[Bài Thơ] Lịch Sử Việt Nam Qua Thơ - Sưu Tầm

Thảo luận trong 'Thơ Ca' bắt đầu bởi Rùa Siêu Tốc, 8 Tháng bảy 2018.

  1. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    452
    Phần 1

    Việt Nam nòi giống Lạc Hồng

    Bao đời thắm gội máu dòng sử xanh

    Mẹ hiền sinh đấng hùng anh

    Xây nền tự chủ rạng danh nước nhà



    Khởi từ lịch sử dân ta

    Vua Hùng dựng nước tên là Văn Lang

    Lập ra phép tắc vua quan

    Võ quan Lạc tướng văn quan Lạc hầu

    Quan Bồ Chính nhỏ đầu tầu

    Địa phương mỗi vị dịp cầu dân gian

    Nam con vua gọi quan Lang

    Nữ con vua gọi Mỵ nương tước đời

    Cha truyền trai trưởng nối ngôi

    Chăm lo việc nước thay Trời giúp dân

    Dưới vua là các quần thần

    Chung tay xây dựng góp phần mai sau

    Đóng đô ở đất Phong châu

    Chia mười lăm bộ kế nhau trị vì

    Đến đời mười tám vận suy

    Thục vương làm phản cướp đi ngai rồng



    Cứ vào huyền sử Lạc Hồng

    Đế Minh là cháu thần Nông ba đời

    Phương nam tuần thú vui chơi

    Thương nàng tiên Ngũ Lĩnh thời kết duyên

    Sinh trai Lộc Tục ngoan hiền

    Phong con trưởng thứ mỗi miền một vương

    Đế Nghi trai trưởng bắc phương

    Thứ trai Lộc Tục nam phương vẫy vùng

    Kinh Dương vương Lộc Tục xưng

    Nước tên Xích Quỷ đất trưng bản đồ

    Bắc biên giới Động Đình hồ

    Hướng nam biên ải nước Hồ Tôn ranh

    Đông Nam Hải bể bao quanh

    Phía tây Ba Thục rừng xanh cõi bờ

    Cưới nàng Long Động Đình hồ

    Phu thê hòa thuận ước mơ thế trần

    Sinh Sùng Lãm Lạc Long quân

    Lên ngai kết mối tình thân tiên rồng

    Cùng Âu Cơ nghĩa vợ chồng

    Sinh ra một bọc Lạc Hồng trăm con

    Người dưới nước, kẻ trên non

    Sống chung xung khắc hao mòn lạt phai

    Lạc Long quân quyết chia hai

    Mỗi bên một nửa sinh nhai mỗi vùng

    Năm mươi lên quản núi rừng

    Năm mươi xuống biển thôn đồng mở mang

    Đẹp Trời con trưởng sai sang

    Phong làm vua nước Văn Lang một dòng

    Dựng lên Lạc Việt vua Hùng

    Giang sơn một dải ngư nông rộn ràng



    Bàn về cổ tích Hồng Bàng

    Đời Hùng thứ nhất còn trang sử rằng

    Người dân chài lưới ven sông

    Thường hay bị giống thuồng luồng bắt ăn

    Vua truyền chàm vẽ vào thân

    Để lừa thủy quái khó phân hại mình



    Hương Phù Đổng bộ Vũ Ninh

    Đời Hùng thứ sáu dân tình nguy nan

    Giặc Ân hung mạnh tràn sang

    Không ai chống nổi vua ban chỉ truyền

    Sứ rao dân chúng mọi miền

    Tìm người tài đức dẹp yên giặc này

    Tới làng Phù Đổng lạ thay

    Anh nhi ba tuổi xung tay tưởng đùa

    Đem về tâu lại cùng vua

    Vua cười vui vẻ bảo đưa bé vào

    Hỏi nhà ngươi biết ra sao

    Giặc Ân hung bạo kế nào phá đi

    Thưa rằng bệ hạ lo chi (1)

