo mình Nóng lòng Trọng Thủy xua binh Ngựa phi kíp quá khắc tình phu thê Gặp nhau trong cảnh não nề Lặng ôm xác vợ trở về Cổ Loa Sai người cấp táng hương hoa Rồi ra nhảy giếng thành Loa theo nàng Triệu Đà sao nỡ phũ phàng Oái oăm tình sử bẽ bàng thiên duyên Hai không bảy trước công nguyên (207 TCN) Mưu gian Trọng Thủy thắng liền Thục vương Triệu Đà xưng Triệu Vũ vương Lên ngai cai quản một vùng phía Nam Nước ta Nam Hải lân bang Nhập thành Nam Việt hiên ngang vẫy vùng Đóng đô ở đất Phiên Ngung Ung dung việc nước dập khuôn mẫu Tàu Tinh thần độc lâp phai mau Chư hầu sau cũng gốc Tàu nở hoa Tạm thời gác chuyện Triệu gia Lướt xem phong kiến ngàn xa xưa Tàu Mỗi châu một vị cầm đầu Gọi là vua nước chư hầu địa phương Phải thần phục cống Tàu vương Mỗi đời số tiểu quốc thường khác nhau Như vua Hạ hội chư hầu Có hàng vạn nước đến chầu Đồ sơn Khi nhà Chu thắng Trụ vương Tám trăm cả thảy Vũ vương chia làm Công Hầu Bá Tử và Nam Bảy mươi người được vua ban chư hầu Nước trăm dặm tước Công Hầu Bảy mươi tước Bá tước cầu Tử Nam Năm mươi dặm lại gia ban Phụ Dung nước nhỏ hơn hàng Tử Nam Nhà Chu quan chế sáu Quan Mỗi Quan có sáu mươi quan đổ đồng Là ba trăm sáu mươi ông Địa Thiên Xuân Hạ Thu Đông lục dòng Thái sư, phó, bảo tam công Thiếu sư, phó, bảo tam cô đại thần Để bàn việc nước an dân Chứ về hành chính không can dự phần Ân Chu pháp chế chặt chân Đánh roi da xích tù nhân gọt đầu Lăng trì mổ muối vạc dầu Xé thây phơi xác bêu đầu .v..v... Về binh chế của Chu quân Năm người một Ngũ Ngũ nhân năm là Hăm lăm một Lượng nhân ra Một trăm là Tốt Lữ là năm trăm Một Sư là Lữ nhân năm Nhân năm Sư lấy số làm một Quân Nước Thiên Tử có sáu quân Chư hầu lớn nhỏ vừa phân biệt là Ba Quân cho đại quốc và Hai cho trung quốc tiểu là một Quân Việc binh chế ở trong dân Tám nhà một Tỉnh Tỉnh nhân bốn là Băm hai một Ấp tính ra Khâu là bốn Ấp Điện là bốn Khâu Điện thì phụ trách như nhau Binh xa một cỗ số đầu quân trăm Tải khiêng đồ nặng hăm lăm Bảy hai bộ tốt giáp dăm ba còn Bò mười hai ngựa bốn con Lúc cần phục dịch nước non mọi miền Ân Chu dùng phép tỉnh điền Chia hình chữ Tỉnh tư diền tám khu Công điền ở giữa một khu Tám nhà một tỉnh công tư cày bừa Công chừa hoa lợi đức vua Tới đời Chiến Quốc các vua Ngụy Tần Lý Khôi nước Ngụy canh tân Đất không định hạn bắt dân rán mần Công Tôn Ưởng tướng nhà Tần Mở thiên mạch bỏ Chu Ân tỉnh điền Mọi người tự tiện làm nên Phép chia từ đó dần liền mất đi Học linh hai cấp Chu ghi Tiểu thì tám tuổi đại thì mười lăm Thi thư lễ nhạc siêng chăm Kính trên ứng đối trọng tăm tiếng đời Nhà Chu học đã thịnh rồi Đến Xuân Thu có lắm người tài danh Khổng bàn hiếu đễ nghĩa nhân Dương Chu vị kỷ thiệt thân không làm Lẽ kiêm ái Mặc Địch bàn Hàn Phi, Thân Bất Hại bàn trị dân Lão bàn đạo các triết nhân Điền Biền, Quỷ Cốc.v..v...mỗi người Xướng ra một thuyết dạy đời Biết điều phải quấy nói lời thiện ngay Nước Tàu gốc sự cấy cày Nuôi tằm dệt lụa thêu may vá rành Bán buôn họp chợ tinh lanh Lưới chài săn bắn đồ sành sứ quen Gia đình nghiêm lắm dưới trên Yêu nhau cùng họ cấm nên vợ chồng Con theo cha vợ theo chồng Gái trai bảy tuổi là không được nằm Ăn ngồi một chiếu một mâm Việc thờ phụng Tổ Tiên tâm chí thành Nhà vua thường cũng lập đàn Nam Dao tế Thượng Đế ban thái bình Xem thì tam đại văn minh Cuối Chu suy nổi đao binh chư hầu Xuân Thu Chiến Quốc chia bâu Sau Tần thống nhất xứ Tàu biến thiên Bỏ phong kiến phép tỉnh điền Lập ra quận huyện cấm truyền bá nho Cốt dùng pháp luật trợ cho Uy quyền chính trị mà gò bó dân Đang khi phong tục cải lần Xảy tranh chấp Hán Sở Tần xót xa Vào triều vua Triệu Vũ ta Tình hình chiến sự China thoái dần Bá vương Hạng Võ trừ Tần Lưu Bang diệt Sở dân lành thở yên Hai không hai trước công nguyên (202 TCN) Lên ngôi xưng Trẫm bỉnh quyền Bắc phương Tức Cao Tổ Hán gia vương Định quan chế đặt kỷ cương trị đời Tới năm ất tỵ đương thời (196 TCN) Thấy nhà Triệu cứ đất trời Lĩnh Nam Lưu Bang nổi tiếng tham lam Bèn sai Lục Giả sang đàm thí vương Vũ vương bản tính quật cường Đâu thần phục Hán nhậm vương chư hầu Đến nơi Lục Giả vô chầu Vũ vương tĩnh tọa cưỡng cầu cạnh căng Bấy giờ Lục Giả nói rằng "Nhà vua nguyên gốc tóc răng người Tàu Họ hàng mồ mả cuống nhau Ở châu Chân Định lẽ nào ganh đua Nay nhà Hán đã làm vua Triệu vương kháng cự sứ thừa lệnh phong E là Hán đế không dung Ba đời mồ mả họ hàng bất an" Vũ vương nghe thế vội vàng Đứng lên làm lễ tạ ân nói là "Chắc gì Hán đế hơn ta Nếu ta khởi nghiệp bên nhà một khi"