

Cam Túc- Nơi văn hóa và tôn giáo hòa quyện
Chương 1: Đôn Hoàng Cam Túc hàng ngàn năm trên con đường tơ lụa lịch sử
Cam Túc (Gansu) được coi như là cánh cổng phía Tây của Trung Quốc qua hai nghìn năm. Với hình dạng dài, hẹp cùng với vị trí phía Tây sông Hoàng Hà, Cam Túc được gọi là 'Hành lang Hà Tây". Do đó, việc giao thương và trao đổi chính là phần thiết yếu của lịch sử nơi đây, cho tới tận bây giờ Cam Túc vẫn là một tỉnh phong phú có về mặt văn hóa lẫn con người.
Nhiều năm về trước, Cam Túc là mảnh đất mà du mục và nông dân sinh sống. Cam Túc lần đầu tiên xác nhập vào Trung Hoa là trong thời đại nhà Hán (năm 206 trước CN- năm 220 sau CN) sau khi đánh bại bộ lạc du cư Hung Nô. Những binh lính được gửi đến để canh gác những con đường để quan nhân, sứ thần, thương nhân và nhà sư đi lại an toàn đến Trung Quốc. Những tuyến đường này vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc thời đó bởi vì đây là con đường xuất nhập khẩu vải và nhiều loại hàng hóa khác nhau.
Trong triều đại nhà Đường (618- 907) có nhiều thị trấn lớn tại Cam Túc cùng với đa sắc văn hóa dân tộc. Thương gia Sogdia đã di chuyển tới các thị trấn này từ quê nhà Samarkand để trao đổi hàng hóa. Một bức thư tay được viết bởi họ vào năm 314 vẫn còn tồn tại nguyên vẹn đến nay. Người dân tộc Đột Quyết lập đế ở phía Bắc còn những người Tây Tạng sống tại phía Nam và một số thì di cư đến Cam Túc. Những người này đều có tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Đạo giáo, Cảnh giáo, Mani giáo và Hỏa giáo. Bởi vậy mà Cam Túc chính là sự giao thoa giữa tôn giáo đa dạng đến lối sống văn hóa của người dân nơi đây.
Cam Túc là một trong những tỉnh nhiều văn hóa truyền thống nhất Trung Hoa Đại lục. Rất nhiều người đã đi và đến nơi này rồi để lại một dấu ấn riêng trong văn hóa, ngôn ngữ, âm nhạc, thần thoại và tôn giáo. Dưới đây là một số câu chuyện của của con người và truyền thuyết Cam Túc.
Văn hóa Đôn Hoàng và Lịch sử trên Sa mạc
Đôn Hoàng là một thị trấn cổ trên tuyến đường giao thương giữa Trung Quốc và các nước láng giềng phương Tây. Đôn Hoàng nằm ở phía Tây tỉnh Cam Túc, trên sa mạc Gobi gần với phía cuối tường thành được xây bởi nhà Hán để canh gác lục địa và tránh xa bộ tộc du mục Hung Nô.
Thị Trấn Đôn Hoàng được xây dựng như là thị trấn với mục đích trú ẩn hơn 2000 năm trước. Nhiều người Trung Quốc định cư tới đây để trồng trọt và phục vụ cho quân đội Trung Quốc. Người Hung Nô, người Sogdia, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng, người Vu Điền, người Đảng Hạng, người Mông Cổ và rất nhiều dân tộc khác tới thị trấn Đôn Hoàng sinh sống qua nhiều thế kỷ chính vì thế rất nhiều ngôn ngữ đã được coi là điều đương nhiên ở thị trấn này vậy.
(Bởi sự pha trộn của nhiều bộ tộc Tây á, nên nét đẹp của người Duy Ngô Nhĩ vô cùng khác biệt với chuẩn mực Trung Quốc. Họ sở hữu đôi mắt to tròn và chiếc mũi thẳng cao rất Tây. Một nét đẹp xinh không tả nổi huhu)
