Giới thiệu: Truyện dài "Hẹn Anh Ngày Bình Yên" là một câu chuyện nhỏ giữa cuộc KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC VĨ ĐẠI của dân tộc, truyện dài được trích từ tiểu thuyết "Hẹn Em Ngày Bình Yên". Để đọc trọn vẹn tác phẩm, bạn có thể tìm đọc tại danh mục tác phẩm của Rewrite, hoặc trang web truyennhaong.vn, seach "Hẹn Em Ngày Bình Yên".
Đôi lời từ tác giả: Cảm hứng viết tác phẩm này đến khi mình tình cờ nhìn thấy nụ cười của liệt sĩ Phạm Ngọc Hùng, một điều gì đó thôi thúc mình viết truyện. Nó như là một nghĩa vụ vô hình, thôi thúc hàng đêm cho đến khi hoàn thành, mình đã khóc mỗi lần rà soát bản thảo để sửa lỗi chính tả, không hiểu sao nước mắt cứ tự nhiên ứa ra, chính ở bản thảo mình đã viết, kỳ cục nhỉ? Chỉ là viết truyện thôi mà, sao phải khóc? Mà nó thật.
Ảnh liệt sĩ Phạm Ngọc Hùng.
Một số đoạn trích từ thư của liệt sĩ Phạm Ngọc Hùng:
"Mẹ ạ! Từ hôm chiều chủ nhật ở Hà Nội đi đến nay đã gần một tuần lễ rồi. Sáng thứ 2 bắt đầu cuộc hành quân gian khổ, đầu tiên đi từ Đại Từ đến Đồng Văn"
"Mệt lắm bố mẹ ạ, có nhiều lúc cảm giác không phải thở bằng mũi mà thở bằng cả tai, mắt, mồm.. Nữa, trời giá rét như vậy nhưng chúng con ai cũng mồ hôi đầm đìa ướt hết cả áo".
"Là người lính ai chả đặt cho mình một niềm tin chiến thắng và nhất định là như vậy - con sẽ chiến thắng và nhất định trở về sống bên mẹ đến trọn đời".
"Các bạn gần nhà chỉ còn Tư và Cường 22 là còn ở với em thôi. Hải đi đơn vị khác rồi. Thọ - Cường (Cửa Nam), Mỹ (Hàng Bông Nhuộm) đã bị kẻ thù bên kia trận tuyến cướp mất rồi".
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Ba má và các em yêu thương, ở ngoài đó ba má và các em làm sao thấy hết được cuộc sống ở đây. Cuộc sống vô cùng anh dũng, vô cùng gian nan, chết chóc hy sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm. Vậy mà người ta vẫn bền gan chiến đấu. Con cũng là một trong muôn nghìn người đó, con sống chiến đấu và nghĩ rằng mình sẽ ngã xuống vì ngày mai của dân tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc."
(Trích từ nhật ký của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, ngày 14/7/1969)
Hà Nội, tháng 6 năm 1966.
Chiều hôm ấy, tôi đạp xe qua phố Khâm Thiên, mùi khét lẹt của khói bom vẫn còn vương trong không khí. Tiếng loa phòng không vang lên từng hồi dồn dập: "Đồng bào chú ý! Máy bay địch đang tiến về phía Gia Lâm, đồng bào nhanh chóng di chuyển đến hầm trú ẩn!" Nhưng tôi không dừng lại. Bác Tư, người thợ sửa xe đạp đầu ngõ, vừa bị thương trong trận bom rạng sáng, giờ đang nằm ở Bạch Mai. Chiếc xe đạp cà tàng của tôi lách qua những hố bom lở chở, bánh xe lạo xạo trên mặt đường gồ ghề.
Bệnh viện Bạch Mai ngập tràn tiếng rên xiết. Ánh nắng chiếu qua những tấm vải trắng bạc màu giăng làm màn che cửa sổ, in bóng những dãy giường xếp dài như vô tận. Tôi len lỏi giữa dòng người tất tả, áo trắng sinh viên Y khoa lấm lem máu và bụi. Đột nhiên, một giọng nói trong trẻo cắt ngang không khí ngột ngạt: "Có ai nhóm máu O không? Cấp cứu gấp!"
Tôi quay đầu. Một cô gái tóc ngắn, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, chiếc khẩu trang vắt vội trên cổ. Ánh mắt cô đầy lo lắng, nhưng giọng nói vững vàng lạ thường. Không nghĩ ngợi, tôi giơ tay: "Tôi nhóm O!"
Cô gái, Linh, như sau này tôi biết tên, dẫn tôi vào phòng cấp cứu. Kim tiêm đâm nhẹ vào tay, tôi cố nhoẻn miệng cười để che giấu nỗi sợ kim vốn giấu kín từ bé. "Anh cười đẹp thế," Linh khẽ nói, tay vẫn thoăn thoắt chuẩn bị dụng cụ: "Nhưng đừng cố quá, mặt anh trắng bệch rồi." Tôi cười to hơn: "Tôi sợ máu lắm, nhưng sợ cô la hơn!" Cô phì cười, má ửng hồng.
Mười phút sau, tôi nằm dài trên ghế, chóng mặt nhưng thấy lòng nhẹ bẫng. Linh ngồi cạnh, đưa ly nước đường ấm: "Uống đi, máu anh cứu được người rồi." Tôi nhấp một ngụm, hỏi vặn: "Sao cô biết tôi không phải là gián điệp?" Cô nghiêng đầu, giả vờ nghiêm túc: "Gián điệp nào dám vào đây cho máu? Chúng sợ.. Kim tiêm lắm!" Chúng tôi cùng bật cười, tiếng cười vang lên giữa căn phòng đầy đau thương, như tia nắng xuyên qua mây đen.
Khi ra về, tôi lén theo bóng Linh qua những con phố nhỏ. Cô gái áo trắng đạp xe chầm chậm, thỉnh thoảng dừng lại mua cái bánh đa cho bà cụ bán hàng rong. Tôi giữ khoảng cách, tim đập thình thịch khi cô rẽ vào ngõ Hàng Đào. "Nhà cô ấy cách nhà mình.. Ba cây số!" Tôi thầm tính toán, mắt sáng lên.
Hôm sau, tôi vác cây si con đến trồng vào ô đất trống trên vỉa hè, trước cổng nhà Linh. Đất cứng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, nhưng tôi cười ngây ngô khi nghĩ đến ánh mắt ngạc nhiên của cô. Hai tuần trôi qua, ngày nào tôi cũng mang một can nước qua tưới, cây si bén rễ. Mỗi sáng, tôi đạp xe ngang đó, giả vờ tình cờ gặp Linh đi học. Cho đến một ngày mưa, cô chủ động vẫy tay: "Anh Huy! Chở tôi qua đoạn đường ngập này được không?"
Chiếc xe đạp cà tàng của tôi kẽo kẹt dưới mưa, Linh ngồi sau, tay nắm nhẹ vạt áo tôi. "Anh trồng cây si đó phải không?" Cô hỏi, giọng đầy hài hước. Tôi ấp úng: "Tôi.. Tôi thấy đất trống nên!"
"Đất nhà tôi mà 'trống'?" Cô cười khúc khích, tiếng cười hòa cùng tiếng mưa rơi tí tách.
Buổi chiều hôm ấy, tôi đạp xe về nhà, mùi mồ hôi còn vương trên quần áo. Tiếng loa phòng không lại rền vang, nhưng lòng tôi ấm áp lạ thường. Cây si non đã đâm chồi.
Mùa thu Hà Nội năm ấy đến như một bài thơ chưa kịp gieo vần. Những con phố cổ khoác lên mình tấm áo vàng rực của lá bàng, lá sấu già nua rụng xuống, xào xạc dưới bánh xe đạp của tôi và Linh. Gió heo may lùa qua khăn choàng vội vã cô quàng trên cổ, mang theo mùi hoa sữa nồng nàn phảng phất từ phố cổ. Chúng tôi thường rủ nhau đi học sớm, chỉ để được đạp xe vòng qua Hồ Gươm, ngắm mặt nước lung linh in bóng những hàng liễu rủ mái tóc dài vào thu.
"Anh này, anh có biết 'tế bào hồng cầu' hình gì không?" Linh đột nhiên hỏi một sáng thứ Ba, tay xoay xoay chiếc bút máy trước mặt. Chúng tôi ngồi trong thư viện trường Y, giữa những chồng sách dày cộp mùi mực. Tôi nhíu mày giả vờ suy nghĩ: "Hình.. Hình viên kẹo sữa của em hôm trước?" Cô bật cười, vội đưa tay che miệng để không làm ồn: "Sai bét! Nó tròn dẹt như cái bánh xe đạp của anh ấy!" Tôi giả vờ thở dài: "Thế thì tế bào của anh chắc thành 'hồng cầu méo mó' rồi, vì xe đạp anh bị va cả chục hố bom!"
Chúng tôi trêu đùa nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, toán học và y khoa đan xen. Linh dạy tôi phân biệt các loại xương qua bài hát đồng dao tự chế, còn tôi dùng phương trình để tính giờ cô phải đi ngủ nếu muốn đủ 8 tiếng nghỉ trưa. Những buổi trưa trong căn-tin trường Y thường kết thúc bằng trận cười khúc khích khi tôi vẽ hình tim bằng ký hiệu tích phân, còn Linh dùng ống nghe tim thử đo nhịp đập của.. Tim tôi lúc giả làm bệnh nhân.
Chiến tranh vẫn đè nặng lên thành phố. Mỗi lần còi báo động rú lên, chúng tôi lại cùng chạy xuống hầm trú ẩn của bệnh viện. Trong căn hầm chật hẹp, Linh dạy tôi cách băng bó vết thương bằng khăn tay, còn tôi kể cho cô nghe về những chòm sao trên bầu trời. Có lần, khi tiếng bom dội xa xa, tôi thấy tay cô run nhẹ. Tôi giả vờ mở túi khoai lang nướng mang theo: "Ăn đi, khoai nguội rồi. Bom địch đâu có đáng sợ bằng.. Đói bụng!" Cô cắn một miếng, mắt cười cong cong: "Anh toàn dỗ trẻ con!"
Thư từ trở thành nhịp cầu nối những ngày chúng tôi xa nhau. Tôi viết cho Linh bằng giấy kẻ ô li học trò, kèm theo những bài thơ hình tam giác Pascal. Cô hồi âm trên trang giấy kê đơn thuốc cũ, chữ viết nghiêng nghiêng như sợi khói thuốc bắc: "Gửi bệnh nhân Huy: Triệu chứng: Hay cười vô cớ, mắt sáng lấp lánh khi nói về tích phân. Chẩn đoán: Thiếu vitamin.. Linh!" Mỗi bức thư đều có mùi thuốc sát trùng, như thể cô muốn bảo quản tình cảm của chúng tôi khỏi sự tàn phá của thời gian.
Ngày rằm tháng Tám, chúng tôi cùng đi làm tình nguyện ở khu tập thể Kim Liên. Linh bê từng chậu nước cho các cụ già, còn tôi leo lên mái nhà sửa lại phần bị dột. Khi tiếng hát "Nổi lửa lên em" vang lên từ chiếc loa cũ, tôi thấy Linh đứng dưới sân, tay vẫn cầm xô nước nhưng chân nhún nhảy theo điệu nhạc. Cô bắt gặp ánh mắt tôi, vội giả vờ vuốt tóc: "Em.. Em đang kiểm tra khớp cổ chân đấy!" Tôi cười rúc rích, suýt ngã khỏi mái nhà.
Chiều hôm ấy, chúng tôi lén mang gói xôi nếp cẩm ra bờ hồ. Linh ngồi trên chiếc xích lô cũ của bác hàng nước, chân đung đưa: "Anh có biết mùa thu này đẹp nhất ở đâu không?" Tôi giả vờ suy tư: "Ở.. Không khí mát mẻ à?" Cô hất tóc cười: "Ở chỗ này!" Cô chỉ vào chiếc lá vàng rơi chấm vào mũi tôi. Chúng tôi cùng im lặng ngắm hoàng hôn phủ lên Tháp Rùa, tiếng máy bay địch xa xa như tan biến trong hơi thở mùa thu. Bàn tay tôi và Linh đan vào nhau, mái tóc em ngã lên vai tôi.
Khi đèn đường bật sáng, Linh đưa tôi tờ giấy gấp hình trái tim: "Đây là đơn thuốc đặc biệt." Bên trong là lời bài hát "Hà Nội mùa thu" được chép tay, cuối trang có dòng chữ nhỏ: "Em yêu anh!" Tôi giữ tờ giấy ấm áp trong lòng bàn tay, tim đập loạn nhịp hơn cả lần đầu nghe tiếng bom.
Tháng 10 năm 1967, gió từ sông Hồng thổi về mang theo hơi lạnh đầu mùa. Những tờ báo tường tuyển quân dán kín bảng thông báo của các Trường Đại Học ở Hà Nội, in dòng chữ đỏ chói: "Thanh niên ơi, Tổ quốc gọi!" Linh và tôi thường đứng lặng trước những dòng chữ ấy, lòng nặng trĩu một thứ cảm xúc khó gọi tên. Chiều hôm ấy, khi chúng tôi đi dọc bờ hồ, cô bất ngờ nắm chặt tay tôi: "Anh.. Anh có định viết đơn không?"
Tôi giả vờ nhặt chiếc lá phong đỏ thẫm rơi xuống chân, cười gượng: "Em sợ anh đi lính à?" Linh quay mặt đi, giọng nghẹn lại: "Em sợ.. Sợ anh bắn giỏi quá, thành anh hùng rồi chẳng nhớ đường về!" Cô cố nói đùa nhưng mắt đã đẫm lệ, nắm tay tôi run nhẹ. Tôi đưa chiếc lá phong lên ngang tầm mắt, che đi khoảnh khắc mặt trời lặn: "Lá này giống trái tim anh. Dù gió cuốn đi đâu, gốc rễ vẫn bám chặt đất mẹ."
Chúng tôi hẹn nhau đến quán trà nhỏ cuối phố Lý Thường Kiệt. Trên bàn, hai tách trà nguội lạnh từ lúc nào. Linh lấy từ túi ra chiếc khăn tay thêu dở, những mũi kim loằng ngoằng: "Em đang tập thêu.. Để nếu anh đi, có cái làm bùa may mắn." Tôi cầm lên xem, phì cười: "Em thêu đẹp lắm, đạn nó sợ không dám đâm vào anh đâu!" Cô giật lại, má đỏ bừng giận dữ: "Im cái mồm anh đi! Nhớ phải giữ lấy thân, em không muốn anh làm anh hùng đâu!" Rồi chúng tôi im lặng, từ đôi mắt em hai dòng lệ chảy dài.
Đêm ấy, tiếng máy bay B-52 gầm rú xé toạc bầu trời Hà Nội. Tôi và Linh chạy xuống hầm trú ẩn cùng gia đình cô. Trong bóng tối, tay cô tìm và nắm lấy tay tôi. "Anh này," giọng cô khẽ khàng như sợ đánh thức những nỗi sợ đang ngủ quên: "Hồi anh trồng cây si, anh có ước gì không?" Tôi nhìn ánh lửa bập bùng từ ngọn đèn dầu: "Anh ước.. Cây ấy đủ cao để che chở cho người anh yêu."
Sáng hôm sau, đoàn cán bộ Bộ Quốc phòng đến trường Đại học Tổng Hợp. Họ đứng trước giảng đường khoa Toán, bộ quân phục xanh lá cây đậm nổi bật giữa biển áo sơ mi trắng sinh viên. Vị đại úy có khuôn mặt khắc khổ bước lên bục: "Các đồng chí! Tổ quốc đang gọi! Chúng tôi cần những người giỏi tính toán góc bắn, biết tính nhẩm nhanh. Ai xung phong vào đội bắn tỉa?"
Không gian chùng xuống. Tiếng lá vàng rơi ngoài cửa sổ nghe rõ mồn một. Tôi quay đầu nhìn về phía các bạn cùng lớp, vài cánh tay đã từ từ giơ lên.
"Tôi! Tôi xung phong!" Giọng nói của tôi vang lên giữa lớp, bàn tay phải giơ cao như cành si vươn thẳng.
"Tôi nữa!"
"Tôi cũng tình nguyện!"
Tất cả hơn hai chục sinh viên khoa Toán đã tình nguyện lên đường hôm ấy.
Ở bàn đăng ký nhập ngũ, một đồng chí hỏi: "Đồng chí tên gì?"
"Phạm Ngọc Huy! Sinh viên năm hai khoa Toán!"
Một tràng vỗ tay nổi lên. Tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng tim mình đập thình thịch. Tôi chợt nghĩ về Linh và bài hát "Hà Nội mùa thu" chép tay em tặng tôi. Tôi bước xuống, chân như không chạm đất.
Trước khi đoàn cán bộ rời đi, vị đại úy hỏi nhỏ tôi: "Sao đồng chí không ngần ngại?" Tôi nhìn ra cửa sổ, nơi mùa thu Hà Nội đã qua, mùa đông lạnh đang về, và cây si của tôi đang lớn: "Vì Tổ quốc cũng cần em.."
Hà Nội 1967
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Tự hào lắm, khi được lang thang trên mảnh đất Mẹ hiền này và bảo vệ nó. Còn ai hạnh phúc hơn ta nữa. Trang sách cuộc đời chưa mở cho ta, nhưng mới ghé mắt nhìn, ta đã ngay ngất cả người. Tiếc thay, đã mấy ai nhận thấy!"
(Trích từ nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, viết vào ngày 18 tháng 9 năm 1971)
Chiều cuối thu Hà Nội, gió heo may se lạnh luồn qua những con phố nhỏ, mang theo mùi lá khô và hương hoa sữa thoảng nhẹ. Tôi đứng dựa vào gốc cây bàng già trước cổng trường Đại học Y, tay siết chặt tờ giấy nhập ngũ còn thơm mực. Đường phố vắng lặng khác thường, như thể thành phố đang nín thở trước cuộc chia ly.
Linh xuất hiện từ dãy phòng học, chiếc áo blouse trắng bay nhẹ trong gió. Dáng cô gầy hơn sau những đêm thức trắng ôn thi, nhưng đôi mắt ấy vẫn sáng ngời như ngày đầu gặp gỡ. Tôi giơ tay vẫy, nụ cười cố nén nỗi nghẹn ngào. Cô chạy vội đến, hơi thở gấp gáp: "Anh.. Anh đăng ký rồi phải không?"
Tôi gật đầu, đưa tờ giấy cho cô. Linh cầm lấy, ngón tay run run lướt qua dòng chữ "Phạm Ngọc Huy, Tình nguyện nhập ngũ". Đột nhiên, cô ôm chặt lấy tôi, khuôn mặt chôn sâu vào ngực áo. Tiếng nức nở của cô như dao cứa vào tim: "Sao anh không nói với em từ sáng? Em.. Em còn định đăng ký cùng anh!"
Tôi xoa lưng cô, cố giọng bình thản: "Em còn phải học Y để cứu người. Anh ra trận, em ở lại hậu phương, thế mới là đồng đội chứ!" Linh ngẩng mặt lên, nước mắt lăn dài trên gò má hồng. Tôi lau vội cho cô, giọng đùa cợt: "Nào, cô bác sĩ tương lai! Khóc thế này mai mốt ai dám làm bệnh nhân?"
Cô đấm nhẹ vào ngực tôi, mím môi cười qua hàng mi ướt: "Anh đúng là đồ ngốc!"
Chúng tôi dạo bước ven Hồ Gươm, tay nắm tay chưa bao giờ siết chặt đến thế. Ánh chiều tà nhuộm Tháp Rùa thành màu đồng cổ kính. Linh ngồi xuống bậc đá, lấy từ túi xách ra cuốn sổ tay đầy ký hiệu y khoa: "Anh phải nhớ kỹ nhé! Vết thương phần mềm thì rửa bằng nước sạch, băng ép cầm máu. Sốt cao thì chườm khăn ấm.." Giọng cô run run nhưng rành rọt từng chi tiết, như thể đang giảng bài cho cậu sinh viên năm nhất.
Tôi giả vờ nhăn mặt: "Em định biến anh thành bác sĩ dã chiến à?" Linh trừng mắt: "Cứ đùa đi! Anh mà để bị thương không biết xử lý, em sẽ.." Cô bỗng lặng bặt, mắt lại rưng rưng. Tôi vội kéo cô vào lòng, hát khẽ mấy câu "Lá còn xanh như anh đang còn trẻ.." Linh cười trong nước mắt, giọng líu lo hòa theo: "Anh trai làng có đi chiến dịch mùa xuân.."
Nắng chiều dần tắt, bóng tối mềm mại buông xuống. Tôi nghiêng đầu hôn lên mái tóc cô, hơi thở thoảng hương hoa nhài. Linh quay lại, đôi môi ấm áp chạm vào môi tôi, nụ hôn mặn vị nước mắt: "Em sẽ đợi anh về." Giọng cô thì thầm như lời thề.
Bỗng Linh đứng phắt dậy, kéo tay tôi chạy: "Đi với em!" Chiếc xe đạp cà tàng của tôi rít lên ken két dưới sức nặng hai người. Cô vòng tay qua eo tôi, má áp vào lưng áo trắng đã ngả màu. Gió lạnh ùa vào mặt, nhưng chỗ tay cô nắm lại nóng hổi.
Chùa Trấn Quốc hiện ra thấp thoáng sau rặng liễu rủ. Chúng tôi quỳ trước điện Phật, khói hương quyện vào tiếng chuông chùa thong thả. Linh chắp tay run rẩy: "Con cầu xin hòa bình sớm lập lại, để người con thương được trở về.." Tôi thì thầm bên tai cô: "Con cầu duyên này nếu không trọn, xin kiếp sau được nối lại.."
Cô xoay sang ôm chầm lấy tôi, nước mắt thấm ướt vai áo: "Không được nói vậy! Anh phải về, dù là.." Tôi đặt tay lên miệng cô, nuốt nghẹn nỗi đau vào trong: "Em đừng khóc, anh nhất định sẽ về!" Hoàng hôn nhuộm tím mái chùa, bóng hai đứa in dài trên sân gạch như muốn níu kéo phút giây cuối cùng.