    Một roi ngựa sắt thần thì dẹp tan

    Chờ gươm roi ngựa sẵn sàng

    Vươn vai một cái kinh hoàng vua quan

    Thân cao một trương hiên ngang

    Vung roi thúc ngựa lên đàng đánh Ân

    Hai bên tướng sĩ dạ rân

    Giặc Ân sợ hãi lui quân cấp thời

    Đuổi xuôi xả giặc yên đời

    Ngựa người biến mất trong trời Sóc sơn

    Nhà vua cảm động tiếc thương

    Phong là Phù Đổng Thiên vương lập đền

    Hiện nay còn vẫn lưu truyền

    Tháng tư mùng chín hội đền nhớ ơn



    Sau khi dẹp giặc Ân xong

    Vua Hùng chú trọng việc con cung đình

    Truyền quan Lang đến dự tranh

    Ai làm được món ngon lành lạ hay

    Nói lên ý nghĩa cỗ bày

    Thì ta sẽ chọn lên ngai nối dòng

    Các quan Lang thế như rồng

    Đua nhau đi tới núi rừng đảo xa

    Sơn hào hải vị tìm ra

    Với hy vọng được vua cha hài lòng

    Riêng con mười tám vua Hùng

    Tiết Liêu hiền hiếu thảo cùng mẹ cha

    Chọn nơi thôn dã là nhà

    Mẹ đà mất sớm cậy bà vú chăm

    Ngày đêm lo lắng buồn tâm

    Một hôm mộng thấy thần thầm mách cho

    Này con đừng có âu lo

    Gạo thì nuôi sống quý cho con người

    Lấy làm bánh tượng Đất Trời

    Sinh thành dưỡng dục ở đời lá nhân

    Nhớ lời chỉ dạy của thần

    Tiết Liêu ngâm gạo nếp mần bánh chưng

    Tượng hình Đất bánh hình vuông

    Lá dong xanh gói nếp nương nhân vàng

    Tượng hình Cha Mẹ cưu mang

    Thương yêu đùm bọc hết lòng vì con

    Giã xôi làm bánh hình tròn

    Tượng hình Trời trắng giẹp thon bánh dầy

    Đến ngày chấm điểm sum vầy

    Của ngon vật lạ cỗ đầy mâm bưng

    Tiết Liêu hai bánh dầy chưng

    Vua cha thấy vậy hỏi chừng là sao

    Liền đem chuyện mộng thần vào

    Kể ra chi tiết Trời cao Đất dày

    Công ơn Cha Mẹ là đây

    Ngụ trong ý đẹp bánh dầy bánh chưng

    Vua cha nếm thử vui mừng

    Ban cho ngôi báu truyền chung tết này

    Cúng Trời Đất Tổ Tiên bày

    Dâng mâm của lễ bánh dầy bánh chưng



    Tích đời mười tám Hùng vương

    Mỵ nương tính nết khiêm nhường đẹp xinh

    Chàng Sơn Tinh với Thủy Tinh

    Cả hai đều muốn se tình bách niên

    Vua truyền ai thắm lương duyên

    Ngày mai tới trước con hiền sẽ ban

    Hôm sau sính lễ lên đàng

    Sơn Tinh lẹ bước rước nàng Mỵ luôn

    Thủy Tinh trễ mất người thương

    Giận làm gió nổi mưa tuôn lũ trào

    Sơn Tinh làm núi dưng cao

    Nước dâng nhiêu trượng núi bao nấy tầm

    Và dùng sấm chớp ầm ầm

    Ở trên liên tiếp búa tầm sét công

    Thủy Tinh thua thẹn trong lòng

    Bèn toan rút nước hòa dòng biển sông



    Học chương huyền sử Lạc Hồng

    Là tìm gốc tích cội nguồn dân ta

    Ban đầu mờ mịt sử gia

    Tục truyền ôn lại viết ra cho đời

    Nước nào cũng thế mà thôi

    Có Thần Tiên Thánh chủng nòi vẻ vang

    Ai thì biết thuở hồng hoang

