Năm Công lịch Đại Lục 671, Lý Vô Phong – nhà chính trị, nhà quân sự, nhà hùng biện kiệt xuất, người sáng lập ra Huy Hoàng Vương Triều, và là vị Hoàng đế đầu tiên của Huy Hoàng Đế quốc – sinh ra trong một gia đình sĩ tộc sa sút ở Trung Châu, thủ đô của Đường Hà Đế quốc tại phía Đông Đại Lục.
--- Trích từ 《Huy Hoàng Đế Quốc Sử》 ---
"A, cố hương, cuối cùng ta cũng đã trở về." Nhìn tòa thành cao sừng sững, chàng trai hít một hơi thật sâu. Dù nơi cố hương không còn một người thân, nhưng dù sao đây cũng là nơi đã nuôi dưỡng mình mười mấy năm, là nơi mình đã trưởng thành. Tình cảm cố hương sâu đậm ấy, dù có đi đâu, chàng cũng chẳng thể nào quên được.
Gần nhà lại càng thêm e sợ. Càng đến gần nơi đã rời xa, lòng chàng lại càng thêm bồn chồn. "Có lẽ mình đã thực sự lớn rồi." Chàng nhớ lại hai năm trước, khi rời nhà với tâm trạng muốn nhìn thấu thiên hạ, ngao du khắp bốn bể, hoàn toàn khác biệt với tâm trạng lúc này. "Không biết cỏ trên mộ song thân đã xanh sâu đến đâu rồi, cũng nên đi thăm một chuyến." Một thanh niên đầy phong trần đứng cạnh cổng thành, hướng mắt nhìn dòng người qua lại trên con đường lớn, lẩm bẩm một mình. Chàng không vội về nhà, mà phủi đi lớp bụi bặm trên người, một tay kéo dây cương, leo lên ngựa, phi thẳng ra ngoại ô.
"Phụ thân, Mẫu thân, hài nhi đã về rồi." Đến trước hai ngôi mộ bình thường trong nghĩa địa ngoại ô, chàng xuống ngựa, quỳ gối trước mộ, mãi không muốn đứng dậy. Nghĩa trang tĩnh lặng lạ thường, chỉ thỉnh thoảng vang lên vài tiếng chim hót.
Sau khi bái lạy mộ song thân, chàng trai đứng lên, ngửa mặt nhìn trời, thở phào một hơi dài. "Giờ mình nên làm gì đây? Thôi, cứ về nhà xem sao đã, không cần nghĩ nhiều vội."
Đường Hà Đế quốc tọa lạc ở khu vực Trung bộ và Đông bộ của Đông Đại Lục, đất đai rộng lớn, dân số đông đúc. Thủ đô Trung Châu nằm trên vùng bình nguyên Phiến Giang ở Trung bộ Đế quốc, nơi đây đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển, giao thông thuận tiện, vật phẩm phong phú, dân cư đông đúc, là một trong những khu vực sản xuất lương thực, bông vải quan trọng và là nơi kinh tế phát triển của Đế quốc, đồng thời cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa và nghệ thuật.
Thủ đô Trung Châu có khoảng năm triệu dân, là thành phố lớn nhất Đông Đại Lục, và cũng là một trong những thành phố lớn nhất toàn bộ Lạp Á Đại Lục. Mấy trăm năm gần đây, nơi đây chưa từng chịu cảnh chiến tranh, nên đã trở thành thành phố phồn hoa nhất Đông Đại Lục. Thành phố được xây dựng từ đầu thời kỳ Đường Hà Đế quốc, năm Công lịch Đại Lục 286. Trải qua hơn hai mươi năm mới hoàn thành cơ bản, sau đó qua các đời lại dần dần hoàn thiện, đến đầu thế kỷ này mới hoàn thành trọn vẹn.
Thành phố chia làm hai phần: Nội thành và Ngoại thành. Nội thành là Hoàng Cung, nơi Hoàng đế, phi tần và các con chưa trưởng thành sinh sống, cũng như nơi Hoàng đế làm việc. Nội thành nằm ngay giữa trung tâm thành phố, bao quanh Nội thành là khu vực làm việc của các cơ quan chính phủ. Tiếp đến là dinh thự của các quan lại, quý tộc, rồi đến khu dân cư và khu thương mại.
Toàn bộ thành phố có hình vuông vắn, chín con đường lớn rộng rãi chia thành phố thành ô bàn cờ từ Đông sang Tây và từ Nam ra Bắc, xen kẽ là vô số ngõ hẻm, lối đi nhỏ và quảng trường. Tường thành kiên cố cao mười lăm mét, rộng mười mét bao bọc toàn bộ thành phố, bên ngoài còn có một con hào rộng bao quanh. Bốn cửa thành Đông, Tây, Nam, Bắc đều có một cổng lớn rộng mười mét, thường ngày không mở, chỉ khi có trường hợp đặc biệt mới mở. Hai bên cổng lớn có hai cổng nhỏ rộng năm mét, mở từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối, phục vụ việc đi lại thường ngày của người dân trong và ngoài thành.
Gần bốn cửa thành, cả bên trong và bên ngoài thành đều có một doanh trại quân đội. Bốn doanh trại bên trong thành đóng bốn sư đoàn của Cấm Vệ Quân Đoàn Đế quốc, bốn doanh trại bên ngoài thành đóng bốn sư đoàn của Thành Vệ Quân Đoàn Đế quốc.
Khu công nghiệp và khu thương mại chủ yếu tập trung ở phía Bắc thành phố, nơi đây tập trung các xưởng sản xuất, nhà kho, chợ đầu mối của các loại hàng hóa, cũng như các bang hội ngành nghề, trụ sở hoặc chi nhánh của nhiều thương hiệu lớn. Tổng Cục Tài chính Đế quốc và Tổng Cục Thuế vụ trực thuộc cũng đặt ở đây.
Mỗi ngày, các loại hàng hóa từ khắp nơi trong Đế quốc và thậm chí khắp Đại Lục được vận chuyển liên tục bằng đường bộ hoặc đường thủy qua bến Phiến Giang nằm ngoài cổng Bắc vào thành, và các sản phẩm của thủ đô cũng được vận chuyển từ đây đi khắp cả nước. Các thương hiệu nổi tiếng khắp Đại Lục đều đặt trạm trung chuyển và kho tạm ở bến tàu.
Khu thương mại và khu giải trí chủ yếu tập trung ở phía Đông thành phố. Đây là nơi phong thủy tốt để kinh doanh, các cửa hàng san sát nhau, trên các con phố lớn nhỏ xe cộ tấp nập, thương nhân và du khách từ khắp Đại Lục có thể thấy khắp nơi. Phần lớn các tiệm vàng, ngân hàng, tửu lầu, khách sạn, chốn phong nguyệt, sòng bạc, tiệm cầm đồ, trung tâm đấu giá nổi tiếng đều nằm trong khu vực này. Đây cũng là khu vực có an ninh xã hội phức tạp nhất thủ đô, Tổng Cục Cảnh sát Đế quốc và Cục Cảnh sát Thủ đô cũng đặt ở đây.
Phía Nam thành phố là trung tâm văn hóa nghệ thuật của Đế quốc. Đại học Đế quốc, Học viện Nghệ thuật Đế quốc, Học viện Quân sự Đế quốc – ba trường đại học cao nhất Đế quốc – đều tọa lạc tại đây. Sinh viên từ khắp nơi trong Đế quốc học tập các kỹ năng và kiến thức khác nhau tại đây, nhiều sinh viên từ các quốc gia khác ngoài Đế quốc cũng không ngại ngàn dặm xa xôi đến đây cầu học. Nơi đây còn có Thư viện Đế quốc, Viện Bảo tàng Đế quốc, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật Đế quốc, Kỳ viện Đế quốc, Nhà hát lớn Quốc gia Đế quốc, Viện Thư họa Đế quốc, Thái Y Phủ và nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng khác.
Vì khu vực này có cảnh quan đẹp, không khí văn hóa nghệ thuật đậm đà, các tòa đại sứ quán của các nước ở Đường Hà Đế quốc cũng chọn nơi đây. Nhiều vương công quý tộc cũng xây dựng dinh thự hoặc biệt thự của mình tại đây, đồng thời còn có không ít thư viện tư nhân, trường tư thục nổi tiếng cũng được xây dựng tại khu vực này.
Phía Tây thành phố là khu vực sinh sống chính, phần lớn người dân thường của thủ đô đều sống ở khu vực này. Ra khỏi cổng Tây Hoàng Cung là Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn nổi tiếng, nơi Đế quốc tổ chức các đại lễ và nơi Hoàng đế duyệt binh.
Xung quanh quảng trường có trụ sở của Cấm Vệ Quân Đế quốc và Thành Vệ Quân Đế quốc, lần lượt đóng Sư đoàn thứ nhất của Cấm Vệ Quân Đoàn và Sư đoàn thứ nhất của Thành Vệ Quân Đoàn. Bộ Tư lệnh Hiến Binh Đế quốc và Tổng bộ Vũ Lâm Quân Đế quốc cũng nằm xung quanh quảng trường.