Thị trấn Đôn Hoàng ngày nay vẫn là một thị trấn màu mỡ dồi dào với những cánh đồng bông và ngô được vun tưới bởi nước sông Bạch Đằng chảy từ ngọn núi tới phía nam. Vẻ đẹp của Đôn Hoàng còn được khắc họa bởi những ngôi đền trong hang động cách 25km về phía nam thị trấn, Hang Mạc Cao hay còn được gọi là Hang động Ngàn Phật.
Được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1987. Hang Mạc cao với kiến trúc chạm khắc trên đá đầy tỉ mỉ. Các bức tượng và bức họa trong hang chủ yếu là tượng phật, nơi đây có thể được coi như là bảo tàng lưu giữ và bảo tồn các loại hình nghệ thuật Phật giáo lâu đời nhất.
Hang Mạc Cao là điểm du lịch nổi tiếng trên thế giới hiện nay. Công trình được xây dựng giữa năm 400 và 1200 sau công nguyên bởi những tín đồ Phật giáo bao gồm cả các quan thần, lính gác, thương gia, nhà sư và tu sĩ của Đôn Hoàng. Vào thời điểm đó, Phật giáo chính là tôn giáo được người dân Đôn Hoàng nói riêng và Trung Hoa nói chung tin tưởng nhiều nhất.
Kinh Phật đã được truyền giáo bởi nhà sư, người du hành từ Ấn Độ và Kinh phật gốc viết bằng tiếng Ấn được viết trên lá cây cọ trồng trên phía Bắc Ấn Độ. Một vài cuốn Kinh Phật được truyền lại bởi các nhà sư tại Đôn Hoàng hơn 1500 năm trước và lưu giữ trong bảo tàng tại Hang Phật.
Sau đó những nhà sư Trung Quốc tới Ấn Độ và bắt đầu dịch những bản Kinh Phật ấy thành tiếng Trung và phổ biến chung.
Chương 1: Đôn Hoàng Cam Túc hàng ngàn năm trên con đường tơ lụa lịch sử
Cam Túc (Gansu) được coi như là cánh cổng phía Tây của Trung Quốc qua hai nghìn năm. Với hình dạng dài, hẹp cùng với vị trí phía Tây sông Hoàng Hà, Cam Túc được gọi là 'Hành lang Hà Tây". Do đó, việc giao thương và trao đổi chính là phần thiết yếu của lịch sử nơi đây, cho tới tận bây giờ Cam Túc vẫn là một tỉnh phong phú có về mặt văn hóa lẫn con người.
Nhiều năm về trước, Cam Túc là mảnh đất mà du mục và nông dân sinh sống. Cam Túc lần đầu tiên xác nhập vào Trung Hoa là trong thời đại nhà Hán (năm 206 trước CN- năm 220 sau CN) sau khi đánh bại bộ lạc du cư Hung Nô. Những binh lính được gửi đến để canh gác những con đường để quan nhân, sứ thần, thương nhân và nhà sư đi lại an toàn đến Trung Quốc. Những tuyến đường này vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc thời đó bởi vì đây là con đường xuất nhập khẩu vải và nhiều loại hàng hóa khác nhau.
Trong triều đại nhà Đường (618- 907) có nhiều thị trấn lớn tại Cam Túc cùng với đa sắc văn hóa dân tộc. Thương gia Sogdia đã di chuyển tới các thị trấn này từ quê nhà Samarkand để trao đổi hàng hóa. Một bức thư tay được viết bởi họ vào năm 314 vẫn còn tồn tại nguyên vẹn đến nay. Người dân tộc Đột Quyết lập đế ở phía Bắc còn những người Tây Tạng sống tại phía Nam và một số thì di cư đến Cam Túc. Những người này đều có tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Đạo giáo, Cảnh giáo, Mani giáo và Hỏa giáo. Bởi vậy mà Cam Túc chính là sự giao thoa giữa tôn giáo đa dạng đến lối sống văn hóa của người dân nơi đây.