Trên đường về, Linh ghì chặt tay tôi như sợ gió cuốn đi mất. Bài hát "Lá Xanh" vọng lại từ chiếc loa phường, lời ca rộn rã vui tươi mà sao nghe xót xa: "Đi đầu quân! Đi đầu quân! Tất cả cho tiền tuyến, Mau lên đi, Hỡi các anh trai làng."
Căn nhà nhỏ phố Khâm Thiên chìm trong mùi khói bếp lẫn mùi nước mắt. Tôi bước qua ngưỡng cửa, tiếng xoong chảo lách cách trong bếp im bặt. Mẹ đứng tựa vào cánh tủ gỗ, tay cầm chiếc đũa cả dính cơm cháy, mắt đỏ hoe nhìn tôi như thể tôi vừa từ cõi chết trở về.
"Con về rồi à?" Giọng mẹ khản đặc.
Tôi gật đầu, cất tiếng cười gượng: "Mẹ nấu canh cá phải không? Thơm quá!" Mẹ vội quay đi, dùng tạp dề lau vội mặt. Trên mâm cơm, bát canh cà bốc khói nghi ngút, đĩa cá kho nghệ vàng ruộm, toàn những món tôi thích. Bố ngồi phịch xuống chiếc ghế mây, chai rượu nếp cẩm đã vơi nửa. Ông chẳng nói chẳng rằng, chỉ gõ đũa lên mâm kêu "lách cách", tiếng động khô khốc xé toang không khí.
Hoàng lén ném cho tôi ánh nhìn lo lắng từ góc nhà. Thằng bé cầm chiếc quạt nan phe phẩy cho mẹ, nhưng mắt cứ dán vào tờ giấy nhập ngũ tôi để trên bàn thờ.
"Ăn đi các con!" Mẹ vừa xới cơm vừa khóc, tay run đến nỗi hạt cơm vương vãi khắp mâm. Bát cơm trước mặt tôi chất cao như núi, có cả miếng cá phần bụng béo ngậy mẹ thường dành cho bố. Tôi cắn trái cà muối chua, vị chát nghẹn lại cổ họng.
Bỗng bố đập mạnh chén rượu xuống bàn: "Bà nó im đi không? Não hết cả ruột!" Cả nhà giật mình. Mẹ nuốt ngược tiếng nấc, đôi vai gầy rung lên từng hồi. Tôi đưa tay nắm tay mẹ, những ngón tay chai sạn vì làm lụng thắt chặt lấy tôi.
"Con.. Con không mang theo áo len này sao?" Mẹ lấy từ trong rương ra chiếc áo dệt kim cũ kỹ, đường chỉ đã bạc màu: "Mùa đông năm ngoái con mặc vừa mà, lát nữa mẹ vá lại cổ cho.."
Tôi lắc đầu: "Mẹ ơi, quân đội có phát đủ đồ ấm rồi." Mẹ giằng lấy ba lô tôi đang xếp, nhét vào đó nào xà phòng thơm, lọ dầu gió, cả gói kẹo lạc tự gói bằng giấy báo: "Cứ mang theo, phòng khi.." Bà bỗng lặng đi, như sợ nói ra điềm gở.
Bố đứng dậy, hơi rượu nồng nặc phả vào không khí. Ông vịn vai tôi, bàn tay thô ráp như vỏ cây: "Nhớ nghe lời cấp trên. Đừng cậy giỏi toán mà bàn lùi, chiến trường không như phòng thi!" Giọng ông khàn đặc, mắt đỏ ngầu. Tôi gật đầu, ngạc nhiên khi thấy bố ôm tôi, cái ôm đầu tiên từ khi tôi biết nhớ.
Hoàng lấp ló ngoài cửa, tay ôm quyển sổ da đã sờn góc: "Anh.. Anh cầm cái này." Thằng bé đẩy vào tay tôi cuốn sổ nó vẫn giấu như báu vật. Trang đầu tiên có dòng chữ nguệch ngoạc: "Ngày 15/3/1967: Anh Huy dạy mình giải bài tập hình, ước gì mình thông minh như anh.."
"Anh hứa sẽ viết thư mỗi tuần nhé!" Tôi vỗ vai em trai, cố nuốt trôi cục nghẹn trong cổ. Hoàng khóc nức nở, nước mắt rơi lên trang giấy làm nhòe nét mực đen.
Đêm ấy, căn gác xép nhỏ vang tiếng dế kêu não ruột. Tôi trằn trọc nghe tiếng thở dài từ phòng bố mẹ, tiếng mẹ khóc nghẹn trong gối, tiếng bố hút thuốc lào từng hơi dài. Dưới nhà, Hoàng trở mình kêu cót két trên giường tre.
Tôi mở lá thư Linh đưa chiều nay. Trên góc tờ giấy, cô vẽ nguệch ngoạc hình trái tim có hai chữ H-L, bên dưới là dòng chữ run run: "Nhớ giữ ấm, đừng để bị ốm." Mùi mực vẫn thoang thoảng hương hoa nhài, bông hoa cô kẹp theo lá thư.
Bỗng tiếng chân nhẹ bên cửa. Hoàng đứng đó, tay ôm gối: "Anh ơi.. Em ngủ với anh được không?" Thằng bé cuộn tròn trong chăn như con nhộng, đầu tựa vào vai tôi: "Anh hứa sẽ về dạy em giải toán nhé? Em.. Em sợ không có anh.."
Tôi xoa đầu nó, giọng cười vỡ vụn: "Lớn rồi còn khóc nhè! Mai mốt anh về, mày phải giải được phương trình bậc hai không cần anh chỉ đó!" Hoàng cười hức hức, nước mắt còn đọng trên mi.
Trăng khuya lọt qua khe cửa, vẽ lên sàn nhà hình vuông ánh sáng mờ ảo. Tôi nghĩ về Linh, giờ này hẳn cô cũng trằn trọc bên cửa sổ nhà mình, đôi mắt hướng về phía Khâm Thiên. Tiếng mẹ thút thít vọng lên, tôi thầm hỏi không biết đêm nay, trên khắp Hà Nội, có bao nhiêu căn nhà cũng đang khóc như thế này?
Sáng hôm sau, tôi đạp xe qua phố Hàng Đào khi sương sớm còn phủ trắng mái ngói. Linh đứng tựa cổng nhà, tay ôm chiếc cặp da cũ kỹ đựng đầy thuốc men cô tự chuẩn bị cho tôi. Áo hoa tím của cô nổi bật giữa dãy tường vàng úa, như đóa lục bình mọc lên từ đống gạch vụn.
"Anh ăn sáng chưa?" Cô dúi vào tay tôi gói xôi nóng hổi còn thơm mùi lá dong. Tôi cắn một miếng, vị ngọt của đậu xanh hòa với mặn mà của thịt mỡ khiến bụng réo òng ọc. Linh bật cười: "Đúng là thằng đói! Ăn chậm thôi, không nghẹn đấy!"
Chúng tôi lang thang khắp những con phố quen thuộc. Nắng thu vàng óng trải dài trên vỉa hè, len lỏi qua kẽ lá me rụng. Linh chỉ tay về phía cổng trường Y: "Hồi mới vào trường, em từng lạc vào nhà xác buổi đêm. Sợ đến mức đánh rơi cả chìa khóa!" Tôi cười ngặt nghẽo: "Thế mà dám đòi vào chiến trường?" Cô đỏ mặt, đấm nhẹ vào vai tôi: "Anh đừng nhắc chuyện xấu hổ đó nữa!"
Bỗng tiếng loa phường vang lên rộn rã: "Lá còn xanh như anh đang còn trẻ.." Linh khẽ hát theo, giọng trong trẻo hòa cùng điệu nhạc. Cô nắm chặt tay tôi: "Anh nhớ không? Hôm chúng mình gặp nhau ở thư viện, bài hát này cũng đang phát.." Tôi gật đầu. Ký ức ùa về như phim quay chậm, buổi chiều năm ấy, tôi ngồi đọc cuốn "Giải tích hàm", để rồi mê mẩn những dòng chữ nắn nót Linh ghi bên lề sách hơn cả công thức toán học.
Chúng tôi dừng chân trước tiệm sách cũ trên phố Tràng Tiền. Linh lục tìm mấy cuốn y khoa, mặt hào hứng: "Anh xem này! Cuốn Giải phẫu học bản dịch tiếng Pháp này hiếm lắm!" Đang say sưa, cô bỗng chết lặng khi thấy tấm poster "Thanh niên lên đường tòng quân" dán ngay góc tường. Những người lính trẻ trong ảnh cười tươi nhưng đôi mắt Linh lại vội quay đi.
"Em ơi.." Tôi kéo cô ra bờ hồ, nơi những cô gái Hà Thành đang rủ nhau chụp ảnh kỷ niệm trước khi người yêu lên đường. Linh nhìn họ, giọng chợt trầm xuống: "Anh hứa đi, dù có thế nào cũng phải về. Nếu anh.." Tôi bịt miệng cô lại: "Nếu anh có thành thương binh, em sẽ phải chịu khó chăm sóc anh cả đời đấy!"
Cô đẩy tay tôi ra, mắt long lanh: "Em không sợ! Em chỉ sợ.." Một đoàn thanh niên xung phong đi qua, tiếng hô "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!" át đi phần còn lại trong câu nói của cô. Linh siết chặt tay tôi hơn, như muốn truyền hơi ấm qua từng ngón tay.
Chiếc xe đạp chở chúng tôi lượn vòng qua phố cổ. Trước cửa Nhà Hát Lớn, một bà mẹ đang thắt khăn cho con trai, giọng nghẹn ngào: "Con ăn ở cẩn thận nghe không?" Cậu thanh niên gật đầu, mắt đỏ hoe nhưng miệng vẫn cười. Linh quay mặt vào lưng tôi, tôi cảm thấy áo ướt đẫm một mảng.
"Anh này!" Cô bỗng xuống xe, kéo tôi vào quán nước ven đường. Linh lấy từ túi ra chiếc hộp thiếc nhỏ, bên trong là cuộn băng gạc và lọ thuốc sát trùng: "Đây là em tự làm đấy! Nhớ thay băng mỗi ngày, đừng để vết thương nhiễm trùng.." Tôi giả vờ thở dài: "Cô y tá tí hon của tôi khó tính quá! Thôi được rồi, anh hứa sẽ nguyên vẹn trở về như cục tẩy này!" Tôi lấy từ túi ra cục tẩy hình trái tim cô tặng năm nào.
Linh bật cười, nước mắt còn đọng trên mi: "Đồ ngốc! Cục tẩy thì dùng dần rồi cũng mòn đi thôi.." Tôi nắm lấy tay cô: "Nhưng tình em dành cho anh thì không bao giờ cạn, phải không?"
Chiều xuống dần, chúng tôi ngồi trên bờ đê sông Hồng. Những con diều giấy của lũ trẻ chấp chới giữa trời xanh. Linh tựa đầu vào vai tôi, giọng mơ màng: "Hòa bình rồi, mình sẽ xây nhà nhỏ cạnh bệnh viện. Anh dạy toán, em làm bác sĩ.." Tôi chỉ lên đàn chim én đang liệng: "Rồi mình sẽ có một đàn con như thế!" Cô đỏ mặt, đánh yêu vào tay tôi: "Ai đồng ý lấy anh đâu mà đòi đẻ!"
Bỗng cô nghiêm mặt: "Nếu anh không về.." Tôi ngắt lời: "Thì em cứ đi lấy chồng nhé!" Linh đứng phắt dậy, mắt lửa giận: "Anh dám nói vậy lần nữa, em sẽ đăng ký đi thanh niên xung phong ngay!" Tôi vội vã xin lỗi, hứa thề sẽ giữ mạng sống bằng mọi giá.
Trên đường về, chúng tôi gặp đoàn học sinh Trường Bưởi đang tập hợp. Bài "Lá Xanh" vang lên từ chiếc đàn guitar mộc: "Anh là lá trên cành ngại chi gió mưa.." Linh nắm tay tôi chạy ùa vào dòng người, cùng hát vang lời ca như thách thức định mệnh. Trong khoảnh khắc ấy, giữa những cái nắm tay siết chặt và nụ cười rạng rỡ, tôi tin rằng tuổi trẻ chúng tôi có thể đạp đổ mọi bom đạn chiến tranh.
Tối muộn, khi trả Linh về nhà, cô đưa tôi chiếc khăn tay thêu đôi chim bồ câu: "Em đã thêu suốt đêm đấy!" Cô hãnh diện chỉ những đường chỉ chập chờn. Tôi cười: "Chim câu này nhìn như.. Giun béo!" Linh trợn mắt, giằng lại khăn: "Trả em!"
Chúng tôi đùa giỡn dưới gốc bàng già, tiếng cười vang xa trong đêm tĩnh lặng. Rồi đột nhiên, Linh ôm chầm lấy tôi: "Nhớ em nhé! Dù có ở đâu, gặp ai.. Cũng phải nhớ em!"
Trăng non lơ lửng trên đầu như lưỡi liềm cắt đứt những lời hứa hẹn. Tôi đạp xe về nhà, để lại sau lưng bóng hình cô gái nhỏ đứng lặng dưới cột đèn vàng vọt. Bài hát "Lá Xanh" vẫn văng vẳng đâu đó, như lời nhắc nhở về một mùa xuân sẽ trở lại..
Sáng sớm hôm sau, phố Khâm Thiên chật cứng tiếng còi xe và tiếng giày đinh rầm rập. Tôi đứng trước cổng nhà, ba lô đè nặng đôi vai mà lòng nhẹ bẫng như chiếc lá khô. Bố vỗ mạnh vào lưng tôi, giọng khàn đục: "Cứ bình tĩnh mà làm nhiệm vụ!" Mẹ ôm chặt tôi một lần cuối, chiếc khăn mùi xoa ướt đẫm nước mắt ép vào ngực tôi. Hoàng dúi vào tay anh gói xôi nóng, mắt đỏ hoe nhưng cười gượng: "Anh nhớ.. Nhớ gửi thư về!"
Linh xuất hiện cuối phố, áo trắng bay trong làn gió chớm đông. Cô chạy vội, hơi thở hổn hển, tay nắm chặt chiếc khăn tay thêu dở: "Em.. Em thức cả đêm để hoàn thành nó!" Cô đưa cho tôi mảnh vải trắng tinh, nơi đôi chim bồ câu chụm mỏ vào trái tim còn thừa một nửa đường chỉ. Tôi cười, giọng nghẹn lại: "Chim của em.. Giống gà con quá!" Linh bật cười trong nước mắt, đấm nhẹ vào ngực tôi: "Đồ vô duyên!"
Tiếng còi xe GAZ rú lên xé toang không khí. Đoàn tân binh xếp hàng lên xe, có người huýt sáo bài "Lá Xanh", có kẻ cúi đầu nuốt ngược nỗi niềm. Tôi siết tay Linh lần cuối, lòng bàn tay cô ướt mồ hôi lạnh. "Anh phải về!" Cô thì thầm như lời cầu khẩn. Tôi gật đầu, nuốt chửng lời hứa vào cổ họng.
Bỗng tiếng loa phường réo gắt: "Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 15km.." Mẹ tôi ngửa cổ nhìn lên bầu trời, Hoàng túm chặt tay áo tôi. Linh mặt tái mét nhưng vẫn đẩy tôi về phía xe: "Anh lên đi! Em.. Em sẽ vào hầm trú!"
Tôi trèo lên thùng xe, tay nắm chặt thành sắt lạnh ngắt. Chiếc GAZ rùng mình khởi động, khói đen cuồn cuộn phủ kín dãy phố. Linh chạy theo, chân đất đập mạnh trên mặt đường, gió thổi tung mái tóc dài. "Huy ơi!.. Nhớ viết thư!" Tiếng gọi của cô tan vào tiếng máy nổ ầm ầm. Tôi vươn người ra ngoài, gió tạt vào mặt mang theo mùi khói và chút hương hoa nhài thoảng từ chiếc khăn tay.
Xe rẽ qua góc phố, bóng Linh nhỏ dần phía sau. Thằng bé bán báo hét vang: "TIN CHIẾN THẮNG TỪ MIỀN NAM!" Giọng non nớt mà đầy khí thế. Tôi nhìn xuống bàn tay đang nắm chặt chiếc khăn thêu, những đường chỉ chập chờn như trái tim rạn vỡ.
Bỗng tiếng máy bay tiêm kích của ta gầm rú trên đầu. Xe GAZ phóng vút qua cầu Long Biên, dòng sông Hồng cuộn sóng đỏ ngầu như máu. Tôi ngửa mặt nhìn lên trời, nơi những chấm đen đang lao vun vút. Bài hát "Lá Xanh" lại vang lên từ đâu đó xa xa, lời ca lẫn vào tiếng đạn pháo cao xạ xé gió.
Tôi ép chặt chiếc khăn vào ngực, mắt nhắm nghiền. Trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy Linh đứng giữa cánh đồng đầy hoa cúc dại, nụ cười cô rạng rỡ hơn cả mặt trời ngày hòa bình..
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Ôi! Có ai hiểu lòng con ao ước được sống giữa gia đình, dù chỉ một giây lát đến mức nào không? Con vẫn hiểu điều đó từ lúc bước chân lên chiếc ô tô đưa con vào đường bom đạn. Nhưng con vẫn ra đi vì lý tưởng."
(Trích từ nhật ký của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, ngày 19/9/1968)
Nhật ký, Ngày 3/11/1967.
Chiếc xe GAZ nổ máy ầm ì trong buổi sáng rời Hà Nội. Mình ngồi nép vào góc xe, lưng tựa ba lô, mắt đăm đắm nhìn dãy phố Khâm Thiên thân thuộc dần khuất sau làn sương mỏng. Tiếng mẹ dặn dò vẫn còn văng vẳng bên tai: "Con đi cẩn thận, nhớ giữ sức.." Còn Linh, người mình yêu thương nhất, đứng lặng dưới gốc bàng già, nước mắt lặng lẽ lăn trên má. Nàng cố nén tiếng nấc, giơ tay vẫy chào, nhưng chính nỗi đau chia ly ấy lại khiến lòng mình quặn thắt.
Xe chồm lên con dốc, Hà Nội nhỏ dần phía sau. Những cánh đồng lúa vàng óng hiện ra, thấp thoáng bóng các cụ già lom khom gặt hái. Mình chợt nhớ đến bà ngoại, người đã dạy mình yêu từng tấc đất quê hương. Ta đi để bảo vệ những điều giản dị này thôi, mình tự nhủ, siết chặt ba lô.
Chuyến xe dừng nghỉ trưa tại một trạm tiếp tế ven đường. Đồng đội cùng nhau ăn vội nắm cơm muối vừng, tiếng cười đùa xóa tan chút mệt nhọc. Một anh lính trẻ ngồi cạnh hỏi chuyện: "Cậu từ Hà Nội lên à?" Mình gật đầu, rồi kể về khoa Toán, về Linh. Anh ấy trầm ngâm: "Tớ cũng có người yêu ở quê. Không biết khi nào mới gặp lại.."
Đến Bắc Kạn khi hoàng hôn đã tắt. Thao trường hiện ra trước mắt, những dãy lán trại đơn sơ, vài chiếc bàn gỗ mộc, cùng tiếng gió vi vút qua rặng rừng già. Đêm đầu tiên, mình nằm trằn trọc trên chiếc giường tre, tai vẳng tiếng muỗi vo ve. Ánh trăng lọt qua khe lá, in bóng lên trang nhật ký. Mình mở ba lô, lấy ra bài hát "Hà Nội mùa thu", chữ nàng nắn nót, mực còn thơm mùi hoa nhài.
Mình bước ra ngoài, hít sâu không khí lạnh buốt. Đâu đó vọng lại tiếng hát: "Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi.." của đồng đội. Lòng bỗng dâng lên niềm tự hào khó tả. Dù đêm nay không có chăn êm, gối ấm, dù vai còn ê ẩm vì ba lô nặng trĩu, nhưng ta biết mình đang đi trên con đường ý nghĩa nhất đời.
"Linh ơi." Mình thì thầm vào màn đêm. Khi trở về, anh sẽ kể em nghe về những ngôi sao ở Bắc Kạn, chúng sáng hơn cả ánh đèn thành phố..
Hôm nay lúc chia tay, Hà Nội bị ném bom. Không biết mọi người ở nhà có bình an không, nhớ và thương quá!
Nhật Ký, Ngày 10/11/1967.
Bảy ngày đã trôi qua kể từ khi đặt chân đến thao trường. Thời gian ở đây không tính bằng đồng hồ, mà bằng tiếng kẻng báo thức lúc rạng đông và tiếng còi tập hợp lúc đêm về. Mình dần quen với nhịp sống khắc nghiệt: Bốn giờ sáng đã lăn khỏi giường, mắt còn dính mí, chân chưa hết tê, nhưng phải chạy vòng quanh đồi để "làm nóng" cơ thể. Hơi thở phả ra trắng xóa trong cái lạnh cắt da, vai đau nhức vì ba lô đầy đá cuội. Đồng chí tiểu đội trưởng bảo: "Lính bắn tỉa phải khỏe hơn đá!"
Ban ngày, chúng mình học cách làm bạn với súng. Tuần đầu, AK-47 là người bạn đồng hành. Mình đã quen mùi dầu súng, quen cảm giác nóng rát khi báng súng áp vào vai, quen tiếng đạn xé gió. Nhưng hôm nay, lần đầu được cầm K44 có kính ngắm, lòng mình bỗng dâng lên cảm giác khó tả. Khẩu súng dài, nặng, thân thép lạnh buốt, nhưng khi áp má vào báng gỗ, nhìn qua lớp kính mờ mờ hơi thở, ta thấy cả thế giới thu nhỏ trong tầm ngắm. Đồng chí huấn luyện viên dạy: "Một phát đạn phải trả giá bằng mười ngày luyện tập!"
Là sinh viên Toán, mình mê mẩn những công thức tính toán hướng gió, độ ẩm, cự ly. Mỗi lần ngắm bắn, đầu óc mình tự động vẽ ra những đường parabol tưởng tượng. Khi đồng đội còn lúng túng với bài toán "gió cấp 2 thổi từ Tây sang Đông, mục tiêu cách 800m", mình đã nhanh chóng điều chỉnh nòng súng. Điểm bắn của mình luôn nằm trong top đầu, nhưng K44 giật mạnh hơn AK nhiều. Vai trái đỏ ửng, sưng tấy, mỗi lần giật cò lại như có lưỡi dao cứa vào thịt. Đồng chí huấn luyện viên chỉ mình dùng vải quấn báng súng tạo thành một lớp đệm êm, khi bắn sẽ đỡ đau. Đêm về, mình lấy dầu gió xoa bóp, mùi hăng nồng xộc lên mũi khiến mình nhớ mẹ da diết, người vẫn thoa dầu cho mình mỗi khi ốm.