    Ta từ đâu đến vương mang cõi phàm



    Lật trang sử cổ Hồng Bàng

    Xem trang sử tiếp ngai vàng Thục gia

    Thục trong sách sử dân ta

    Không là Ba Thục quê nhà chú Ba

    Dẫn y như sử China

    Nhà Tần ngày ấy chiếm Ba Thục rồi

    Thêm vào đường sá xa khơi

    Núi sông ngăn trở khó thời làm nên

    Thục là Thục Phán họ tên

    Họ nào độc lập ở liền nước ta

    Sử Hùng mười tám ghi là

    Mỵ nương nhan sắc mặn mà dễ thương

    Có người danh phận Thục vương

    Dạm xin vua cưới Mỵ nương bất thành

    Sinh lòng đố kỵ đua tranh

    Dặn sau con cháu lấy thành Hùng vương

    Cậy mình tướng dũng binh cường

    Rượu chè vui thú coi thường đối phương

    Nhân tình thế cháu Thục vương

    Là ông Thục Phán am tường đánh ngang

    Hùng vương thua chạy cùng đàng

    Tự trầm xuống giếng tạ hàng tiên vương

    Sau này vua Thục nhớ ơn

    Xây đền quốc tổ Hùng vương lưu đời

    Tháng ba âm lịch mùng mười

    Hàng năm làm giỗ kính Người thượng hương



    Dẹp yên binh loạn bốn phương

    Lên ngôi niên hiệu An Dương vương quyền

    Hai năm bảy trước công nguyên (257 TCN)

    Nước tên Âu Lạc đô miền Phong Khê

    Dân đông trù phú tiện bề

    Hai đường thủy bộ đi về thông thương

    Đến năm bính ngọ Thục vương (255 TCN)

    Nối gò đắp lũy hào mương xây thành

    Ngoài nhìn trôn ốc xoay quanh

    Cho nên ta gọi là thành Cổ Loa

    Thăng trầm vận nước trải qua

    Vẫn còn dấu tích thành Loa Lạc Hồng



    Tục truyền vua Thục khởi công

    Yêu ma quấy nhiễu xây xong đổ thành

    Lập đàn vua khẩn cầu lành

    Thần Kim Quy giúp xây thành mới an

    Lại ban một cái móng chân

    Làm cò lẫy gọi nỏ thần Kim Quy

    Giặc vào bắn phát thị uy

    Tên bay hàng loạt giết đi vài ngàn



    An Dương khai phá mở mang

    Rộng lên phía bắc sang phần Quảng Tây

    Biên cương Âu Lạc đo đầy

    Bao gồm Tượng quận cấy cày nông gia.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng chín 2018
  2. Đăng ký Binance
  3. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    452
    Phần 2

    Cùng thời vua Thục bên ta

    Nhà Tần thống nhất China nắm quyền

    Hai mười bốn trước công nguyên (214 TCN)

    Thủy Hoàng nhòm ngó đất miền Lĩnh Nam

    Sai Đồ Thư tướng chinh Nam

    Đánh quân Bách Việt chiếm thành lấy dân

    An Dương vương cũng phục Tần

    Vua Tần sắp đặt quan quân chia làm

    Quế Lâm quận hướng tây nam

    Hướng đông quận thứ hai Nam Hải và

    Hướng nam Tượng quận nước ta

    Nhưng dân bản xứ tránh xa người Tàu

    Giống dòng Bách Việt rủ nhau

    Kéo vào rừng ở ít lâu quân Tần

    Không quen thủy thổ suy dần

    Tinh thần sa sút bịnh hành liên miên

    Người dân Bách Việt nổi lên

    Chém Đồ Thư chết Lâu Thuyền vỡ tan



    Năm tân mão vận Tần tàn (210 TCN)