Cam Túc là một trong những tỉnh nhiều văn hóa truyền thống nhất Trung Hoa Đại lục. Rất nhiều người đã đi và đến nơi này rồi để lại một dấu ấn riêng trong văn hóa, ngôn ngữ, âm nhạc, thần thoại và tôn giáo. Dưới đây là một số câu chuyện của của con người và truyền thuyết Cam Túc.
Văn hóa Đôn Hoàng và Lịch sử trên Sa mạc
Đôn Hoàng là một thị trấn cổ trên tuyến đường giao thương giữa Trung Quốc và các nước láng giềng phương Tây. Đôn Hoàng nằm ở phía Tây tỉnh Cam Túc, trên sa mạc Gobi gần với phía cuối tường thành được xây bởi nhà Hán để canh gác lục địa và tránh xa bộ tộc du mục Hung Nô.

Thị Trấn Đôn Hoàng được xây dựng như là thị trấn với mục đích trú ẩn hơn 2000 năm trước. Nhiều người Trung Quốc định cư tới đây để trồng trọt và phục vụ cho quân đội Trung Quốc. Người Hung Nô, người Sogdia, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng, người Vu Điền, người Đảng Hạng, người Mông Cổ và rất nhiều dân tộc khác tới thị trấn Đôn Hoàng sinh sống qua nhiều thế kỷ chính vì thế rất nhiều ngôn ngữ đã được coi là điều đương nhiên ở thị trấn này vậy.

(Bởi sự pha trộn của nhiều bộ tộc Tây á, nên nét đẹp của người Duy Ngô Nhĩ vô cùng khác biệt với chuẩn mực Trung Quốc. Họ sở hữu đôi mắt to tròn và chiếc mũi thẳng cao rất Tây. Một nét đẹp xinh không tả nổi huhu)
Thị trấn Đôn Hoàng ngày nay vẫn là một thị trấn màu mỡ dồi dào với những cánh đồng bông và ngô được vun tưới bởi nước sông Bạch Đằng chảy từ ngọn núi tới phía nam. Vẻ đẹp của Đôn Hoàng còn được khắc họa bởi những ngôi đền trong hang động cách 25km về phía nam thị trấn, Hang Mạc Cao hay còn được gọi là Hang động Ngàn Phật.
Được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1987. Hang Mạc cao với kiến trúc chạm khắc trên đá đầy tỉ mỉ. Các bức tượng và bức họa trong hang chủ yếu là tượng phật, nơi đây có thể được coi như là bảo tàng lưu giữ và bảo tồn các loại hình nghệ thuật Phật giáo lâu đời nhất.
Hang Mạc Cao là điểm du lịch nổi tiếng trên thế giới hiện nay. Công trình được xây dựng giữa năm 400 và 1200 sau công nguyên bởi những tín đồ Phật giáo bao gồm cả các quan thần, lính gác, thương gia, nhà sư và tu sĩ của Đôn Hoàng. Vào thời điểm đó, Phật giáo chính là tôn giáo được người dân Đôn Hoàng nói riêng và Trung Hoa nói chung tin tưởng nhiều nhất.

Kinh Phật đã được truyền giáo bởi nhà sư, người du hành từ Ấn Độ và Kinh phật gốc viết bằng tiếng Ấn được viết trên lá cây cọ trồng trên phía Bắc Ấn Độ. Một vài cuốn Kinh Phật được truyền lại bởi các nhà sư tại Đôn Hoàng hơn 1500 năm trước và lưu giữ trong bảo tàng tại Hang Phật.


Sau đó những nhà sư Trung Quốc tới Ấn Độ và bắt đầu dịch những bản Kinh Phật ấy thành tiếng Trung và phổ biến chung.