Ban đêm, sau giờ học lý thuyết về ngụy trang và chiến thuật du kích, cả tiểu đội ngồi quây quần dưới ngọn đèn dầu leo lét. Mình tranh thủ viết thư cho Linh. Tờ giấy kẻ ô vuông nhòe mực vì hơi thở nóng hổi. Thư chưa viết xong, tiếng kẻng vang lên báo hiệu giờ ngủ. Mình tiếc nuối gấp trang giấy, nhét vào túi áo ngực.
Có một chuyện buồn cười: Hôm qua, sau buổi tập bò trườn dưới bùn, cả người mình lấm lem, mặt mũi chẳng khác gì kẻ ăn mày. Vừa về đến lán, chưa kịp tắm rửa, mình đã vội rửa tay và lôi sổ nhật ký ra viết. Mực dây ra trang giấy, tay run vì mệt, chữ nguệch ngoạc như gà bới. Đồng chí Hoàng, người cùng tiểu đội, trêu: "Viết thư tình cho người yêu à?" Mình cười, đáp: "Không, viết cho tương lai!"
Khoảnh khắc yêu thích nhất của mình là lúc được nằm dài trên đồi cỏ cùng với khẩu K44, nhìn sao trời lấp lánh. Ánh sao hôm nào cũng gợi nhớ đôi mắt Linh, long lanh và dịu dàng. Mình tự hỏi giờ này nàng đang làm gì? Có phải đang miệt mài đọc sách dưới ngọn đèn dầu trong Đại Học Y? Hay đang ngồi thẫn thờ bên cửa sổ, đếm từng ngày xa cách?
Đêm nay, trời Bắc Kạn lạnh cắt da. Mình co ro trong chiếc chăn mỏng, tai lắng nghe tiếng lá xào xạc ngoài cửa sổ. Trong bóng tối, mình ôm chặt khẩu K44, thì thầm: "Ngày mai, mình sẽ bắn giỏi hơn nữa. Vì Linh, vì gia đình, vì những ngôi sao không bao giờ tắt.."
Hôm nay nhặt được một chiếc lá đỏ thẫm. Có lẽ nó từ Hà Nội bay theo gió lên đây chăng? Mình ép lá vào cuốn sổ, sẽ gửi tặng Linh "một mảnh mùa thu" trong lá thư tới.
Nhật Ký, Ngày 15/11/1967.
Hôm nay, ta học cách trở thành một phần của rừng.
Những cành cây khô, lá úa, lớp rêu xám mốc, tất cả được đan cài lên người như một bộ áo giáp kỳ lạ. Đồng chí huấn luyện viên bảo: "Lính bắn tỉa phải biến thành cây, thành đá, thành bóng tối. Kẻ địch không được phép nhìn thấy các đồng chí, dù chỉ là một hơi thở!" Mình nằm sấp trên sườn đồi, má áp vào khẩu súng K44 lạnh ngắt, mắt dán vào kính ngắm. Gió thổi từng hồi xé qua tán lá, mang theo hơi lạnh thấm vào da thịt. Vai mình vẫn còn nhức buốt từ đợt tập bắn tuần trước, nhưng nỗi đau ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm kiêu hãnh khi được ôm khẩu súng này.
Qua kính ngắm, thế giới hiện lên như một bức tranh tĩnh lặng. Xa xa, dưới chân đồi, một lão nông đang dắt trâu đi cày. Con trâu lững thững bước, đuôi phe phẩy đuổi ruồi. Bác đội chiếc nón lá sờn, môi hút điếu cày. Ta chợt nhớ đến cha, người cán bộ đang cần mẫn đi sửa đường dây điện ở Hà Nội. Liệu giờ này, cha có đang sửa lại cột điện ở phố Khâm Thiên không? Mình tự hỏi. Rồi hình ảnh ấy nhạt dần khi kính ngắm chuyển hướng về phía con đường mòn. Một tốp trẻ con đang nô đùa, tiếng cười trong trẻo vang lên giữa rừng vắng. Chúng mặc áo vá, chân đất, nhưng nụ cười thì rạng rỡ như nắng.
Bỗng, một đứa bé gái nhảy lên lưng trâu, giơ tay hát vang: "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng.." Giọng hát ngây thơ ấy khiến ta bồi hồi. Mình nghĩ đến Thi, em gái Linh, cũng hay hát bài này mỗi khi đến nhà chơi. Linh thường kể, Thi ước mơ sau này làm cô giáo. "Liệu những đứa trẻ này có phải ra chiến trường nếu chiến tranh chưa kết thúc?" Cơn gió lùa qua kẽ lá, mang theo mùi ẩm mốc của đất rừng, nhưng lòng mình cháy lên ngọn lửa căm hờn. Những kẻ đang giày xéo quê hương ta, chúng nào hiểu được giá trị của một tiếng trẻ thơ cười, những bàn tay chai sần hăng say lao động, hay lá cờ đỏ sao vàng phấp phới giữa sân đình?
Đồng chí huấn luyện viên ra hiệu lệnh kết thúc buổi tập. Mình khẽ cựa mình, gỡ những cành cây khỏi người, từng khớp xương kêu răng rắc. Đứng dậy, mình nhìn lại vị trí vừa nằm, chỉ là một đám cỏ rối, không ai ngờ dưới đó có một con người. "Ngụy trang giỏi lắm, đồng chí Huy!" Tiểu đội trưởng vỗ vai mình, nở nụ cười đầy khích lệ. Nhưng mình biết, mình vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Lần trước, mình suýt bị phát hiện vì để lộ bóng dưới ánh mặt trời.
Chiều xuống, đơn vị tập hợp nghe phổ biến nhiệm vụ ngày mai. Mình ngồi bên gốc cây cổ thụ già, lấy từ túi áo ra bức thư Linh gửi tuần trước. Nàng viết về ca trực đêm ở bệnh viện, về cụ già bị sốt rét run bần bật nhưng vẫn cố nắm tay nài nỉ: "Cô ơi, chữa cho tôi nhanh khỏe để còn về gặt lúa giúp con trai.." Linh bảo, nàng thương các bệnh nhân đến mức nhiều đêm không ngủ. Ta nhắm mắt lại, tưởng tượng dáng nàng mặc áo blouse trắng, tất bật giữa hành lang bệnh viện. "Mình và Linh, mỗi người một chiến trường." Mình thầm nghĩ.
Bữa tối, đơn vị ăn chung nồi cơm độn khoai, canh rau rừng nấu với măng chua. Một đồng đội trêu mình: "Huy mơ màng thế, chắc nhớ người yêu rồi!" Cả tiểu đội cười rộ, tiếng nói vang cả góc rừng. Mình cũng cười theo, nhưng trong lòng chợt quặn đau. Nếu một ngày mình không về, Linh sẽ khóc đến mức nào?
Đêm nay, trăng khuyết treo lơ lửng như lưỡi liềm. Mình ngồi viết nhật ký dưới ánh đèn dầu leo lét, tai lắng nghe tiếng côn trùng rỉ rả. Qua khe lá, xa xa thấp thoáng ánh đèn dầu của một bản làng. Mình nghĩ về những người dân nơi đây, họ sống giữa bom rơi đạn nổ mà vẫn kiên cường gieo hạt, nuôi con. Họ chính là lý do ta cầm súng.
Nhật Ký, Ngày 17/11/1967.
Đêm nay, gió rừng Bắc Kạn gào rú như muốn xé toạc mái lán. Mình nằm co quắp trên chiếc giường tre, đắp tấm chăn mỏng tang, nghe tiếng lá khô xào xạc dưới nền đất. Đồng đội đã ngủ say từ lúc nào, tiếng ngáy đều đều hòa cùng tiếng muỗi vo ve. Riêng mình, trằn trọc mãi. Cứ nhắm mắt lại, hình bóng Linh lại hiện ra, dáng người mảnh khảnh trong tà áo blouse trắng, mái tóc đen dài buông lơi sau lưng, đôi mắt nâu dịu dàng nhìn ta mà như muốn nói: "Anh phải trở về.."
Mình lục trong ba lô, tìm ra chiếc khăn tay Linh đưa ngày tiễn biệt. Nàng thêu hình hai con chim bồ câu chụm mỏ vào trái tim. Mùi hoa nhài thoang thoảng từ chiếc khăn khiến mình chợt nhớ đến buổi chiều thu năm ngoái, hai đứa ngồi bên hồ Thiền Quang. Linh cười khúc khích khi mình đọc thơ Nguyễn Bính: "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.. Một người chín nhớ mười mong một người." Nàng bảo: "Thơ anh đọc nghe buồn cười quá, nhưng em thích!" Giờ đây, nỗi nhớ ấy đang bủa vây mình như lớp sương dày đặc.
Mình ngồi dậy, thắp ngọn đèn dầu leo lét. Ánh sáng vàng vọt in bóng mình lên vách lá, chập chờn như hồn ma không chốn nương thân. Mình mở tập thư viết dở gửi Linh, nhưng chữ nghĩa bỗng trở nên vô dụng. Làm sao diễn tả được nỗi nhớ đang cháy âm ỉ trong lòng? Ta thương Linh đến mức tự trách mình. Nếu không yêu nhau, nàng đâu phải khóc đêm, đâu phải đếm từng ngày trong lo âu? Mình ích kỷ quá chăng? Mình cắn môi, nghẹn lại. Đời trai thời chiến loạn, biết đâu ngày mai còn nguyên vẹn?
Bỗng, tiếng chuột chạy sột soạt trên mái lá khiến mình giật mình. Mình mở cửa lán, bước ra ngoài. Trăng lưỡi liềm treo lơ lửng như muốn cắt đứt màn đêm. Xa xa, ngọn đồi huấn luyện mờ ảo trong sương, gợi nhớ hình ảnh mẹ, người đàn bà nhỏ bé suốt đời tần tảo ở phố Khâm Thiên. Mẹ hay thức khuya vá lại chiếc áo cũ của Hoàng, em trai mình. Có những đêm mưa bão, mình thấy mẹ ngồi thẫn thờ bên bàn thờ ông nội, tay lần tràng hạt, mấp máy cầu nguyện. Giờ này, mẹ có đang khóc vì nhớ con không? Mình siết chặt tay vào thành lan can, mảnh tre cứa vào da thịt mà chẳng thấy đau.
Một cơn gió lạnh buốt thổi qua, mang theo hơi ẩm của sương đêm. Mình nhớ đến lời cha dặn trước lúc lên đường: "Con đi, đừng lo cho nhà. Nước mắt mẹ con để cha lau." Cha, người đàn ông ít nói ấy, giấu nỗi đau sau nụ cười gượng. Hôm tiễn mình, cha ôm chặt vai mình đến mức xương cốt răng rắc, giọng khàn đặc: "Cố gắng sống, con trai!" Chỉ một câu ngắn ngủi, nhưng chất chứa cả trời tâm tư.
Trở vào lán, mình lấy ra gói kẹo lạc mẹ gói vội trước khi đi. Bà bảo: "Đói lòng thì nhai tạm." Mình bẻ đôi viên kẹo, ngậm từng mảnh nhỏ. Vị ngọt bùi lan tỏa nơi đầu lưỡi, như hương vị tuổi thơ. Ngày bé, mỗi lần được mẹ cho kẹo, mình luôn dành một nửa cho Hoàng. Giờ đây, ở cái nơi rừng thiêng nước độc này, mình mới thấm thía giá trị của những điều tưởng chừng nhỏ nhoi ấy.
Nhật Ký, Ngày 22/11/1967.
Ba lô nặng hơn 30kg đè lên vai, mỗi bước chân qua con dốc đá lởm chởm như có nghìn mũi kim đâm vào lòng bàn chân. Mình cắn răng, dồn sức đẩy người lên, mồ hôi muối chảy rát cả vùng gáy. Đồng đội thở dốc phía sau, tiếng dép cao su cà lê sệt trên nền đất sét nhão. "Cố lên! Còn 5km nữa là tới đích!" Tiểu đội trưởng hét vọng lên, giọng khàn đặc vì bụi. Mình liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, đã 4 tiếng kể từ khi rời trại, mặt trời vẫn thiêu đốt như muốn nung chảy cả ý chí.
Xuyên qua tán rừng già, ánh nắng xẻ dọc con suối cạn. Nước lạnh buốt ngập đến mắt cá, giày ướt sũng dính đầy bùn đất. Mình nhớ đến Linh, những chiều mưa hai đứa chạy qua phố cổ, chân trần dẫm lên vũng nước hắt lên từng vệt trong veo. Linh ơi, nếu em thấy anh lúc này, chắc em sẽ cười vì cái dáng vụng về của anh lắm.. Mình tự nhủ, môi nở nụ cười gượng. Bất chợt, tiếng ai đó ngã sóng soài phía sau khiến cả tiểu đội dừng bước. Đồng chí Thắng, lính mới 19 tuổi, mặt tái nhợt, môi tím ngắt, nằm vật giữa dòng suối.
"Thắng! Tỉnh lại!" Mình quăng ba lô, chạy đến đỡ đầu cậu. Tay run run mở túi cứu thương, lấy viên đường nhét vào miệng Thắng. "Nó đói quá rồi!" Đồng chí Tiến thở hồng hộc. Cả tiểu đội ngồi xổm quanh, người xoa dầu, kẻ đỡ lưng. Mình nhìn đôi mắt Thắng mở hé, lòng quặn thắt. Thắng nhập ngũ cùng đợt với mình, cũng là sinh viên giỏi, luôn viết thư cho mẹ mỗi đêm. Mình phải đưa nó về! Mình nghiến răng, nâng Thắng lên vai.
Hành trình trở thành cuộc vật lộn với sự mệt mỏi. Mỗi bước đi, vai như bị lửa đốt, nhưng hình ảnh mẹ già ở Khâm Thiên chợt hiện ra. Mẹ vẫn thường địu em Hoàng trên lưng đi chợ giữa trưa hè, tay xách nải chuối nặng trĩu. Mẹ có bao giờ kêu than đâu.. Mình tự nhắc mình, cố dồn sức vào đôi chân. Đồng đội thay phiên khiêng Thắng, tiếng bước chân dồn dập hòa cùng nhịp thở gấp gáp.
Trời nhá nhem tối khi tiểu đội về đến đích. Mình ngã vật xuống gốc cây, chân tay rũ rượi. Cơm nắm muối vừng trong túi vẫn còn nguyên, nhưng không buồn ngó ngàng. Mắt nhắm nghiền, mình nghĩ về bữa tối ở nhà, mùi canh cua mẹ nấu, tiếng em Hoàng hát nghêu ngao, cha lặng lẽ sửa chiếc đèn dầu hỏng. Nhà mình giờ đang ăn cơm chưa nhỉ? Một cơn gió lạnh thổi qua, mang theo mùi lá mục, khiến mình co ro.
Đêm xuống, cả tiểu đội quây quần bên bếp lửa. Thắng đã tỉnh, mặt còn hốc hác nhưng nở nụ cười gượng: "Cảm ơn các anh.. Em sẽ không phụ lòng mọi người!" Tiếng cười rè rè vang lên, xua tan không khí nặng nề. Mình lấy ra gói lương khô Linh gửi, chia đôi cho Thắng: "Ăn đi, cố gắng thì mới thành lính giỏi được!" Mình xoa đầu Thắng, giọng cố tỏ ra vui vẻ.
Trăng lên cao, ánh vàng mờ ảo phủ lên rừng cây. Mình ngồi viết nhật ký dưới tán lá, tai nghe tiếng muỗi vo ve. Linh à, hôm nay anh hiểu hơn hai chữ "đồng đội". Họ là những người sẵn sàng mang gánh nặng của mình thành gánh nặng chung. Nếu một ngày mình ngã xuống, hãy tin rằng sẽ có hàng nghìn bàn tay khác đỡ ta dậy, hàng nghìn bước chân khác sẽ tiếp tục tiếp bước..
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Chiến tranh đã và sẽ lấy đi nhiều hơn của Thạc. Chả có gì là bi kịch đâu. Trong cuộc sống cái đổ vỡ, cái bi thảm thường sâu thẳm hơn niềm vui nông nổi."
(Trích lá thư Nguyễn Văn Thạc gửi Như Anh, đề ngày 11-7-1972)
Nhật Ký, Ngày 30/11/1967.
Khẩu K44 nằm im lìm trên thân khúc gỗ như một con thú dữ đang chờ săn mồi. Mình nín thở, ngón trỏ khẽ chạm vào cò súng. Qua kính ngắm, bia mục tiêu cách xa hơn 1000m hiện lên nhỏ xíu, chỉ là chấm đen lọt thỏm giữa rừng lau trắng. Gió đông bắc thổi vun vút, mang theo hạt mưa bụi lạnh buốt. Phải bắn trúng, nhất định phải! Mình tự nhủ, má áp chặt vào nòng súng. Tiếng đồng chí huấn luyện viên văng vẳng đâu đó: "Căn chỉnh góc 30 độ, tính toán độ lệch gió 2m/s.."
Phát đạn đầu nổ ầm, lực giật làm vai đau điếng, nhưng tim đập thình thịch khi thấy mục tiêu vỡ tan tành qua ống nhòm. "Trúng đích! Điểm giỏi!" Tiểu đội trưởng vỗ vai mình, nụ cười rạng rỡ dưới vành mũ tai bèo. Mình cười, nhưng nụ cười tắt ngấm khi nhìn thấy đồng chí Thắng, vẫn còn yếu sau trận kiệt sức tuần trước, đang lóng ngóng lắp đạn. Mình may mắn hơn nó nhiều.. Mình nghĩ thầm, tay siết chặt khẩu súng.
Buổi chiều, đơn vị tập di chuyển ngụy trang. Bộ quần áo vải dù thấm đẫm mồ hôi, dính chặt vào da thịt như lớp da thứ hai. Mình bò dưới lớp lá khô, từng tấc đất lạnh ngắt thấm qua vải. Đồng chí huấn luyện viên dùng ống nhòm quét qua khu vực, ánh mắt sắc lẹm như dao. Phải biến thành cỏ cây, thành đất đá.. Mình nhắm nghiền mắt, nín thở khi bóng đen của huấn luyện viên đi qua cách chỗ ẩn thân chưa đầy năm mét. Một con kiến vàng bò lên cổ, ngứa ran, nhưng không dám cựa quậy.
Khi hiệu lệnh kết thúc vang lên, mình ngồi bật dậy, phủi lớp bùn đất. Đồng chí huấn luyện viên gật đầu: "Tốt! Nhưng lần sau nhớ chọn vị trí khuất nắng, bóng người dễ bị phát hiện lắm!" Mình cúi mặt nhận lỗi, lòng dâng lên cảm giác bất lực. Dù đã cố gắng hết sức, mình vẫn chỉ là tân binh non nớt, chưa từng lâm trận. Bọn Mỹ cũng có đầy lính bắn tỉa giỏi, tụi nó còn được trang bị súng tốt hơn.
Chiều tà, mình ngồi bên bờ suối giặt áo. Nước lạnh cắt da, nhưng đôi tay vẫn chà xát điên cuồng vết bùn loang lổ. Bỗng nhớ đến Linh, có lần nàng giặt áo cho mình bằng nước ấm pha lá bưởi. Giờ này, chắc Linh đang co ro trong phòng thí nghiệm, tay cầm ống nghiệm mà run vì lạnh.. Mình thở dài, nhìn hơi thở hòa vào sương chiều.
Đêm xuống nhanh, nhiệt độ tụt xuống còn 13 độ. Mình cuộn tròn trong chăn, nghe tiếng răng đánh lập cập của đồng đội. Bức thư Linh gửi tuần trước được cất trong túi áo ngực, giấy đã nhàu nát vì mở ra đọc đi đọc lại. Nàng viết: "Hôm qua em khám cho một cụ ông bị viêm phổi. Cụ không chịu uống thuốc, cứ đòi dành phần thuốc cho bộ đội ngoài mặt trận.." Mình nhắm mắt, tưởng tượng dáng Linh mặc áo khoác bông cũ, đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ. Mình phải sống, để một ngày được nhìn thấy nàng trong bộ áo blouse trắng tinh..
Bỗng tiếng ho rũ rượi vang lên từ góc lán. Đồng chí Hải, người cùng tiểu đội, ôm ngực co quắp, mặt tái nhợt. Mình vội đứng dậy, đắp thêm chăn cho anh, rót nước ấm từ bình giữ nhiệt. "Cảm ơn cậu.. Mình chỉ sợ không theo nổi khóa huấn luyện thôi.." Hải thều thào. Mình nắm chặt tay đồng đội: "Cố lên! Chúng mình sẽ cùng vào Nam đánh Mỹ, nhớ không?"
Nửa đêm, mình trốn ra bãi tập bắn. Ánh trăng mờ ảo đủ để nhìn thấy bia mục tiêu. Lần này, mình tự đặt thử thách, bắn xuyên qua khe đá hẹp. Ba phát đạn bắn ra, hai phát trúng đích. "Vẫn còn kém.." Mình lẩm bẩm, tay xoa xoa vai đau nhức. Bỗng nghe tiếng vỗ tay phía sau. Đồng chí tiểu đội trưởng đứng đó, nở nụ cười: "Tự giác luyện tập là tốt, nhưng nhớ giữ sức! Chiến tranh còn dài!"
Trở về lán, mình lặng lẽ viết thư cho mẹ. Chữ viết nguệch ngoạc vì run rẩy. Mình thầm trách mình sao chẳng thể trở thành người con hiếu thảo.
Nhật Ký, Ngày 10/12/1967.
Đêm nay, rừng Bắc Kạn chìm trong màn sương dày đặc như lớp voan tang. Mình cùng đồng chí huấn luyện viên bò sát mặt đất, từng tấc một, qua những bụi sim gai góc. Bàn tay chạm vào đất lạnh buốt, hơi thở hòa vào sương đêm thành làn khói trắng mỏng manh. Phải im lặng như cái chết.. Mình tự nhủ, cơ thể căng cứng như dây đàn. Tiếng lá khô xào xạc dưới khuỷu tay nghe vang động cả núi rừng.