    Thủy Hoàng thác bọn quyền thần nôn nao

    Bấy giờ quan úy Nhâm Ngao

    Quận Nam Hải muốn vươn cao cơ đồ

    Chiếm Âu Lạc nhập dưới cờ

    Lập nhà nước tự chủ bờ cõi Nam

    Nhưng hoài bão lớn chưa làm

    Úy Nhâm Ngao mất Triệu Đà phó thay

    Rắp tâm đeo đuổi việc này

    Dùng con Trọng Thủy ý bày thầm sâu

    Cưới công chúa Thục Mỵ Châu

    Dò la sự thể tình đầu nước ta



    Nghĩ phò mã hỏi xuê xoa

    Mỵ Châu vui miệng nói ra nỏ thần

    Trúng ngay diệu kế hòa thân

    Nào hay chồng tráo móng chân lẫy cò

    Bo bo Trọng Thủy giả đò

    Tôi về bên nớ âu lo cho nàng

    Sợ mai chiến địa đôi đàng

    Người nam kẻ bắc tìm nàng ở mô

    Mỵ Châu lòng vẫn ngây thơ

    Áo em lông ngỗng phòng hờ bên ni

    Rứt lông em thử vận thì

    Chàng đi lối ấy có chi buồn rầu



    Giã nàng muôn dặm vó câu

    Linh Quang Kim Trảo nỏ tâu Triệu Đà

    Biết rành tình thế nước ta

    Nhằm năm quý tỵ Triệu Đà cất quân

    Thục vương cậy có nỏ thần

    Đợi quân Triệu áp đến gần bắn qua

    Không ngờ thua trí sui gia

    Lẫy cò bị tráo nỏ đà hết linh

    An Dương vương bỏ cung đình

    Vội cùng công chúa bôn trình vào nam

    Tới chân Mộ Dạ - Nghệ An

    Kề nơi bờ biển khấn thần Kim Quy

    Triệu Đà bám sát lâm nguy

    Xin thần chỉ dẫn đường đi lánh nàn

    Kim Quy báo ngã ba đàng

    Mỵ Châu để dấu chồng nàng nga mao

    Vua An Dương tức nghẹn ngào

    Vung gươm chém Mỵ Châu nào được an

    Nỗi niềm bào xé tâm can

    Biển xanh Mộ Dạ - Nghệ An gieo mình



    Nóng lòng Trọng Thủy xua binh

    Ngựa phi kíp quá khắc tình phu thê

    Gặp nhau trong cảnh não nề

    Lặng ôm xác vợ trở về Cổ Loa

    Sai người cấp táng hương hoa

    Rồi ra nhảy giếng thành Loa theo nàng

    Triệu Đà sao nỡ phũ phàng

    Oái oăm tình sử bẽ bàng thiên duyên



    Hai không bảy trước công nguyên (207 TCN)

    Mưu gian Trọng Thủy thắng liền Thục vương

    Triệu Đà xưng Triệu Vũ vương

    Lên ngai cai quản một vùng phía Nam

    Nước ta Nam Hải lân bang

    Nhập thành Nam Việt hiên ngang vẫy vùng

    Đóng đô ở đất Phiên Ngung

    Ung dung việc nước dập khuôn mẫu Tàu

    Tinh thần độc lâp phai mau

    Chư hầu sau cũng gốc Tàu nở hoa



    Tạm thời gác chuyện Triệu gia

    Lướt xem phong kiến ngàn xa xưa Tàu

    Mỗi châu một vị cầm đầu

    Gọi là vua nước chư hầu địa phương

    Phải thần phục cống Tàu vương

    Mỗi đời số tiểu quốc thường khác nhau

    Như vua Hạ hội chư hầu

    Có hàng vạn nước đến chầu Đồ sơn

    Khi nhà Chu thắng Trụ vương

    Tám trăm cả thảy Vũ vương chia làm

    Công Hầu Bá Tử và Nam

    Bảy mươi người được vua ban chư hầu

    Nước trăm dặm tước Công Hầu

    Bảy mươi tước Bá tước cầu Tử Nam

    Năm mươi dặm lại gia ban

    Phụ Dung nước nhỏ hơn hàng Tử Nam



    Nhà Chu quan chế sáu Quan

    Mỗi Quan có sáu mươi quan đổ đồng

    Là ba trăm sáu mươi ông

    Địa Thiên Xuân Hạ Thu Đông lục dòng

    Thái sư, phó, bảo tam công

    Thiếu sư, phó, bảo tam cô đại thần

    Để bàn việc nước an dân

    Chứ về hành chính không can dự phần



    Ân Chu pháp chế chặt chân

    Đánh roi da xích tù nhân gọt đầu

    Lăng trì mổ muối vạc dầu

    Xé thây phơi xác bêu đầu .v..v...