Bái lạy xong mộ phần song thân, chàng thanh niên lại lên ngựa, phi vào thành. Vào thành từ cổng Tây, vừa qua cổng là Đại lộ Khải Hoàn lừng danh. Đi dọc theo đại lộ này sẽ dẫn thẳng tới Khải Hoàn Môn và Quảng trường Khải Hoàn ngoài cổng Tây Hoàng Cung. Vào thành, chàng trai xuống ngựa, dắt ngựa đi chầm chậm dọc theo đại lộ, nhìn những cảnh vật quen thuộc xung quanh. Cảnh tượng hai năm trước rời nhà cứ như vừa mới xảy ra hôm qua. Xung quanh vẫn như cũ, không có nhiều thay đổi: Dòng người tấp nập, các cửa hàng buôn bán phát đạt, khách lữ hành đến từ Nam, Bắc, các tiểu thương rao hàng bên đường. Mọi cảnh tượng sinh động và chi tiết hiện rõ trong mắt. "Xem ra cuộc sống của người dân Đế đô vẫn không tệ, khác xa so với cuộc sống của người dân ở mấy quận phía Tây Đế quốc." Chàng vừa đi vừa nghĩ.
Dắt ngựa, chàng rẽ phải vào một con phố khác, đi thêm một đoạn, rồi rẽ trái vào một con hẻm nhỏ. Đi nhanh vài bước, chàng đã thấy cánh cửa nhà mình. Đây là một con hẻm không lớn, có thể thấy những người sống ở đây đều là dân thường. Thật khó mà tưởng tượng được vài chục năm sau, nơi đây sẽ thu hút hết đợt du khách này đến đợt du khách khác đến tham quan cố cư của Hoàng đế Đế quốc.
"Dì Ngô, Dì Ngô!"
"Ai đấy?"
"Là cháu đây."
"Ai cơ?" Cùng với tiếng "kẽo kẹt" của cánh cửa, một phụ nữ trung niên khoảng bốn mươi tuổi bước ra từ cánh cửa vừa mở bên cạnh. Chàng trai nhận ra ngay đó là Dì Ngô, người hàng xóm đã nhìn mình lớn lên từ nhỏ.
"Là cháu đây, Dì Ngô, cháu là Vô Phong đây."
"Vô Phong, thật sự là cháu sao? Hai năm nay cháu chạy đi đâu rồi? Vừa đi là hai năm, chẳng gửi lấy một lời về, làm người ta lo chết đi được, nhỡ có chuyện gì, dì làm sao đối mặt được với mẹ cháu lúc lâm chung đã gửi gắm cháu cho dì?"
"Dì Ngô, chẳng phải cháu đã về rồi sao? Hơn nữa, cháu cũng đâu còn nhỏ nữa, cháu tự lo được cho mình. Lúc cháu đi, chẳng phải cháu đã nói với dì rồi sao?"
Dì Ngô kéo chàng hỏi han ân cần một hồi, Vô Phong phải rất khó khăn mới kể sơ lược được tình hình hai năm qua của mình. "Vô Phong à, mới mười sáu tuổi mà cháu đã đi nhiều nơi thế này rồi, thật không đơn giản. Ở ngoài chắc là khổ lắm hả?" "Quen rồi, cũng chẳng thấy có gì." Dù nói vậy, nhưng nhớ lại lúc mình vừa tròn mười bốn tuổi đã một mình rời nhà đi du lịch khắp thế gian, "đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường," "Trời giao đại nhậm cho người này, ắt trước phải đày đọa tâm chí, nhọc mệt gân cốt, bắt thân thể chịu đói khổ," lời sư phụ vẫn còn văng vẳng bên tai. Chớp mắt đã hai năm trôi qua, chàng cũng đã làm theo lời dặn của sư phụ, hoàn thành chuyến du lịch. Bản thân chàng cũng đã từ một thiếu niên gầy gò trở thành một thanh niên vóc dáng cao ráo, đồng thời mở mang tầm mắt, tăng thêm kiến thức, và võ công cũng tiến bộ vượt bậc. Hai năm chịu khổ này thực sự mang lại lợi ích lớn cho sự trưởng thành của chàng.
"À, phải rồi, sao cháu không thấy Đại Ngưu và Nhị Nữu đâu?"
"Đại Ngưu đi kéo hàng với cha nó ở bến tàu rồi. Nhị Nữu thì năm ngoái đã gả cho Trương lão tứ ở con phố phía trước rồi, Trương lão tứ làm chân chạy việc ở một tiệm thuốc phía Đông thành, cuộc sống cũng coi như tạm ổn. Nghe nói gần đây phía Tây đang đánh nhau, phía Bắc thì có giặc cướp quấy phá, xem ra cuộc sống ngày càng không được yên bình rồi. Chú của cháu họ cũng sắp về rồi. Dì đi làm vài món ăn, chờ họ về cả nhà mình sum họp một bữa."
Sự quan tâm chân thành của người hàng xóm khiến Lý Vô Phong vô cùng cảm động. Nằm trong căn nhà đã hai năm chưa về, Lý Vô Phong miên man suy nghĩ. Giờ đã về nhà rồi, sau này mình nên đi đâu, làm gì đây? Có lẽ đã đến lúc phải đưa ra quyết định rồi. Nghĩ đến đây, Lý Vô Phong chợt nhớ đến lúc ăn tối, Chú Ngô có nhắc đến việc Quảng trường Khải Hoàn trong thành đang tuyển quân. Có lẽ đây là một cơ hội. Tại sao không bắt đầu từ đây để thực hiện ước mơ từ thuở nhỏ của mình?
Sư phụ hai năm trước đã từng nói, hiện nay trên Đại Lục, Đường Hà Đế quốc ở phía Đông có nỗi lo tiềm ẩn từ các phiên trấn bên trong, bên ngoài thì bị các nước xung quanh rình rập, biên cương Tây Bắc lại bị các dân tộc du mục phương Bắc xâm lược, quấy nhiễu hàng năm. Nội bộ Đế quốc cũng có rất nhiều vấn đề, các cuộc khởi nghĩa nhỏ của nông dân, nô lệ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Nhiều người nghèo vì mưu sinh mà trở thành giặc cướp. Quốc lực Đế quốc ngày càng suy yếu, sớm đã không còn được khí thế như thời kỳ cường thịnh nhất.
Ở Trung Đại Lục, thế lực của các dân tộc du mục trên thảo nguyên phía Bắc rất mạnh mẽ, liên tục phát động chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, nội bộ cũng không ngừng tranh chấp. Khu vực Trung bộ và Nam bộ thì các quốc gia, thành bang san sát nhau. Do không có sự can thiệp của thế lực lớn nào, nên mười năm gần đây không xảy ra chiến tranh lớn, cục diện có vẻ tương đối yên bình, nhưng các cuộc xung đột nhỏ vẫn xảy ra, và do sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia và thành bang, khả năng bùng phát chiến tranh vẫn luôn tồn tại.
Tây Đại Lục thì là cuộc tranh bá của bốn thế lực mạnh. Ba cường quốc và một liên minh quốc gia không ngừng chiến đấu vì lợi ích riêng của mình, trong khi các dân tộc du mục phía Bắc cũng năm này qua năm khác nam tiến xâm lược, đổ thêm dầu vào lửa cho Tây Đại Lục vốn đã chìm trong khói lửa chiến tranh.
Nghĩ đến đây, Vô Phong cảm thấy sâu sắc rằng, muốn làm nên chuyện lớn trong thời thế hiện nay, không có thực lực thì chỉ là si tâm vọng tưởng. Có thực lực mới có quyền lên tiếng. Vô Phong không nhớ rõ là triết gia nào đã từng nói câu này.
Giờ tham gia quân đội, vừa hay có thể thi triển tài năng của mình, gây dựng nên sự nghiệp. Nghĩ đến đây, chàng không khỏi hạ quyết tâm, rồi mới yên tâm ngủ. Sáng sớm, vừa tỉnh giấc, trời còn chưa sáng. Đã lâu lắm rồi chàng mới được ngủ một giấc thoải mái như vậy. Chàng đứng dậy đi ra sân, vận động thân thể, rồi luyện tập quyền cước. Tục ngữ có câu: "Quyền không rời tay, khúc không rời miệng." Luyện công như chèo thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi. Chàng đã sớm hình thành thói quen dậy sớm luyện công mỗi ngày. Nếu không có tình huống đặc biệt, chàng đều kiên trì tập luyện.
Ngoài cửa truyền đến tiếng Dì Ngô gọi chàng sang ăn sáng. Lý Vô Phong sửa soạn lại rồi đi qua. Sau bữa cơm, Vô Phong nói với gia đình Dì Ngô về quyết định của mình. Dì Ngô có chút lo lắng, nhưng Chú Ngô thì hết lòng ủng hộ, cho rằng chí làm trai là ở bốn phương, nên đi thử sức một phen.