Đồng chí huấn luyện viên ra hiệu dừng lại. Hai người nép mình sau tảng đá phủ rêu, tai dán xuống đất nghe tiếng bước chân giả định của "kẻ địch". Tim đập thình thịch, mồ hôi lạnh thấm ướt sống lưng. Chỉ cần một tiếng động nhỏ, mọi thứ sẽ tan thành mây khói.. Mình siết chặt khẩu K44, ngón tay run run chạm vào cò súng. Bỗng, tiếng cú mèo kêu não nuột vang lên phía xa, đồng chí huấn luyện viên khẽ đẩy vai mình: "Tiến lên!"
Hai bóng người lặng lẽ trườn qua đồi cao, chân như không chạm đất, hơi thở nín lại. Mình cảm nhận rõ nhịp tim đồng đội đập cùng tần số với mình, "Tích.. Tắc.. Tích.. Tắc.." như chiếc đồng hồ sống. Đến đỉnh đồi, ánh trăng bất ngờ ló ra từ sau đám mây, rắc ánh bạc lên khuôn mặt đầy bùn đất của đồng chí huấn luyện viên. Ông nhếch mép cười, giơ ngón tay cái: "Tốt! Nhưng lần sau nhớ tránh ánh trăng, mày thành mục tiêu sáng nhất rừng đêm đấy!"
Trời gần sáng, đôi chân mình như bị đổ bê tông. Mười ngón tay tê cóng, đầu gối sưng đau vì va vào đá. Đồng chí huấn luyện viên dừng chân bên suối, lấy bình nước đưa mình: "Uống đi, còn 30 phút nữa là đến bài tập bắn!" Nước lạnh buốt cổ họng, tỉnh táo lại chút đỉnh. Mình nhìn lên trời, vầng trăng khuyết đang dần nhạt nhòa. Linh giờ này chắc vẫn đang ngủ, quấn trong chăn ấm.. Nghĩ đến đây, bỗng thèm được nghe giọng nàng cười khúc khích một lần nữa.
Bình minh ló rạng cũng là lúc bài kiểm tra bắt đầu. Mười mục tiêu giả định được dựng từ 800m đến 1000m, nấp sau thân cây, hốc đá. Mình nằm phục trong hố cá nhân, má áp vào nòng súng, mắt dán vào kính ngắm. Hơi thở chậm lại, thế giới thu nhỏ thành vạch chữ thập màu đen. "Gió đông bắc, tốc độ 3m/s.. Góc nghiêng 15 độ.." Mình lẩm nhẩm công thức, ngón tay khẽ bóp cò.
Phát đạn đầu tiên nổ ầm, vai mình đã quen với lực giật. Mục tiêu 800m vỡ tan. "Trúng!" Tiếng hô vang lên từ quan sát viên. Mình tiếp tục nhắm bắn, từng viên đạn bay đi mang theo nỗi căm hờn: Vì những đứa trẻ chăn trâu.. Vì bà cụ nghèo không có thuốc.. Vì Linh.. Đến mục tiêu thứ 10, xa nhất và khó nhất, mình nín thở, căn chỉnh milimet cuối cùng. Viên đạn xé gió, xuyên qua tấm bia gỗ. "Bảy trên mười! Xuất sắc!" Đồng chí huấn luyện viên vỗ vai mình, mặt rạng rỡ.
Chiều xuống, đơn vị nghỉ ngơi bên bếp lửa. Mình ngồi tựa lưng vào thân cây, xoa bóp vai. Đồng chí Thắng lết đến, dúi vào tay mình củ khoai nướng: "Phần của anh! Hôm nay bắn giỏi quá!" Mình cười, bẻ đôi củ khoai: "Ăn đi, mình no rồi." Thắng nhìn mình ánh mắt biết ơn, khiến lòng chùng xuống. Chắc nó cũng hiểu rằng, sự sống ở chiến trường mong manh như sợi tóc..
Đêm về, mình lẻn ra bãi tập cũ. Dưới ánh trăng, mình mở bức thư Linh gửi tháng trước. Nàng kể chuyện dạy Thi học bài, tối nào cũng bắt đứa em đọc thuộc thơ Tố Hữu. Mình đọc đi đọc lại bức thư ấy, nước mắt chực trào. Gió rít qua kẽ lá, mang theo hơi lạnh cắt da, nhưng trái tim lại ấm áp lạ thường.
Nhật Ký, Ngày 15/12/1967.
Hôm nay, được học về các loại mìn Mỹ rải xuống khu vực DMZ. Sau đó là được dạy võ thuật và cận chiến bằng dao. Lưỡi dao gỗ lạnh ngắt áp vào cổ, mình nín thở, toát mồ hôi lạnh. Đồng chí huấn luyện viên khẽ ấn nhẹ, giọng cười khàn: "Chết rồi, Huy ạ! Trên chiến trường, kẻ địch không cho đồng chí cơ hội gồng cổ lên thế này đâu!" Mình gật đầu, tay run run buông lỏng. Bài tập chiến đấu tay không hôm nay khiến cả tiểu đội thấm thía một sự thật: Chiến tranh không chỉ cần tầm ngắm chuẩn xác, mà còn đòi hỏi sự tàn nhẫn cần thiết. Ừ, thằng Mỹ cũng là con người, nhưng nó sống thì mình chết.
Buổi chiều, đơn vị tập võ trên đồi cỏ tranh vàng úa. Gió đông bắc thổi qua từng đợt, cuốn theo hạt mưa bụi mặn chát. Mình đứng thế tấn, hai tay giơ cao đỡ đòn đá của đồng đội. Đầu gối kêu răng rắc, nhưng phải cắn răng chịu đựng. "Đánh mạnh vào! Đây không phải trò chơi!" Tiểu đội trưởng quát tháo. Một cú đấm trúng vào hông, mình ngã chúi về phía trước, mặt đập xuống đất. Đất cát mặn chát lấp đầy miệng.
"Dậy đi! Lính bắn tỉa mà yếu thế này thì chỉ thành mồi cho địch!" Giọng nói đanh lại. Mình lồm cồm đứng dậy, phủi bụi trên ngực áo. Đồng chí Thắng đứng bên lườm mình, mắt đỏ ngầu: "Anh phải chiến đấu như kẻ không có gì để mất!" Mình gật đầu, nuốt trọn lời cay đắng ấy vào cổ họng.
Chiều muộn, đơn vị nghỉ chân bên con suối nhỏ. Mình ngồi bó gối, nhìn những đứa trẻ chăn trâu hái sim trên đồi. Chúng cười đùa, ném quả sim chín vào nhau, nước tím bắn lên áo. Một bé gái chạy đến dúi vào tay mình nắm sim: "Chú bộ đội ăn đi! Sim chín ngọt lắm!" Nó cười, để lộ hàm răng sún. Mình cầm trái sim tím sẫm, vị ngọt chua nơi đầu lưỡi gợi nhớ ngày nhỏ theo mẹ ra chợ, được mẹ mua cho bánh kẹo. Giá như chiến tranh kết thúc, mình sẽ dạy chúng viết chữ, làm toán, kể cho chúng nghe về Nguyễn Du, về Hồ Xuân Hương.. Ý nghĩ ấy chợt hiện lên, khiến tim đập rộn ràng.
Tối đến, cả tiểu đội quây quần bên nồi cháo ngô. Đồng chí Hải rút từ túi ra chiếc kèn lá, thổi bài "Tiến Bước Dưới Quân Kỳ". Tiếng kèn nghèn nghẹn, nhưng đủ để mọi người nhẩm theo lời ca. Mình lặng lẽ mở cuốn sổ tay, vẽ nguệch ngoạc hình những đứa trẻ chăn trâu. Linh ơi! Hôm nay anh gặp một nhà thơ tí hon. Nó tặng anh trái sim..
Đêm khuya, trăng treo lơ lửng như chiếc đèn lồng mỗi dịp trung thu. Mình trở mình trên giường tre, tai vẳng nghe tiếng đồng đội mê sảng: "Mẹ ơi.. Con đói.." Giọng Thắng yếu ớt vọng ra từ góc lán. Mình rón rén bước đến, đắp lại chăn cho nó. Thắng co ro như con chim non lạc đàn, khiến lòng quặn đau. Chúng mình chiến đấu để những thế hệ tương lai không phải cầm súng.. Mình tự nhủ, tay siết chặt chiếc khăn tay Linh tặng.
Sáng hôm sau, đơn vị hành quân qua bản làng. Mấy đứa nhỏ đứng xếp hàng bên đường, tay vẫy chào. "Chú bộ đội ơi, đánh thắng giặc Mỹ nhé!" Một bé trai hét to, giọng non nớt. Mình cười, ném cho nó chiếc kẹo lạc cuối cùng trong túi. Nhìn lũ trẻ tranh nhau viên kẹo, mắt chúng sáng lấp lánh, bỗng thấy mọi đau đớn hóa nhẹ tênh.
Trên đường về, mình nhặt được chiếc lông chim khướu. Màu lông xanh biếc như ngọc, gợi nhớ đôi mắt Linh. Mình cất vào ba lô.
Nhật Ký, Ngày 22/12/1967.
Hôm nay, sương muối phủ xuống thao trường. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên cột gỗ cao vút, từng hồi trống dồn dập vang lên như nhịp tim của lịch sử. Mình đứng giữa hàng quân, ngực căng phồng dưới bộ quân phục đã sờn vai. Tiếng đồng chí chính trị viên đọc diễn văn vang vọng: "Các đồng chí đang tiếp bước cha anh, viết tiếp bản hùng ca Điện Biên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.." Sau đó, bài quốc ca vang lên, gió thổi qua mang theo hơi lạnh cắt da, nhưng lòng mình cháy rực.
Buổi lễ kết thúc, đơn vị hành quân qua bản làng heo hút. Một cụ già tóc bạc phơ đứng tựa cửa, tay run run giơ nải chuối nếp: "Các chú bộ đội ăn tạm cho đỡ đói!" Mình cầm lấy, lòng nghẹn lại. Căn nhà lụp xụp của cụ, vách đất nứt nẻ, chiếc chõng tre mòn vẹt. Trên bàn thờ, di ảnh người con trai trong bộ quân phục cũ kỹ. "Nó hy sinh ở Điện Biên năm 54.." Cụ thở dài, đôi mắt đục mờ nhìn xa xăm.
Cụ rót nước chè xanh đặc quánh vào bát sứt. Mùi khói bếp cay nồng xộc lên mũi. "Cháu trai tôi cũng vào Nam rồi.." Giọng cụ nghẹn lại, tay nắm chặt tay mình. Bàn tay gầy guộc, chai sần như vỏ cây, nhưng hơi ấm từ lòng bàn tay ấy khiến mình nhớ đến mẹ. Mẹ cũng nắm tay mình như thế lần tiễn mình lên đường.
Chiều hôm ấy, đơn vị giúp cụ sửa lại mái nhà dột. Mình trèo lên cây cau già chặt lá, nghe tiếng đồng đội dưới đất cười đùa: "Huy làm khéo như thợ mộc!" Bỗng nhớ đến cha, người đã dạy mình cách đóng đinh từ năm mười tuổi. "Chắc cha cũng tự hào khi thấy con mặc áo lính?" Mình tự hỏi, tay vẫn thoăn thoắt buộc từng bó tranh.
Đêm về, cả tiểu đội ngồi quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Cụ già gắp cho mình miếng trứng kho, quả trứng gà duy nhất trong nồi. "Cháu ăn đi, người lính phải khỏe mới bắn giặc giỏi!" Cụ cười, để lộ hàm răng đen nhánh. Mình cắn miếng trứng mặn chát, nước mắt chực trào. Trong gian bếp tồi tàn ấy, tình người tỏa sáng hơn cả ngọn đèn dầu leo lét.
Trăng lên cao, mình lại ngồi viết thư cho Linh dưới ánh trăng mờ.
Nhật Ký, Ngày 30/12/1967.
Cỏ khô đâm vào má, mình nằm bất động giữa lớp ngụy trang phủ đầy sương muối. Kính ngắm K44 dán chặt vào mắt phải, hơi thở khẽ rung lên mặt sống súng. "Nhiệt độ: 13 độ. Gió Tây Bắc, tốc độ 4m/s.." Mình lẩm nhẩm, ngón tay tê cóng co quắp trên cò súng. Đồng hồ đeo tay tưởng như đã đông cứng, kim giờ chỉ mãi ở số 3 như nỗi nhớ Hà Nội đóng băng trong lồng ngực.
Mục tiêu giả định vẫn im lìm sau tảng đá phủ rêu xám. Mình nhẫn nại chờ đợi, thân thể tê cứng như khúc gỗ mục. Bỗng, ánh nắng yếu ớt xuyên qua màn sương, chiếu lóa kính ngắm. "Chết tiệt!" Mình khẽ nguyền rủa, lách người sang hốc đá bên cạnh. Vai va vào đá lạnh buốt, suýt bật tiếng rên. Trong khoảnh khắc ấy, ký ức về một Hà Nội mùa đông ùa về: Linh co ro trong chiếc áo len cũ, tay xoa xoa hai má hồng lên vì lạnh, miệng cười tủm tỉm: "Anh thấy em như cây kem mút chưa?"
Buổi trưa, đơn vị ăn vội nắm cơm nguội lạnh ngắt. Mình ngồi tựa lưng vào thân cây, nhai từng hạt cơm khô như nhai ký ức. Mùi của rừng cây gợi nhớ mùi hoa sữa phố cổ, về những tối mùa đông hai đứa chạy qua phố Hàng Đào, hơi ấm từ bàn tay nắm chặt đủ xua tan cái lạnh. Giờ đây, bàn tay trái mình đã nứt nẻ, vết thương tê tái thành từng mảng tím ngắt.
Chiều tà, bài tập kết thúc. Mình lê từng bước về trại, chiếc dép cao su lạo xạo trên nền đất lạnh. Đồng chí Tiến đi cùng, giọng khàn đặc: "Nghe nói đơn vị mình sắp được phát áo ấm mới. Hy vọng đỡ rét!" Mình gật đầu, lòng chợt nhớ đến chiếc áo len tay mẹ đan năm ngoái. Mắt bà đã kém, vẫn cố luồn từng mũi kim.
Nhật Ký, Ngày 16/1/1968.
Hôm qua, hai tiểu đội đầu tiên đã lên đường vào Nam. Chắc hôm nay tới lượt tiểu đội của mình, từ sáng sớm đã có lệnh thu dọn đồ dùng cá nhân. Tiếng máy xe GAZ gầm rú ngoài sân tập. Mình đứng lặng trước doanh trại, hơi thở hòa vào sương sớm. Ba lô nặng trĩu vai, khẩu K44 đeo chéo ngực vẫn còn thoảng mùi dầu súng. Thao trường vắng lặng đến lạ, không tiếng hô hào, không bụi đất tung lên từ những bước chân huấn luyện. Chỉ còn gió rít qua rặng thông già, như tiếng thở dài của đất mẹ.
Mình mở cuốn nhật ký, lật từng trang đã viết. Những dòng chữ về đêm đầu tiên ở Bắc Kạn, về buổi tập bắn làm vai bầm tím, về cô bé cho sim chín.. Hiện lên sống động. Linh vẫn ở đó, trong từng trang giấy, nụ cười em ấm hơn cả lửa hồng đêm đông. Liệu mai này, mình có còn được nghe giọng em đọc thơ?
Đồng chí huấn luyện viên bước đến, dúi vào tay mình gói kẹo lạc: "Mang theo. Đói lòng thì nhai." Ông quay đi nhanh, nhưng mình kịp thấy đôi mắt đỏ hoe. Thắng, nhỏ hơn mình 2 tuổi, khẽ kéo tay áo mình: "Anh Huy ơi.. Em sợ quá!" Mình xoa đầu nó, cười gượng: "Sợ thì hát to lên!"
Xe nổ máy dồn dập. Mình nhìn lại dãy lán trại đơn sơ, nơi từng đêm mình viết thư dưới ánh đèn dầu leo lét. Gốc cây già vẫn đứng đó, cành lá xạc xào như vẫy tay tiễn biệt. Mình nhặt viên đá cuội nhỏ dưới chân, cất vào ba lô. "Mang chút Bắc Kạn vào trận chiến vậy."
Khẽ mở chiếc khăn tay Linh thêu tặng, mùi hoa nhài thoảng qua. Em gửi cả trời thương nhớ vào từng mũi kim. "Anh phải về.." Lời hứa ngày chia ly vọng lại. Mình thắt chặt khăn quanh cổ, như ôm lấy hơi ấm cuối cùng của quê nhà. Tạm biệt Bắc Kạn, tôi đi!
Nhật Ký, Ngày 17/1/1968.
Chiều hôm qua, đoàn xe chở chúng tôi về tới Hà Nội lúc hoàng hôn chưa kịp tắt nắng. Đơn vị chỉ dừng chân hai tiếng ngắn ngủi. Mình mượn chiếc xe đạp cũ, đạp vội về phố Khâm Thiên. Con đường quen in dấu chân thuở thiếu thời giờ xuất hiện một hố bom, gập ghềnh như nỗi niềm đang xé nát tim. Đứng nép sau gốc me già cuối phố, mình nhìn về ngôi nhà nhỏ nơi bóng mẹ thoáng hiện sau khung cửa sổ mờ sương. Mẹ vẫn mặc chiếc áo nâu sờn vai ấy, tay vun vén mâm cơm chiều. Giật mình khi nghe tiếng Hoàng nô đùa với lũ trẻ hàng xóm, giọng cười trong trẻo vô tình khoét sâu thêm nỗi đau ly biệt. Thôi đừng vào.. Để mẹ vui trong niềm tin mình còn ở Bắc Kạn.. Mình tự nhủ, lòng quặn thắt. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên má, mặn chát như vị mồ hôi những ngày luyện bắn.
Vòng xe qua phố Hàng Đào, tim đập thình thịch khi tới ngõ nhà Linh. Cánh cổng gỗ đóng im lìm, chỉ có bé Thi ngồi thêu thùa trên thềm. Con bé ngước lên, đôi mắt tròn xoe: "Anh Huy! Chị Linh đi rồi, chị ấy vào Trường Sơn làm cô y tá từ tuần trước!" Gió chiều lướt qua hàng cây, mang theo hơi lạnh mùa đông. Tim mình chùng xuống, bàn tay nắm chặt ghi đông xe đến đau buốt. Linh ơi, sao em không đợi anh? Thương và lo cho em quá! Nhưng mình hiểu em đã chọn con đường của trái tim nhân hậu. Giữa núi rừng Trường Sơn đại ngàn, liệu chúng mình có vô tình bắt gặp nhau dưới tán lá rừng già? Những ngón tay em từng dịu dàng thêu đôi chim bồ câu, giờ sẽ nắm chặt băng gạc cứu thương. Chiến tranh chẳng phân biệt tiền tuyến, hậu phương, nhưng tình yêu của chúng mình cũng thế, mãi kiên cường giữa bão đạn.
Xe GAZ gầm lên tiếng giục giã, đưa chúng tôi rời xa Hà Nội, nơi ánh hoàng hôn đỏ như máu loang trên mặt nước. Tiếng pháo cao xạ rền vang, xé tan màn sương chiều. Từng chùm ánh sáng lóe lên phía chân trời Tây, tựa như lời tạm biệt cho cuộc chia ly không hẹn ngày gặp lại. Mình ngoái nhìn Hà Nội lần cuối, thành phố thân yêu đang thắt lưng nuôi chiến trường, vẫn kiêu hãnh, dịu dàng và kiên cường dưới trận mưa bom. "Hẹn em ở tuyến đầu Tổ quốc!" Mình thì thầm, tay chạm vào chiếc khăn tay Linh thêu, nơi đó còn vương hơi ấm một lời hứa. Bánh xe lăn về phương Nam, mang theo trái tim người lính trẻ, một nửa gửi lại mái nhà xưa, một nửa hướng về Trường Sơn đại ngàn..
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Dù sao vết thương lòng vẫn đang rỉ máu, dù mình có muốn lấy công việc lấy mọi nỗi nhớ khác đè lên trên, nó vẫn trỗi dậy, xót xa vô cùng. Hãy quên đi Th. Ơi! Hãy quên đi mà tìm lại niềm hy vọng mới mẻ xanh tốt trong lành hơn. Hãy lấy niềm tự hào mà quên đi thất vọng. Con người ấy đâu có xứng đáng với tình yêu trong trắng, chung thuỷ của Thuỳ."
(Trích từ nhật ký của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, ngày 12/4/1968)
Chiếc xe tải GAZ rung lắc trên con đường đất đỏ, bụi mù cuộn lên từ những vệt bánh xe in hằn vết đạn pháo. Tôi ngồi sát cửa sổ, mắt dán vào khung cảnh hỗn loạn bên ngoài. Ngã ba Đồng Lộc hiện ra như một bức tranh sống động của chiến tranh: Những thân cây cháy đen, hố bom lở loét, và từng đoàn quân nối đuôi nhau tiến về phía trước. Tiếng hát văng vẳng của các cô gái thanh niên xung phong hòa cùng tiếng máy nổ ì ầm. Họ đội mũ cối, tay cầm cuốc xẻng, vừa san lấp mặt đường vừa cất giọng trong trẻo: "Đường ra trận mùa này đẹp lắm.."
Đột nhiên, tiếng rít chói tai xé toang bầu trời. "Máy bay!" Ai đó hét lên. Cả xe náo động. Tôi nhoài người nhìn lên, một chấm đen đang lao vút xuống như diều hâu đói mồi. Bản năng mách bảo tôi nhảy khỏi xe trước khi quả bom nổ. Tiếng "nổ hủy diệt" kinh thiên động địa, đất đá văng tung tóe. Tôi lăn xuống mương, ngực đập thình thịch, tay bấu chặt, bảo vệ khẩu K44. Khói lửa mù mịt, mùi thuốc nổ xộc vào mũi. Khi làn khói tan dần, tôi thấy chiếc GAZ bốc cháy ngùn ngụt, xác đồng đội nằm im lìm dưới nền đất nhuốm máu. Bầu trời chuyển thành màu đỏ của máu, những khẩu AK-47 văng tứ tung, một khẩu nằm ngay trước mắt tôi, lấm lem bụi đất và máu. Tim tôi thắt lại. Ba tháng huấn luyện chưa đủ để chuẩn bị cho khoảnh khắc này.. Cuộc sống ngắn vậy sao? Chết có đau không? Mắt tôi mờ ảo.