    Về binh chế của Chu quân

    Năm người một Ngũ Ngũ nhân năm là

    Hăm lăm một Lượng nhân ra

    Một trăm là Tốt Lữ là năm trăm

    Một Sư là Lữ nhân năm

    Nhân năm Sư lấy số làm một Quân

    Nước Thiên Tử có sáu quân

    Chư hầu lớn nhỏ vừa phân biệt là

    Ba Quân cho đại quốc và

    Hai cho trung quốc tiểu là một Quân

    Việc binh chế ở trong dân

    Tám nhà một Tỉnh Tỉnh nhân bốn là

    Băm hai một Ấp tính ra

    Khâu là bốn Ấp Điện là bốn Khâu

    Điện thì phụ trách như nhau

    Binh xa một cỗ số đầu quân trăm

    Tải khiêng đồ nặng hăm lăm

    Bảy hai bộ tốt giáp dăm ba còn

    Bò mười hai ngựa bốn con

    Lúc cần phục dịch nước non mọi miền



    Ân Chu dùng phép tỉnh điền

    Chia hình chữ Tỉnh tư diền tám khu

    Công điền ở giữa một khu

    Tám nhà một tỉnh công tư cày bừa

    Công chừa hoa lợi đức vua

    Tới đời Chiến Quốc các vua Ngụy Tần

    Lý Khôi nước Ngụy canh tân

    Đất không định hạn bắt dân rán mần

    Công Tôn Ưởng tướng nhà Tần

    Mở thiên mạch bỏ Chu Ân tỉnh điền

    Mọi người tự tiện làm nên

    Phép chia từ đó dần liền mất đi



    Học linh hai cấp Chu ghi

    Tiểu thì tám tuổi đại thì mười lăm

    Thi thư lễ nhạc siêng chăm

    Kính trên ứng đối trọng tăm tiếng đời

    Nhà Chu học đã thịnh rồi

    Đến Xuân Thu có lắm người tài danh

    Khổng bàn hiếu đễ nghĩa nhân

    Dương Chu vị kỷ thiệt thân không làm

    Lẽ kiêm ái Mặc Địch bàn

    Hàn Phi, Thân Bất Hại bàn trị dân

    Lão bàn đạo các triết nhân

    Điền Biền, Quỷ Cốc.v..v...mỗi người

    Xướng ra một thuyết dạy đời

    Biết điều phải quấy nói lời thiện ngay



    Nước Tàu gốc sự cấy cày

    Nuôi tằm dệt lụa thêu may vá rành

    Bán buôn họp chợ tinh lanh

    Lưới chài săn bắn đồ sành sứ quen

    Gia đình nghiêm lắm dưới trên

    Yêu nhau cùng họ cấm nên vợ chồng

    Con theo cha vợ theo chồng

    Gái trai bảy tuổi là không được nằm

    Ăn ngồi một chiếu một mâm

    Việc thờ phụng Tổ Tiên tâm chí thành

    Nhà vua thường cũng lập đàn

    Nam Dao tế Thượng Đế ban thái bình

    Xem thì tam đại văn minh

    Cuối Chu suy nổi đao binh chư hầu

    Xuân Thu Chiến Quốc chia bâu

    Sau Tần thống nhất xứ Tàu biến thiên

    Bỏ phong kiến phép tỉnh điền

    Lập ra quận huyện cấm truyền bá nho

    Cốt dùng pháp luật trợ cho

    Uy quyền chính trị mà gò bó dân

    Đang khi phong tục cải lần

    Xảy tranh chấp Hán Sở Tần xót xa



    Vào triều vua Triệu Vũ ta

    Tình hình chiến sự China thoái dần

    Bá vương Hạng Võ trừ Tần

    Lưu Bang diệt Sở dân lành thở yên

    Hai không hai trước công nguyên (202 TCN)

    Lên ngôi xưng Trẫm bỉnh quyền Bắc phương

    Tức Cao Tổ Hán gia vương

    Định quan chế đặt kỷ cương trị đời

    Tới năm ất tỵ đương thời (196 TCN)

    Thấy nhà Triệu cứ đất trời Lĩnh Nam

    Lưu Bang nổi tiếng tham lam

    Bèn sai Lục Giả sang đàm thí vương

    Vũ vương bản tính quật cường

    Đâu thần phục Hán nhậm vương chư hầu

    Đến nơi Lục Giả vô chầu

    Vũ vương tĩnh tọa cưỡng cầu cạnh căng

    Bấy giờ Lục Giả nói rằng

    "Nhà vua nguyên gốc tóc răng người Tàu

    Họ hàng mồ mả cuống nhau

    Ở châu Chân Định lẽ nào ganh đua

    Nay nhà Hán đã làm vua

    Triệu vương kháng cự sứ thừa lệnh phong

    E là Hán đế không dung

    Ba đời mồ mả họ hàng bất an"

    Vũ vương nghe thế vội vàng

    Đứng lên làm lễ tạ ân nói là

    "Chắc gì Hán đế hơn ta

    Nếu ta khởi nghiệp bên nhà một khi"
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng chín 2018
Trả lời qua Facebook
Đang tải...