"Còn sống không?" Một bàn tay chai sần xách tôi dậy. Người lính mặt đầy bụi đất đẩy tôi về phía chiếc xe ZIL đỗ cách đó vài mét: "Lên đi! Đường Trường Sơn không có thời gian để khóc!" Anh ta quát, giọng khàn đặc. Tôi gật đầu, leo lên ghế trước, khẩu súng vẫn ôm chặt. Người lái xe quay sang nhìn tôi, nheo mắt cười: "Này, cậu tên gì?"
"Dạ, em tên Huy. Còn anh?" Tôi đáp, tim vẫn đập thình thịch, giọng run nhẹ.
"Dũng đây! Lái xe đường Trường Sơn năm năm rồi!" Anh vỗ vai tôi, tay xoay vô-lăng điệu nghệ. Chiếc xe rùng mình rồi chồm lên phía trước. Qua khe cửa kính vỡ, tôi thấy những cô gái thanh niên xung phong đang hối hả san đường, nụ cười họ tươi rói dưới làn khói đen. Linh cũng ở đâu đó thế này chăng? Tôi chợt nghĩ, tay đặt lên túi áo, nơi có mảnh khăn tay thêu của Linh.
"Khẩu súng của cậu nhìn lạ nhỉ? Súng gì vậy?" Dũng hỏi, mắt không rời đường.
"K44 đấy anh, bắn xa cả cây số!" Tôi cố tỏ ra tự tin.
"Giỏi! Nhưng nụ cười của cậu còn đẹp hơn súng!" Dũng cười ha hả, để lộ hàm răng vàng khểnh: "Có người yêu chưa?"
Mặt tôi nóng bừng: "Dạ có rồi, cô ấy đang làm y tá ở Trường Sơn."
Chiếc xe đột ngột xóc mạnh khi bánh đè qua hố bom. Dũng nghiến răng lái vòng tránh, giọng trầm xuống: "Chiến tranh này.. Chia lìa đôi lứa. Không biết đến bao giờ.."
Đoàn xe phía trước bỗng dừng khựng. Tiếng máy bay lại gầm rú. Dũng tấp xe vào vệ đường, cả đoàn nằm sấp xuống mặt đất, tất cả chìm vào im lặng, mặc cho tiếng bom rơi. Tôi nín thở, nghe tiếng tim đập hòa cùng tiếng nổ liên hoàn. Cảnh tượng sau đó lại hiện ra như ngày tận thế lần nữa: Những thân cây trơ trụi, bãi hố bom trải ra như địa ngục, xác xe cháy nằm la liệt. Một cô gái thanh niên xung phong chạy ngang qua, vai vác bao cát, vẫy tay về phía chúng tôi: "Đi nhanh các đồng chí ơi! Chúng nó sắp quay lại đấy!"
Dũng nổ máy, tăng ga. Chiếc ZIL nhảy múa trên con đường gập ghềnh. Tôi quay lại nhìn qua kính chiếu hậu, ngã ba Đồng Lộc đang khuất dần sau làn khói, tiếng hát thanh niên xung phong vẫn vang lên não lòng: "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, hai đứa ở hai đầu xa thẳm, đường ra trận mùa này đẹp lắm, Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.."
"Giữ lấy nụ cười ấy, Huy ạ!" Dũng đột ngột nói, tay siết chặt vô-lăng: "Ở cái nơi chỉ có khói lửa này, nụ cười là thứ vũ khí mạnh nhất."
Tôi gật đầu, ngón tay lần theo đường viền mảnh khăn tay. Đâu đó trên tuyến lửa này, Linh vẫn đang băng bó vết thương cho đồng đội. Chúng tôi cùng chiến đấu, không phải vì hận thù, mà vì những nụ cười mai sau có quyền nở rộ giữa bình minh hòa bình..
Chiếc xe của Dũng dừng lại ở Làng Ho (Quảng Bình) khi hoàng hôn đổ bóng. Những mái nhà tranh thấp thoáng trong rừng rậm, khói bếp Hoàng Cầm lan tỏa là là mặt đất. Đoàn quân dừng chân nghỉ đêm, tiếng cười đùa xua tan phần nào mệt nhọc. Tôi ngồi bên bếp lửa, tay vo nắm cơm nắm muối vừng, tai dán vào những câu chuyện chiến trường mà đồng đội đang bàn tán. Giọng một người lính vang lên khẩn trương: "Đêm 20, rạng sáng 21, quân ta đã mở màn chiến dịch Khe Sanh. Toàn mặt trận đang rung chuyển.." Tim tôi đập thình thịch. Hôm nay là 24, mình lỡ trận mở màn rồi sao? Linh có ở đó không? Mắt tôi dán vào ngọn lửa, hình dung cô gái nhỏ bé ấy giữa mưa bom, tay cầm băng gạc thấm đẫm máu.
Dũng đập nhẹ vào vai tôi, đưa điếu thuốc lá vấn vội: "Hút cho ấm người! Mai lại lên đường rồi." Tôi lắc đầu, móc từ túi ra chiếc khăn tay thêu. Dũng cười khẽ: "Nhớ người yêu à? Cứ sống sót, rồi sẽ gặp!" Anh quay đi, nụ cười thoáng chút nghẹn ngào. Tôi biết anh đã mất người thân trong trận oanh tạc năm 65. Chiến tranh chẳng buông tha ai.
Sáng hôm sau, đoàn xe tiếp tục hành quân. Rừng Trường Sơn đổ dốc, vách đá dựng đứng hai bên, như muốn nuốt chửng chúng tôi. Dũng lái xe điêu luyện, tránh từng hố bom còn nóng hổi mùi thuốc nổ. "Đến nơi rồi!" Anh hét lên khi chiếc ZIL dừng trước một dãy nhà hầm nửa chìm dưới đất. Bức tranh "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" treo trước cửa sở chỉ huy sư đoàn 304 bay phấp phới trong gió.
Thủ trưởng Hoàng, người đàn ông gầy gò với vết sẹo dài trên má, đứng trước tấm bản đồ tác chiến của mặt trận Đường 9: Khe Sanh. Ông quay lại khi tôi bước vào, ánh mắt sắc lẹm như dao găm: "Binh nhì Phạm Ngọc Huy?"
"Thưa đúng!" Tôi đứng nghiêm, tay chào kiểu quân đội.
"Tốt!" Ông gật đầu, nhìn về phía người lính trong góc hầm: "Hai cậu làm quen đi, đây là đồng chí Tân."
Trung úy Tân bước ra từ góc phòng, dáng người săn chắc như thép tôi luyện. Anh siết chặt tay tôi: "Chào cậu! Tân đây. Tôi sẽ là hoa tiêu của đồng chí." Giọng nói trầm ấm, đôi mắt sắc lạnh như dao găm. Tôi nhận ra ngay, đó là ánh mắt của người đã đi qua cái chết hàng chục lần.
Thủ trưởng Hoàng đưa ngón tay chai sần chỉ vào vệt đỏ trên bản đồ: "Đây là căn cứ Tà Cơn. Nhiệm vụ của đồng chí và trung úy Tân là cắm vào sườn đồi phía Đông, dùng súng bắn tỉa của đồng chí làm 'cái gai' trong mắt chúng!" Ngón tay ông gõ nhịp vào khu vực được khoanh đỏ: "Bọn Mỹ đang co cụm ở đây. Khu vực này có sân bay, trận địa pháo, một đại đội xe tăng và ít nhất là 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ! Giữa ngọn đồi này và căn cứ chính là dày đặc hàng rào dây thép gai, bãi mìn, ụ súng. Ở cánh phía Đông, địch có cứ điểm rất mạnh ở Động Tri và một số cứ điểm ở đây, ở đây.."
Thủ trưởng Hoàng tiếp tục: "Các đồng chí sẽ phải đào hầm trú ẩn, dùng đường hầm để di chuyển. Công tác đào hầm trú ẩn phải được hoàn thành trước khi nổ súng. Mỗi phát súng của Huy phải thật chính xác!" Ông chĩa cây bút chì vào tôi: "K44 của cậu là một trong những 'Khẩu Pháo' mà chúng ta có thể đưa lên những ngọn đồi đó. Mỗi lính Mỹ ngã xuống, chúng sẽ mất thêm phần tinh thần. Cố gắng tiêu diệt càng nhiều càng tốt, gây hoang mang cho chúng, làm gián đoạn hoạt động tiếp tế bằng máy bay."
Tôi và Tân gật đầu, anh đặt chiếc ba lô nặng trịch lên bàn, lấy ra cuốn sổ ghi chép, rồi chỉ tay lên bản đồ tác chiến: "Tôi đã trinh sát khu vực này. Bãi mìn dày đặc, nhưng có vài lối đi của lợn rừng. Ta sẽ lợi dụng chúng." Anh vạch nhanh sơ đồ lên giấy, đường nét cứng rắn: "Hầm đầu tiên phải đào từ khoảng cách xa nhất là 1.000m, nằm trong tầm bắn hiệu quả của K44. Từ đó bắn tỉa vào căn cứ địch."
Tôi nuốt nước bọt, cảm giác hồi hộp trào dâng: "Thưa thủ trưởng, nếu địch dùng pháo bắn trả.. Ném bom?"
"Thì ta có đường hầm!" Tân đáp ngay, tay vỗ lên vai tôi: "Mỗi miệng hầm cách nhau 15 mét. Địch bắn vào A, ta chạy sang B. Cứ thế mà diễn trò mèo vờn chuột!" Nụ cười đầu tiên của anh lộ ra, nụ cười của kẻ sống sót và gan lì.
Thủ trưởng Hoàng gật gù, tay chỉ vào khu vực giao nhau giữa Động Tri và Tà Cơn: "Cách vị trí các đồng chí 8km có một điểm tiếp tế về hướng Đông, cách Động Tri 3km. Nhưng đừng trông chờ nhiều, chiến trường ác liệt, tiếp tế có thể bị gián đoạn."
"Chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ!" Thủ trưởng Hoàng cười rạng rỡ. Tôi và Tân đưa tay chào, giọng dứt khoát: "RÕ!"
Chúng tôi nhận lệnh, ra kho quân nhu chuẩn bị. 500 viên đạn K44 được chia làm hai, tôi và Tân mỗi người mang 5kg đạn. Anh Tân nói ở chỗ tiếp tế cũng chuẩn bị đạn rồi, nhưng cứ mang theo cho chắc, phòng khi bọn biệt kích địch nó khoắn mất. Tôi đếm từng viên, lòng bồi hồi nhớ lời bố tiễn biệt: "Con trai, cố lên!" Những bài tính nhẩm quỹ đạo đường đạn hiện lên rõ ràng trong đầu. Giờ đây, những con số ấy sẽ nhuốm máu.
Đạn, lương khô, thuốc men, dao rựa, xẻng, bi đông, can nhựa, chăn màn, quần áo ngụy trang, la bàn, ống nhòm, súng.. Tôi và anh Tân đeo lên người tất cả gần 40kg, nhưng không hề gì, những tháng ngày huấn luyện ở Bắc Kạn đã rèn giũa sức chịu đựng của cậu sinh viên khoa Toán. Tân quay sang đưa tôi hai quả lựu đạn: "Nhớ mang thêm vài trái. Khi cần, nó giúp ta chết nhanh hơn. Đừng để bị bắt, bị tra tấn còn khổ hơn chết." Những câu nói "nhẹ tênh" khiến tôi rùng mình. Anh mỉm cười, đôi mắt sâu hoắm: "Nhưng trước khi rút chốt, hãy bắn hết đạn của cậu."
Đêm cuối cùng trước khi lên đường, tôi ngồi viết thư cho Linh dưới ánh đèn dầu. Ngọn đèn dầu leo lét, khói bay lên như nén nhang: "Linh ơi, anh đang ở nơi mưa bom không ngớt. Nhưng mỗi lần anh nhớ đến em, lại thấy đôi mắt em cười, lòng anh thêm vững vàng.." Tôi gửi lá thư cuối cùng cho quân bưu của sư đoàn, thứ không cần thiết nhất trước trận sinh tử này mà tôi lén mang theo là cuốn nhật ký.
Tiếng pháo của quân ta ở đâu đó lại vang lên. Tân đứng chờ ngoài cửa lán, quần áo ngụy trang đẫm sương đêm. Chúng tôi bước vào rừng già, tiếng vượn hú như lời tiễn biệt. Đâu đó phía Tây, mặt trời Khe Sanh đang mọc lên trong lửa đạn. Những người lính của sư đoàn 304 đang xung phong ở hướng đó. Còn tôi và anh Tân tiến vào cuộc chiến cô độc ở hướng Đông. Những tán rừng Trường Sơn khép kín như bức tường đen, nuốt chửng chúng tôi vào lòng nó.
* * *
Ảnh chụp chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, 1968
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Nếu như tôi không trở lại - Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này."
(Trích từ nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, viết vào một ngày cuối tháng 5 năm 1972)
Tôi bước theo bóng lưng gầy nhưng vững chãi của anh Tân, đôi chân như chìm nghỉm trong lớp lá mục ngàn năm. Rừng già Khe Sanh thở dài qua từng kẽ lá, hơi ẩm mốc bám đầy lên da thịt. Trên vai, ba lô nặng trịch kéo vai tôi trĩu xuống, nhưng khẩu K44 ôm sát ngực lại là thứ khiến tim tôi đập mạnh hơn. Đây không phải lần đầu tôi cầm súng, nhưng là lần đầu tôi mang theo cả sinh mạng đồng đội và khát vọng tuổi hai mươi vào trận địa.
"Chậm thôi Huy, dẫm chân lên vết chân của anh." Giọng anh Tân khàn đặc, vang lên từ phía trước như tiếng thì thầm của rừng. Từng bước chân anh in hằn trên nền đất mềm, tôi cẩn trọng đặt gót dép cao su lên đó, lòng bàn chân ướt đẫm mồ hôi. Những sợi dây leo chằng chịt như mạng nhện khổng lồ vắt ngang tầm mắt, mỗi lần vén qua lại thót tim nghĩ đến lựu đạn giật chốt. Anh Tân bảo bọn biệt kích Mỹ, Ngụy rất thích gài lựu đạn, đặc biệt là gần suối.
"Cây nhiệt đới.." Tôi lẩm nhẩm nhắc mình, mắt liếc quanh tìm thứ cảm biến quỷ quái ẩn trong tán lá. Chúng như những con mắt vô hình, chỉ chờ bắt lấy hơi ấm con người để báo động. Tôi ép sát người vào thân cây, hít một hơi thật sâu. Mùi mục rữa xộc vào mũi, nhưng cũng dễ chịu hơn mùi thuốc súng.
"Đừng ngửi nhiều, mùi ẩm mốc dễ gây đau đầu lắm." Anh Tân quay lại nheo mắt cười, nụ cười ấy làm tôi nhớ đến Linh. Cô ấy giờ đang ở đâu giữa mưa bom bão đạn? Có phải đôi mắt dịu dàng của em vẫn đang dõi theo từng bước chân tôi?
"Rẹt.."
Một tiếng động khẽ từ dưới chân khiến tôi đứng hình. Mặt đất dường như nóng lên, máu dồn hết về bàn chân phải. Từng sợi lông tay dựng đứng, mồ hôi lạnh thấm ướt lưng áo.
"Anh Tân ơi.. Em dẫm phải gì rồi.." Giọng tôi run rẩy, cố nén tiếng thở gấp.
Anh Tân khựng lại, từ từ quay đầu. Khuôn mặt anh lấm tấm mồ hôi, nhưng đôi mắt vẫn tĩnh như nước hồ thu. Anh không nói gì, chỉ lặng lẽ rút con dao găm cũ kỹ ra khỏi bao, từ từ quỳ xuống. Lưỡi dao lướt nhẹ trên lớp lá khô, tiếng xào xạc như xé toạc bầu không khí ngột ngạt.
"Hít thở đi Huy, đếm từ một đến mười.. Có thể là M16 sịt." Anh Tân nói nhỏ, tay vẫn không ngừng đào bới. Tôi nhắm nghiền mắt, môi lẩm bẩm đếm. Trong đầu hiện lên hình ảnh Linh đang cười, mái tóc em bay trong gió Hà Nội..
"Mười."
"May quá!" Tiếng thở phào của anh Tân vang lên: "Chỉ là hòn đá thôi, thu chân lên đi."
Tôi rút chân về như bị bỏng, ngã ngửa vào thân cây, hai tay run bần bật. Anh Tân đứng dậy, vỗ nhẹ vào vai tôi: "Chiến tranh dạy ta hai điều, Huy ạ. Một là đừng tin vào giác quan, hai là.." Anh nháy mắt: "Hãy tin vào may mắn."
Chúng tôi tiếp tục hành trình, tiếng lá xào xạc dưới chân hòa cùng tiếng chim khuya ríu rít. Đột nhiên, anh Tân dừng lại, chỉ tay về phía xa. Một con rắn hổ mang chúa đang cuộn mình trên cành cây khô, lưỡi đỏ lè liếm lia lịa. Tôi nín thở, từ từ lùi lại. Nhưng anh Tân đã nhẹ nhàng nhặt một cành cây khô, khẽ chạm vào thân rắn. Con vật giật mình, trườn đi mất hút.
"Rừng này cũng như đời người thôi." Anh Tân cười khẽ: "Đôi khi chỉ cần một cái chạm nhẹ là đủ xua đi hiểm nguy."
Trời dần tối, chúng tôi dừng chân bên gốc cổ thụ. Tôi mở bi đông, nhấp ngụm nước, vị ngọt dịu lan tỏa cổ họng. Anh Tân lấy ra mẩu lương khô, bẻ đôi chia cho tôi.
"Ăn đi, mai còn dài." Anh nói, giọng trầm ấm: "Nhớ hồi mới nhập ngũ, anh cũng run như cầy sấy thế này. Giờ nghĩ lại, sợ là thứ khiến ta tỉnh táo hơn cả."
Tôi gật đầu, mắt nhìn lên khoảng trời đêm lấp lánh qua kẽ lá. Sao ở đây sáng hơn Hà Nội, nhưng không ấm bằng ánh đèn phố Khâm Thiên. Tôi thủ thỉ: "Anh Tân ơi, anh có nhớ nhà không?"
Anh im lặng một lát, tiếng thở dài nhẹ như gió: "Nhớ chứ! Nhưng nhớ để mà chiến đấu, không phải để yếu lòng." Anh xoa xoa đôi bàn tay chai sạn: "Cậu còn trẻ, yêu đương dang dở.. Cố sống về với người yêu nhé."
Đêm ấy, tôi nằm cuộn mình trong chăn màn, tai văng vẳng tiếng máy bay gầm rú xa xa. Trong giấc mơ chập chờn, tôi thấy mình và Linh đứng giữa cánh đồng hoa cúc trắng, nụ cười em rạng rỡ hơn cả mặt trời.
"Huy! Huy!"
Tiếng anh Tân gọi khẽ. Tôi giật mình tỉnh giấc, chụp ngay lấy khẩu súng, trời còn chưa sáng hẳn.
"Chuẩn bị đi, đoạn này nhiều mìn lắm. Có thể mất cả ngày mới qua được!"
Tôi đứng dậy, xoa mặt cho tỉnh táo. Bình minh ló dạng qua tán lá, ánh sáng mờ ảo như tấm màn voan. Anh Tân đi trước, tôi bám theo từng bước, lòng tự nhủ: Mình phải sống, cho Linh, cho Hà Nội, cho ngày mai tươi sáng..
Nhưng rừng già vẫn thản nhiên thở, như đã chứng kiến bao lớp người bước qua sinh tử. Và chúng tôi, hai hạt cát giữa cuồng phong, vẫn kiên nhẫn tiến về phía trước.
Hôm sau, nắng xuyên qua tán lá thành những dải sáng mỏng manh, đổ xuống dòng suối nhỏ như dát bạc. Tiếng nước róc rách hòa cùng tiếng thở gấp của tôi, hai bàn chân đã sưng tấy vì những dặm đường rừng. Anh Tân ngồi thụp xuống, lấy bi đông hứng nước, khuôn mặt lấm lem bùn đất. Tôi chợt nghĩ đến những buổi chiều cùng Linh dạo bờ Hồ Gươm, nước trong veo in bóng hai đứa..
"Xào xạc."
Một tiếng động khẽ từ bụi cây bên kia suối khiến tôi giật nảy mình. Tôi nhoài người về phía trước, mắt dán vào ống ngắm K44. Qua lớp kính phóng đại, năm bóng người mặc đồ ngụy trang kiểu Mỹ đang lần theo mép nước. Chúng đi thành hàng, mỗi thằng cách nhau 5m, những khẩu súng sáng lên ánh thép, như bầy thú săn.
"Có địch, khoảng cách 100m!" Tôi thì thào, ngón tay đã đặt lên cò. Tim đập thình thịch, mồ hôi muối chảy vào khóe mắt. Trong đầu hiện lên hình ảnh những ngôi nhà ở Hà Nội bị ném bom, tiếng trẻ con khóc.. Giết chúng đi!
Anh Tân lặng lẽ bò đến bên tôi, ống nhòm dán lên mắt: "Năm thằng, trang bị M16, đang tuần tra." Anh thở ra qua kẽ răng. Tôi siết chặt báng súng, hơi thở nóng rát. Chỉ cần một phát đạn, kẻ đi đầu sẽ ngã xuống. Một phát thôi.. Chắc chắn xuyên táo!
"Không được bắn!" Anh Tân nắm chặt vai tôi, giọng gằn xuống.
"Tại sao? Em phải giết tụi nó!" Tôi gần như gào lên, nhưng âm thanh chỉ thoát ra thành tiếng rít qua kẽ răng.
Anh quay sang nhìn tôi, đôi mắt nâu sẫm như hai hòn than cháy âm ỉ: "Thứ nhất, khoảng cách quá gần. Nổ súng là chúng phát hiện, cả hai chết như chơi." Anh chỉ tay về phía những tên lính Mỹ đang lội qua suối: "Thứ hai, nhiệm vụ của ta là cắm chốt ở Tà Cơn, không phải săn lùng bọn giặc cỏ này."
Máu dồn lên mặt, tay tôi run bần bật: "Vậy cứ để chúng giết đồng đội mình sao?"
"Đồng đội cậu cũng đang chờ ta hoàn thành nhiệm vụ!" Anh Tân siết mạnh tay tôi đến mức đau nhói: "Cậu nghĩ giết năm thằng này sẽ thay đổi cục diện? Chiến tranh không kết thúc bằng súng bắn tỉa!"
Tôi nghiến răng kêu ken két, mắt nhìn theo bóng kẻ thù đang khuất dần sau đám cây bụi. Một tên lính Mỹ quay lại nhìn về phía chúng tôi, ánh mắt lạnh lùng dưới chiếc mũ sắt.
"Bọn chó.." Tôi rên rỉ, hạ súng xuống.
Anh Tân buông tay, giọng dịu lại: "Sống sót đến Tà Cơn, cậu muốn bắn bao nhiêu cũng được." Anh nhếch mép cười, nhưng nụ cười không lên đến mắt: "Hồi mới vào Trường Sơn, tôi cũng như cậu, gặp địch là muốn xả đạn. Cho đến khi.." Anh ngừng lại, ngón tay gõ nhẹ lên thân AK47.
"Cho đến khi nào?" Tôi hỏi.
"Cho đến khi anh chứng kiến cả tiểu đội hy sinh vì cứu một đồng đội bị thương." Anh nhìn xa xăm: "Đôi khi, sống chết của ta không quan trọng bằng mệnh lệnh."
Chúng tôi nằm im cho đến khi bóng địch khuất hẳn. Anh Tân đứng dậy, vỗ nhẹ lưng tôi: "Đi thôi, trời sắp tối."
Dòng suối lạnh buốt xuyên qua đôi dép cao su. Tôi bỗng nhớ đến lời Linh dặn trước lúc chia tay: "Em sẽ đợi anh về, dù năm năm hay mười năm.."
Tôi nuốt nước mắt vào trong, tự nhủ phải sống bằng cả phần của những người đã khuất.
Đêm xuống nhanh, chúng tôi dừng chân trong hốc đá. Anh Tân lấy ra mẩu thuốc lào vấn sẵn, châm lửa hút. Ánh lửa bập bùng in bóng anh lên vách đá, giống như bức tượng đồng đen.
"Cậu biết không?" Anh phả khói ra, giọng trầm xuống: "Trong chiến tranh, kẻ mạnh không phải là người bắn giỏi nhất, mà là kẻ biết chọn trận đánh của mình."
Tôi gật đầu, mắt nhìn lên khoảng trời sao lấp lánh. Ở nơi đó, Linh vẫn đang đếm từng ngày tôi xa cách. Và tôi, kẻ đã suýt phá hỏng tất cả, phải học cách kiên nhẫn như rừng già này.
"Ngủ đi." Anh Tân vỗ vai tôi: "Mai còn phải vượt dốc cao. Nghe nói.. Địch vừa rải chất độc ở đó."
Tôi nằm xuống, lưng đau nhức vì ba lô. Trong bóng tối, tiếng anh Tân nhẩm bài dân ca Nghệ An quê anh, giọng khàn đặc như tiếng gió Trường Sơn. Tôi nhắm mắt, hình dung ra ngày hai chúng tôi trở về, không phải như anh hùng, mà như những hạt mưa thầm lặng tưới mát cho mảnh đất khô cằn này..
Đêm xuống như nhung, ánh trăng vằng vặc soi rõ từng ngọn cây, khiến tôi có cảm giác mình như đang lọt vào ống kính ngắm của giặc. Anh Tân đột nhiên dừng chân, chỉ tay về phía trước. Một dòng sông uốn lượn dưới ánh trăng, mặt nước lấp lánh tựa dải lụa bạc. Tiếng nước chảy róc rách hòa vào tiếng dế rừng, tạo nên khúc nhạc đêm kỳ lạ, êm đềm mà đầy hiểm nguy.
"Bơi giỏi không?" Anh Tân quay sang hỏi, giọng trầm như tiếng gió thổi qua kẽ lá.
Tôi gật đầu: "Bơi khá, em bơi ở sông Hồng từ nhỏ."
"Tốt." Anh nhếch mép cười, ánh mắt lóe lên ý định: "Nhưng đừng phí sức, đi kiếm mấy cây chuối làm bè."
Chúng tôi lần theo bờ sông, dao rựa cắt ngang những thân chuối dại mềm oặt. Mùi nhựa chuối chua nồng xộc vào mũi, khiến tôi nhớ đến những buổi cùng Hoàng đi hái chuối ở bãi bồi sông Hồng: "Em thích mùi này lắm, nghe như mùi của mùa hè." Giọng nói ấy văng vẳng đâu đây. Tôi lắc đầu, dồn hết tâm trí vào từng nhát chém.
Chẳng mấy chốc, những thân chuối được buộc chặt bằng dây rừng thành chiếc bè thô sơ. Anh Tân lột vội lớp lá ngụy trang phủ lên, rồi đặt ba lô, súng đạn lên trên: "Nhẹ nhàng thôi." Anh dặn, mắt không rời khỏi bầu trời: "Chờ mây che trăng là xuất phát."
Chúng tôi nép mình vào bụi rậm, mắt dán lên vầng trăng tròn vạch trần. Phút chờ đợi dài như vô tận. Đâu đó xa xa, tiếng máy bay gầm rú khiến tim tôi thót lại - "B52". Linh từng kể, những quả bom từ thứ quái vật ấy có thể san bằng cả ngôi làng trong nháy mắt.
"Đi!" Anh Tân khẽ hô khi mây đen kéo đến.
Chiếc bè trôi lặng lẽ xuống nước, lá ngụy trang khẽ rung rinh. Tôi và anh Tân bám vào mép bè, chân đạp nước nhẹ nhàng như lời dặn. Nước lạnh buốt thấm vào từng thớ thịt, nhưng tôi chẳng dám rùng mình. Mỗi tiếng nước động đều có thể là án tử. Một tay súng bắn tỉa nào đó có thể đang nấp ở mép nước.
Giữa dòng, trăng bất ngờ ló ra từ khe mây, soi rọi mặt sông. Tôi đờ người, chân ngừng đạp. Anh Tân nắm chặt cánh tay tôi, giọng thì thào: "Cứ tiếp tục! Đừng ngước lên!" Chúng tôi lặng lẽ đạp nước, tim đập thình thịch. Bóng tối đã trở thành bạn đồng hành, ánh trăng, kẻ thù nguy hiểm nhất.
"Gần tới rồi." Anh Tân khẽ thúc giục.
Bờ bên kia hiện ra mờ ảo. Tôi vùng vẫy như thể bơi qua cả đại dương, cho đến khi đầu ngón chân chạm vào bùn mềm. Chúng tôi kéo vội bè lên, nước từ quần áo chảy thành dòng. Anh Tân vắt khô chiếc khăn rằn, ném cho tôi: "Lau đi, kẻo ốm!"
Trong ánh sáng yếu ớt xuyên qua tán rừng, chúng tôi không dám nổi lửa vì sợ trực thăng, tôi thấy anh cởi trần phơi áo. Những vết sẹo dài chằng chịt trên lưng anh hiện ra dưới ánh trăng, cuốn nhật ký chiến trường bằng xương thịt. "Hồi ở Thạch Hãn, anh suýt thành cá mặn vì ngụp sông như thế này." Anh bỗng cười khà khà, phá vỡ không khí căng thẳng.
Tôi lục ba lô lấy mẩu lương khô, hai hàm răng nhai đều: "Anh có sợ bom không?" Tôi hỏi, giọng còn đầy bột.
"Sợ chứ!" Anh vươn vai, xương khớp kêu răng rắc: "Nhưng nếu trúng cả trái thì tốt hơn là một mảnh nhỏ."
Đêm khuya, tiếng bom dội từ chân trời khiến mặt đất rung nhẹ. Tôi nằm co ro trong chăn màn, mắt nhìn lên những vì sao lấp lánh qua kẽ lá. Trong khoảnh khắc mơ màng, tôi tưởng tượng mình và Linh đang ngồi trên bè chuối trôi giữa dòng sông Hồng, tay trong tay.
"Rầm!"
Một tiếng nổ xé toang giấc mơ. Tôi giật thót, tay túm chặt khẩu K44. Anh Tân vẫn nằm im, giọng lầm bầm: "Bọn chúng rải bom cách đây cả cây số. Ngủ tiếp đi!"
Tôi nhắm mắt, lòng tự nhủ phải ghi lại khoảnh khắc này vào nhật ký. Nhưng rồi nhớ đến lời anh Tân dặn, đành thở dài nuốt cảm xúc vào trong. Dòng sông vẫn lặng lẽ trôi, mang theo những hy vọng và nỗi sợ của hai người lính trẻ, như đã từng chứng kiến bao cuộc đời lặng lẽ đi qua giữa mưa bom..
Hôm sau, sương sớm vẫn còn đọng trên lá, ánh nắng đầu ngày xuyên qua kẽ cây như những sợi chỉ vàng. Tôi ngồi dựa lưng vào gốc cổ thụ, tay lật trang nhật ký đã ẩm nhẹ hơi sương. Mẩu bút chì gãy lưỡi gà khiến nét chữ nguệch ngoạc hơn thường lệ. Từ đâu đó, tiếng chim cu gáy vọng lại, nghe như tiếng cười của Linh.
Anh Tân bước đến, đôi giày vải ướt sũng in hằn trên nền đất: "Lại viết thư tình cho cô bé Y tá?" Anh cười khà, ném cho tôi miếng lương khô.
Tôi đỏ mặt, vội gập cuốn nhật ký lại: "Em chỉ ghi vài dòng.. Để nhỡ có chuyện gì.."
"Chuyện gì cũng không được tiết lộ nhiệm vụ!" Anh ngồi xuống bên tôi, giọng nghiêm lại nhưng ánh mắt dịu dàng. Bỗng anh lặng đi, ngón tay chạm vào khẩu súng AK.
Tôi bạo dạn hỏi: "Anh Tân.. Anh có người yêu chưa?"
Không gian như đặc quánh lại. Anh nhìn xa xăm về phía ngọn đồi mờ sương, nơi tiếng đại bác vẫn âm vang. "Có!" Anh thở ra, giọng khàn hơn: "Cô ấy là hàng xóm của anh ở Nghệ An. Tóc dài, mắt to như mắt nai.."
"Chị ấy có đẹp không?" Tôi nôn nóng.
Anh quay sang nhìn tôi, nụ cười gượng gạo: "Đẹp nhất làng." Giọng anh chùng xuống: "Nhưng cô ấy lấy chồng rồi.. Từ hồi anh vào chiến trường năm ấy."
Một cơn gió lạnh thổi qua, cuốn chiếc lá vàng rơi xuống đùi tôi. Tôi nuốt khan, không dám hỏi thêm. Trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy bóng anh Tân, người lính kiên cường, như thu nhỏ lại, chỉ còn là chàng trai trẻ thất tình.
"Chiến tranh mà." Anh vỗ đùi đứng dậy, cố giấu đi sự nghẹn ngào: "Sau này hòa bình, cậu định làm gì?"
Câu hỏi khiến tôi bừng sáng: "Em muốn làm thầy giáo! Dạy toán cho trẻ con nghèo." Tôi mỉm cười, tưởng tượng cảnh mình đứng trên bục giảng, tay cầm viên phấn trắng: "Còn anh?"
Anh Tân nhìn lên vòm lá, đôi mắt nheo lại như đo đếm tương lai: "Anh chỉ mong được làm công nhân nhà máy.. Có cái nghề ổn định, cưới vợ, sinh một đàn con." Anh bất ngờ cười phá lên, nụ cười rạng rỡ hiếm hoi: "Thằng nào cũng phải giống anh, mũi to, da đen!"
Tôi cười theo, tiếng cười như tiếng chim hót trong rừng sớm: "Thế anh không sợ vợ tương lai chê anh xấu trai?"
"Anh chọn vợ thông minh như cô Y tá của cậu là được!" Anh híp mắt trêu chọc, xoay người đeo ba lô lên vai. Bỗng anh dừng lại, chỉ tay về phía xa. Một đàn bướm trắng bay qua vạt nắng, như những tiên nữ giữa rừng già.
Chúng tôi tiếp tục hành trình, chân bước đều trên lớp lá mục. Anh Tân bỗng lẩm nhẩm bài thơ:
"Ai về thăm mẹ quê ta / Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm.. / Con đi đánh giặc mười năm / Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.." (Bầm ơi-Tố Hữu)
Giọng anh trầm bổng, lẫn vào tiếng ve sầu.
"Anh đọc hay lắm!" Tôi xúc động, nước mắt như chực trào.
"Hồi xưa hay đọc cho cô ấy nghe." Anh thở dài: "Giờ chỉ đọc cho rừng nghe thôi."
Trưa hôm ấy, khi dừng chân nghỉ dưới tán cây sấu già, tôi thấy anh Tân lấy ra chiếc lược gãy mấy răng. Anh chải đi chải lại mái tóc rối bù, nụ cười thoáng hiện. Có lẽ trong trí nhớ anh, bóng hình cô gái Nghệ An vẫn nguyên vẹn như thuở mười tám.
"Kiếp này.. Nếu không gặp Linh nữa." Tôi bỗng thì thào: "Không biết có kiếp sau không nhỉ?"
Anh Tân vỗ mạnh vào lưng tôi khiến tôi chúi về phía trước: "Con trai Nghệ An mà thất hứa là bà già đánh chết! Còn cậu, phải sống mà cưới bằng được cô Y tá ấy!"
Chúng tôi khẽ cười, trên đầu là tiếng máy bay trinh sát đang rì rầm phía chân trời. Trong khoảnh khắc ấy, giữa rừng sâu đầy hiểm nguy, hai con người, một già dặn chiến trường, một trẻ măng đầy khát vọng, cùng nắm lấy những giấc mơ giản dị như ánh nắng xuyên qua kẽ lá. Và có lẽ, chính những giấc mơ ấy đã giúp chúng tôi bước tiếp, khi ngọn lửa hy vọng còn rực hơn cả lửa đạn.
Hôm sau, mười ngón tay tôi bấu chặt vào vách đồi, mồ hôi muối chảy vào miệng đắng nghét. Sau năm ngày băng qua những cánh rừng thấm đẫm chất độc da cam, vượt qua hai bãi mìn, một con sông và vài ngọn núi, cuối cùng chúng tôi cũng đến điểm tiếp tế phía đông sân bay Tà Cơn 8km và cách Động Tri 3km về phía đông nam theo đường chim bay. Anh Tân bò phía trước, chiếc ba lô nặng trĩu như muốn kéo ngược cả người anh xuống lại chân đồi.
"Thở đều! Cố lên! Sắp tới rồi!" Tiếng anh vang lên trong làn sương mù dày đặc. Tôi liếc mắt nhìn về phía sau, một đàn UH-1 đang lùng sục những cánh rừng.
Khi ánh hoàng hôn nhuộm đỏ sườn đồi bên kia, chúng tôi đứng lặng người trước kho vật tư tiếp tế. Những thùng đạn K44 được ngụy trang dưới lớp lá khô, can nước, lương khô, thuốc men, đèn dầu, vài can dầu hỏa, cuốc xẻng, chục bao thuốc lá.. Xếp thành hàng ngay ngắn. Anh Tân chạm tay vào vỏ thùng đạn đã hoen gỉ, giọng anh trầm xuống: "Của những người không về được.. Mất hơn ba tháng, để gom được từng này, sẽ có vài nhóm giống chúng ta cũng thực hiện nhiệm vụ lần này. Có thể họ đã ở bên trong Tà Cơn đào hầm, hoặc là chưa kịp tới."
Tôi mở nắp một thùng đạn, lấy hết đạn bỏ vào ba lô, bọc cuốn nhật ký vào tấm vải dù màu xanh, rồi đặt vào thùng đạn rỗng. "Cậu định chôn nó đi à?" Anh Tân hỏi. Tôi gật đầu, chắp tay khấn: "Xin rừng thiêng và các anh phù hộ.." Tôi thì thào, nắm chặt nắm đất trong tay, dùng xẻng đào một hố sâu bên cạnh cây cổ thụ. Cuối cùng dùng xẻng chặt vào thân cây một dấu X, làm dấu.
"Nhanh lên!" Anh Tân giục, mắt không rời chiếc la bàn cũ kỹ: "Trực thăng địch đang lùng sục, chúng phát hiện là toi!"
Chúng tôi luồn lách qua bãi mìn dày đặc bao quanh căn cứ Tà Cơn, theo lối "lợn rừng đi" mà anh Tân gọi, những vết chân in hằn trên đất mềm, dấu hiệu duy nhất của sự sống giữa tử địa. Từng bước chân, tim tôi đập thình thịch như trống trận. Chỉ cần một sơ suất.. Tôi nghĩ đến Linh, đến lời hứa sẽ trở về, và siết chặt khẩu K44 hơn. Anh Tân tìm được kha khá M14, những quả M14 nhỏ xíu nằm ẩn dưới lớp lá cây và cỏ. Bằng kinh nghiệm của mình, anh Tân quỳ xuống, dùng dao găm dò từng centimet đất, nhấc từng quả mìn đặt sang hai bên, tạo ra một lối đi rộng chừng hai mét. "Bước theo y chang!" Anh ra hiệu, giọng khô khốc vì căng thẳng.
Tôi bước theo từng vết chân anh, toàn thân căng cứng. Đột nhiên, tiếng rotor trực thăng UH-1 gầm rú trên đầu. Chúng tôi nằm sấp xuống, ngụy trang dưới lớp lá khô. Bóng máy bay in lên mặt đất, xuyên qua tán cây như tử thần lượn vòng.
"Địch phát hiện rồi sao?" Tôi thì thào, tay run bần bật.
"Im! Chúng chỉ tuần tra thôi." Anh Tân nín thở.
Từ điểm tiếp tế, phải mất thêm một ngày nữa, chúng tôi mới bò lên tới đỉnh đồi hay gọi là núi cũng được. Đó là khoảng 4h chiều, tôi nằm trên đỉnh đồi. Qua ống ngắm, căn cứ địch hiện ra đồ sộ, bên ngoài là nhiều lớp hàng rào dây thép gai, bãi mìn, lô cốt. Bên trong được chia làm nhiều phân khu: Đường băng và vị trí đỗ máy bay, đơn vị xe tăng, đơn vị pháo binh, nhiều điểm tập trung quân. Tất cả được bảo vệ bằng các đường hào vững chãi, nắp hầm bằng bê tông kiên cố. Pháo của quân ta vẫn nã đều đặn vào căn cứ, nhưng chỉ làm gián đoạn việc hạ cánh của máy bay. Còn để bóc vỏ được căn cứ này thì thực sự rất khó khăn và tốn nhiều máu.
Tôi giật mình khi anh Tân đập mạnh vào vai: "Đừng mơ mộng nữa! Đào hầm tránh pháo đã!"
"Nhưng em chỉ.."
"Chưa được nổ súng!" Anh quát, giọng gằn như dao cứa: "Sống sót đã rồi hẵng nghĩ tới chuyện giết giặc!" Anh Tân đưa cho tôi cái xẻng. Sau khi khảo sát và chọn được điểm bắn đẹp nhất. Đêm ấy, sau mỗi đợt pháo sáng chói lòa, ẩn mình phía sau một bụi cây rậm rạp, chúng tôi bắt đầu đào vào sườn đồi. Đất được cho vào thùng đạn rồi rải đều ra xung quanh.
Đào! Đào! Đào suốt đêm. Trong cái hốc tối om vừa được tạo ra, Tân bỗng dừng xẻng.
"Chúc mừng năm mới! Huy!"
"Sao cơ? Tết à?"
Đêm đó là giao thừa năm 1968, tiếng súng nổ khắp các đô thị miền Nam, thay cho lời chúc năm mới.
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
"Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước."
(Trích từ nhật ký của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, ngày 22-4-1968)
Mùa xuân năm 1968, Trạm Xá Giữa Rừng của Nguyễn Thị Linh và Nguyễn Thanh Mai
Gió tháng ba lồng lộng thổi qua kẽ lá, mang theo mùi khét của thuốc súng và tiếng rên rỉ xé lòng từ phía xa. Trạm xá dã chiến nằm lọt thỏm giữa rừng Trường Sơn, những tấm bạt dù căng tạm bợ trên cọc gỗ nghiêng ngả như muốn đổ sập bất cứ lúc nào. Mai đứng dưới tán cây, tay siết chặt chiếc xô nhôm đựng nước sôi, mắt dán vào đoàn thương binh đang được khiêng vội qua cửa trạm.
"Mau lên! Người này mất máu nhiều quá!" Bác sĩ Hải khàn đặc, gằn từng tiếng. Ông xắn tay áo bạc phếch, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi dưới ánh đèn dầu leo lét. Linh, đứng cạnh ông, lập tức chồm tới. Cô dùng kéo cắt vội lớp vải quân phục dính đầy máu khô trên người lính trẻ, để lộ ra vết đạn xuyên qua bả vai.
"Chị Linh, thuốc tê đâu hết rồi!" Một y tá gọi lớn. Linh không ngẩng đầu, tay vẫn khẩn trương lau vết thương bằng miếng băng gạc tái sử dụng. "Vừa hết sáng nay. Dùng nước sắc lá trầu không thay thế. Chắc ngày mai thuốc mới đến, nghe đâu cầu tạm bị trúng bom!" Giọng cô bình tĩnh lạ thường, nhưng Mai thấy ngón tay Linh run nhẹ khi chạm vào da thịt sưng tấy của người lính.
Một tiếng nổ ầm vang dội từ chân trời, khiến cả trạm xá chao đảo. Khói bụi mù mịt, vài chiếc mũ cối rơi lăn lóc trên nền đất. "B52 à?" Một thương binh gãy chân hỏi, giọng đứt quãng. "Không, pháo kích thôi!" Linh trả lời, tay vẫn không ngừng băng bó. Mai nhìn xuống xô nước trong tay, mặt nước rung lên từng đợt, in hình khuôn mặt cô nhợt nhạt.
"Các đồng chí.. Cố lên.." Mai thì thầm, lẩm bẩm như câu thần chú. Cô đổ nước vào chậu, vắt vội khăn cho một chiến sĩ sốt rét. Anh ta co quắp trên chiếu rách, môi tím tái, nhưng vẫn cố nhoẻn miệng: "Cô y tá.. Hát một bài nghe đi.. Bài gì vui vui nhé.." Mai cười gượng, giọng nghẹn lại: "Đồng chí khỏe rồi hát cùng em!" Anh ta cười yếu ớt.
Đột nhiên, tiếng gào thét của bác sĩ Hải vang lên: "Linh! Cầm máu cho anh này! Đứt động mạch rồi!" Linh chạy vụt qua Mai, tóc xõa tung, áo blouse trắng loang lổ máu. Người lính trên bàn mổ chỉ khoảng 19 tuổi, tay nắm chặt lá thư nhàu nát dính trong túi áo. "Mẹ.. Mẹ.." Anh rên rỉ, mắt nhắm nghiền. Linh dùng dây garô siết chặt đùi anh, giọng cô vang đều như nhịp tim đập: "Em không được chết. Em phải về gặp mẹ!" Anh cố gật đầu.
Mai quay mặt đi, nước mắt chảy dài. Cô nhớ đến Nam, đôi mắt hiền hậu của anh mỗi lần kể chuyện tiểu đội phá cầu, đến cái cách anh cầm tay cô trong hầm trú ẩn.. "Mai này, hòa bình rồi, Anh sẽ đưa em về quê.." Cô thở dài, cố dập tắt nỗi nhớ đang chực trào.
"Mai! Mang cho chị thêm băng gạc!" Tiếng Linh gọi xé tan suy tư. Mai vội lau mặt, xoay người với lấy hộp đồ nghề. Đột nhiên, một bàn tay nắm chặt cổ tay cô. Một thương binh mắt đục mờ đang nhìn cô chằm chằm: "Cô.. Cô có gặp ai thuộc sư đoàn 304 không?" Linh đang ở góc trạm bỗng dừng tay, quay phắt lại.
"Đồng chí biết sư đoàn 304?" Linh hỏi dồn dập, giọng run run. Người lính lắc đầu yếu ớt: "Tôi.. Có người anh ở sư 304.. Họ đánh giỏi lắm.." Ánh mắt Linh vụt tắt. Cô quay lại bàn mổ, miệng lẩm nhẩm: "Anh.. Anh phải sống.."
Trời nhá nhem tối, trạm xá chìm vào bóng tối lờ mờ. Những ngọn đèn dầu thưa thớt được thắp lên, in bóng những con người còng lưng chống chọi với tử thần. Mai ngồi xuống bên Linh, đưa cho cô bát cơm. "Ăn đi chị. Cả ngày chưa có gì vào bụng." Linh gật đầu.
Linh gật đầu, nhưng tay chỉ đảo liên tục chiếc thìa trong bát. "Em biết không.. Huy, anh ấy thích toán. Anh ấy nói chiến tranh kết thúc sẽ về dạy học.." Giọng cô chợt rung lên, tay run run mở chiếc khăn tay cũ, bên trong là xấp thư, với một lá đang viết dở. "Chị vẫn viết cho anh ấy mỗi đêm, dù không biết gửi đi đâu.." Mai nắm tay Linh.
Mai nắm tay Linh, lòng se thắt. Cô chưa kịp an ủi thì tiếng máy bay trinh sát ì ùng vang lên. Một loạt đạn phản lực xé gió, cả trạm xá náo loạn. "Nằm xuống! Che đầu!" Bác sĩ Hải hét lớn. Mai ôm chặt Linh, hai người lăn vào gốc cây. Đất đá rơi lả tả, mùi khói xộc vào mũi.
Khi tiếng động qua đi, Linh là người đầu tiên đứng dậy. Cô phủi bụi trên áo, mắt sáng rực: "Phải tiếp tục! Họ cần chúng ta!" Mai nhìn theo bóng cô chạy vào trạm, tim đập thình thịch. Trong khoảnh khắc ấy, cô thấy Linh như tượng đài kiên cường, một nữ chiến binh không bao giờ gục ngã.
Đêm xuống, tiếng rên rỉ dần thưa thớt. Linh ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào thân cây mục, tay nắn nót viết trên tờ giấy. Mai đến ngồi cạnh, đưa cho cô cốc nước chè đặc. "Đi ngủ đi chị?" Linh lắc đầu.
Linh gật đầu, nửa mặt chìm trong bóng tối: "Không biết anh ấy có đang ngủ không.. Lính đặc nhiệm thường hoạt động đơn độc." Cô ngước nhìn trời đêm đầy sao, giọng chùng xuống: "Nhiều lúc chị tự hỏi.. Liệu mình có đang viết thư cho một người đã hy sinh?" Mai im lặng.
Mai muốn an ủi, nhưng một tiếng còi báo động lại vang lên. Đoàn thương binh mới ập đến, mang theo mùi máu tươi và khói đạn. Linh vội giấu xấp thư vào túi, đứng bật dậy. Trong ánh lửa bập bùng, dáng cô nhỏ bé mà vững chãi như cây cổ thụ giữa rừng thiêng.
"Chúng ta tiếp tục thôi!" Linh nói, giọng đã lại bình thản. Mai hít sâu, theo chân cô vào trận chiến mới, nơi sự sống và cái chết vẫn đang giằng co từng giây..
Những ngày sau trận oanh tạc dữ dội, trạm xá chìm trong một thứ yên tĩnh mong manh. Gió rừng thổi qua kẽ lá, cuốn đi mùi máu và thuốc sát trùng, để lại dư âm ngọt ngào của hoa sim tím nở muộn. Mai ngồi bệt trên tấm ván gỗ mục, tay vo viên cơm nắm, mắt đưa nhìn Linh đang cẩn trọng băng lại vết thương cho một chiến sĩ trẻ. Người lính ấy cười toe toét dù môi còn tái nhợt: "Cô y tá có đôi tay khéo thế này, ai cưới được thì sướng phải biết!" Linh khẽ hất tóc.
Linh khẽ hất mái tóc dính mồ hôi ra sau, đôi mắt nâu sẫm lấp lánh: "Đồng chí khỏi rồi thì về dạy tôi cách nói chuyện phiếm cho hay!" Tiếng cười rộ lên quanh góc trạm, xua tan phần nào bầu không khí ngột ngạt. Mai mỉm cười, lòng chợt ấm áp. Chiến tranh có thể cướp đi nhiều thứ, nhưng không thể dập tắt những khoảnh khắc giản dị này.
Đêm xuống, trạm xá chìm vào một nhịp sống khác. Tiếng rên rỉ đã thưa dần, thay vào đó là âm thanh lạo xạo của những tờ giấy viết thư. Mai nhìn sang góc lán, nơi Linh ngồi co chân dưới ánh đèn dầu. Bóng cô in lên vách lá như một bức tranh tả tơi, vai gầy guộc, tay cầm bút lướt nhanh trên trang giấy kẻ ngang.
"Chị lại viết thư cho anh Huy đấy à?" Mai khẽ hỏi, đặt xuống nồi cháo thuốc còn bốc khói. Linh giật mình, tay vội che trang giấy như đứa trẻ bị bắt gặp làm điều gì xấu. Rồi cô thở dài, đẩy xấp thư về phía Mai: "Viết cho người không địa chỉ.. Như đối thoại với bóng tối vậy." Mai lật giở thư.
Mai lật giở những dòng chữ nắn nót: "Huy à, hôm nay em cứu được một đồng chí 19 tuổi. Cậu ấy gọi mẹ khi mổ.. Em đã hứa sẽ đưa cậu ấy về. Nhưng em không biết mình có giữ được lời hứa không. Hôm nay thuốc men lại đến chậm.." Cô ngừng lại, ngón tay chạm vào vết mực nhòe ở góc trang giấy, có lẽ là nước mắt.
"Chị không sợ.." Mai ngập ngừng, "Không sợ những lá thư này mãi không đến tay anh ấy?" Linh ngửa mặt nhìn kẽ lá.
Linh ngửa mặt nhìn kẽ lá lộ ra khoảng trời sao lấp lánh: "Thà viết còn hơn im lặng. Mỗi dòng chữ là một lời nguyện cầu.." Đột nhiên, cô quay sang Mai, giọng đầy khẩn thiết: "Hôm qua có thương binh nào nhắc đến sư đoàn 304 không em?" Mai lắc đầu.
Mai lắc đầu, lòng quặn thắt khi thấy ánh mắt Linh vụt tắt. Cô biết Linh đã hỏi thăm khắp các đơn vị qua trạm, nhưng Huy, người lính bắn tỉa đơn độc, dường như đã tan biến vào sương mù chiến trận.
"Chị Linh! Có thư từ hậu phương!" Một y tá trẻ chạy đến, đưa phong bì đóng dấu đỏ. Linh mở lá thư, mắt chạy nhanh trên dòng chữ, rồi bỗng tái mặt. Mai chưa kịp hỏi, cô đã đứng phắt dậy: "Họ điều chị về trường Y sau chiến dịch này!" Tiếng lá xào xạc.
Tiếng lá xào xạc trong đêm như nín thở. Linh siết chặt tờ giấy, giọng run run: "Chị không thể bỏ đi! Ở đây cần chị! Và.. Chị phải tìm anh ấy nữa.." Mai nắm lấy tay cô, cảm nhận những ngón tay lạnh ngắt. "Nhưng đây là lệnh trên, chị không thể từ chối." Linh ngồi thụp xuống.
Linh ngồi thụp xuống, đầu tựa vào vai Mai: "Em biết không.. Huy và chị đã khấn ở chùa Trấn Quốc trước đêm anh ấy lên đường, anh chị cầu ngày đất nước hòa bình sẽ cưới nhau.." Mai khẽ vuốt lưng Linh.
Mai khẽ vuốt lưng Linh, lòng dâng lên cảm giác nghẹn ứ. Cô nhìn ra khoảng sân trạm, nơi vài chiến sĩ đang ngồi hút thuốc lào. Khói thuốc quyện cùng sương đêm tạo thành những vòng xoáy kỳ ảo, gợi nhớ đêm cô và Nam nằm trong hầm trú ẩn. Bàn tay anh chai sần khẽ chạm vào eo cô, hơi thở ấm nồng thì thầm: "Mai ơi, ngày mai Anh phải về đơn vị.."
"Em có người yêu rồi phải không?" Linh bất ngờ hỏi, phá vỡ im lặng. Mai giật mình, tay vô thức đặt lên bụng. Một tháng kể từ đêm ấy, cô đã đếm từng ngày. Trên ngón tay Mai, một chiếc nhẫn nhỏ làm từ vỏ đạn AK ánh lên màu đồng thau.
"Là.. Là anh Nam, sư đoàn 325," Mai cúi mặt, má ửng hồng, "Anh ấy hứa sau chiến dịch sẽ cưới em."
Linh nở nụ cười đầu tiên trong đêm: "Kể chị nghe về anh ấy đi."
Mai mím môi, giọng ngập ngừng: "Anh ấy hiền lắm chị ạ. Lần đầu gặp, anh bị thương bàn tay trái vẫn cười đùa: 'May mà không phải tay phải, Còn cầm súng!'Đêm đó trời mưa to, anh kể chuyện đơn vị.."
Bỗng nhiên, Mai ôm bụng chạy vội ra bụi cây. Cô nôn thốc nôn tháo, dịch vị chua xót lan trong cổ họng. Linh chạy theo, tay xoa lưng cho cô: "Em bị sốt rét à? Hay.."
"Em có thai rồi," Mai thều thào, nước mắt giàn giụa, "Một tháng.. Em chưa nói với ai.."
Linh ôm chặt cô gái trẻ đang run rẩy. Trong khoảnh khắc ấy, hai trái tim như hòa làm một, kẻ mang nỗi chờ đợi vô vọng, người ôm mầm sống mong manh. Tiếng côn trùng rỉ rả ngoài rừng bỗng trở nên da diết, như khúc nhạc buồn của những người yêu thời loạn.
"Em phải cố gắng giữ đứa bé," Linh thì thầm, tay ép vào lưng Mai, "Cuộc chiến này sẽ kết thúc. Phải kết thúc thôi.."
Một tiếng chuông khẽ vang lên từ phía nhà kho. Hai người giật mình quay lại. Bác sĩ Hải đang đứng đó, tay cầm chiếc đèn pin yếu ớt: "Có đoàn thương binh mới đến. Lại phải thức trắng đêm rồi.."
Linh đứng dậy, phủi bụi trên áo. Trong ánh đèn lập lòe, dáng cô hiện lên kiêu hãnh như tượng đài: "Mai ơi, Ta đi thôi!"
Nhưng trước khi bước vào lán, Linh quay lại nhìn vầng trăng khuyết treo lơ lửng trên đỉnh núi. Cô thì thầm điều gì đó, có lẽ là một lời cầu nguyện cho Huy, cho Nam, và cho cả đứa bé chưa chào đời đang nép mình trong bụng Mai..
Một buổi chiều, Mai và Linh ra con suối gần trạm xá để tắm. Con suối chảy róc rách giữa khe đá, nước trong vắt phản chiếu ánh hoàng hôn đỏ rực như máu loang. Linh bước xuống từng tảng đá trơn, tay níu chặt khẩu AK47 đeo chéo vai. Mai đi phía trước, chiếc khăn rằn buộc lỏng trên cổ phất phơ theo gió. Tiếng chim rừng hót lảnh lót xen lẫn tiếng lá xào xạc, một buổi chiều tưởng như yên bình nếu không có mùi khét lẹt của thuốc súng vương trong không khí.
"Chị Linh này.." Mai ngập ngừng, tay siết chặt vạt áo, "Sau này chị thích có con trai hay con gái.." Linh quay lại, nheo mắt nhìn cô dưới ánh nắng xuyên tán lá: "Con nào cũng được, nếu là con gái Chị sẽ đặt tên nó là Mai."
Bỗng nhiên, Linh giật mình. Cô đẩy Mai vào lùm cây rậm rạp, tay siết chặt báng súng. "Có tiếng động.." Giọng cô khẽ như hơi thở. Mai nín bặt, tim đập thình thịch. Từ phía xa, tiếng giẫm đạp trên lá khô vọng lại, nặng nề, gấp gáp, không phải nhịp chân của thú rừng.
Năm bóng người mặc quân phục ngụy trang lốm đốm ló ra từ bụi tre. Khẩu súng M16 chĩa về phía dòng suối, ánh thép lạnh lẽo dưới nắng chiều. Chúng tiến thẳng về hướng họ đang trốn, khoảng cách chỉ còn 30 mét. Linh khẽ chạm vào vai Mai: "Lính biệt kích. Em nằm yên, không được ra!"
"Chị định làm gì?" Mai thì thào, mắt đẫm lệ. Linh mỉm cười, nụ cười dịu dàng mà Mai chưa từng thấy. "Chị chạy về hướng bờ suối, dụ chúng ra xa. Em phải sống.. Vì con của em.."
Chưa kịp phản ứng, Linh đã lao vụt ra khỏi bụi cây. Tiếng súng nổ rền vang, những viên đạn xé toạc không khí. "Catch her alive!" Giọng một tên lính Mỹ gầm lên. Mai bò sát đất, mắt dán vào cảnh tượng kinh hoàng: Linh chạy zíc zắc như con thoi, bắn từng loạt đạn để đánh lạc hướng chúng.
"Come here, little girl!" Tên biệt kích da trắng cười gằn, xả đạn vào chân cô. Linh ngã lăn xuống đất, khẩu AK47 văng ra xa. Bốn tên lính vây quanh, tiếng cười khinh bỉ vang lên. Mai búm miệng, nước mắt chảy dài. Cô thấy một tên lính dùng báng súng đập vào lưng Linh, máu loang trên áo bạc màu.
"Bọn súc sinh.." Mai rên rỉ, tay siết chặt. Nhưng cô không thể làm gì, đứa bé trong bụng và tiếng khóc nghẹn trong cổ họng. Cô lặng lẽ bò ngược lại, rồi chạy về phía trạm xá tìm đồng đội.
"Bùm!"
Tiếng nổ chát chúa vang lên. Mai vừa chạy vừa ngoái đầu lại, tiếng khóc nghẹn của cô át cả tiếng chim đang hoảng loạn bay đi.
"Chị Linh!"
Khi đồng đội quay trở lại để giải cứu Linh. Cơ thể cô gái nằm co quắp bên xác một tên lính Mỹ. Chiếc áo xanh rách tươm, vết thương ở bên hông đen sì. Tay phải Linh vẫn nắm chặt chốt lựu đạn đã giật, ngón trỏ quặp lại như muốn giữ lấy điều gì đó chưa kịp trao. Mai ôm xác chị vào lòng, hơi ấm cuối cùng còn vương trên làn da tái nhợt.
"Em xin lỗi.. Em xin lỗi.." Mai lặp đi lặp lại, tay run run vuốt mắt cho Linh. Trong khoảnh khắc ấy, cô nghe thấy tiếng trực thăng ì ầm từ xa. Đồng đội đã đến quá muộn.
Họ chôn Linh bên gốc cây cổ thụ, nơi rễ xù xì ôm lấy tấm bia gỗ khắc vội dòng chữ: "Liệt sĩ Nguyễn Thị Linh, Nữ y tá kiên trung." Mai đứng lặng trước nấm mồ đất đỏ, tay đặt lên bụng. Gió rừng thổi qua, mang theo mùi hoa rừng chua xót.
"Cô ấy còn trẻ quá.." Một chiến sĩ nói, giọng nghẹn ngào.
Mai lau nước mắt, nhìn về phía chân trời đang dần tím sẫm. Ở đó, những vì sao đầu tiên lấp lánh, có lẽ là ánh mắt Huy đang tìm kiếm Linh giữa thiên hà vô tận. Cô thầm hứa sẽ kể cho đứa bé nghe về người phụ nữ dũng cảm ấy, về tình yêu không lời, về lá thư không địa chỉ, và về hy vọng mong manh giữa đạn bom..
Đêm ấy, Mai viết nhật ký và lá thư đầu tiên cho Nam. Dưới ánh đèn dầu leo lét, cô vẽ hình dòng suối nhỏ với một ngôi sao lấp lánh. Ở góc trang giấy, nước mắt cô hòa vào mực, thấm ướt dòng chữ: "Anh sắp làm bố rồi.."
Nhưng chiến trường không có chỗ cho những lá thư. Khi tiếng bom B52 lại rền vang, Mai gấp cuốn sổ, nuốt nỗi đau vào trong. Cô đứng dậy, khoác ba lô thuốc men, bước vào bóng tối, nơi những Linh khác vẫn đang tiếp tục chiến đấu..
20 ngày sau, Nam hy sinh ở một cao điểm gần căn cứ Tà Cơn.
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau:
Đêm ấy, tiếng xẻng của chúng tôi cắt vào lớp đất đỏ khô cằn như dao cứa lên da thịt. Từng nhịp đập đều đặn, từng hơi thở gấp gáp hòa vào tiếng gió rít qua kẽ lá. Tôi, Phạm Ngọc Huy, vừa bước qua tuổi 22, lính bắn tỉa mới chân ướt chân ráo, vẫn không quên nở nụ cười với anh Tân: "Em xem, đất này cứng hơn cả đầu lũ Mỹ!" Tân, người đồng đội 25 tuổi đã trải qua năm mùa khô cháy, chỉ cười khà rồi chỉ tay lên trời: "Cẩn thận pháo địch, Huy. Đào sâu thêm tí nữa!"
Ba mươi ngày, ba mươi đêm. Đất đá sắc lẹm cào xước da tay, mồ hôi muối mặn thấm vào từng vết thương. Chúng tôi đào ba cửa hầm, nối nhau bằng đường hầm dài 40 mét. Những cành cây bằng cổ tay được tôi và Tân gùi từ rừng bên kia suối về để gia cố hầm, mỗi đêm hai chuyến. Con đường băng qua bãi mìn rộng hai mét, đủ để một người lặng lẽ bước, khiến tim tôi đập thình thịch mỗi lần đi, chỉ sợ buồn ngủ mà bước nhầm ra khỏi lối. Tân dặn: "Nhớ đặt chân đúng dấu chân hôm trước, Huy ạ. Lệch một phân thôi là bay lên trời!" Tôi cười khổ: "Má ơi! Vừa buồn ngủ mà còn phải tìm dấu chân hôm trước trong đêm tối."
Những đêm không trăng, bóng tối dày đặc như nhung. Tôi bò qua con suối cạn, nước lạnh buốt thấu xương, tay ôm bó cây ướt sũng. Tiếng máy bay trinh sát L-19 ì ầm trên đầu, ánh đèn pha quét như mắt quỷ. Tôi nín thở, ép người vào vách đá, chờ bóng tối trở lại. "Mày không bắt được tao đâu!" Tôi thì thầm, nụ cười nở khẽ.
Trở về hầm, Tân đang ngồi bó gối, mắt đỏ quầng vì thiếu ngủ. Anh đưa tôi miếng lương khô, giọng khàn đặc. "Ăn đi, sáng mai còn đào tiếp." Lương khô nghẹn nơi cổ, nhưng tôi nuốt trôi bằng niềm tin kỳ lạ. Trong túi áo, bức thư Linh viết vội trước ngày tôi lên đường vẫn còn thơm mùi mực tím: "Nhớ về em mỗi khi anh thấy sao trời.."
Ngày thứ mười lăm, trận pháo kích đầu tiên ập đến. Đất rung chuyển như động đất, khói bụi mù mịt. Tân kéo tôi chui vào hầm, hai cơ thể dính đầy bụi đất. "Chúng nó đang dò tín hiệu!" Tân nghiến răng, tay siết chặt khẩu AK. Tôi cười, giọng khàn khàn: "Thì chúng cứ bắn. Mình cứ đào. Xem ai kiên trì hơn!"
Những chiếc lá ngụy trang được chúng tôi cắm tỉ mỉ trên nóc hầm. Tân dạy tôi cách pha bùn với cỏ tranh để tạo màu đất tự nhiên: "Lính Mỹ thích dùng ống nhòm hồng ngoại, nhưng chúng không phân biệt được màu máu với màu đất đâu!" Anh nói, đôi tay chai sần vê từng nắm cỏ.
Đêm cuối tháng Hai, khi ba cửa hầm đã hoàn thành, chúng tôi ngồi tựa lưng vào nhau trong đường hầm chật hẹp. Mùi ẩm mốc xộc vào mũi, nhưng với chúng tôi lúc ấy, nó thơm hơn cả hương hoa. Tân vỗ vai tôi: "Chuẩn bị tinh thần đi em, ngày mai bắt đầu trò chơi!" Ánh trăng lọt qua khe hở chiếu vào nụ cười rạng rỡ của tôi, nụ cười mà Linh từng ví như nắng sớm.
Đột nhiên, tiếng pháo lại rú lên từ phía Tây. Tân kéo tôi chui sang cửa hầm thứ hai, hai bàn tay vẫn nắm chặt hai cái xẻng. Đất Mẹ vẫn thở dưới chân chúng tôi, ấm nồng và kiên cường..
Đầu tháng 3/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Mặt trời chưa ló dạng, sương mù vẫn quấn quanh ngọn đồi như tấm khăn tang. Tôi nằm sấp trong hầm số 1, má phải áp vào báng súng K44 còn thơm mùi dầu mỡ. Qua ống ngắm, hình ảnh căn cứ Tà Cơn hiện lên rõ mồn một: Những chiến hào đan chéo như mạng nhện, lính Mỹ đi lại lờ đờ trong áo giáp nặng trịch. Tân khẽ thúc cùi chỏ vào sườn tôi, giọng trầm đều. "Nhắm kỹ. Đừng vội. Mỗi viên đạn phải lấy mạng một thằng!"
Phát đạn đầu tiên của đời lính bắn tỉa xé tan không gian lúc 5 giờ 17 phút. Từ khoảng cách 800 mét, viên đạn xuyên qua ngực một tên lính đang ngồi hút thuốc bên khẩu pháo 105mm. Tiếng nổ chát chúa của pháo binh quân ta vọng lên từ phía Tây Nam đúng lúc che lấp âm thanh phát súng. "Một!" Tân đếm khẽ, tay phải giơ ngón trỏ.
Hai phát tiếp theo cướp đi sinh mạng một xạ thủ súng máy và làm bể vai tên chỉ huy đang la hét. Mùi thuốc súng nồng đặc trong hầm. Tôi lùi về phía sau, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, ôm khẩu K44 trườn thật nhanh. "Chạy!" Tân hét lên, đẩy tôi về phía cửa hầm số 2. Hai cái đầu cúi thấp, bò như rắn qua đường hầm 20 mét. Đúng lúc ấy, loạt đạn đại liên 12.7mm của địch cày nát vị trí vừa bắn.
"Cậu là quỷ sao?" Tân trợn mắt nhìn tôi khi chúng tôi nép vào vách hầm mới, đất từ trần rơi lả tả. Tôi nhếch mép cười, lấy ra chiếc khăn tay Linh thêu: "Người yêu em bảo đàn ông phải biết.. Tiết kiệm đạn." Cả hai đứa cười rú lên, tiếng cười nghẹn lại khi loạt pháo thứ hai rít ngang qua.
Ngày hôm đó, ba sinh mạng địch bị xóa sổ, bốn thằng bị thương. Đêm xuống, Tân ngồi chép số liệu vào cuốn sổ nhòe mực, tôi thì thào: "Sao anh không viết thư cho người thân ở nhà?" Anh lặng đi giây lát, ngón tay chai sần vuốt trang giấy: "Viết làm gì khi chưa biết có sống qua trận này không.."
Những ngày tiếp theo, nhịp sống chúng tôi như chiếc đồng hồ quân sự: Bắn, chạy, ngụy trang, quan sát. Tân trở thành đôi mắt thứ hai của tôi. Anh dùng ống nhòm đo gió, đếm nhịp tim mục tiêu, thậm chí đoán được lúc nào lính Mỹ buồn tiểu, đứng thẳng người để đái. "Thằng cha mặc áo đỏ kia, hắn cứ đứng lên ngồi xuống, chắc bàng quang yếu lắm đây!" Anh chọc tôi cười.
Đến ngày thứ năm, tôi phát hiện sự bất thường. Qua ống ngắm, những chiến hào phía Tây Nam căn cứ đầy xác lính địch phơi dưới nắng. "Sư đoàn 304 đã đào hào vào sát hàng rào!" Tôi reo lên. Tân gật đầu: "Cứ thế này, tháng Tư sẽ ăn mừng trong thành phố Huế!" Niềm vui chưa kịp thấm thì trực thăng UH-1 xuất hiện như bầy ong vò vẽ, chúng trút rocket. Sau đó là loạt bom napalm rơi xuống đồi phía đông, lửa nuốt chửng cả sườn đồi.
"Chúng nó nghi ta ở đây rồi!" Tân nghiến răng, kéo tôi xuống hầm sâu. Mùi xăng dầu cháy khét lẹt tràn vào đường hầm. Tôi ôm khẩu súng run run, đột nhiên nhớ lời Linh: "Anh phải sống.. Phải sống!"
Đêm ấy, bầu trời Khe Sanh đẹp lạ. Tôi đang canh gác thì thấy vệt sáng xanh lét xé ngang chòm sao Thần Nông. Một ngôi sao băng rơi tòe đuôi dài như giọt lệ. Sao lại buồn thế nhỉ? Tôi tự hỏi, tay đưa lên lau má không hiểu sao ướt đẫm. Từ xa, tiếng Tân gọi vọng lại: "Huy! Xuống ngủ đi. Mai còn tiếp tục!"
Tôi ngoái nhìn lần cuối về hướng ngôi sao vừa vụt qua. Gió đêm mang theo mùi máu tanh nồng, nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi ngửi thấy hương hoa sữa phố Hàng Đào..
Giữa tháng 3/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Gió Lào tháng ba mang theo cát bụi đỏ quét ngang đồi, hạt cát lách qua khe hở hầm trú ẩn như tiếng thì thầm của tử thần. Tôi nằm im trong lớp ngụy trang bằng lá khô, mắt dán vào ống ngắm. Qua lớp thủy tinh phủ sương mù, một tên lính pháo binh Mỹ đang đứng chễm chệ trên chiến hào, tay vung vẩy điếu xì gà. Khoảng cách 1.050 mét, xa hơn cả tầm bắn danh định của khẩu K44.
"Gió đông bắc, tốc độ 3m/s, độ ẩm 70%.." Tân đọc số liệu từ kinh nghiệm thực chiến, khi dùng ống nhòm quan sát sự chuyển động của cây cỏ, giọng đều đều như giáo viên giảng bài. Tôi đẩy viên đạn đặc chủng vào nòng, hít sâu, ngón trỏ khẽ động vào cò súng. "Mày đang đứng trước mặt một sinh viên toán, thằng khốn ạ!" Tôi thì thầm, hình dung đường đạn như một phương trình parabol hoàn hảo. Tiếng pháo từ xa vọng lại đúng nhịp tim đập. Viên đạn xé gió, xuyên vào ngực tên lính khi hắn ngửa mặt phì phèo khói.
"Trời ơi! Cậu vừa lập kỷ lục trung đoàn đấy!" Tân siết chặt vai tôi, mặt đỏ bừng. Nhưng niềm vui chưa kịp thấm thì tiếng rotor trực thăng UH-1 đã rú lên từ phía tây. Chiếc máy bay chuồn chuồn sắt lơ lửng trên sân bay dã chiến, đám lính Mỹ khiêng cáng ùa ra.
Tôi lật ngửa khẩu súng, điều chỉnh thước ngắm: "Điều không thể thành có thể nhé, Linh ơi.." Tôi lẩm bẩm, đưa mũi súng chếch 45 độ về phía vầng mặt trời đang lên. Viên đạn 7.62mm lao vào thùng nhiên liệu phình to dưới bụng máy bay. Lửa bùng lên, một tiếng nổ long trời do đạn rocket gặp lửa tự kích nổ, ngọn lửa cam nuốt chửng cả phi hành đoàn, chiếc UH-1 nghiêng cánh đâm sầm vào khẩu pháo 105mm. Khói đen cuồn cuộn vẽ lên bầu trời thứ chữ ký bằng máu.
"Huy! Di chuyển ngay!" Tân hét lên khi hàng loạt rocket từ một chiếc trực thăng khác cày nát sườn đồi. Chúng tôi lăn xuống hầm số 3, đất đá rơi lộp độp như mưa. Tân móc từ túi ra chiếc kẹo lạc dúi vào tay tôi, mắt anh sáng lên: "Thưởng cho phát súng vừa rồi!"
Ngày thứ mười tám, chúng tôi phát hiện ánh sáng lóe lên từ ống kính ngắm địch. Một xạ thủ Mỹ đang lần theo dấu vết của chúng tôi. "Hắn dùng súng M40, chuyên gia đấy!" Tân nghiến răng, ép mắt vào ống nhòm. Hai xạ thủ thi nhau chơi trò mèo vờn chuột suốt ba giờ. Tân buộc khẩu AK47 vào một cành cây, rồi giả vờ thò mũi súng ra khỏi hầm, lập tức viên đạn xuyên qua nơi tôi vừa nằm trước đó.
"Bắt được mày rồi!" Tôi nhoẻn miệng cười, kéo cò K44 từ cửa hầm phụ. Từ cự ly 850m, viên đạn xuyên qua khe giữa hai bao cát, biến đầu tay xạ thủ địch thành quả dưa hấu dập nát.
Những đêm sau đó, tiếng pháo địch dội lên dồn dập hơn. Qua ống nhòm, tôi đếm được bảy hố bom mới trên các vị trí trú ẩn của đồng đội, những người cũng tham gia nhiệm vụ bắn tỉa giống tôi và Tân. "Họ như lá mùa thu vậy!" Tân thở dài, tay xoa xoa khẩu AK đầy bụi. Đột nhiên, anh chỉ tay về phía nam: "Xem kìa! Sư đoàn 304 đã vào sát hàng rào kẽm gai của sân bay!"
Trong lòng tôi chợt dâng lên niềm kiêu hãnh lẫn xót xa. Những chiếc mũ cối lấp ló trong chiến hào, thấp thoáng bóng áo xanh. "Mình phải sống để thấy ngày ấy, Huy ạ!" Tân vỗ vai tôi, nhưng trong đôi mắt anh thoáng nỗi buồn của người đã nhiều lần tiễn đồng đội.
Đêm cuối tháng ba, khi trận địa tạm lắng, tôi ngồi vuốt ve chiếc khăn tay thêu hai con chim bồ câu đã sờn rách. Ngôi sao băng đêm ấy cứ ám ảnh tôi, nó giống hệt nét bút của Linh. "Em đang ở đâu?" Tôi thì thầm vào khoảng không, tưởng như nghe thấy tiếng nàng hát từ hướng Hà Nội.
Đầu tháng 4/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Tháng 4, khói lửa mù mịt phủ lên đồi như tấm màn tang. Từ hầm quan sát, tôi nhìn xuống thung lũng Tà Cơn, nơi những chiếc xe tăng M48 Patton của địch đang bò lổm ngổm như bọ cạp sắt, đuôi phun lửa đỏ lòm. "Chúng nó sợ thành Điện Biên Phủ thứ hai đấy!" Tân cười gằn, tay xoay chỉnh tiêu cự ống nhòm. Đạn pháo 105mm, 155mm từ căn cứ địch rú lên từng chùm, cày nát những chiến hào phía Tây mà đồng đội đã đào suốt đêm.
Tôi ép má vào báng súng, mắt dán vào ống ngắm. Một chiếc C-130 Hercules đang lượn vòng thấp, cửa sau mở toang lộ ra những thùng tiếp tế màu vàng chói. "800 mét.. Gió tây nam.." Tôi lẩm nhẩm, ngón tay đã quen với độ nảy của cò súng. Viên đạn xuyên qua bắp chân tên lính đang vác thùng hàng, hắn bò lê đau đớn, phát đạn làm cả toán lính ra lấy hàng tiếp tế ngã nhào, chạy đi tìm chỗ nấp. "Ai đó ra cứu đồng đội đi chứ!" Tôi thì thầm, mắt vẫn không rời ống ngắm. Hắn giơ tay cầu xin đồng đội kéo vào, sau vài cái co giật hắn nằm im, và tôi khẽ nhếch môi: "Bắn tỉa phải kiên nhẫn như giải tích phân, Linh ạ.." Tôi lẩm bẩm, nhớ đến những đêm cùng nàng ngồi đếm sao, đếm mãi, đếm mãi rồi lại đếm nhầm vào ngôi sao mình vừa đếm. Sau phát súng ấy, tôi chẳng buồn đếm số lượng mình đã giết.
Tân đột nhiên hích mạnh vào vai tôi: "Có thằng chó đẻ đang tìm mình! 11 giờ, dưới xác xe cháy!" Qua ống ngắm, tôi thấy ánh sáng lóe lên từ ống kính ngắm M40, sau đó biến mất như ma. Tay xạ thủ Mỹ này khôn hơn đứa trước, hắn dùng xác 2 chiếc xe jeep, làm chỗ ẩn náu, nửa người chìm hẳn dưới bụng xe. Hắn cứ bò qua bò lại giữa hai chiếc xe thông qua một đoạn hào, hắn khéo léo không để ánh lóa từ ống ngắm của mình phản xạ về phía tôi, hai vị trí bắn của hắn lúc nào cũng chìm trong một lớp bụi mờ bay là là theo gió từ sân bay thổi vào. Trời nắng gắt, nền đất chỗ hắn nằm luôn có một lớp ảo ảnh như gương.
Hai tiếng đồng hồ trôi qua như thế kỷ. Từ khoảng cách 900m. Chúng tôi thi nhau thử nghiệm nhau, hắn bắn xuyên qua khe hầm có khẩu AK47 dùng làm mồi nhử, tôi đáp trả bằng viên đạn làm văng nón sắt của hắn. "Hắn dùng đạn đặc chủng đấy!" Tân nghiến răng, nói vọng qua đoạn hầm. Tôi lau vệt mồ hôi trên trán, lấy viên đạn đặc chủng của tôi, lắp vào súng. Phải dụ hắn lộ sơ hở..
Tôi nghĩ đến khẩu AK: "Anh Tân, làm ơn bắn vài viên AK đi!" Tôi hét lên trong hầm. Tân trợn mắt nhưng ngay lập tức hiểu ý. "Bằng, bằng.." Tiếng AK kêu to, đúng lúc không gian im tiếng súng.
Ánh sáng lóe lên, viên đạn M40 xuyên qua cửa hầm của Tân. "Bắt được mày rồi!" Tôi nín thở, kéo cò K44. Viên đạn 7.62mm, loại D-46, xé toạc miếng đệm vai của xạ thủ địch, đẩy hắn ngã ngửa vào vũng máu.
Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, nước mưa hòa lẫn tro bom khiến da thịt rát bỏng, cả đoạn hầm ngập nước, tôi và Tân thay nhau tát. Lúc nghỉ mệt, Tân ngồi bó gối trong hầm, tay mân mê bức thư gia đình đã ố vàng: "Hồi đánh trận ở La Đrăng, tiểu đội anh có thằng Hiếu.." Giọng anh đột nhiên run rẩy: "Lúc đó nó đang bị thương, Hiếu đưa anh những quả lựu đạn còn lại, xong tự nguyện ra ngoài làm mồi nhử để anh em kịp rút, trước khi trực thăng xả đạn.."
Tôi im lặng, tay xoay vỏ đạn đồng trống trong lòng bàn tay. Đâu đó dưới chân đồi, tiếng loa phóng thanh của địch vọng lên lảnh lót: "Hãy đầu hàng! Các người không thể thắng được vũ khí hiện đại!" Tân nhổ nước bọt vào tường hầm: "Chúng nó không hiểu rằng.." Anh chỉ vào ngực tôi: "Thứ vũ khí mạnh nhất nằm ở đây!"
Đêm ấy, tôi trằn trọc không yên. Ánh sao băng lại hiện về trong giấc mơ, hóa thành vệt nước mắt Linh. Tôi giật mình tỉnh giấc, tay túm lấy khẩu súng khi nghe tiếng động lạ. "Chỉ là con nhím thôi!" Tân vỗ nhẹ vào lưng tôi, giọng trầm ấm như cha dỗ con: "Ngủ đi, ngày mai lại phải đếm xác lũ xâm lược đấy!"
Sáng hôm sau, khi sương mù còn vấn vương trên ngọn cỏ cháy, tôi phát hiện ra điều kinh khủng, những chiếc xe ủi đất Mỹ, được sự bảo vệ của xe tăng, đang cày nát các chiến hào phía Nam. Qua ống nhòm, tôi thấy rõ máu đồng đội thấm đỏ đất đai. "Phải làm gì đó.." Tôi siết chặt báng súng. Tân kéo tôi xuống: "Khoảng cách 1.500 mét, vượt tầm K44 rồi! Giữ lấy mạng sống mới là chiến thắng!"
Trưa đó, chúng tôi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng, từng top máy bay F-4 Phantom II thả chất độc da cam và bom Napalm xuống rừng già phía Tây. Những cây cổ thụ ngả nghiêng như người say, lá cây cuộn tròn trong đau đớn. "Không biết các đồng chí ở bên ấy thế nào.." Tân thều thào, mắt đỏ ngầu. Tôi lặng lẽ tháo viên đạn cuối cùng khỏi băng đạn, tôi khắc chữ "Nhớ" lên vỏ đạn bằng mũi dao.
Khi hoàng hôn buông, tiếng đại bác bắn trực xạ vẫn rền vang, cày nát những viên đá cuối cùng trên sườn đồi. Tôi chợt hiểu ra rằng, trong cơn lốc sắt thép này, tình yêu và lý tưởng chính là thứ duy nhất không thể bị nghiền nát..
Đầu tháng 6/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Gió mùa hạ thổi qua đồi cháy khét mang theo mùi tử khí. Ba tháng, chín mươi ngày đêm chiến đấu, đã biến hệ thống hầm của chúng tôi thành bộ xương khô trơ xương. Hai cửa hầm còn lại như đôi mắt mù lòa, nhìn xuống thung lũng đầy xác sắt và máu. Tân ngồi đếm từng viên đạn cuối cùng của khẩu K44, giọng khàn: "Còn 13 viên, 3 băng đạn AK, đủ để mở đường máu trở về.."
Tôi nhìn sang góc hầm nơi mười gói lương khô cuối cùng xếp ngay ngắn như nén hương tế đồng đội. "Hay mình nhịn ăn thêm vài bữa, bắn hết số đạn K44?" Tôi cười gượng, đẩy gói lương khô về phía Tân: "Anh còn phải về Nghệ An thăm mẹ nữa mà." Tân lắc đầu, dúi vào tay tôi chiếc bật lửa Zippo đã mất khắc: "Cho cậu.."
Ngày 5/6/1968, ngày định mệnh ập đến với tiếng gầm rú của lũ quỷ sắt. Phi đội F-4 Phantom II lượn vòng như diều hâu đói, rồi tăng ga hết cỡ, nhắm thẳng vào sườn đồi, phi công nhấn nút cắt bom, những chiếc F-4 bay sượt qua đỉnh đồi, những quả bom lao vút tới nhờ lực quán tính, cắm vào sườn đồi như những mũi tên. Tân đang cúi xuống sửa đường hầm thì tiếng rít chát chúa xé toạc không gian. "Nằm xuống!" Tôi hét lên, nhưng đã muộn. Quả bom 250kg nổ cách hầm 3 mét, mảnh kim loại nóng đỏ xuyên qua đất, xuyên qua lưng anh như dao găm đâm vào bánh phồng.
Máu Tân phun lên tường đất, nhuộm đỏ cả đoạn hầm bị sụp xuống. "Không.. Anh Tân, Tân không được chết! Anh còn chưa cưới vợ mà.." Tôi rú lên, tay bịt chặt vết thương đang sủi bọt hồng. Tân nắm lấy cổ tay tôi, đồng tử giãn ra nhưng nụ cười vẫn nguyên vẹn: "Đời lính.. Thế đấy.." Bàn tay chai sần buông thõng, chiếc ống nhòm trên cổ anh vẫn nằm ngay ngắn trên ngực áo loang máu.
Hai ngày sau, tôi bắn viên đạn K44 cuối cùng vào bụng một tên lính Mỹ đang cầm ảnh gia đình: "Xin lỗi.." Tôi thì thầm khi hắn ngã xuống, tay vẫn siết chặt khung hình kỷ niệm. Khẩu AK-47 của Tân nóng rẫy trong tay tôi, mùi dầu súng hòa với máu khô tạo thành thứ hương liệu của tử thần. Ba quả lựu đạn được giắt vào thắt lưng, phòng khi..
Đêm 7/6, trăng non như lưỡi hái. Tôi trườn chầm chậm qua đống đổ nát, hướng lên đỉnh đồi, lớp ngụy trang rách rưới phủ lên bộ quần phục rách tả tơi, chân trái bị thương, băng bó bằng vải áo Tân. "Cứ theo hướng sao Bắc Đẩu." Tôi nhớ lại lời Tân dặn. "Linh.. Anh sẽ về!" Tôi thì thầm, bầu trời đêm đầy khói đen. Đột nhiên, tiếng pháo 155mm rú lên từ căn cứ Tà Cơn. Tôi ngửa mặt cười, nụ cười của kẻ đã thấy cái chết quá gần để sợ hãi.
Quả đạn đầu tiên nổ cách tôi ba mét, sóng xung kích hất văng khẩu AK xuống vực. Quả thứ hai rơi trúng tôi, khi tay đang đặt vào chiếc khăn tay trong túi áo ngực. Trong khoảnh khắc ấy, thời gian ngưng đọng. Tôi thấy Linh trên bầu trời đầy sao, áo blouse trắng tinh khôi, tay cầm ống nghe: "Hẹn anh ngày bình yên.." Nàng mỉm cười, đôi mắt long lanh như buổi sáng chia ly phố Khâm Thiên.
Vụ nổ xé nát tất cả. Cơ thể tôi tan thành mưa thịt, hòa vào đất mẹ. Chiếc khăn tay cũng tan vào không khí, những hạt bụi trắng, hóa thành vệt sao băng cuối cùng vút qua chiến trường.
Hôm ấy, trời Khe Sanh trong xanh lạ. Gió thổi xác thịt này vào hố bom, nơi một mầm cỏ non đang đội đất chui lên..
(Hết)
* * *
Theo dòng sự kiện:
Ngày 13/5/1968, hội nghị Paris về Việt Nam chính thức khai mạc phiên họp đầu tiên.
Ngày 26/6/1968, quân Mỹ tuyên bố rút bỏ Khe Sanh.
* * *
Nếu thấy tác phẩm hay, bạn có thể ủng hộ tác giả bằng cách đọc các tiểu thuyết sau: