Cha Và Con - Cormac McCarthy

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Cute pikachu, 1 Tháng một 2022.

  1. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Anh nhặt được vài mẩu đá lửa trong một cái rãnh và thử đánh lửa. Nhưng sau cùng thì dùng kim cào cào vào một hòn đá, bên cạnh đặt một dúm bùi nhùi tẩm xăng lại là việc dễ dàng hơn. Lại thêm hai ngày trôi qua. Rồi ba ngày. Hai cha con thực sự chết đói. Chỗ nào cũng bị cướp bóc, lục soát, tàn phá hết rồi. Từng mảnh vụn cũng bị vơ vét sạch. Màn đêm thấu buốt và đen xì và thời khắc ngày đến thì cứ dài dằng dặc bao trùm một sự im lặng đáng sợ lên màn đêm u tối, tựa như bình minh trước một trận chiến. Da thằng bé tái như sáp. Và đôi mắt nó mở to trừng trừng với cái nhìn của một sinh vật ngoài hành tinh.

    Anh bắt đầu nghĩ rằng cái chết đang gần sát bên hai cha con rồi và họ nên tìm một nơi nào đó để chết mà không sợ bị ai tìm thấy. Đã nhiều lần ngồi trông con ngủ, không kiềm chế nổi anh đã khóc nức nở, nhưng không phải vì cái chết đang đến gần. Anh không biết mình khóc vì lẽ gì nhưng anh đoán nó là vì những điều tốt đẹp. Những thứ mà đã lâu lắm rồi anh không được nghĩ đến. Hai cha con ngồi xổm trong một khu rừng, uống thứ nước bẩn vắt ra từ một tấm giẻ. Anh đã mơ thấy con nằm trên một tấm ván lạnh lẽo và choảng tỉnh trong nỗi kinh hoàng. Những điều anh phải chống chịu trong lúc tỉnh thì anh không thể chống chọi trong lúc ngủ. Và anh cứ ngồi đó, mắt mở chong chong vì nỗi lo sợ giấc mơ dữ sẽ quay lại.

    Họ sục sạo trong đống tro tàn đổ nát của những ngôi nhà mà trước đây chưa từng đặt chân tới. Một xác chết đang trôi nổi trong làn nước đen ngòm của một cái hầm, giữa rác rưởi và rỉ. Anh đứng trong phòng khách đã cháy rụi một phần, để lộ ra khoảng không nhìn lên bầu trời. Những tấm ván ngập nước đang trôi ra ngoài sân. Những cuốn sách trên giá sũng nước. Anh lấy một quyển, lật mở rồi lại đặt nó vào chỗ cũ. Mọi thứ đều ướt rượt, mục nát. Trong một ngăn kéo tủ, anh tìm được một cây nến. Chẳng có cách nào để thắp nến lên cả. Anh bỏ cây nến vào túi. Anh quay ra, bước trở lại vào ánh sáng xám xịt và đứng đó, chỉ một khoảnh khắc, Nhìn lại sự thật trần trụi về cái thế giới này. Cái rét buốt tàn nhẫn đang bủa vây thế giới chết chóc này. Chỉ có bóng tối ngự trị, không gì ngoài bóng tối. Những con chó mù lòa đang chạy. Đâu đó hai con thú bị săn đuổi đang run rẩy như hai con cáo đang trốn trong hang. Đến tận cùng một thị trấn nhỏ, hai cha con ngồi nghỉ trong cabin của một chiếc xe tải, trông ra ngoài qua tấm kính đã được cơn mưa rửa sạch, trong veo. Ánh sáng vẩn đục vì tro bụi. Kiệt sức lắm rồi. Bên ngoài kia phía con đường lại có một tấm biển cảnh báo về cái chết. Chữ trên đó đã bị mờ đi vì năm tháng. Anh hơi mỉm cười. Con có đọc được chữ gì không? Anh hỏi.

    - Có ạ.

    - Đừng để ý. Ở đây chẳng có ai đâu.

    - Họ chết hết rồi hả cha?

    - Cha nghĩ vậy.

    - Con ước gì đứa bé đó ở đây với con.

    - Đi thôi con.

    Những giấc mơ đẹp giờ đây là những điều anh ghê sợ. Anh thức để khỏi phải mơ thấy chúng, mơ thấy những thứ không còn tồn tại trên cõi đời này. Cái rét thôi thúc anh nhóm lửa. Ký ức về hình ảnh người vợ chợt ùa về. Nàng đi trên thảm cỏ xanh mượt bên nhà buổi sớm, thướt tha trong tấm áo choàng có bông hồng nhỏ xinh ôm sát hai bầu ngực. Anh nghĩ mỗi một ký ức khi được gọi lại sẽ không còn đúng với lúc ban đầu nữa. Giống như một trò chơi trong buổi tiệc vậy. Một từ được truyền từ người này sang người khác. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng đến cuối trò chơi bạn có thể sẽ nghe được một từ khác chứ không phải từ ban đầu nữa.

    Họ đi qua những con phố trải đầy những tấm chăn dơ dáy bẩn thỉu. Một tay anh giữ còn tay kia không rời khỏi khẩu súng cài bên thắt lưng. Đến tận cùng một nơi rất xa của thị trấn, hai cha con bắt gặp một căn nhà nằm giữa đồng không mông quạnh. Họ bước tới, đi vào nhà, qua hết các căn phòng. Có hai người một lớn, một bé xuất hiện. Anh rút súng ra.

    - Là mình mà cha. Đó là một tấm gương. Thằng bé khẽ nói.

    Anh lại phía cửa sau, đứng đó trông ra những cánh đồng và con đường phía xa. Và bên kia con đường, anh nhìn thấy vùng đất trống trải lạnh lẽo. Ở ngoài hiên có một cái thùng to làm từ một cái trống hơn trăm lít được đặt trong một cái khung sắt hàn. Trong sân còn một vài thân cây chết. Có một hàng rào, một kho dụng cụ kim loại. Anh giữ tấm chăm và choàng qua người con.

    - Cha muốn con chờ ở đây.

    - Con muốn đi với cha.

    - Cha chỉ ra kia xem một chút thôi. Ngồi đây, chờ cha. Cha sẽ không đi khỏi tầm nhìn của con. Cha hứa đấy.

    Anh băng qua sân, đẩy cửa mở, trong tay vẫn khư khư khẩu súng. Có vẻ như đây là một nhà vườn. Mặt sàn phủ bụi. Có nhiều giá đỡ bằng kim loại và một vài chậu hoa bằng nhựa. Tất cả phủ bụi đen xì. Ở góc nhà có dụng cụ làm vườn và một cái máy cắt cỏ. Bên dưới cửa sổ, cạnh một cái tủ kim loại là một cái ghế dài. Anh mở tủ, bên trong có nhiều cuốn catalog cũ, một vài túi hạt giống. Có hạt hoa thu hải đường, hạt hoa bìm bịp. Anh bỏ tất cả vào túi mặc dù chả biết để làm gì. Phía trên nóc giá đỡ, anh thấy hai can dầu động cơ. Nhét súng vào thắt lưng, anh với tay lấy hai can dầu xuống, đặt lên mặt ghế. Trông chúng cũ lắm rồi, làm bằng bìa cứng với nắp đậy kim loại. Dầu đã thấm qua cả lớp bìa nhưng có vẻ vẫn đầy trong can. Anh lùi lại, nhìn qua cửa. Thằng bé đang ngồi trên bậc thềm sau nhà, quấn mình trong chăn theo dõi anh. Anh quay lại tiếp tục tìm kiếm thì lại thấy can xăng nằm trong góc phía sau cửa. Anh đoán trong can không còn tí xăng nào nhưng khi lấy chân nghiêng cái can đi rồi thả nó về vị trí cũ anh nghe có tiếng lõm bõm. Anh nhấc cái can lên, mang nó lại phía cái ghế dài và ra sức mở nắp nhưng không mở được. Lúc này cái kìm lại có ích. Anh lôi nó ra, kẹp chặt nút can và vặn. Đặt cái nót lên ghế, anh dí mũi ngửi bên trong can. Mùi hôi sộc lên. Chắc chắn là để lâu lắm rồi. Nhưng nó là xăng, có thể dùng để đốt được. Anh đậy nút can và cất cái kìm lại trong túi áo. Anh nhìn quanh xem còn cái hộp, hay chai lọ, can bình nhỏ nào không nhưng không có. Đáng ra anh không nên quẳng cái chai đi. Thử kiểm tra căn nhà xem sao.

    Lúc đi qua bãi cỏ, anh choáng váng suýt ngất, có lẽ là do mùi xăng sộc lên mạnh quá. Thằng bé vẫn không dời mắt khỏi anh. Còn bao nhiêu ngày nữa thì cái chết sẽ đến bên hai cha con nhỉ? Mười ngày? Không thể qua nổi mười ngày đâu. Anh không thể nghĩ được gì nữa. Sao anh lại dừng lại? Anh quay lại, nhìn xuống bãi cỏ. Lùi lại vài bước nữa, dừng chân giẫm giẫm kiểm tra mặt cỏ. Rồi anh ngừng lại, quay trở vào xưởng và trở ra với một cái thuổng. Anh chọc cái thuổng xuống đất. Khi đất ngập sâu đến nửa thuổng thì anh nghe thấy tiếng chạm vào gỗ. Anh bắt đầu đào hết đất lên.

    Công việc tiến triển rất chậm chạp. Anh mệt mỏi rã rời, đứng dựa vào cái thuổng, ngẩng lên nhìn con. Nó vẫn ngồi đó. Anh quay lại tiếp tục đào. Cứ được một xẻng đầy anh lại nghỉ một lát. Sau cùng anh cũng đào tới một tấm gỗ dán. Anh đào dọc theo các mép xung quanh. Một cánh cửa. Có lẽ có một căn hầm. Có một ổ khóa bên ngoài bọc nilông. Anh nắm chặt cán thuổng, nghỉ một chút, đầu tựa vào tay. Lúc ngẩng lên thì thằng bé đã đứng trong sân chỉ cách anh vài mét. Trông nó rất sợ hãi.

    - Đừng mở nó cha ơi. Nó kêu lên.

    - Không sao đâu con.

    - Con xin cha đấy.

    - Không có gì đâu.

    - Không đâu.

    Hai tay thằng bé ôm chặt lấy ngực nó nhảy chồm chồm lên một cách sợ hãi. Anh bỏ cái xẻng xuống, vòng tay ôm lấy con.

    - Ngoan nào con. Mình ngồi lại ghế nghỉ một chút nhé.

    - Xong rồi mình đi cha nhé?

    - Ngồi xuống đây nghỉ cái đã.

    - Vâng ạ.

    Hai cha con lại quấn mình trong chăn ngồi nhìn ra sân. Họ ngồi rất lâu. Anh cố gắng giải thích cho con rằng không có ai bị chôn dưới cái hầm đó cả nhưng thằng bé chực khóc. Lúc sau anh thậm chí đã nghĩ thằng bé có thể đúng.

    - Mình ngồi đây thôi, không nói gì nữa.

    - Được ạ.

    Họ lại quay trở vào trong nhà. Anh tìm thấy một chai bia và một mảnh rèm cũ. Anh xe một mảnh rèm, nhồi nó vào trong chai bằng một cái mắc áo.

    - Đây là ngọn đèn mới của hai cha con mình, anh nói.

    - Làm sao để thắp sáng nó hả cha?

    - Cha tìm được một ít xăng trong kho dụng cụ. Cả ít dầu nữa. Để cha làm cho con xem nhé.

    - Vâng ạ.

    - Đi nào. Không sao đâu con. Cha hứa là như vậy.

    Nhưng khi anh cúi xuống nhìn con thì gương mặt thằng bé lộ rõ vẻ sợ hãi như thể nó sợ sẽ mất đi một điều gì đó mà không sao có thể lấy lại được.

    Họ ra ngoài, đi qua sân vào kho dụng cụ. Anh đặt chai bia lên ghế, lấy tuốc-nơ-vít chọc thủng một can dầu rồi lại chọc một lỗ nhỏ hơn để giúp dầu chảy ra. Anh rút cái bấc nút chai ra và đổ dầu đầy nửa chai. Dầu để lâu quá rồi lại bị quánh lại. Vì lạnh nên phải khá lâu anh mới đổ xong. Anh tháo nắp can xăng và làm một cái phễu giấy từ bao của gói hạt giống. Rồi anh trút xăng vào chai, giữ ngón cái trên miệng chai và xóc. Anh trút một ít ra cái đĩa đất nung rồi dùng tuốc-nơ-vít nhét miếng giẻ trở lại trong chai. Anh lấy một mảnh đá lửa và kìm ở trong túi ra, chà sát đá vào răng cưa của cái kìm. Anh làm vài lần như thế rồi lại ngừng để trút thêm xăng vào đĩa.

    - Nó có thể cháy đấy con ạ, anh nói.

    Thằng bé bật đầu.

    Anh lại chà miếng đá vào cái kìm rồi nghiêng cho các tia lửa bắn chạm vào lòng đĩa. Một ngọn lửa bung lên. Anh với tay lấy cai chai, nghiêng nó đi để lôi miếng giẻ ra châm lửa. Xong đâu đó, anh thổi tắt ngọn lửa ở cái đĩa và đưa chai cho thằng bé.

    - Đây. Con cầm lấy.

    - Mình sẽ làm gì hả cha?

    - Con che tay trước ngọn lửa đừng để nó tắt nhé.

    Anh đứng lên, rút khẩu súng ra.

    Cánh cửa này cũng trông cũng như những cánh cửa khác nhưng không phải vậy.

    - Cha biết con sẽ sợ nhưng sẽ không sao đâu. Cha nghĩ bên dưới có cái gì đó và mình phải xuống đó xem con ạ. Chẳng còn nơi nào khác mà đi nữa. Phải xuống đó. Cha muốn con giúp cha nhé. Nếu con không muốn giữ đèn thì còn sẽ phải cầm súng.

    - Con sẽ cầm đèn ạ.

    - Được rồi. Đây là việc mà những người tốt làm. Không ngừng cố gắng và không bỏ cuộc.

    - Vâng ạ.

    Anh dắt con ra sân. Khói từ cây đèn bốc lên đen xì. Nhét khẩu súng vào thắt lưng, anh lại cầm thuổng lên và bắt đầu chọc cho bản lề bung khỏi tấm gỗ. Anh lách lưỡi thuổng xuống dưới bản lề và bửa nó lên. Khi bửa được rồi, anh quỳ xuống cầm vào ổ khóa xoay cho nó lỏng ra rồi nhấc lên ném trên mặt cỏ. Xong anh lại lách lưỡi thuổng xuống dưới khe cửa bẩy nhẹ nó lên đủ để thò tay xuống nâng cả cánh cửa lên. Đất cát rơi khỏi tấm ván lộp bộp. Anh nhìn thằng bé.

    - Con ổn chứ, anh hỏi.

    Nó gật đầu im lặng, tay giữ chắc cây đèn. Anh lôi cả cánh cửa lên quẳng trên mặt cỏ. Dẫn xuống hầm là những bậc thang gồ ghề thô ráp. Anh với lấy ngọn dèn từ tay thằng bé và bắt đầu lần xuống từng bậc thang. Đượcc vài bước, anh quay lại ngả đầu vào con và hôn lên trán nó.

    Tường hầm làm bằng những khối bê tông. Sàn nhà lát gạch. Có một vài cái giường nhỏ bằng sắt dựa vào tường. Những tấm nệm được gấp theo kiểu quân đội đặt dưới chân giường. Anh quay lại nhìn thằng bé đang nheo mắt vì khói đen đứng lúi cúi ngay sau lưng cha rồi lại tiếp tục đi xuống, rọi đèn ra trước.

    - Ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi. Anh khẽ thốt lên.

    - Cái gì thế hả cha.

    - Xuống đây. Chúa ơi. Xuống đây con.

    Bên dưới có rất nhiều thùng gỗ chồng trên nhau. Toàn là đồ hộp. Nào thì cà chua, đào, đậu và mơ. Nào thì dăm bông, thịt bò muối. Hàng trăm lít nước đựng trong vại bia bằng nhựa. Khăn giấy, giấy vệ sinh, lại cả đĩa giấy nữa. Rồi lại có cả chăn được nhét trong túi nilông thùng rác. Anh ôm lấy trán reo lên.

    - Ôi Chúa ơi. Xuống đây con, không sao đâu.

    - Cha ơi?

    - Xuống đây, xuống đây nhìn này.

    Anh đặt ngọn đèn lên bậc cầu thang mà leo lên bế con xuống.

    - Xuống đây con, không sao đâu.

    - Cha thấy gì vậy cha?

    - Mọi thứ. Mọi thứ con ạ. Rồi con sẽ thấy.

    Anh dẫn con xuống những bậc thang, cầm cái chai và giơ ngọn lửa lên cao.

    - Con thấy không. Có nhìn thấy không con?

    - Những thứ này là gì thế hả cha?

    - Thức ăn đấy. Con nhìn chữ này.

    - Lê. Trên này viết là quả lê.

    - Đúng rồi. Đúng rồi. Là lê đấy con ạ.

    Chỉ đủ chỗ cho anh đứng. Anh cúi đầu dưới một ngọn đèn có chụp màu xanh treo trên một cái móc. Anh ôm lấy thằng bé, hai cha con đi dọc các dãy hộp các-tông. Có thịt bò phi lê, ngũ cốc, món hầm, súp và cả nước sốt mỳ. Đây là nơi giàu có nhất giữa cái thế giới đã biến mất này.

    - Sao những thứ này lại ở đây hả cha? Chúng có phải đồ thật không ạ? Thằng bé hỏi.

    - Tất nhiên rồi con. Toàn đồ thật đấy.

    Anh lôi một cái hộp xuống, bật nắp lên và lấy ra một hộp đào. Chúng ở đây vì ai đó đã nghĩ rằng sẽ có lúc cần đến chúng.

    - Nhưng họ đã không dùng chúng.

    - Không con ạ. Họ không dùng.

    - Họ chết rồi ư?

    - Ừ.

    - Thế mình lấy chúng được chứ ạ?

    - Ừ. Họ cũng sẽ muốn chúng ta dùng những thứ đồ này. Cũng như cha con mình muốn họ có thể dùng chúng vậy.

    - Họ là những người tốt phải không cha?

    - Phải con ạ.

    - Họ cũng giống cha con mình đúng không ạ?

    - Ừ, giống cha con mình.

    - Thế nên mình lấy chúng được không ạ.

    - Ừ, lấy được con ạ.

    Trong một cái hộp nhựa, hai cha con còn tìm thấy cả dao, đồ dùng bằng nhựa và cả đò dùng trong bếp. Còn có cả một cái khui hộp. Có mấy cái đèn pin nhưng đều không sáng. Anh cũng tìm thấy một hộp ắc quy và pin khô. Ạnh xem xét rất cẩn thận, phần lớn chúng đều đã mòn và rỉ axit, nhưng có một vài cục pin có thể dùng được. Cuối cùng thì anh cũng có được một cái đèn pin. Anh đặt đèn lên bàn, thổi tắt ngọn lửa đang bốc khói mù mịt trong chai. Anh xé một miếng bìa từ cái hộp để quạt cho khói tản đi.

    - Con muốn ăn gì cho bữa đêm nào? Anh hỏi.

    - Lê ạ.

    - Hay lắm. Mình ăn lê.

    Anh lấy hai cái bát giấy từ chồng bát trong túi nilông và đặt lên bàn rồi trải nệm lên giường để hai cha con ngồi. Xong anh mở thùng đựng lê hộp. Anh nhìn con. Thằng bé đang ngồi im lặng trên giường, vẫn quốn chăn, theo dõi từng động tác của anh. Anh nghĩ có lẽ thằng bé chưa hoàn toàn tin vào những gì nó thấy.

    Bây giờ con có thể thức cả đêm trong rừng rồi nhé. Đây là nhừng trái lê ngon nhất mà con từng nếm. Ngon nhất đấy. Con cứ chờ xem.

    Hai cha con ngồi sát bên nhau ăn hết hộp lê. Xong lại ăn thêm một hộp đào. Họ liếm sạch cái thìa và nghiêng bát để vét sạch nước xi-rô còn sót lại. Làm việc đó xong, hai cha con nhìn nhau.

    - Mộ̣t hộp nữa đi cha.

    - Cha không muốn con bị ốm đâu.

    - Con sẽ không ốm đâu.

    - Nhưng lâu lắm rồi con không ăn gì cả. Con sẽ ốm.

    - Con biết rồi ạ.

    - Đượ̣c rồi.

    Anh đặt con vào giường, vuốt ve nhẹ nhàng mái tóc bên bết của thằng bé và kéo chăn cho nó ngủ. Khi anh leo lên nhấc tấm gỗ ra thì trời đã nhá nhem tối. Anh đi về phía gara lấy balô rồi trở lại. Trước khi bước xuống hầm, anh nhìn lại xung quanh một lượt, rồi đi xuống, đóng cửa hầm lại, không quên cài một bên tay cầm của cái kìm vào qua bản lề để chốt cửa lại. Cái đèn pin bắt đầu yếu đi. Anh nhìn khắp căn hầm cho đến khi thấy nhưng cái can đựng xăng trắng. Anh xách một can, đặt lên bàn, vặn nắp và chọc thủng miếng kim loại niêm phong miệng can bằng cái tuốc-nơ-vít và trút đầy xăng vào chiếc đèn tự tạo. Anh cũng tìm được một hộp và dùng nó để đốt đèn. Xong đâu đó, anh vặn nhỏ đèn, treo nó lên tường và ngồi lên giường.

    Trong lúc thằng bé ngủ, anh đi quanh xem xét thật kĩ tầng hầm. Dưới này còn có cả quần áo, áo len và tất. Có một chậu bằng thép không rỉ và xà phòng, bọt biển. Rồi lại cả kem đánh răng và bàn chải nữa. Tận đáy một cái lọ nhựa đựng bulông, ốc vít và mấy thứ linh tinh, anh thấy một tấm vải, bên trong bọc tiền vàng Nam Phi. Anh đổ chúng ra đất mân mê rồi lại bỏ vào chỗ cũ cùng những thứ khác và đặt cái lọ trở lại giá.

    Anh lục lọi mọi thứ, di chuyển thùng và hộp từ bên này sang bên kia và phát hiện ra một cánh cửa nhỏ dẫn sang một căn phòng khác nơi có nhưng chai xăng. Ở góc phòng này có một cái nhà vệ sinh. Có ống thông bọc lưới và ống thoát nước trên sàn. Ở đây mỗi lúc một nóng nên anh phải cởi bớt áo khoác. Anh bắt đầu xem xét hết mọi thứ. Một hộp đạn ACP loại 45 li và ba hộp đạn dành cho súng nòng xoắn loại 30-30 li. Nhưng anh lại không tìm thấy súng ở đâu cả. Ạnh cầm đèn pin đi về phía tường căn phòng để kiểm tra xem liệu có gian phòng bí mật nào không. Sau một hồi không thấy gì, anh ngồi lên giường nghỉ và ăn một thanh sôcôla.
     
  2. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 11

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thức giấc, vật đầu tiên đạp vào mắt anh là ngọn đèn dầu đang rít lên nhè nhẹ. Tiếp đó là những bức tường với đầy thùng và hộp chất quanh. Anh không biết mình đang ở đâu. Anh nằm trên giường, áo khoác đắp trên người. Anh nhỏm dậy. Thằng bé đang say ngủ trên một cái giường khác. Trước khi ngủ anh đã tháo giầy nhưng anh cũng không nhớ mình đã làm việc đó. Anh xỏ giầy vào, đi về phía cầu thang và leo lên. Anh gỡ cái kìm ra, nhấc cánh cửa và nhìn ra ngoài. Một ngày mới đã đến. Anh nhìn ngôi nhà, rồi lại nhìn về phía con đường và hạ thấp cửa hầm xuống. Phía tây hửng chút ánh sáng xam xám mờ nhạt. Hai cha con đã ngủ qua một đêm và thêm một ngày nữa. Anh đóng hẳn cửa lại, chốt nó bằng cái kìm. Xong xuôi, anh bước xuống thang quay về ngồi trên giường. Anh nhìn đống đồ dự trữ. Đáng ra anh đã suýt chết và bây giờ anh sẽ sống. Anh phải nghĩ về điều đó. Bất kì ai cũng có thể thấy cánh cửa hầm trên sân và đoán được ngay đó là cái gì. Việc này không giống như lẩn trốn trong khu rừng. Cuối cùng, anh đứng dậy, đi về phía cái bàn và nhóm lửa hai chiếc bếp gas nhỏ. Xong, anh ra lấy một cái chảo rán, một ấm đun nước và mở cái túi nilông đựng đồ làm bếp.

    Thằng bé thức giấc vì tiếng máy xay cà phê. Đó là một chiếc máy xay tay và anh đang dùng nó để nghiền những hạt cà phê. Thằng bé ngồi dậy, cất tiếng gọi cha.

    - Cha ơi.

    - Chào con. Con có đói không?

    - Con cần phải vào nhà vệ sinh. Con muốn đi tiểu.

    - Anh chỉ tay về phía cánh cửa thép. Anh cũng không biết dùng cái toa-lét thế nào nhưng trước sau gì hai cha con vẫn phải dùng đến nó vì cha con anh sẽ không ở đây lâu và anh sẽ không đóng mở cửa hầm nhiều lần nếu không cần thiết. Thằng bé giải quyết xong đi ra, tóc tai bê bết mồ hôi.

    - Có gì thế hả cha?

    - Cà phê, dăm bông và bánh quy con ạ.

    - Ôi. Thắng bé reo lên.

    Anh kéo một cái tủ giầy ra, kê nó vào giữa hai chiếc giường và phủ khăn tắm lên bàn ăn. Rồi anh xếp dĩa, tách và dao dĩa nhựa lên mặt bàn. Anh bày lên bàn một bát bánh quy trên có đậy khăn tay, một đĩa bơ và một hộp sữa đặc. Thêm một lọ muối và một lọ hạt tiêu. Anh nhìn thằng bé, trông nó đờ đẫn. Anh ra chỗ bếp, mang cái chảo rán lại bàn ăn và xiên cho con một miếng dăm bông rán xém. Xong, anh lại xúc cho thằng bé một thìa trứng chưng từ cái chảo khác và một thìa đầy đậu nướng. Rồi anh rót cà phê vào hai cái tách. Thằng bé ngước nhìn anh.

    - Ăn đi con, kẻo nguội.

    - Con ăn gì trước bây giờ ạ?

    - Cái gì mà con thích ý.

    - Đây là cà phê hả cha?

    - Ừ. Đây, con phết bơ lên bánh quy. Như thế này này.

    - Vâng ạ.

    - Con thấy ổn không?

    - Con không biết.

    - Con thấy trong người khỏe chứ?

    - Vâng ạ.

    - Sao thế con?

    - Cha có nghĩ là mình nên cám ơn họ không?

    - Ai cơ?

    - Những người đã để lại thức ăn cho mình ý ạ.

    - Ừ. Mình nên làm vậy.

    - Cha sẽ đọc lời cầu nguyện chứ?

    - Sao con không đọc?

    - Con không biết phải nói thế nào?

    - Con biết chứ. Con biết phải cảm ơn như thế nào mà.

    Thằng bé nhìn chăm chăm vào đĩa thức ăn. Nó lúng túng không biết phải làm sao. Anh bắt đầu cất tiếng cầu nguyện.

    - Cám ơn các bạn vì đã cho chúng tôi thức ăn và những thứ đồ này. Chúng tôi biết các bạn cất giữ những thứ này cho mình và nếu các bạn ở đây thì chúng tôi sẽ không động đến bất cứ thứ gì cho dù có đói đến mấy. Chúng tôi rất tiếc vì các bạn đã không thể ăn được những món ngon lành này và cầu mong cho các bạn bình yên an lành bên Chúa ở trên Thiên đàng.

    - Như vậy được chưa con? Anh nhìn lên.

    - Rồi ạ. Con nghĩ là được rồi.

    Thằng bé không chịu ở một mình trên giường. Nó bám theo cha, đi tới đi lui trên bãi cỏ trong khi anh mang những túi nước từ hầm lên nhà tắm ở sau nhà. Họ mang cả cái bếp gas và vài cái xoong lên. Anh đun nước bằng xoong và đổ vào bồn. Rồi lại đổi nước trong túi ra đun tiếp. Phải mất khá nhiều thời gian nhưng anh muốn nước thật đầy và ấm. Khi nước trong bồn đã gần đầy, thằng bé cởi đồ, run cầm cập, ngồi vào trong bồn. Nó gầy lẳng nhẳng, bẩn thỉu và trần như nhộng. Hay tay nó ôm lấy vai. Chỉ có anh sáng xanh nhạt phát ra từ ngọn lửa bếp.

    - Con nghĩ gì thế? Anh hỏi.

    - Ít nhất là cũng ấm ạ.

    - Ít nhất là cũng ấm?

    - Vâng ạ.

    - Con học ở đâu ra thế?

    - Con không biết.

    - Ừ thì ít nhất là cũng ấm.

    Anh gội sạch mái tóc bết bệt của thằng bé, tắm cho con bằng xà phòng và bọt biển, rồi xả nước bẩn đi và tráng lại người cho thằng bé bằng nước ấm mới đun trong khi thằng bé run lập cập. Xong, anh quấn thằng bé bằng một cái khăn tắm và choàng chăn ra bên ngoài. Anh chải đầu cho nó và ngắm nghía. Hơi nước bốc ra từ thằng bé trông như khói vậy.

    - Con thấy ổn chứ?

    - Chân con lạnh lắm ạ.

    - Giờ con phải chờ cha đấy.

    - Cha nhanh lên nhé.

    Anh tắm xong, trèo ra và đổ thuốc tẩy vào nước tắm. Rồi anh vứt hai chiếc quần hôi rình của hai cha con vào trong bồn, nhấn chúng xuống nước bằng cái gậy thong toa-lét.

    - Cha xong chưa?

    - Rồi.

    Anh vặn nhỏ bếp cho đến khi nó kêu xèo xèo và tắt hẳn. Sau đó anh đi ra, bật đèn pin lên và đặt nó trên sàn. Hai cha con ngồi trên thành bồn để đi giày vào. Xong, anh đưa xoong và xà phòng cho thằng bé cầm, còn mình thì quấn chăn quanh mình trở ra sân, đi xuống hầm.

    Họ ngồi trên giường, mặc áo len, đi tất mới và quấn mình trong những tấm chăn mới và uống Coca. Một lúc sau thì anh lại quay lên nhà, giũ sạch hai cái quần torng bồn và đem chúng xuống hong khô dưới hầm.

    - Mình có thể ở đây bao lâu hả cha?

    - Không lâu đâu con.

    - Nhưng mà bao lâu ạ?

    - Cha không biết. Có thể là thêm một hai ngày nữa.

    - Vì ở đây nguy hiểm hả cha?

    - Ừ.

    - Cha nghĩ họ có tìm thấy mình không?

    - Không. Họ sẽ không tìm cha con mình đâu.

    - Họ có thể sẽ tìm thấy mình.

    - Không đâu con. Họ không tìm mình đâu.

    Sau khi thằng bé đã ngủ, anh quay lên nhà kéo mấy thứ đồ ra ngoài bãi cỏ. Rồi anh lôi một tấm đệm ra đặt nó lên cánh cửa từ bên trong hầm và từ từ đóng cửa hầm xuống thật thận trọng để tấm nệm có thể che phủ hoàn toàn cánh cửa. Làm thế cũng chẳng giải quyết được gì nhưng vẫn tốt hơn. Trong khi thằng bé ngủ, anh ngồi trên giường và đẽo đạn giả từ một cành cây, cẩn thận ướm từng viên vào nòng súng rồi lại đẽo sao cho thật khớp. Sau cùng anh dung muối đánh mịn đạn và nhuộm đen bằng nhọ nồi cho đến khi những viên đạn có màu như chì. Sauk hi làm được năm viên đạn giả, anh nhét tất cả vào nòng súng, bật xi lanh, đóng nắp lại rồi xoay qua xoay lại khẩu súng ngắm nghía. Mặc dù đang đóng nhưng khẩu súng trông cứ như đã lên đạn. Anh đặt súng xuống, đứng lên sờ xem quần hong đã khô chưa.

    Anh đã giữ một ít đạn để dùng nhưng chúng cũng bị mất khi hai cha con chạy trốn. Đáng ra anh nên bỏ chúng trong túi áo. Chẳng còn một viên đạn nào. Anh đứng dậy, đi một vòng cuối khắp nhà kho, rồi vặn đèn thật nhỏ, hôn con và leo lên giường chui vào cái chăn mới sạch sẽ. Anh nằm trong chăn, nhìn chong chong vào cái thiên đường nhỏ bé đang rung rung trong ánh lửa màu cam rồi thiếp ngủ.

    Thị trấn này đã bị bỏ hoang từ lâu. Hai cha con bước đi thận trọng trên mặt đường đầy rác rưởi. Thằng bé nắm chặt tay cha. Họ đi qua một cái thùng rác kim loại nơi có nhiều xác người chết cháy. Thịt và xương cháy lẫn lộn trong đống tro ẩm thấp. Chẳng còn bốc mùi nữa. Phía cuối con phố có một cái chợ, giữa một lối đi có chất rất nhiều hộp không và ba cái xe đẩy hàng. Anh nhìn mấy cái xe rồi lôi một cái ra, ngồi xổm xuống và xoay xoay bánh xe, sau đó đẩy nó ra khỏi lối đi về phía thằng bé đang đứng.

    - Mình có thể lấy hai xe đi ạ.

    - Không.

    - Con có thể đẩy một chiếc mà.

    - Con là trinh sát. Cha muốn con sẽ quan sát xung quanh.

    - Mình sẽ làm gì với những thứ trong hầm ạ?

    - Sẽ chỉ lấy những gì cần thôi con ạ.

    - Cha có cho là sẽ có người đến đây không?

    - Có chứ. Một lúc nào đó sẽ có người đến.

    - Cha đã bảo là sẽ không có ai đến cơ mà.

    - Nhưng cha không nói là sẽ không bao giờ có người đến.

    - Giá mình có thể ở lại đây.

    - Cha biết.

    - Mình có thể trông chừng mà.

    - Mình đang trông chừng đấy thôi.

    - Nếu những người tốt đến đây thì sao ạ?

    - Cha không nghĩ mình có thể gặp những người tốt trên đường.

    - Nhưng mình đang ở trên đường còn gì.

    - Cha biết.

    - Nếu lúc nào cũng trông chừng thì chả phải là lúc nào mình cũng lo sợ ạ?

    - Con nghe này, cha biết con đã rất sợ khi phải trông chừng cha lúc trước. Phải cẩn thận.

    - Nhưng sau đó sẽ không sợ nữa.

    - Sau đó?

    - Vâng ạ.

    - Cha không biết nữa nhưng con nên luôn thận trọng chứ vì nguy hiểm thường xuất hiện vào lúc mình ít ngờ tới nhất.

    - Thế cha lúc nào cũng canh chừng nguy hiểm ạ?

    - Ừ. Nhưng đôi lúc cha có thể quên mất.

    Anh bế thằng bé ngồi lên tủ giày ngay bên dưới ngọn đèn dầu. Với cái lược nhựa và kéo, anh chuẩn bị cắt tóc cho con. Anh cố cắt sao cho đẹp nên phải mất khá lâu mới xong. Xong đâu đó, anh tháo cái khăn tắm quanh cổ con, phủi những sợi tóc vàng con con trên mặt, trên vai nó bằng một miếng vải ẩm, rồi cầm gương cho nó soi.

    - Cha cắt đẹp quá.

    - Tốt lắm.

    - Trông con gầy nhom.

    - Thì con thực sự rất gầy còn gì.

    Tiếp đó anh tự cắt tóc cho mình nhưng kết quả không được mỹ mãn lắm. Rồi anh lấy kéo cắt bớt râu và cạo sạch bằng một con dao cạo và nước ấm. Thằng bé ngồi yên quan sát. Sau khi cạo râu xong, anh ngắm lại mình trong gương. Trông cứ như thể là anh không có cằm vậy. Anh quay ra phía con hỏi:

    - Trông cha thế nào?

    Thằng bé nghếch lên.

    - Con không biết. Cha sẽ bị lạnh.

    Hai cha con ngồi dưới ánh nến và đánh chén một bữa ra trò. Họ ăn dăm bông, đậu, khoai tây nghiền và cả bánh quy với nước sốt thịt. Anh tìm thấy bốn chai rượu whisky loại lâu năm. Chắc chắn chủ ngôi nhà mới mua chúng vì túi giấy bọc rượu vẫn còn nguyên. Anh chỉ uống một ít thôi mà lại pha loãng rượu với nước nhưng đầu anh vẫn quay cuồng. Hai cha con tráng miệng với đào, bánh quy phết kem và uống cà phê. Cái đĩa giấy và dao đĩa nhựa anh bỏ hết vào thùng rác.
     
  3. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 12

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đêm hôm ấy, anh bị đánh thức bởi những âm thanh mơ hồ, ầm ì của tiếng mưa rào đã bị tấm nệm của nắp hầm chặn lại. Anh nghĩ chắc mưa phải to lắm thì tiếng mưa mới có thể xuyên qua cả nắp hầm dày như thế. Anh ngồi dậy, lấy đèn pin, nhẹ nhàng trèo lên thang, mở nắp hầm và chiếu đèn qua khắp khoảng sân. Mưa dữ dội trút xuống làm ngập lụt cả khoảng sân rộng. Anh đóng nắp hầm lại. Anh đã nghĩ là cái hầm này không thể để nước lọt qua nhưng nước vẫn rỉ qua các kẽ và nhỏ tong tỏng xuống nền hầm. Anh quay ra xem con thế nào. Người thằng bé ướt đẫm mồ hôi. Anh lật bớt chăn ra rồi quạt cho con, sau đó anh vặn nhỏ lò sưởi và quay lại giường mình.

    Lần thứ hai anh tỉnh dậy không phải do mưa. Anh nghĩa là lúc đó trời đã tạnh. Anh lại mơ. Trong giấc mơ lần này anh gặp những sinh vật anh chưa nhìn thấy bao giờ. Chúng không biết nói. Anh đã tưởng rằng bọn chúng nấp dưới giường anh và lẩn trốn quanh đó khi anh tỉnh dậy. Anh quay người nhìn thằng bé. Lần đầu tiên anh chợt nghĩ rằng có thể với con anh cũng chỉ là một sinh vật lạ. Một sinh vật đến từ một hành tinh chẳng bao lâu nữa sẽ chết. Anh không thể dựng nên cho con một tình yêu về thế giới anh đã đánh mất mà không tạo cho con cả sự mất mát, anh nghĩ là đứa trẻ còn cảm nhận được rõ hơn anh. Không còn một chút gì đọng lại, ngay cả cảm nhận của anh về nó. Anh nghĩ có lẽ những sinh vật đó đến để cảnh báo anh về một điều gì đó. Nhưng điều gì đó mới được cơ chứ. Anh không thể nhen lên trong trái tim của con trai anh những thứ mà với anh nó chỉ còn là tro bụi. Thậm chí có lúc anh đã ước giá mà hai cha con không tìm được chỗ ẩn náu này nhưng một phần khác trong anh lại ước mọi thứ rồi sẽ qua.

    Anh kiểm tra lại cái van của thùng nước xem nó đã được vặn chặt chưa. Anh xách cái lò sưởi nhỏ đặt lên chiếc tủ con rồi bắt đầu tháo nó ra. Anh vặn ốc của cái bảng bên dưới, dỡ bộ phận nhiệt ra và dung cờ lê để tháo rời hai cái tạo nhiệt. Anh trút các đồ điện linh tinh từ trong một cái chai ra và chọn lấy một cái đinh vít có ren vừa khớp nối và vặn nó vào. Anh cầm cái phát nhiệt nhỏ và nhẹ lắp nó vào vòi của thùng nước, đặt tất cả lên nóc tủ, vứt tấm bảng vào thùng rác rồi leo lên mặt đất để xem thời tiết thế nào. Tấm đệm trên của nắp hầm sũng nước, nặng trịch nên rất khó đẩy lên. Anh đỡ cửa hầm trên vai và nhìn ra ngoài. Trời mưa nhẹ. Anh chịu không thể biết được lúc ấy là mấy giờ. Anh nhìn sang ngôi nhà và khắp khu đồng bằng mờ trong màn mưa một lúc rồi đậy cửa lại, xuống hầm chuẩn bị bữa sáng.

    Cả ngày hôm đấy, hai cha con chỉ ăn và ngủ. Anh đã định lên đường thế nhưng cơn mưa lại ghìm chân hai cha con. Họ cất xe đựng các hộp rau quả trong nhà kho. Trời thế này thì chắc chẳng ai đi trên đường cả. Họ xem xét tỉ mỉ những gian hàng và lấy tất cả mọi thứ có thể rồi chất thành đống trong hầm. Ngày đang dần ngắn lại. Đến tối thì mưa tạnh. Hai cha con mở cửa nắp hầm để chuyển đồ ngang qua khoảng sân ướt vào nhà kho rồi đóng đồ lên xe. Trên mặt đất, căn hầm mở nắp hiện lên lờ mờ như một cái huyệt đang ngoác miệng trong ngày phán quyết của bức tranh ngày tận thế. Khi xe đã được lèn chặt cứng, anh phủ một tấm vải nhựa lên trên và dùng dây chão chằng lại. Công việc xong xuôi, hai cha con đứng nhìn cái xe dưới ánh đèn pin. Đáng lẽ ra anh phải gắn thêm hai cái bánh xe từ một cái xe khác nữa nhưng giờ thì quá muộn và anh cũng quên không gắn gương từ cái xe máy sang. Họ ăn tối rồi ngủ đến sáng hôm sau. Khi thức dậy, hai cha con tắm thêm một lần nữa và ngâm tay trong nước ấm. Đến lúc những tia nắng đầu tiên xuất hiện, họ đã ăn sáng xong và lên đường. Họ đeo một cái mặt nạ được cắt ra từ tấm ga giường. Thằng bé đi trước xe dùng chổi gạt bớt những cây que cành lá còn anh thì gập người trên tay kéo. Vừa kéo anh vừa nhìn con đường mờ mịt trước mặt.

    Cái xe nặng quá nên hai cha con không thể lôi nó vào khu rừng ẩm ướt. Họ nghỉ trưa ở giữa đường, uống trà nóng, ăn hộp đùi lợn muối cuối cùng với bánh qui xốp, mù tạt và nước sốt táo. Hai cha con ngồi tựa lưng vào nhau trên con đường.

    - Cha có biết đây là đâu không ạ? Thằng bé hỏi.

    - Cha không chắc.

    - Cha cứ đoán xem.

    - Cha nghĩ chúng ta đang ở cách bờ biển khoảng hai trăm dặm. Theo đường chim bay.

    - Theo đường chim bay ạ?

    - Ừ nghĩa là theo đường thẳng.

    - Thế chúng ta sẽ đến đấy sớm thôi phải không ạ?

    - Không sớm lắm đâu. Khá sớm thôi. Vì chúng ta không bay như chim con ạ.

    - Vì chim không phải đi theo đường như chúng ta ạ?

    - Ừ.

    - Chúng có thể bay đến bất kỳ đâu mà chúng muốn.

    - Ừ.

    - Quanh đây có con chim nào không hở cha?

    - Cha không biết.

    - Thế theo cha nghĩ thì thế nào?

    - Không chắc đã có con ạ.

    - Thế chim có thể bay đến sao Hỏa không cha?

    - Không thể đâu con.

    - Vì nó xa quá ạ?

    - Ừ.

    - Kể cả là khi chúng nó muốn ạ.

    - Ừ kể cả thế.

    - Kể cả là khi chúng nó muốn ạ.

    - Ừ kể cả thế.

    - Thế nếu chúng nó cứ cố và đến nửa đường chẳng hãn nếu mệt quá thì chúng nó có rơi xuống không cha?

    - Ờ, chúng sẽ không đi được đến nửa đường đâu con ạ vì nếu được nửa đường thì chúng đang ở ngoài trái đất rồi. Ngoài trái đất thì không có không khí. Chúng sẽ không thể bay được và hơn nữa chúng sẽ chết cóng vì lạnh.

    - Thế cơ ạ!

    - Với lại chúng cũng có biết sao Hỏa ở đâu đâu.

    - Thế chúng ta có biết không cha?

    - Không chính xác con ạ.

    - Thế nếu có tàu không gian thì chúng ta có được đến đấy không?

    - Ờ! Nếu con có một cái tàu không gian tốt và có người giúp nữa thì cha nghĩ là được.

    - Trên đó có các thứ và thức ăn không cha?

    - Không con ạ. Chẳng có gì ở đó cả.

    - Thế ạ.

    Họ ngồi một lúc lâu trên đống chăn và nhìn ra mọi phía. Không có gió. Chẳng có gì cả. Một lúc sau thằng bé bảo cha:

    - Cha ơi chẳng thấy con chim nào cả.

    - Ừ.

    - Chúng chỉ có trong sách thôi.

    - Ừ.

    - Nhưng con nghĩ là không phải thế.

    - Con đã sẵn sàng lên đường chưa?

    - Dạ rồi ạ.

    Họ đứng dậy vứt cốc và hộp bánh đi. Anh xếp chồng chăn lên xe rồi buộc chặt tấm nhựa lại. Anh đứng nhìn con hồi lâu.

    - Sao vậy cha? Thằng bé hỏi.

    - Cha biết con đang nghĩ là hai cha con mình sắp chết.

    - Dạ.

    - Nhưng sẽ không như thế đâu.

    - Không ạ?

    - Ừ.

    - Con hỏi cha một điều được không?

    - Con hỏi đi.

    - Nếu là một con chim, cha có cố bay thật cao, đủ để nhìn thấy mặt trời không cha?

    - Có. Cả con nữa.

    - Con cũng nghĩ vậy. Thế thì hay quá.

    - Ừ, được chưa con.

    - Dạ được rồi cha ạ.

    - Chợt anh ngừng lại.

    - Sáo của con đâu?

    - Con ném đi rồi.

    - Ném rồi ư?

    - Vâng.

    - Ừ vậy thôi.

    - Vâng.

    Trong một đám tro bụi dài, họ vượt qua con sông và dừng lại ở hàng lan can bằng bê tông dọc bờ để nhìn xuống dòng nước chết lững lờ phía dưới. Hình ảnh cái xác của một thành phố bị thiêu rụi hằn in trên nền tro bụi phủ sẫm, dày đặc chẳng khác gì bức phác họa một cuộc hỗn chiến trên nền giấy đen. Họ nhìn lại một lần nữa trong ánh sáng chập choạng rồi chật vật kéo cái xe nặng nề lên một ngọn đồi cao và nghỉ ở đó. Anh xoay cái xe ngang ra cho nó khỏi trôi tuột xuống dốc. Hai cái mặt nạ vải của họ đã chuyển sang màu tro từ lâu, tại nơi là mắt và miệng thì đen hõm. Hai người ngồi trên lớp tro bụi lề đường và nhìn về hướng đông, nơi hình bóng của thành phố chết đang dần bị bao phủ bởi màn đêm. Không còn thấy một tia sáng nào cả.

    - Cha có nghĩ là còn ai đó đang ở trong thành phố đấy không?

    - Cha không biết.

    - Lúc nào thì chúng ta sẽ dừng lại nghĩ hở cha?

    - Bây giờ cũng được con ạ.

    - Ngay trên đồi này ạ?

    - Chúng ta có thể kéo xe xuống chỗ mấy tảng đá kia để và phủ cành lá lên.

    - Nghỉ ở đây có an toàn không cha?

    - Ờ, thường thì người ta không thích dừng chân trên những ngọn đồi mà chúng ta thì lại không thích người ta dừng lại.

    - Thế thì đây là một chỗ tốt cho hai cha con mình.

    - Ừ. Cha nghĩ vậy.

    - Hai cha con mình thật thông minh.

    - Ừ, thông minh quá chưa chắc đã tốt đâu.

    - Dạ.

    - Bắt đầu nhé?

    - Vâng.

    Thằng bé đứng dậy, vác chổi lên vai nhìn cha.

    - Kế hoạch lâu dài của chúng ta là gì hả cha? Thằng bé hỏi.

    - Sao con?

    - Kế hoạch lâu dài của chúng ta ạ?

    - Con nghe điều đó ở đâu vậy.

    - Con không rõ.

    - Nào, nói cho cha nghe con đã nghe ở đâu?

    - Cha nói ạ.

    - Bao giờ?

    - Cũng lâu lắm rồi.

    - Thế cha còn nói gì nữa?

    - Con không biết.

    - Vậy thì cha cũng không biết. Thôi nào chúng ta bắt đầu thôi. Trời tối rồi.

    Hôm sau, vào lúc chiều muộn khi hai cha con đang vòng qua một khúc quanh trên đường thì thằng bé đứng khựng lại nắm chặt lấy xe.

    - Cha ơi. Nó thì thào.

    Anh nhìn lên. Trên con đường trước mặt một hình thù còng gập, dúm dó hiện ra.

    Anh đứng thẳng người tì vào tay kéo của chiếc xe. Ờ, ai vậy nhỉ?

    - Chúng ta phải làm gì hả cha?

    - Ông ta có thể chỉ là mồi nhử.

    - Thế chúng ta phải làm gì ạ?

    - Chúng ta cứ đi theo. Nếu người ấy quay lại chúng ta sẽ biết ngay.

    - Vâng ạ.

    Người lạ mặt không hề ngoảnh lại chút nào. Họ đi theo người đó một lúc và sau đó họ vượt lên trước. Một lão già nhỏ bé, lưng còng. Lão mang một cái ba lô quân đội cũ nát, rách bươm với một cái chăn cuộn tròn bên trên và chống một cái gậy tre. Khi nhìn thấy họ, lão giật bắn người, quay ngoắt vào lề đường, đứng nhìn một cách đầy cảnh giác. Lão quấn một cái khăn bẩn kinh khủng quanh hàm như kiểu lão đang bị đau răng. Người lão bốc ra mùi hôi thối khủng khiếp, không chấp nhận nổi ngay cả với mức vệ sinh của thế giới hoang tàn này.

    - Tôi không có gì cả - lão ta nói – các người có thể kiểm tra.

    - Chúng tôi không phải là cướp.

    - Cái gì? Lão cố đưa tai ra trước để nghe.

    - Tôi nói chúng tôi không phải là cướp.

    - Thế thì các anh là ai?
     
  4. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 13

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai cha con không biết trả lời câu đấy thế nào. Lão ta quệt cổ tay lên mũi và đứng đó chờ đợi. Lão ta không có giày và thay vào đó lão lót chân bằng bìa các tông, quấn một lớp giả rách rồi buộc dây màu xanh xung quanh. Tất cả những cái thứ vá víu ấy đều trông cực kỳ ghê tởm, hoặc đã bị toạc hoặc thủng lỗ chỗ. Đột nhiên mặt lão sọm hẳn đi. Lão vịn vào chiếc gậy tre, run rẩy khuỵu xuống bên mép đường. Lão ngồi với một bàn tay ôm lấy đầu. Trông lão chẳng khác gì một đống giẻ rách bị văng ra khỏi một cái xe. Hai cha con tiến lại gần và nhìn lão.

    Lão lập bập:

    - Thưa ngài.

    Thằng bé ngồi xổm trên nền đất và đưa tay ra chạm khẽ vào vai lão.

    - Ông ấy đang sợ, cha ơi, ông ấy đang sợ, thằng bé nói.

    Anh hết nhìn lên lại nhìn xuống con đường.

    Nếu đây là một cuộc mai phục và ông ta là mồi nhử.

    - Ông ấy đang hoảng sợ thật cha à.

    - Con nói với ông ta là chúng ta không làm gì hại ông ta cả.

    Từng ngón tay bẩn thỉu của lão già bấu chặt lấy đầu, lão không ngừng run lên bần bật. Thằng bé nhìn cha.

    - Hình như ông ta nghĩ là chúng ta không phải người thật.

    - Thế ông ta nghĩ chúng ta là gì.

    - Con cũng không biết.

    - Chúng ta không thể dừng lại ở đây được, con trai, chúng ta phải đi thôi.

    - Ôi cha ơi, ông ấy đang rất sợ hãi.

    - Cha không nghĩ là con nên đụng chạm gì vào người ông ta.

    - Có lẽ chúng ta có thể cho ông ấy một chút gì đó để ăn.

    Anh đứng nhìn ngược xuôi khắp con đường rồi nhìn xuống lão già.

    "Chết tiệt", anh lẩm bẩm. Có khi lão sắp hóa thành thánh còn anh và con thì bị biến thành cây.

    - Thôi được – anh nói.

    Anh tháo tấm bạt nhựa, cuốn nó lên, lục lọi trong đống đồ hộp của hai cha con rồi lấy ra một lon hoa quả dầm. Anh thò tay vào túi áo rút ra cái mở hộp, giật nắp lon rồi quay lại con đường. Anh ngồi xổm xuống và đưa cái lon cho thằng bé.

    - Không có thìa hở cha?

    - Chúng ta sẽ không dành thìa cho ông ấy.

    Thằng bé cầm cái lon và đưa nó cho lão già. Thằng bé nhẹ nhàng:

    - Ông ơi, ông cầm lấy đi.

    Lão già ngước mắt lên nhìn thằng bé. Nó ra hiệu cho lão cầm lấy hộp. Trông nó như đang cố dỗ dành một con kền kền già kiệt sức bên đường và cho nó ăn.

    - Nó rất ngon đấy – thằng bé bảo lão.

    Lão thôi không bấu tay lên đầu nữa. Đôi mắt kẹp nhẹp của lão chớp chớp. Đôi mắt xanh xám mở đục trũng sâu vào trong hai hố mắt. Da lão nhăn nheo, đen đúa, đầy tro bụi.

    - Ông cầm đi – thằng bé nói.

    Những ngón tay cáu bẩn trơ xương của lão lẩy bẩy quắp lon đồ ăn rồi ghì chặt vào ngực.

    - Ông ăn đi, nó ngon lắm đấy – thằng bé nói và nhẹ nhàng dung tay ra hiệu.

    Lão nhìn xuống cái lon, quặp chặt lấy nó và nâng lên. Mũi lão phập phồng. Những móng tay vàng ệch quờ quạng bên ngoài lớp kim loại. Rồi lão dốc nó lên và uống. Nước ứa ra cả bộ râu bẩn thỉu. Lão hạ cái hộp xuống nhai trệu trạo. Khi lão nuốt, đầu lão cứ giần giật.

    - Cha ơi, cha nhìn kìa – thằng bé thì thào.

    - Cha đang nhìn đây.

    - Thằng bé quay lại nhìn anh.

    - Cha biết con định nói gì nhưng câu trả lời là không.

    - Cha biết con định nói gì ư?

    - Chúng ta không thể cho ông ta đi cùng. Không thể.

    - Con biết.

    - Con biết ư?

    - Vâng.

    - Vậy thì tốt.

    - Thế chúng ta có thể cho ông ấy ăn nữa không?

    - Để xem ông ấy có ăn hết chỗ này không đã.

    Họ nhìn lão già ăn. Khi đã ăn hết, lão ta ngồi ôm cái lon rỗng nhìn nó thèm thuồng như thể nó sẽ lại đầy lên.

    - Con định cho ông ta gì nữa?

    - Theo cha thì chúng ta nên cho ông ấy cái gì?

    - Cha không nghĩ là chúng ta nên cho ông ta gì cả. Thế con muốn thế nào?

    - Chúng ta sẽ nấu ăn và ông ấy có thể ăn cùng.

    - Ý con là chúng ta sẽ nghỉ qua đêm bây giờ.

    - Vâng.

    Anh nhìn lão già và nhìn dọc đường.

    - Thôi được. Nhưng sáng mai hai cha con mình sẽ đi tiếp.

    Thằng bé im lặng.

    - Đấy là điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm rồi con ạ.

    - Dạ vâng.

    - Đồng ý là đồng ý. Sáng mai con không được kỳ kèo nữa đâu đấy.

    - Kỳ kèo là gì ạ?

    - Có nghĩa là con sẽ xin cha một điều gì khác nữa và hai cha con mình sẽ phải tranh luận về vấn đề đó. Cha không muốn có một cuộc tranh luận nữa. Được chứ.

    - Vâng ạ.

    - Tốt.

    Họ giúp ông lão đứng dậy và đưa cho lão cái gậy. Lão chắc chẳng nặng đến 45 cân. Lão vẫn đứng đó với một vẻ đầy nghi hoặc. Anh lấy cái lon từ tay lão và quăng nó vào rừng. Lão cố gắng đưa cái gậy cho anh nhưng anh đẩy ra.

    - Lần cuối ông ăn là khi nào? Anh hỏi.

    - Tôi không rõ.

    - Ông không nhớ ư?

    - Tôi vừa mới ăn lúc nãy.

    - Ông có muốn ăn tối với chúng tôi không?

    - Tôi không biết.

    - Sao ông lại không biết?

    - Ăn cái gì mới được cơ chứ?

    - Có lẽ là một ít thịt bò hầm với bánh quy và cà phê.

    - Vậy tôi phải làm gì?

    - Kể cho chúng tôi xem trái đất đã đi đến đâu chẳng hạn.

    - Gì cơ?

    - Không, ông không phải làm gì cả. Ông tự đi lại được không?

    - Tôi đi được.

    Lão nhìn xuống thằng bé hỏi:

    - Đây là một thằng bé ư?

    Thằng bé nhìn cha.

    - Ý ông là gì? Anh hỏi.

    - Tôi không có ý gì cả. Mắt tôi kém.

    - Thế ông có nhìn thấy tôi không?

    - Tôi chỉ biết là có người đứng ở đó.

    - Vậy là được. Chúng ta di chuyển thôi.

    Anh nhìn con và bảo:

    - Đừng cầm tay ông ta.

    - Ông ấy không nhìn thấy đường.

    - Con không được cầm tay ông ta. Đi nào.

    - Chúng ta đi đâu đây? Lão hỏi.

    - Chúng ta đi ăn.

    Lão gật đầu, quờ quạng cây gậy và bước dẹo dọ trên đường.

    - Ông bao nhiêu tuổi rồi.

    - Tôi chín mươi.

    - Vô lý.

    - Tùy anh nghĩ.

    - Ông vẫn hay nói với mọi người thế à?

    - Mọi người nào?

    - Bất kỳ ai.

    - Có lẽ.

    - Và thế là họ không động đến ông.

    - Vâng.

    - Có hiệu quả không?

    - Không.

    - Ông đựng những gì trong ba lô vậy?

    - Không gì cả. Anh có thể xem.

    - Tôi biết. Thế trong đó có gì?

    - Chỉ là một ít đồ đạc.

    - Không có đồ ăn ư.

    - Không có gì cả.

    - Tên ông là gì?

    - Ely.

    - Mỗi Ely thôi à?

    - Có vấn đề gì sao?

    - Không. Đi nào.

    Họ dựng lều qua đêm trong rừng gần đường hơn là anh muốn. Anh gò lưng kéo chiếc xe còn thằng bé đẩy đằng sau. Hai cha con nhóm lửa để cho lão già ngồi sưởi dù anh chẳng thích thế chút nào. Họ ăn tối. Lão già ngồi quấn người trong chiếc chăn đơn của lão và quặp chặt thìa như một đứa trẻ. Họ chỉ có hai cái cốc và lão uống cà phê bằng cái bát lão vừa ăn. Hai ngón tay cái của lão nhúng cả vào trong bát. Lão ngồi như một ông sư rách rưới, ốm đói nhìn đăm đăm vào đống than củi.

    - Ông biết đấy, ông không thể đi cùng chúng tôi.

    Lão gật đầu.

    - Ông đã lang thang bao lâu rồi?

    - Tôi lúc nào cũng ở trên đường. Anh không thể ở một chỗ được.

    - Thế ông sống bằng cách nào?

    - Tôi cứ đi thôi. Tôi biết thế nào cũng có ngày như thế này.

    - Ông biết ư?

    - Tôi biết. Thế này hoặc một điều gì đấy gần như thế này. Tôi luôn tin là nó đến.

    - Và ông cố gắng chuẩn bị sẵn tinh thần chờ nó?

    - Không. Nếu là anh thì anh làm gì?

    - Tôi không biết.

    - Người ta luôn sẵn sàng cho ngày mai. Tôi thì không tin vào ngày mai. Ngày mai không sẵn sàng để chờ chúng ta. Ngày mai còn không biết là chúng ta đang ở đây.

    - Tôi không nghĩ thế.

    - Kể cả khi anh biết anh phải làm gì cũng chưa chắc là anh biết anh phải làm gì thật. Anh không biết liệu anh có muốn làm hay không muốn làm. Giả sử như anh là kẻ cuối cùng còn lại. Giả sử như anh làm mọi thứ chỉ vì bản thân anh thôi.

    - Ông có ước là ông sẽ chết không?

    - Không, tôi ước gì tôi đã chết. Anh biết đấy một khi anh vẫn còn sống anh vẫn phải tiến lên phía trước.

    - Hay ông mong ông chưa bao giờ được sinh ra trên đời.

    - Ồ, anh không được quyền lựa chọn điều đó.

    - Ông nghĩ như thế là đòi hỏi quá à?

    - Cái gì đến thì đã đến rồi. Dù sao, thật là ngu xuẩn khi đòi hỏi cái điều xa xỉ ấy trong giờ phút này.

    - Cái đấy thì tôi đồng ý.
     
  5. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 14

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chẳng ai muốn rời đi và chẳng ai muốn ở lại. Anh ngẩng đầu lên nhìn thằng bé nằm phía bên kia đống lửa, rồi quay sang nhìn lão. Anh có thể nhìn thấy đôi mắt nhỏ tí ấy đang nhìn mình trong ánh lửa. Có Chúa mới biết được đôi mắt ấy nhìn thấy cái gì. Anh đứng dậy chất thêm củi vào đống lửa và vun gọn đống than cho chúng khỏi rơi ra đám lá khô. Những tia lửa đỏ bắn ra, sáng trong một lát và tàn lụi ngay trong khoảng không màu đen bên trên. Lão già uống nốt một chút cà phê còn sót lại trong bát và đặt nó xuống trước mặt. Lão rướn người ra trước hơ tay trên ngọn lửa. Anh quan sát lão.

    - Làm sao mà ông biết được ông có phải là người duy nhất còn sót lại trên trái đất này hay không – anh hỏi.

    - Tôi không nghĩ là anh sẽ biết đâu nếu anh ở trong hoàn cảnh đó.

    - Không ai có thể biết cả.

    - Điều đó cũng chẳng làm mọi việc khác đi. Cái chết của anh cũng giống như cái chết của những người khác thôi.

    - Chắc là Chúa sẽ biết.

    - Không có Chúa đâu.

    - Không ư?

    - Chẳng có Chúa mà chúng ta cũng chẳng phải là con chiên của ai cả.

    - Tôi không hiểu làm sao mà ông có thể sống sót. Ông ăn uống thế nào?

    - Tôi không rõ.

    - Ông không rõ ư?

    - Người ta cho tôi các thứ.

    - Người ta cho ông các thứ?

    - Đúng vậy.

    - Để ăn?

    - Để ăn. Đúng thế.

    - Không, họ không đời nào làm thế.

    - Anh làm đấy thôi.

    - Tôi không làm. Con trai tôi đã làm.

    - Còn những người khác ở trên đường nữa. Hai cha con anh không phải là những người duy nhất.

    - Thế ông thì sao, ông đi một mình à?

    Lão ngước lên nhìn đầy cảnh giác.

    - Ý anh là gì?

    - Có ai đi cùng ông không?

    - Ai là ai?

    - Bất kỳ ai.

    - Chẳng có ai cả. Anh đang nói về chuyện gì vậy?

    - Tôi đang nói về ông đấy. Về những chuyện mà có thể ông đã nhúng tay vào.

    Lão không trả lời.

    - Tôi đoán là ông muốn đi cùng chúng tôi, đúng không?

    - Đi cùng hai cha con anh ư?

    - Đúng thế.

    - Chắc chắn là cha con anh sẽ không cho tôi đi cùng.

    - Ông không muốn đi nữa ư?

    - Tôi thậm chí đã không thể đi xa được chừng ấy nhưng tôi đói.

    - Thế còn những người đã cho ông ăn. Họ đâu cả rồi?

    - Chẳng có ai như thế đâu. Tôi bịa đấy.

    - Ông còn bịa những chuyện gì nữa?

    - Tôi cũng chỉ đi trên đường như cha con anh thôi. Có gì khác đâu.

    - Tên ông có thật là Ely không?

    - Không.

    - Sao ông không nói tên thật của mình?

    - Tôi không muốn.

    - Tại sao?

    - Tôi không thể nói tên mình với anh được. Ai biết anh làm gì với nó. Tôi không muốn người ta nói gì về tôi. Nói về những nơi mà tôi đã đi qua, những chuyện mà tôi đã kể khi tôi ở đó. Ý tôi là anh có thể nói về tôi đấy nhưng không ai có thể nói được rằng nó đúng là tôi cả. Tôi có thể là bất kỳ ai. Tôi nghĩ trong những thời điểm như thế này nói càng ít càng tốt. Nếu như có chuyện gì xảy ra và chúng ta là người sống sót và chúng ta lại gặp nhau trên đường rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Nhưng sẽ không có chuyện đó đâu.

    - Có thể thôi.

    - Anh không muốn nói những chuyện này trước mặt con trai anh

    - Ông không phải là chỉ điểm cho những kẻ cướp đường đấy chứ?

    - Không, tôi chẳng là gì cả. Tôi sẽ đi nếu anh muốn thế. Tôi có thể tự tìm đường.

    - Ông không cần phải rời khỏi đây.

    - Lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy ánh lửa. Chỉ có vậy thôi. Tôi đã sống như những con vật. Anh sẽ không muốn biết những thừ ma tôi đã ăn. Khi tôi nhìn thấy thằng bé, tôi nghĩ là tôi đã chết.

    - Ông nghĩ thằng bé là thiên thần ư?

    - Tôi không biết nó là gì. Tôi không bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy một đứa trẻ con nữa. Tôi không nghĩ là chuyện đó lại có thể xảy ra.

    - Nếu tôi nói thằng bé là một vị thần thì sao?

    Lão lắc đầu.

    - Đã lâu rồi tôi không còn tin những chuyện như thế. Rồi anh sẽ thấy, một mình thì tốt hơn. Vì thế nên tôi hi vọng là điều anh nói không phải sự thật vì lang thang trên đường với một vị thần cuối cùng sẽ là một điều rất tệ nên tôi hi vọng là điều đó không thật. Môi thứ sẽ trở nên tốt hơn khi mọi người đều ra đi.

    - Họ sẽ ra đi ư?

    - Tất nhiên là thế rồi.

    - Thế thì mọi chuyện sẽ tốt cho ai?

    - Tốt cho mọi người, tốt cho chính họ.

    - Mọi người?

    - Đúng vậy. Chúng ta nên biến hết đi. Như thế chúng ta đều thấy dễ thở.

    - Nghe hay đấy nhỉ.

    - Tất nhiên, khi chúng ta đều đã ra đi cả thì cuối cùng cũng chẳng còn thứ gì hiện hữu ngoài cái chết và thế là các vị thần cũng chỉ còn tính từng ngày. Vị thần sẽ lại lang thang trên đường và cũng không có ai để làm nữa. Rồi vị thần đó sẽ nói: Mọi người đi đâu hết cả rồi? Mọi chuyện là như vậy đấy. Có vấn đề gì đâu.

    Sáng hôm sau, họ đứng trên con đường. Hai cha con anh tranh cãi xem sẽ cho lão già cái gì. Cuối cùng thì lão cũng không được gì nhiều. Vài hộp rau quả. Thằng bé quay sang vệ đường và ngồi bệt xuống nền tro bụi. Lão già nhét mấy cái long vào trong chiếc ba lô và buộc thắt lại.

    - Ông nên cảm ơn con trai tôi. Nếu là tôi, tôi sẽ không cho ông cái gì cả.

    - Cũng có thể tôi nên mà cũng có thể tôi không nên.

    - Tại sao ông lại không nên?

    - Chỉ đơn giản là thế thôi.

    - Ông không quan tâm là điều đó sẽ làm tổn thương thằng bé à?

    - Không. Đây không phải lý do thằng bé giúp ông.

    - Thế tại sao thằng bé lại làm vậy?

    Anh nhìn con rồi nhìn lão già.

    - Ông không hiểu được đâu. Anh nói. Tôi còn không chắc là tôi hiểu.

    - Có lẽ thằng bé tin vào Chúa?

    - Tôi không biết con trai tôi tin vào cái gì nữa.

    - Nó sẽ vượt qua thôi.

    - Không, nó sẽ không vượt qua đâu.

    Lão già không nói gì. Lão nhìn quanh.

    - Ông cũng không chúc chúng tôi may mắn đúng không? - anh nói.

    - Tôi chẳng biết chúc như thế thì có nghĩa lý gì. May mắn thì thế nào. Ai biết được điều ấy đây?

    Và họ lên đường. Mỗi người một ngả. Khi anh nhìn lại cái hình dáng của lão già, chống gậy dò dẫm trên đường giống như kẻ buôn bán ma túy trong những câu chuyện ngày xưa, đen tối, khẳng khiu, bẩn thỉu và khốn nạn mờ dần rồi biến mất mãi mãi. Thằng bé không quay lại nhìn một chút nào.

    Vào đầu giờ trưa hai cha con trải tấm nhựa ra đường và ngồi ăn bữa trưa nguội lạnh. Anh nhìn con.

    - Con đang định nói gì à? – anh hỏi.

    - Vâng.

    - Nhìn con không vui.

    - Con ổn mà

    - Khi chúng ta cạn kiệt đồ ăn, con sẽ có nhiều thời gian để nghĩ về việc đó hơn.

    - Thằng bé không đáp. Họ lặng lẽ ăn. Thằng bè nhìn ngược lại con đường vừa đi. Một lúc sau nó nói:

    - Con biết nhưng con sẽ không nhớ đến nó như cách của cha

    - Có thể thế.

    - Con không nói là cha đã làm sai.

    - Kể cả là con có nghĩ thế đi chăng nữa.

    - Không có vấn đề gì cả. Ừ - anh đáp – Trong những thời điểm như thế này thì lang thang trên đường sẽ không có nhiều chuyện tốt đẹp lắm.

    - Cha không nên cười ông ấy.

    - Cha biết

    - Ông ấy sắp chết rồi.

    - Cha biết

    - Cha con mình đi được chưa?

    - Được – anh nói.

    Tôi hôm đó anh tỉnh dậy trong đêm đen lạnh giá và ho đến xé phổi. Anh cuối người trên đống than sắp tàn và cố gắng thổi cho lửa bùng lên. Anh cho thêm cây củi rồi đứng dậy, đi cho đến khi thấy đám lửa chỉ còn là một đốm bập bùng. Anh quỳ cuống trên những xác lá khô và tro bụi với tấm chăn quấn quanh vai. Sau một lúc thì cơn ho của anh đỡ hơn. Anh nghĩ đến lão già đang ở đâu đây. Anh nhìn về phía lều của hai cha con ẩn sau những hàng cây. Anh hi vọng con đã ngủ lại. Anh quỳ gập người trên nền đất, hai tay nắm vào đầu gối khò khè thở. Anh rên rỉ: Mình sắp chết, có ai đó nói cho mình biết mình sẽ chết như thế nào không nhỉ?

    Ngày hôm sau hai cha lại tiếp tục cuộc hành trình vất vả đến tận tối mịt. Anh chẳng tìm được nơi nào an toàn đủ để hai cha con có thể nhóm lửa. Khi nhấc cái thùng nước lên, anh thấy nó nhẹ đi rất nhiều. Anh ngồi xuống vặn cái van nhưng nắp van đã mở sẵn. Anh xoay núm trên cái tạo nhiệt mà anh đã lắp vào. Chẳng có gì cả. Anh xem lại cả hai cái van và khớp nối, áp thùng vào tai và lắc thử và lắng nghe. Cái thùng rỗng không. Anh ngồi thụp xuống nhắm nghiền mắt, nắm tay chống lên trán. Một lúc sau, anh ngẩng đầu thừ người nhìn trân trân vào trong rừng đêm lạnh giá.

    Khuya hôm đó, hai cha con ăn bữa tối nguội ngắt với bánh ngô, đậu và xúc xích đóng hộp. Thằng bé hỏi cha làm sao thùng nước lại hết nhanh nhưng anh không bảo sao cả.

    - Cha bảo là nó sẽ được nhiều tuần cơ mà?

    - Ừ

    - Nhưng mới được có vài ngày.

    - Ừ, cha đã tính sai.

    Họ lại lặng lẽ ăn. Sau một hồi thằng bé hỏi.

    - Có phải tại con đã quên không vặn hết van không cha?

    - Đấy không phải lỗi của con, đáng lẽ cha phải đã kiểm tra lại.

    Thằng bè đặt chiếc đĩa xuống tấm nhựa quay người nhìn ra xa.

    - Đấy không phải lỗi của con, con trai. Con phải khóa hai van thật chặt nhưng đúng ra thì những chỗ nối đấy phải được bịt chặt bằng băng dính vì không thì nó sẽ bị rò, nhưng cha đã không làm thế. Đấy là lỗi của cha. Cha đã không bảo với con.

    - Chúng ta không có băng dính mà.

    - Con trai, con không có lỗi

    Họ nặng nề lê bước, dặt dẹo và bẩn thủi như những thằng nghiện trên đường. Quấn chặt chăn quanh người. Hơi thở của họ tỏa ra thành một màn khói mờ trước mặt. Những tàn tro đen luồng qua từng bước chân mệt mỏi. Những cơn gió lốc lạnh buốt bới tung hàng đám tro bụi mù mịt, họ băng qua một vùng đồng bằng duyên hải rộng lớn để tìm chỗ trú ẩn. Một cái nhà, một cái lán hay chỉ một cái hốc bên vệ đường thôi cũng được. Hai cha con trùm chăn lên đầu. Bầu trời ban trưa đen kịt như một cái vòm hầm của địa ngục. Anh ôm chặt con trong cái lạnh thấu xương: Đừng nản lòng con trai, cha con mình sẽ ổn thôi.

    Đất ở đây cằn cõi và bị xói thành những rãnh sâu. Những sinh vật chết phơi đầy trên nền than tro. Những bãi xương vô danh. Những căn nhà ở đây đã bị tróc hết lớp sơn ngoài, còn lớp ván thì đã bung ra lủng liểng trên mấy cái đinh. Con đường đang dần dốc xuống một khu rừng những cây kudzu chết. Một đầm lầy đầy xác những cây sậy nổi lều phều trên mặt nước. Tại rìa của vùng đồng bằng xa xa, màn sương mù mỏng ảm đạm dâng lên tưởng như không phân biệt được đâu là đât đâu là trời. Đến tầm qua trưa một chút thì tuyết bắt đầu rơi. Hai cha con lôi bạt ra che. Chân họ giẫm lạo xạo trên nền tuyết.

    Đã nhiều tuần nay anh ngủ ít. Một buổi sáng nọ anh mở mắt không thấy con đâu. Anh bật dậy vơ lấy khẩu súng, tìm quanh nhưng không thấy tăm hơi thằng bé đâu. Anh quay trở lại lều đi giầy vào và tiến ra gần bìa rừng. Phía đông bình minh giống như một người khác lạ đang chuẩn bị bắt đầu cuộc hành trình. Lạnh lẽo. U ám. Anh nhìn thấy con. Thằng bé đang chạy băng qua cánh đồng.

    - Cha ơi, thằng bé gọi, có một đoàn tầu nằm trong rừng kìa.

    - Một đoàn tầu ư?

    - Vâng.

    - Một đoàn tầu thật?

    - Vâng, cha đến đây đi.

    - Con đã không leo lên nó chứ?

    - Không, con chỉ xem nó một tí thôi. Cha đến đi.

    - Có ai ở đây không?

    - Không. Con không chắc. Để con đưa cha đi xem.

    - Nó là đầu xe lửa hả con?

    - Vâng một cái đầu tầu to lắm.
     
  6. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 15

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai cha con băng qua cánh đồng và tiến vào khu rừng. Có một đường ray xe lửa nằm trên một dải đất được đắp cao ở giữa cánh đồng và đâm xuyên qua cánh rừng. Đấy là một cái tầu hỏa chạy bằng máy phát điện điêzen có tám toa chở khác nối đằng sau. Anh nắm tay và bảo con:

    - Cha con mình sẽ ngồi đợi và xem thế nào.

    Họ ngồi ngay trên đường ray và chờ đợi xem có động tĩnh gì không nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Anh đưa khẩu súng cho con.

    - Không, cha cầm nó đi

    - Nào, đây không phải là lúc tranh cãi. Con cầm lấy đi.

    Thằng bé đỡ lấy khẩu súng, ngồi xuống rồi thả nó vào lòng trong khi anh đi xuống rìa bên phải của đường ray và xem xét con tầu. Anh vòng sang phía bên kia đi dọc theo dọc thân tầu. Anh đi hết một vòng. Đến toa cuối cùng anh ra hiệu cho con. Thằng bé đứng dậy giắt súng vào thắt lưng và chạy đến với cha.

    Mọi thứ được bao phủ trong một lớp bụi dày. Lối đi giữa những hàng ghế đày những rác rưởi. Những cái vali nằm mở tung lên trên những hàng ghế. Chúng chắc đã bị kẻ nào đó dỡ từ trên giá để đồ xuống, lục lọi và vơ vét hết từ rất lâu rồi. Hai cha con vào toa ăn thì tìm thấy một đống bát đĩa bằng giấy. Anh phủi bụi và đút chúng vào trong túi áo. Chẳng còn gì nữa.

    - Cha ơi, tầu này đi đâu mà lại qua đây?

    - Cha cũng không biết nữa. Có lẽ một nhóm người đã định lái nó về phí nam nhưng đến đây thì hết nhiên liệu.

    - Thế nó phải ở đây lâu lắm rồi cha nhỉ?

    - Ừ, cha cũng nghĩ thế. Chắc phải lâu lắm rồi.

    Đến toa cuối cùng, hai cha con xuống đi dọc đường ray để quay lại đầu tầu. Gỉ sét. Từng mảng sơn tróc ra. Hai cha con ra ghế lái. Anh phủi bụi và đặt con ngồi trước bảng điều khiển nhìn rất đơn giản. Chẳng phải điều khiển gì phức tạp, chỉ cần đẩy cần điều chỉnh lên các nấc. Anh giả làm tiếng tàu hỏa hỏa xình xịch và tiếng còi tàu nhưng anh không chắc là nó có ý nghĩa gì đó với thằng bé không. Sau một hồi, hai cha con đã im lặng ngồi nhìn đường ray qua tấm kính mờ bụi. Nếu như có cơ hội nhìn thấy những thế giới khác họ biết mọi chuyện sẽ vẫn thế thôi. Đoàn tầu này sẽ vẫn ở đây, từ từ bị hủy hoại bởi thời gian và sẽ chẳng có con tàu nào chạy nữa.

    - Cha ơi, hai cha con mình đi đi.

    - Ừ. Chúng ta đi thôi.

    Hai cha con lại lên đường. Họ bắt đầu nhìn thấy rất nhiều những ụ đá hình tháp đánh dấu lối đi ở bên đường. Chúng được kí hiệu theo tiếng Gipxi. Lần đầu tiên anh thấy nó. Anh dừng lại xem xét nó trong giây lát. Kiểu ký hiệu này phổ biến ở miền bắc. Nó là dấu hiệu của những thành phố bị cướp bóc và tàn phá, những thông điệp tuyệt vọng cho những người thân yêu đã chết. Đến lúc ấy, tất cả những nguồn lương thực đều cạn kiệt, những kẻ giết người lẩn khuất khắp nơi. Thế giới sẽ nhanh chóng trở thành nơi cư ngụ của những kẻ ăn thịt trẻ con ngay trước mặt cha mẹ chúng. Các thành phố nằm dưới sự thống trị của những kẻ bịt mặt lẩn lút giữa đống đổ nát, trườn đi trong những cái cống với đôi mắt trắng dã láo liên và hàm răng trắng nhởn, nham nhở nghiến ken két. Chúng cầm theo những cái lưới đựng những hộp thức ăn đã cháy đen, trông như những kẻ mua bán đến từ địa ngục. Những luồng gió rít lên thê lương, bốc lên từ một cơn lũ những bụi đá và tro than chẳng khác gì thứ chất lỏng phun ra từ vói của những con mực đang loang ra dưới đáy biển lạnh lẽo. Bóng tối sụp xuống. Những kẻ bới rác với đuốc trong tay sục sạo những hẻm núi dốc. Chúng thụt xuống những cái hố đen ngòm lẫn trong đám tro bụi và những cái hố khép lại nhanh như chớp. Trên đường, những người lang thang gục ngã và chết. Trái Đất chỉ còn là một hành tinh chết trôi nổi quanh mặt trời. Nó cứ lặp lại quỹ đạo vố vị của nó như mọi hành tinh vô danh trong vũ trụ đen thăm thẳm.

    Trước khi hai cha con đến được bờ biển thì lương thực đã cạn. Những vùng quê mà họ đặt chân đến đã bị vơ vét sạch vài năm trước và họ chẳng tìm được gì trong những ngôi nhà bên đường. Anh tìm thấy một cuốn danh bạ điện thoại trong một cây xăng. Anh lấy bút chì viết tên của thị trấn lên tấm bản đồ của hai cha con. Họ ngồi bên lề đường trước một tòa nhà, ăn bánh và nhìn xung quanh, nhưng chẳng tìn thấy dấu hiệu gì có vẻ như đã từng có một thị trấn ở đây cả. Anh xem xét lại khu vực đó một lần nữa. Anh nghĩ có lẽ hai cha con đang ở cách thị trấn đó khoảng 50 dặm. Anh đánh dấu lên bản đồ.

    - Đây là hai cha con mình này, anh nói.

    Thằng bé rà tay theo bản đồ tìm đến biển.

    - Thế mất bao lâu để đến đó hở cha?

    - Khoảng hai mà cũng có thể là ba tuần.

    - Nó có màu xanh ạ?

    - Biển ư? Cha cũng không rõ nữa. Ngày trước thì là thế

    Thằng bé gật đầu vẻ hiểu biết, mắt không rời tấm bản đồ. Anh nhìn con chăm chú. Thằng bé nó biết nghĩ tất cả những chuyện này là thế nào. Nó mải mê xem tấm bản đồ như một đứa bé con, đặt một ngón tay lên nơi mà trước đây cả gia đình sống. Sau đó thằng bé lôi quyển danh bạ điện thoại ra tra của gia đình anh. Tên của họ giữa những tên khác. Mọi thứ cứ như vẫn ở đúng của nó ngày xưa. Cứ như là thế giới này vẫn vậy.

    - Thôi nào, cha con mình đi thôi – anh nói.

    Vào quá trưa thì trời bắt đầu mưa. Họ rời khỏi con đường và băng qua cánh đồng để đến một kho và qua đêm ở đo. Nền nhà kho bằng bê tông và cuối nhà kho là một số những thùng thép rỗng không. An lấy lấy cái thùng ấy ra chặn cửa và nhóm lửa. Anh dỡ những tấm bìa ra, làm thành một cái ổ cho hai cha con. Tiếng mưa gõ nhịp suốt đêm trên mái nhà bằng thép. Khi anh tỉnh dậy, lửa đã tàn và trời rất lạnh. Thằng bé cuốn chăn ngồi đó.

    - Sao thế con?

    - Không ạ, chỉ là một cơn ác mộng thôi.

    - Con mơ thấy gì thế?

    - Không có gì ạ.

    - Con không sao chứ?

    - Không ạ.

    Anh choàng tay qua người ôm lấy con. Không vấn đề gì đâu con.

    - Con đã khóc nhưng cha không tỉnh dậy.

    - Cha xin lỗi con. Chỉ tại cha mệt quá.

    - Không, trong mơ cơ.

    Sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã tạnh mưa. Anh lắng nghe những giọt nước nhỏ tí tách ngoài thềm. Anh nhấc mông khỏi nền xi măng nhà kho và nhìn vùng quê xám xịt qua những kẽ ván. Thằng bé vẫn đang say ngủ. Mái dột làm nước nhỏ thành vũng trên sàn. Mỗi khi một giọt nước nhỏ xuống, một cái bong bóng lại xuất hiện, trượt trên mặt nước, vỡ tan. Tại một thị trấn ở Piedmont hai cha con cũng đã ngủ trong một nhà kho như thế này và cũng nằm nghe tiếng mưa rơi. Ở đó có một cái quầy thuốc cũ kỹ với cái quầy hàng bằng cẩm thạch, những cái ghế đẩu có lớp nệm bằng nhựa tả tơi, chằng chịt băng dính. Thuốc men đã bị vơ hết trước đó nhưng cửa hiệu vẫn còn nguyên vẹn một cách đáng ngạc nhiên. Những thiết bị điện đắt tiền vẫn ở yên trên giá. Anh đứng nhìn xung quanh cửa hiệu. Toàn những thứ linh tinh lặt vặt Còn những cái này. Anh lập tức túm lấy tay con và kéo thằng bé ra ngoài nhưng thằng bé đã kịp nhìn thấy. Một cái đầu người đặt ở cuối quầy. Khô đét. Đội một cái mũ lưỡi trai. Hai tròng mắt khố quắt trong hai hốc. Không biết con anh có mơ thấy hình ảnh đó không. Anh đứng dậy rồi quỳ xuống thổi đống lửa đã tàn rồi đốt luôn phần còn lại của tấm bìa. Ngọn lửa lại bùng lên.

    - Họ là những người xấu phải không cha? Cha đã từng nói thế.

    - Ừ.

    - Thế những người đó đâu rồi?

    - Họ đang lẩn trốn đâu đó.

    - Họ trốn ai ạ?

    - Trốn lẫn nhau.

    - Thế họ có đông không ạ?

    - Chúng ta không biết con ạ.

    - Nhưng chắc là ít nhất phải có vài người đúng không ạ?

    - Ừ, một vài.

    - Thật ạ? Ừ, thật.

    - Nhưng cũng có thể là không phải chứ ạ?

    - Cha nghĩ là nó đúng.

    - Ồ.

    - Con không tin cha à?

    - Có chứ ạ.

    - Ừ.

    - Lúc nào con cũng tin cha.

    - Cha không thấy thế.

    - Có mà, con phải tin chứ.

    Hai cha con lặng lẽ lội bùn dể sang phía đường cao tốc. Mùi của đất và tro ẩm bốc lên trong mưa. Dọc hai bên đường, nước mưa đen ngòm chảy trong những cái rãnh. Từ một cửa cống, nước tuôn ồng ộc thành một cái ao nhỏ. Một con hươu nhựa nằm lăn lốc trên một khoảnh sân. Ngày hôm sau, vào buổi chiều muộn, hai cha con đặt chân đến một thị trấn. Thình lình ba người đàn ông bước ra từ đằng sau một chiếc e tải và chặn đường họ. Gầy còm và rách rưới. Trên tay là những ống nước dài.

    - Trong túi chúng mày có gì?

    Anh rút súng ra chĩa vào bọn chúng. Chúng đứng yên. Thằng bé níu chặt lấy áo anh. Im lặng. Anh đẩy xe lên trước và bọn chúng dạt vào lề đường. Sau đó anh để thằng bé kéo còn anh vừa đi giật lùi vừa giữ nguyên khẩu súng. Anh cố tỏ ra mình là một tay súng giết người chuyên nghiệp trong khi tim anh đập như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Anh biết mình sắp lên cơn ho. Bọn người kia thận trọng tiến ra giữa đường nhìn chằm chằm vào hai cha con. Anh giắt súng trở lại vào trong lưng rồi nắm lấy chiếc xe. Lên đến đỉnh dốc, anh quay lại nhìn, bọn chúng vẫn ở đó. Một lúc sau, anh bảo con đẩy xe họ còn mình thì quay lại nhìn xuống con đường nhưng bọn chúng đã biến mất. Thằng bé sợ chết khiếp. Anh đặt khẩu súng lên trên tấm bạt, nắm lấy xe và hai cha con tiếp tục lên đường.

    Hai cha con chọn một chỗ giữa cánh đồng nằm theo dõi con đường nhưng không ai bám theo. Trời lạnh cắt da cắt thịt. Khi trời tối quá không nhìn thấy được gì nữa họ mới lập cập quay trở lại con đường. Anh lôi chăn ra, cuốn vào người và con rồi đi tiếp. Dưới chân hai cha con cảm nhận được rõ mặt đường. Một cái bánh xe cứ kêu cọt kẹt liên tục. Chẳng làm thế nào được cả. Hai cha con nhọc nhằn lê bước trong vài tiếng đồng hồ và loạng choạng ngã gục vào một bụi cây bên đường, run cầm cập, kiệt sức trên nền đất lạnh và ngủ cho đến sáng. Khi tỉnh dậy, anh ốm.

    Anh lên cơn sốt. Hai cha con lánh vào trong khu rừng như những kẻ tị nạn. Không có chỗ nào có thể nhóm lửa. Không có chỗ nào an toàn. Thằng bé ngồi bệt trên đám lá nhìn trân trân vào anh. Nước mắt ngân ngấn.

    - Cha ơi, cha sắp chết ạ? – Thằng bé nức nở - cha sắp chết à?

    - Không đâu con của cha, cha chỉ ốm thôi

    - Con sợ lắm.

    - Cha biết nhưng cha không sao cả đâu. Cha khỏe lại ngay ấy ma. Rồi con xem.

    Trong những giấc mơ của anh, thế giới trở lại nguyên vẹn và tươi sáng. Những người thân, họ hàng đã chết từ lâu của anh đứng nhìn anh với nụ cười. Chẳng ai nói một lời. Anh nghĩ về cuộc đời mình. Xa lắm rồi. Trong một ngày âm u tại một thành phố ngoại quốc, anh đứng bên cửa sổ và nhìn xuống đường. Trên chiếc bàn gỗ đằng sau anh, một cây đèn nhỏ hắt ra ánh sánh vàng vọt. Mặt bàn đầy giấy tờ và sách vở. Trời bắt đầu đổ mưa. Chú mèo ở góc phố quay đầu nhỏm dậy băng qua vỉa hè đến ngồi dươi mái hiên của một quán cà phê. Ở đó, trên chiếc bàn có một người phụ nữ đang ngồi gục đầu trên cánh tay. Anh lại nhì thấy mình vài năm sau đứng giữa đống hoang tàn của thư viện. Những quyển sách cháy đen nằm trên vũng nước. Những giá sách ngổn ngang. Hàng ngàn, hàng ngàn dãy. Tàn bạo. Anh nhặt lên một cuốn sách, đấm mạnh vào nó. Nắm tay của anh xuyên qua những lớp giấy rộp lên do sức nóng. Anh đã chẳng nghĩ được rằng những điều đó lại làm nên thế giới ngày hôm nay. Anh lấy làm ngạc nhiên. Người ta đã tạo dựng nơi đây vì người ta mong mỏi nó kia mà. Anh buông rơi quyển sách, nhìn một lần cuối tất cả mọi thứ trong ánh sáng ảm đạm của bụi tro rồi tìm đường ra khỏi đống đổ nát.

    Ba ngày. Rồi bốn. Anh ngủ khó khăn. Những cơn ho xé phổi hành hạ anh, đánh thức anh. Anh gò người khò khè trong cái lạnh. Chật vật hớp lấy từng ngụm không khí.

    - Cha xin lỗi con – anh nói trong màn đêm lạnh lùng.

    - Rồi sẽ ổn mà cha ơi. Thằng bé nói với anh.

    Anh thắp một cái đèn dầu và đặt nó lên một tảng đá. Xong anh đứng dậy và lần từng bước qua những đám lá. Thằng bé thì thào xin anh đừng đi.

    - Cha đi loanh quanh một chút thôi. Không xa đâu. Cha sẽ vẫn nghe thấy khi con gọi mà – anh bảo con.

    Nếu đèn tắt anh sẽ không tìm được đường quay lại. Anh ngồi xuống thảm lá trên đỉnh đồi và nhìn vào màn đêm. Chẳng trông thấy gì cả. Không có cả gió. Ngày trước có một lần anh đi lang thang như thế này, vạn vật lúc ấy vẫn nhìn thấy được, nhờ nhờ dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ. Chúng trở nên méo mó trong đêm. Anh đã từng lang thang qua một dòng sông hoặc để bản thân chìm trong một góc tối của thành phố bị thiêu trụi. Thỉnh thoảng vào buổi sáng, anh sẽ quay trở lại những chỗ ấy với chiếc ống nhòm trong tay và quan sát nhũng anh không bao giờ phát hiện được gì cả, dù chỉ là một dải khói mỏng.

    Anh thấy mình đang đứng ở rìa của một cánh đồng mùa đông, giữa một đám người cục mịch. Chúng tầm tuổi con anh. Có lẽ lớn hơn một chút. Anh quan sát chúng bẩy những hòn đá bên sườn đồi bằng cuốc chim và để lộ ra một ổ rắn to có đến hàng trăm con. Chúng đang xoắn lại với nhau như để tìm hơi ấm. Ánh sáng gay gắt tràn vào, chúng bắt đầu uốn éo tấm thân màu xám một cách chậm rãi. Ổ rắn trông như một bộ óc khổng lồ của một con quái vật bị phơi ra giữa ban ngày. Những kẻ kia tưới xăng lên và thiêu sống lũ rắn. Hình như họ không quan tâm niêm việc đó là để diệt trừ cái ác vì họ không có cách gì khác để bảo vệ bản thân trước nó. Những con rắn bốc cháy rít lên thảm thiết, một số con quằn quại trườn ra nền hang hắt ánh sáng lên những hốc trên vách. Chúng chỉ biết rít lên chứ không thể gào thét. Những người đàn ông im lặng chăm chú nhìn lũ rắn oằn oại trong lửa và từ từ cháy đen. Khi đã xong họ lặng lẽ tách nhau ra trở về với mái ấm nơi bữa ăn khuya đang đợi. Ngoài trời đang là mùa đông.

    Một đêm nọ, thằng bé choàng tỉnh trong cơn mơ và không chịu kể cho anh nghe về cơn ác mộng.

    - Con không cần phải kể cho cha nghe. Không sao đâu.

    - Con sợ cha ạ.

    - Ổn rồi mà.

    - Không, con không thấy ổn.

    - Đấy chỉ là mơ thôi.

    - Con sợ thật mà.

    - Cha biết.

    Thằng bé quay mặt đi. Anh ôm con vào lòng.

    - Con trai con nghe cha nói này.

    - Dạ.

    - Nếu con mơ những thế giới không tồn tại hoặc sẽ không bao giờ có mà con lại cảm thấy hạnh phúc thì tức là lúc đó con đã từ bỏ tất cả. Con hiểu không. Con không thể tử bỏ. Cha sẽ không để con từ bỏ.

    Khi họ tiếp tục lên đường, anh đã trở nên rất yếu. Anh cảm thấy tim mình không còn khỏe nữa và chỉ nói được thều thào. Sau cơn tiểu chảy người anh dơ dáy. Anh tựa người vào xe đưa con mắt hốc hác tụt sâu vào trong hố mắt nhìn con. Giữa hai cha con có thể khoảng cách. Anh cảm nhân được điều đó. Hai ngày sau, hai cha con đặt chân đến một vùng quê đã bị cơn bão lửa tràn qua hàng dặm. Toàn bộ mặt đất cứ như bề mặt của một chiếc bánh được phủ không phải là kem mà là hàng mét tro bụi và rất khó có thể kéo xe qua. Lớp nhựa đường dưới chân nứt nẻ ra vì hơi nóng. Anh tựa người vào xe quan sát khắp con đường. Những thân cây nằm ngổn ngang. Nước mưa đã làm bụi tro quánh lại thành một lớp bùn xám xịt. Một vùng đất chết.

    Qua một cái ngã tư, hai cha con thấy một vùng hoang mạc mở ra trước mắt. Trên đường rất nhiều hành lý của những khách du lịch đã bị cháy cách đây nhiều năm. Ba lô, túi xách. Mọi thứ nóng chảy thành những cục nhựa màu đen. Đây đó là dấu vết của những đồ đã được mọi ra bởi những kẻ bới tìm thức ăn. Đi thêm một dặm nữa, hai cha con bắt đầu thấy nhiều thây người. Những thi thể bị chôn vùi một nửa dưới lớp tro quánh, co quắp, hai hàm mở toang hoác. Anh đặt tay lên vai con.

    - Nắm tay cha nào con. Con không nên nhìn.

    - Con nhìn thì nó sẽ ở trong đầu con mãi ạ?

    - Ừ.

    - Không vấn đề gì cha ạ.

    - Không vấn đề thật ư?

    - Họ nằm ngay đấy mà.

    - Cha không muốn con nhìn đâu.

    - Nhưng kể cả cha không muốn con nhìn thì họ vẫn nằm đó mà.

    Anh ngừng lại dựa vào xe, nhìn khắp con đường rồi nhìn con. Trông thằng bé bình tĩnh một cách lạnh lùng.

    - Cha con mình cứ đi thôi.

    - Ừ.

    - Họ đang cố gắng thoát khỏi đấy phải không cha?

    - Ừ.

    - Sao họ cứ bám lấy con đường này hả cha?

    - Vì tất cả đã bị thiêu rụi. Không còn lựa chọn nào nữa con ạ.

    Hai cha con đi giữa những hình thù nhìn như là xác ướp. Da trên mặt hai cha con nẻ toác, đen xỉn, căng trên hai cái đầu như hau cái đầu lâu. Trên cơ thể, da nhão ra, bèo nhèo trên các khớp xương. Trông họ như bị hút cạn sức sống. Chân họ cứ lê mãi trên con đường hun hút mặc cho những đám bụi tro cuốn vào thân thể và sự im lặng đến đáng sợ.

    Hai cha con đi ngang qua một thôn làng đã trụi sạch. Vài thùng chứa bằng kim loại lăn lóc. Những ống khói bằng gạch đen kịt. Những cái hố, những cái hào đầy gạch vụn và thủy tinh nóng chảy. Mớ dây điện đã bị chảy thành những cục gỉ sét nằm vương vãi trên đường. Anh vừa đi vừa ho cật lực. Anh thấy con nhìn mình đăm đăm. Anh sắp như những gì mà con đang nghĩ đế. Ồ có lẽ anh nên thế.

    Hai cha con ngồi giữa đường và ăn bánh mì rán cứng như bánh quy và một hộp cá ngừ cuối cùng. Thằng bé dốc ngược cái hộp lên cho nước sốt chảy ra hết sau đó nó đặt cái hộp lên lòng rồi dùng ngón trỏ vét bên trong hộp và mút.

    - Cẩn thận kẻo đứt tay đấy con. -Anh nói.

    - Con biết mà. Lúc nào cha cũng nói thế.

    - Ừ.

    Anh nhìn con liếm nắp hộp. Rất kỹ. Giống như một con mèo đang liếm láp hình ảnh phản chiếu trong gương của mình.

    - Cha đừng nhìn con nữa đi.

    - Ừ, cha xin lỗi.

    Thằng bé uốn cong cái nắp hộp xuống và cắm nó trên mặt đường, ngay trước mặt.

    - Gì vậy cha?

    - Không có gì cả.

    - Cha nói cho con đi.

    - Cha nghĩ là cha con mình đang bị bám đuôi.

    - Con cũng nghĩ thế.

    - Con cũng nghĩ thế sao?

    - Vâng. Con nghĩ là cha sẽ nói thế. Thế cha định làm gì?

    - Cha không biết.

    - Thế cha nghĩ sao?

    - Có lẽ chúng ta cứ đi nhưng chúng ta nên vứt rác cẩn thận hơn.

    - Vì chúng sẽ làm họ nghĩ là chúng ta có nhiều đồ ăn phải không ạ?

    - Ừ.

    - Và họ sẽ tìm cách giết chúng ta.

    - Họ sẽ không giết được cha con mình đâu.

    - Họ có thể lắm chứ.

    - Hai cha con mình sẽ không sao cả.

    - Có thể.

    - Cha nghĩ là chúng ta nên nấp ở trong đám cỏ để xem họ là ai.

    - Và xem có bao nhiêu tên nữa.

    - Ừ.

    - Thế cha định ở đâu?

    - Nếu chúng ta đi qua con sông thì chúng ta sẽ lên phía trên mấy cái dốc để nhìn ra đường dễ hơn.

    - Vâng.

    - Chúng ta sẽ tìm một nơi nào đó.

    Hai cha con đứng dậy và xếp chăn lên xe.

    - Nhặt cái hộp lên đi con. -Anh bảo con.

    Đến xế chiều thì hai cha con mới đến được bờ sông. Họ đẩy xe qua cầu và vào khu rừng để tìm chỗ giấu xe, nơi khó bị phát hiện. Họ đứng nhìn lại con đường bụi mù.

    - Hay là chúng ta cho xe xuống gầm cầu ạ?

    - Không được đâu, có thể họ sẽ xuống đó để lấy nước.

    - Cha nghĩ họ cách mình bao xa?

    - Cha chịu.

    - Nếu họ đến đây mà trời tối quá rồi thì sao ạ?

    - Trời chưa tối lắm đâu, cha con mình tìm chỗ quan sát thôi.

    Sau khi giấu xong chiếc xe, hai cha con vác chăn ngược lên con dốc gập ghềnh, chọn một chỗ khuất gió sau rặng cây cách đường độ nửa dặm và vùi mình xuống đó. Họ cuốn chặt chăn quanh người và thay nhau nhìn ra đường. Một lát sau, thằng bé ngủ mất. Anh nằm cho đến khi thiu thiu ngủ thì đột nhiên anh nhìn thấy một bóng người xuất hiện trên đỉnh dốc bên kia cầu. Rồi thêm hai người nữa. Và người thứ tư. Họ đứng chụm lại với nhau rồi lại đi tiếp. Anh chỉ có thể phân biệt được lờ mờ những dáng người trong đám bụi dầy. Anh nghĩ bọn họ có thể dừng chân quanh đây và đáng lẽ anh phải nấp ở một nơi xa đường hơn. Nếu họ dừng lại nghỉ trên cầu thì hai cha con sẽ chết cong mất. Ba người đàn ông và một phụ nữ. Anh có thể thấy dáng lảo đảo của người phụ nữ. Cô ta đang mang bầu. Những người đàn ông thì mang ba lô sau lưng còn người phụ nữ thì xách một va li nhỏ. Dáng đi của họ có một vẻ gì đó rất khốn khổ. Chắc là họ đang lạnh cóng. Hơi thở mờ mịt khói. Họ băng qua cầu và tiếp tục đi xuống con đường, rồi lần lượt bị màn đêm nuốt chửng.

    Dù sao đó cũng là một đêm dài. Khi trời sáng đủ rõ, anh đi giày vào, đứng dậy khoác chăn lên người và bước ra nhìn khắp con đường. Những đường ống tưới tiêu cũ nhấp nhô trong màn bụi. Có lẽ là họ đã trồng bông ở đó. Anh xuống chỗ giấu xe lấy bản đồ, một chai nước và một lon hoa quả rồi quay lại ngồi cuộn trong chăn xem xét tấm bản đồ. Thằng bé vẫn đang ngủ.

    - Cha luôn nghĩ là hai cha con mình đã đi được nhiều hơn thực tế.

    Anh chỉ vào tấm bản đồ.

    - Chúng ta đang ở đây.

    - Có thể xa hơn không ạ?

    - Không, đây thôi.

    - Vâng.

    Anh cuộn tấm bản đồ đã nát ươm.

    - Ok.

    Hai cha con ngồi nhìn con đường qua rặng cây.

    Bạn nghĩ rằng cha bạn vẫn đang ở quanh đây và quan sát bạn. Có một quyển sổ đang theo dõi bạn? Để làm gì? Không có quyển sổ như thế đâu và cha bạn đã khuất núi từ lâu rồi.

    Hai cha con đi qua những cánh rừng thông, sang những cánh đồng sồi cổ thụ rồi lại đến những rừng thông. Những cây mộc lan. Chúng đã chết hết cả. Anh lượm một cái lá to và dày vo khẽ trong lòng bàn tay. Chúng vụn ra thành bột và những vụn tro li ti ấy tuôn ra lả tả từ những kẽ ngón tay của anh.

    Sáng hôm sau, hai cha con lên đường từ rất sớm. Chưa đi được bao xa thì thằng bé bỗng khựng lại níu lấy tay anh. Phía đằng trước có một dải khói bay lên. Hai cha con đứng yên.

    - Mình làm gì bây giờ hở cha?

    - Có lẽ là chúng ta nên nhìn thử một chút.

    - Hay chúng ta cứ đi thôi.

    - Nếu họ cũng đi cùng đường với chúng ta thì sao?

    - Thì sao ạ?

    - Thì họ sẽ ở ngay sau lưng chúng ta. Cha muốn biết xem đó là ai.

    - Nếu đấy là lại là một toán lính thì sao ạ.

    - Đám củi ấy nhỏ thôi.

    - Sao chúng ta không đợi hở cha?

    - Chúng ta không đợi được con ạ. Chúng ta sắp hết thức ăn rồi. Chúng ta phải đi tiếp.

    Họ để xe lại trong rừng. Anh xem lại khẩu súng và vị trí của đám lửa. Hai cha con căng tai ra nghe ngóng. Tia khói ngoằn ngoèo bay thẳng lên trời. Trời lặng gió. Vạn vật lặng như tờ. Thảm lá dưới chân hai cha con êm và mềm do trận mưa vừa qua. Anh quay lại nhìn con. Anh đọc được sự sợ hãi trên khuôn mặt nhỏ bé và lem luốc của con. Hai cha con tiếng lại gần nhưng vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Thằng bé nắm chặt tay anh. Anh cúi xuống và vòng cánh tay qua người. Hai cha con đứng im nghe ngóng trong một lúc lâu.

    - Cha nghĩ là họ bỏ đi rồi con ạ - anh thì thầm một lúc lâu.

    - Sao ạ?

    - Cha nghĩ là họ đã đi rồi. Có lẽ họ đã phát hiện ra cha con mình.

    - Đấy có thể là một cái bẫy.

    - Ừ. Chúng ta đợi một lúc nữa xem sao.

    Hai cha con ngồi đợi và nhìn chăm chú dải khói qua những thân cây. Gió bắt đầu thổi, lay động làn khói làm chúng lan tỏa. Họ có thể ngửi thấy mùi khói và mùi nấu nướng.

    - Cha con mình đến gần hơn một chút nữa nào.

    - Con nắm tay cha nhé.

    - Đây con.

    - Rừng toàn những thân cây cháy. Chẳng nhìn thấy một ai cả. Cha nghĩ là họ đã nhìn thấy chúng ta rồi. Và họ thấy ta có súng thế là họ bỏ đi.

    - Họ bỏ cả đồ ăn đang nấu ạ?

    - Ừ. Chúng ta xem qua một chút nhé.

    - Cha ơi con sợ lắm.

    - Không có ai đâu con. Không có chuyện gì đâu.

    Họ tiến dần ra khoảng rừng trống, thằng bé nắm chặt tay anh. Những người đó đã mang tất cả mọi thứ đi trừ một cái xiên trên than. Anh đứng xem xét xung quanh rồi đột nhiên thằng bé úp chặt mặt vào lưng anh. Anh vội ngoảnh lại xem có chuyện gì xảy ra.

    - Gì thế con? Sao vậy con?

    Người thằng bé run lên bần bật.

    - Ôi cha ơi, thằng bé nói.

    Anh quay lại nhìn con một lần nữa. Ở cái xiên đặt trên than là một cơ thể cháy dở của một đứa bé mới sinh đã bị chặt đầu và moi hết nội tạng. Anh xốc con lên vừa chạy lên đường vừa ôm thằng bé thật chặt.

    - Cha xin lỗi, con trai, cha xin lỗi.

    Anh không biết là liệu thằng bé có bao giờ cất được lời nói nữa không. Hai cha con dừng chân bên cạnh một con sông. Anh ngồi bên đống lửa nhìn xuống dòng nước đang chảy vào bóng đêm. Anh biết đây là chỗ không an toàn chút nào vì âm thanh từ dòng sông sẽ thu hút những kẻ khác, nhưng anh nghĩ nó có thể làm cho con cảm thấy vui hơn. Họ đã ăn đến những phần cuối cùng của số thức ăn dự trữ. Anh xem xét tấm bản đố. Anh đo đi đo lại đoạn đường trên tấm bản đồ bằng một sợi dây. Còn xa lắm mới đến được bờ biển. Anh không biết là anh sẽ nhìn thấy gì ở bờ biển nữa. Anh gom những mảnh của tấm bản đồ lại cất vào trong một cái túi nhựa rồi nhìn đăm đăm vào đống than.
     
  7. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 16

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày hôm sau, hai cha con vượt qua một cái cầu hẹp bằng sắt để sang sông và lọt vào một khu nhà máy cũ. Họ vào những căn nhà gỗ nhưng không tìm được gì cả. Chỉ có xác của một người công nhân với bộ quần áo bảo hộ lao động dựa vào cổng. Trông anh ta cứ như là một người đang chuẩn bị thông báo tin tức về ngày nghỉ. Hai cha con đi dọc bứ tường cháy đen của nhà máy, những cửa sổ đã vỡ hết. Những đám bụi đen đang đuổi bắt nhau trước mặt họ.

    Những đồ vật nằm ngổn ngang trên đường. Các thiết bị điện. Đồ gia dụng. Các công cụ. Chúng đã bị bỏ lại từ lâu bởi những kẻ lang thang chết dần chết mòn trên đường. Mộ năm trước đây thôi, thỉnh thoảng thằng bé vẫn còn nhặt những đồ linh tinh và mang theo trên đường một thời gian nhưng bây giờ nó không làm như vậy nữa. Hai cha con ngồi nghỉ, tu hết chỗ nước sạch cuối cùng rồi đặt cái bình xuống mặt đường.

    - Nếu như cha con mình có được đứa bé đó thì nó có thể đi cùng chúng ta.

    - Ừ.

    - Không biết họ đã tìm thấy nó đâu.

    Anh không trả lời.

    - Liệu có còn đứa bé như thế ở đâu không hở cha?

    - Cha không biết. Có lẽ có.

    - Con thấy tiếc về những điều con nói về những người đó.

    - Những người nào hả con?

    - Những người đã bị thiêu cháy. Bị giết trên đường rồi bị thiêu cháy.

    - Cha không biết là con đã nói điều gì tệ.

    - Nó không tê. Chúng ta đi chưa cha?

    - Được rồi. Con lên xe ngồi nhé.

    - Con không sao mà.

    - Lên ngồi một đoạn thôi.

    - Con không muốn. Con ổn mà.

    Một dòng nước lặng lờ qua một dải đất bằng phẳng. Những bãi lấy hai bên đường xám đen và im lìm. Những con sông của vùng duyên hải chảy ngoằn ngoèo qua những vùng canh tác đã bị tàn phá. Hai cha con đi tiếp. Phía trước con đường là một vùng trũng toàn những cây lau sậy.

    - Cha nghĩ là đằng kia có một cái cầu. Có lẽ là qua một con suối.

    - Thế mình có uống được nước ở đây không cha?

    - Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác con ạ.

    - Nó sẽ không làm cha con mình ốm đâu.

    - Cha không nghĩ thế. Có thể là nó cạn rồi con ạ.

    - Con đi lên trước nhé.

    - Ừ.

    Thằng bé lao xuống xuống con dốc. Lâu lắm rồi anh không nhìn thấy con chạy. Tay thì khuỳnh ra, chiếc giày to quá cỡ loẹt quẹt trên đường. Anh cắn môi nhìn con chăm chú.

    Nước chảy rỉ rỉ như một cái rãnh. Anh có thể thấy dòng nước đang chảy xuống phía dưới lớp bê tông của con đường. Anh khoắng thử vao trong nước và xem xét. Anh lấy ra một mảnh vải bịt nó vào miệng bình rồi dìm nó xuống nước cho đến khi đầy. Anh đưa ra trước ánh sáng để nhìn cho rõ. Cũng không đến nỗi tệ. Anh bỏ tấm vải ra và đưa nước cho con.

    - Con uống đi.

    Thằng bé cầm chai tu rồi đưa lại cho anh.

    - Uống thêm đi con.

    - Cha uống một chút đi.

    - Ừ.

    Hai cha con ngồi gạn lọc một hồi và uống cho đến khi căng bụng. Thằng bé nằm vật ra cỏ.

    - Chúng ta phải lên đường thôi con ạ.

    - Con mệt lắm cha à.

    - Cha biết.

    Anh ngồi nhìn con. Hai ngày rồi hai cha con không có gì bỏ bụng. Chỉ trong hai ngày nữa nếu cứ tiếp tục thế này thì họ sẽ lả đi. Anh lách qua những cây sậy lên bờ nhìn ra đường. Tối tăm và chẳng có dấu hiệu gì của sự sống. Cơn gió bốc tro bụi lên khỏi mặt đất. Nơi đây đã từng là mảnh đất màu mỡ. Bây giờ không có một bóng dáng nào của sự sống. Anh chẳng biết mình đang ở nơi nào trên trái đất nữa. Những cái tên, những thành phố, những dòng sông.

    - Hai cha con mình phải đi thôi, đứng dậy đi con, anh nói.

    Càng ngày họ càng ngủ nhiều hơn. Hơn một lần hai cha con tỉnh dậy với tư thế sõng soài trên mặt đường như những kẻ bị tai nạn. Giấc ngủ vùi của cái chết. Anh ngồi dậy lấy khẩu súng. Tối hôm đó, anh đứng tựa vào xe nhìn qua cách đồng xám xịt. Cách đó khoảng một dặm là một ngôi nhà. Thằng bé đã nhìn thấy nó. Ẩn hiện sau màn tro bụi, ngôi nhà giống như hình ảnh của một giấc mơ chập chờn. Anh tựa người vào xe và nhìn con. Họ sẽ phải rất vất vả mới đến được ngôi nhà. Anh lấy chăn và giấu xe. Hai cha con có thể đến được ngôi nhà nhưng sẽ không còn sức để quay lại.

    - Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác con ạ, chúng ta phải xem xét ngôi nhà đó.

    - Con không muốn cha ạ.

    - Hai cha con mình đã không ăn uống gì trong vài ngày rồi.

    - Con không thấy đói.

    - Không, con sắp chết vì đói.

    - Con không muốn đến đó đâu cha ơi.

    - Không có ai ở đó đâu. Cha hứa đấy.

    - Làm sao cha biết.

    - Cha biết điều đó. Vậy thôi.

    - Họ có thể ở đó lắm chứ.

    - Không đâu. Họ không ở đó đâu. Hai cha con mình sẽ ổn thôi.

    Hai cha con quấn chăn vào người rồi băng qua cánh đồng, mang theo khẩu súng và một chai nước. Chánh đồng này đã được bừa lần cuối trước khi bị thiêu trụi. Nhũng gốc ra bị lật lên nằm khắp nới và vẫn thấy được dấu vết của bừa dĩa từ phía ĐSng phía tây. Gần đây chắc trời mưa nên lớp đất dưới chân hai cha con lún xuống, mềm nhão. Hai cha con lầm lũi đi. Đột nhiên anh dừng lại và nhặt một mũi tên từ dưới đất lên. Anh nhổ một ít nước bọt, lau nó vào một bên quần rồi đưa cho thằng bé. Trắng sáng hoàn hảo như mới.

    - Thế nào cũng còn nữa, con nhìn xuống đất xem.

    Anh tìm được thêm hai cái nữa. Cứng và xám. Anh nhặt lên một đồng xu cũng có thể chỉ là một cái nút. Nó được bao bọc bởi một lớp gỉ đồng dày.. Anh dùng móng tay cào cào lớp vỏ gỉ. Một đồng xu. Anh lấy con dao ra và cẩn thận cậy cho bong lớp gỉ. Trên đồng có khắc chữ Tây Ban Nha. Anh định gọi con lại nhưng nhìn lên bầu trời âm u và cánh đồng xám xịt, anh thả đồng xu xuống và vội bắt theo thằng bé.

    Hai cha con đứng ngoài nhìn vào ngôi nhà. Có một lối đi rải sỏi ngược về phía nam. Hàng hiên bằng ngói. Hai bậc thềm để dẫn lên cổng vào. Phía sau ngôi nhà là một đống đổ nát có lẽ trước đây là bếp. Xa hơn một chút là một cái nhà kho. Anh nhấc chân định bước lên thềm thì thằng bé níu tay anh lại.

    - Cha ơi, chúng ta đợi một lát được không?

    - Cũng được, nhưng trời sắp tối rồi.

    - Con biết.

    - Thôi được.

    Hai cha con ngồi xuống và nhìn bao quát ra khắp vùng quê.

    - Không có ai ở đây đâu con ạ.

    - Dạ.

    - Con vẫn còn sợ à?

    - Vâng.

    - Cha con mình sẽ ổn thôi.

    - Vâng

    Họ đứng dậy bước lên thềm qua cái cổng vòm lát gạch. Cánh cổng đen kịt được chống bằng một thân gỗ cháy sém. Trong sân, gió cuốn cỏ và lá khô bay xào xạc. Thằng bé lại níu lấy tay anh.

    - Sao cửa lại mở hở cha.

    - Trước đó nó đã mở rồi. Có thể nó đã như thế từ nhiều năm nay rồi con ạ. Có lẽ là những người cuối cùng ở đây đã mở để vận chuyển đồ.

    - Có lẽ chúng ta nên đợi đến ngày mai cha à.

    - Can đảm lên con trai, chúng ta sẽ xem xét qua mọi thứ một chút trước khi trời quá tối. Nếu ở đây an toàn thì chúng ta sẽ nhóm lửa.

    - Nhưng chúng ta sẽ không ở trong nhà phải không ạ?

    - Chúng ta không nhất thiết phải ở trong nhà.

    - Vâng.

    - Con uống một chút nước đi.

    - Vâng.

    Anh lôi chai nước từ trong túi áo ra, vặn nắp và đưa cho con. Anh nhìn nó uống nước. Sau đó anh cũng uống rồi vặn nắp lại và cất chai nước vào chỗ cũ. Anh nắm lấy tay con và hai ca con bước vào gian phòng ngoài tối om. Trần nhà rất cao. Một chùm đèn lộng lẫy. Ở chân cầu thang là một khung cửa sổ lớn theo kiểu palladian. Cái khung ấy đã bị đổ ập xuống cầu thang, lờ mờ trong những tia sáng cuối cùng của ngày.

    - Chúng ta không cần lên cầu thang đúng không cha? Thằng bé thì thào. Ừ, có thể là mai con ạ.

    - Khi chúng chúng ta biết chắc là ở đây an toàn ạ?

    - Ừ.

    - Vâng.

    Hai cha con bước vào phòng khách. Tấm thảm phủ đầy bụi. Những đồ đạc được phủ bằng những tấm ga trắng. Những ô vuông trên tường trước đây là những bức tranh. Trong căn phòng bên cạnh phòng chờ có một cây đàn pianô to. Hình ảnh phản chiếu của hai cha con nhòe nhoẹt trên tấm kính mỏng ròng ròng nước của cánh cửa sổ trong phòng này sang phòng khác như những kẻ mua nhà khó tính. Họ đứng nhìn ra ngoài trời tối qua những khung cửa sổ cao.

    Trong bếp là dụng cụ ăn, xoong nồi và các đồ sứ của Anh. Sau cánh cửa là một cái tủ đựng thức ăn. Sàn lát đá và trên những cái giá xếp hàng dọc theo tường có vài tá bình thạch anh. Anh băng qua căn phòng, lượm một cái bình lên và thổi bụi bám trên đó. Đậu xanh. Ớt thái lát được xếp hàng ngăn nắp. Khoai tây. Ngũ cốc. Cà chua. Mướp tây. Thằng bé chăm chú nhìn anh. Anh phủi cho hết bụi ở miệng bình rồi thử dùng ngón cái bẩy nắp bình ra. Không được. Trời sụp tối rất nhanh. Anh mang hai cái bình ra bệ cửa sổ và dốc ngược nó lên xem xét. Anh nhìn con.

    - Nó có thể có độc. Cha con mình phải chế biến thật kỹ.

    - Con thấy sao?

    - Con không biết.

    - Con muốn làm gì với chúng?

    - Cha nói đi.

    -

    - Con cũng phải nói chứ.

    - Cha có nghĩ là nó an toàn không?

    - Cha nghĩ chúng ta nấu thật kĩ thì không có chuyện gì cả.

    - Vâng, thế cha có nghĩ là có ai đó đã ăn chúng rồi không?

    - Cha nghĩ không ai tìm thấy chúng cả. Họ không thể phát hiện ra ngôi nhà từ ngoài đường xa.

    - Nhưng chúng ta đã phát hiện ra đấy thôi.

    - Con chứ.

    Thằng bé nhìn chăm chăm vào cái bình.

    - Con nghĩ sao?

    - Con nghĩ là cha con mình không còn sự lựa chọn nào khác.

    - Con nói đúng đấy. Hai cha con mình phải đi kiếm ít củi trước khi trời tối hơn.

    Hai cha con vác về hàng ôm những cành cây khô phía sau bếp và mang vào phòng ăn. Khi đủ củi thì họ gần như kiệt sức. Anh nhóm lửa trong lò sưởi. Khói cuộn ra khắp phòng. Anh lấy một tờ tạp chí quạt cho lửa bùng lên. Một lúc sau lửa đã cháy rừng rực hắt ánh sáng lên trần nhà và lên vô số các cạnh của chiếc đèn chùm. Khói chui ra ngoài theo một cái ống thông trên bếp lò. Ngọn lửa chiếu sáng cả những tấm kính ám muội của khung cửa sổ nơi hai cha con đang đứng với cái bóng khổng lồ của mình. Trông thằng bé cứ như là bị choáng vì hơi nóng tỏa ra từ ngọn lửa. Anh lột tấm ga của chiếc bàn ăn dài ở giữa phòng, giũ sạch làm ổ cho hai cha con ngay trước nền lò sưởi. Anh bế con đặt vào giữa cái ổ, tháo giày và những mảnh giẻ rách cuốn quanh chân con. Anh dịu dàng thầm thì nói với con.

    - Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

    Anh tìm thấy vài cái nên ở trong ngăn kéo và thắp hai cây lên, cho sáp nhỏ xuống bệ rồi đặt hai cây nến lên trên đó. Anh đi ra ngoài lấy thêm củi và xếp thành chồng bên cạnh lò sưởi. Thằng bé không động cựa gì cả. Có đủ nồi niêu, xoong chảo trong bếp. Anh cố gắng mở nắp mấy cái bình nhưng không được. Anh bê một cái bình đỗ xanh và một bình khoai tây ra cửa trước. Trong ánh sáng của ngọn nến đặt trên mảnh kính, anh quỳ xuống để cái nắp bình nằm ngang ra giữa khung cửa và mép cánh cửa. Sau đó anh ngồi xổm kẹp chặt nút bình giữa cánh và khung cửa, dùng chân lèn chặt mép cửa và bắt đầu cố gắng xoay bình để giật nắp ra. Phần lồi ra của nắp cọ vào làm xước cả sơn cửa. Anh ấn chặt hơn và thử lại một lần nữa. Cái nắp trượt trên gỗ nhưng không suy chuyển. Anh cẩn thận dựng cái bình rồi mang nó đặt trên bệ lò. Khi thử mở cái bình thứ hai cũng không được, anh mang cả hai bình vào phòng. Anh thủ dùng tay bẩy những bình còn lại nhưng nó quá chặt. Anh nghĩ đó là một dấu hiệu tốt. Anh để khe của nắp bình trên bệ, dùng tay đấm lên đo cho đến khi cái nắp bật ra, rơi xuống sàn. Anh nâng bình lên mũi ngửi. Mùi rất thơm. Anh dốc khoai tây và đậu xanh ra một cái nồi rồi cho lên lò.

    Hai cha con ngồi đối diện nhau trên cái bàn dài, ở giữa là một ngọn nến, lặng lẽ ăn đậu xanh và khoai tây trong hai cái bát sứ. Khẩu súng nằm đó, sát cạnh tay anh như một kẻ thứ ba cũng đang chậm rãi ăn khẩu phần của mình. Ngôi nhà ấm dần lên, kêu cọt kẹt khắp nơi. Chúng rên rỉ không ngừng như những con thú ngủ đông bị đánh thức. Thằng bé ngủ gật, đánh rơi cả thìa xuống sàn. Anh vòng qua bàn, bế con vào nằm trước lò sưởi và đắp chăn cho con. Anh quay lại bàn, vùi mặt vào hai cánh tay. Đêm nay anh sẽ thức trông cả đêm. Căn phòng lạnh dần. Bên ngoài gió vi vu lượn lờ. Bản lề cửa sổ kêu kẽo kẹt. Nến tắt còn lửa thì đã tàn. Anh nhỏm dậy nhóm lại rồi ngồi bên cạnh con. Anh kéo lại chăn cho con và xoa xoa mái đầu bù xù cáu bẩn của nó.

    - Cha nghĩ là họ đang theo dõi chúng ta. Anh thầm thì.

    Họ đang tìm một thứ mà cái chết cũng không phá hủy được. Nếu họ không nhìn thấy nó, họ sẽ bỏ đi và không quay lại nữa.

    Thằng bé nhất định ngăn không cho anh lên tầng trên. Anh cố thuyết phục con.

    - Trên đó có thể có chăn. Chúng ta phải lên xem thế nào.

    - Con không muốn cha lên đó.

    - Không có ai ở trên đó đâu con trai.

    - Có thể lắm chứ.

    - Không đâu. Nếu có thì con có nghĩ là họ đã xuống đây từ trước rồi không?

    - Có thể là họ sợ.

    - Chúng ta sẽ nói với họ là chúng ta không làm họ đau.

    - Có thể họ đã chết rồi.

    - Thế thì họ sẽ không thấy phiền đâu nếu chúng ta lấy một ít đồ. Con nhìn vào cha này. Dù trên đó có gì đi chăng nữa thì chúng ta cũng nên biết. Biết thì tốt hơn con ạ.

    - Tại sao ạ?

    - Vì thế thì chúng ta sẽ chủ động hơn. Cha con mình không thích bị bất ngờ đúng không. Những điều bất ngờ thì dễ làm chúng ta hoảng sợ. Với lại trên đó có thể có thứ mà cha con mình cần. Chúng ta phải lên xem.

    - Dạ, tùy cha vậy.

    - Tùy cha ư. Con không đồng ý sao?

    - Đằng nào cha cũng không nghe con mà.

    - Cha có nghe con đấy chứ.

    - Nhưng không nhiều.

    - Con à, không có ai ở đây cả. Chắc chắn là đã không có ai ở đây vài năm rồi. Con nhìn xem sàn không có dấu vết gì cả. Mọi thứ không hề bị lộn xộn. Đồ đạc còn nguyên. Thức ăn vẫn còn nguyên. Không có gì bị đốt trong lò cả.

    - Tro thì làm sao lưu lại được dấu vết. Cha đã nói với con thế mà. Gió sẽ xóa mất dấu vết.

    - Thôi được. Thế thì cha sẽ lên đó thôi vậy.
     
  8. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 17

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai cha con ở đó được bốn ngày chỉ ăn uống và nghỉ ngơi. Anh tìm được thêm nhiều chăn trên tầng. Hai cha con đi lấy rất nhiều củi về chất đống ở cạnh lò sưởi cho khô. Anh tìm được một cái cưa có vẻ như rất lâu đời rồi và định dùng nó để xẻ cây thành từng khúc. Những lưỡi cưa đã gỉ. Anh ngồi trước lò sưởi dùng cai giũa mài lại lưỡi cưa nhưng không hiệu quả lắm. Ở cách ngôi nhà không xa là một con suối. Anh băng qua bờ ruộng trơn và lầy lội xách hàng xô nước về đun để hai cha con tắm gội ở trong cái bồn đằng sau phòng tắm ở tầng trệt. Anh cắt tóc cho con và cũng tự cắt tóc, cạo râu cho mình. Hai cha con mặc quần áo mới và lấy chăn gối mới trên tầng hai. Anh phải cắt bớt ống quần đi thì mới vừa với thằng bé. Anh cũng làm lại một cái ổ mới để hai cha con ngủ ở nền lò sưởi. Anh lấy thêm một cái tủ cao trước đây đựng quần áo quây lấy chỗ ngủ cho ấm. Anh lấy xô hứng nước mưa dưới cái máng ở mái nhà. Đêm đêm, hai cha con có thể nghe thấy tiếng mưa đổ rào rào trên những nếp gợn của mái nhà bằng kim loại và âm thanh của nước dột tí tách.

    Họ lục lọi cả nhà trong nhà ngoài xem có cái gì hai cha con có thể tận dụng được. Anh tìm thấy một cái xe cút kít. Anh lật ngửa nó ra, xoay chầm chậm cái bánh xe để kiểm tra lốp. Cái lốp lép kẹp và rạn nứt nhưng anh nghĩ nó vẫn có thể chứa được hơi nên anh lục tung trong một đống hổ lốn những đồ linh tinh và tìm thấy một cái bơm xe đạp. Anh ấn ống bơm vào van nhưng hơi lại xì ra. Anh phải bảo con giữ chặt lại cho đến khi nào được thì thôi. Anh lộn cái xe lại bình thường và thử đẩy đi đẩy lại. Xe còn tốt. Anh đem nó ra ngoài trời mưa và cọ rửa. Hai ngày sau trời trở nên quang đãng. Hai cha con lên đường mang theo đống chăn, quần áo và đồ ăn mới chất trên cái xe cút kít. Anh cũng tìm thêm được một đôi giày lao động và thằng bé thì đeo một đôi giày tenis rộng đến nỗi anh phải nhét thêm giẻ và bọc tất cả các đầu ngón chân của con lại. Hai cha con đeo những cái mặt nạ mới. Khi lên đến đường nhựa, hai người phải quay lại khoảng gần nửa dặm để tìm lại cái xe kéo. Thằng bé thì đẩy xe cút kít. Nó quay sang nói với anh:

    - Cha con mình thật may mắn cha nhỉ?

    - Ừ, chúng ta thật may mắn.

    Họ ăn uống khá đầy đủ nhưng vẫn còn xa lắm mới đến được bờ biển. Anh biết anh đang đặt hy vọng vào một điều bấp bênh. Anh ước mọi việc sẽ trở nên sáng lạng hơn trong khi trái đất này đang ngày càng tăm tối. Anh đã từng nhặt được thiết bị đo ánh sáng trong một cửa hàng camera, anh mong mỏi sẽ tìm được pin cho nó chạy và khi đó anh sẽ có được những số liệu, nhưng chẳng bao giờ anh tìm được pin cả. Đêm đến, anh lại rơi vào những cơn ho không dứt. Anh ngồi đó, hai tay ghì chặt lấy đầu cố giấu đi sự tuyệt vọng. Anh chẳng khác gì một người thấy mình tỉnh dậy trong hầm mộ. Chẳng khác gì những xác chết mà hồi còn bé anh đã chứng kiến được khai quật lên để xây dựng một đường cao tốc. Xác của những người đã chết trong đợt dịch tả. Họ được mai táng một cách vội vã tạm bợ trong những cái hộp bằng gỗ. Thứ gỗ đã mục nát và thậm chí còn không có nắp đậy. Họ đào những thây ma co quắp ấy lên. Những tròng mắt xỉn màu thối rữa lòi ra khỏi hố mắt nhầy nhụa, rớt xuống mặt dưới của áo quan.

    Hai cha con đứng trước cửa hàng rau quả tại một thị trấn nhỏ. Trên tường ngoài của cửa hàng có đính một cái đầu hươu. Thằng bé đứng ngắm nó một lúc lâu. Trên bậc thềm vương vãi những mảnh kính vỡ. Anh bảo con đợi ngoài cửa còn anh vào trong, nhưng bên trong chẳng có gì ngoài rác rưởi. Bên ngoài có hai cái máy bơm xăng. Hai cha con ngồi xuống bậc thềm bằng bê tông, buộc dây vào một hộp thiếc, dòng nó xuống bể chứa ngầm dưới đất và kéo lên được khoảng một cốc đầy xăng. Anh rót nó vào một bình nhựa rồi lại tiếp tục thả cái hộp xuống. Được một lúc, anh thay sợi dây bằng một đoạn ống cứng hơn vào cái hộp. Hai cha con bò rạp phía trên bể như những con đười ươi đang dùng một cái que moi kiến từ trong tổ kiến ra. Khoảng một tiếng sau thì bình đầy. Anh vặn nắp lại, cất nó xuống đáy xe và hai cha con tiếp tục lên đường.

    Những ngày dài đàng đẵng. Những miền quê hoang tàn nối tiếp nhau trong những cơn lốc tro bụi. Thằng bé ngồi bên ngọn lửa với những mảnh rời của tấm bản đồ trên đùi. Nó học thuộc lòng những cái tên thành phố, các dòng sông và tính toán xem mỗi ngày hai cha con đi được bao xa.

    Khẩu phần ăn của hai cha con ngày một ít ỏi hơn. Số lương thực dự trữ sắp hết. Thằng bé đứng trên đường, hai tay nắm chặt tấm bản đồ. Hai cha con lắng nghe nhưng chẳng thấy gì. Tuy nhiên, anh cũng thấy được một sự đổi khác: Càng đi về phía Bắc thì không khí càng thoáng đãng hơn. Và một ngày nọ khi hai cha con rẽ qua một khúc ngoặt trên đường thì một làn gió biển mang vị mằn mặn của muối táp vào mặt và thổi tung tóc họ. Hai người đứng lại lật mũ trùm áo khoác ra để cảm nhận làn gió. Phía xa xa là bờ biển xám xịt, ầm ì với những con sóng, trông như những chiếc lược bọt lầm lũi trườn vào bờ.

    Trông nó điêu tàn đến mức khó lòng nhận ra. Anh tưởng như mình đang gặp một vật đến từ một thế giới chưa từng được biết đến. Phía ngoài thềm thủy triều là một con tàu bị lật nghiêng. Xa hơn nữa, nước biển màu tro sóng sánh nặng nề như một vạt xỉ lò khổng lồ. Anh đọc thấy sự thất vọng trên mặt con.

    - Con trai, ta rất tiếc, nó không còn màu xanh nữa.

    - Không sao đâu cha à – thằng bé đáp.

    Một giờ sau, hai cha con ngồi trên bãi biển, gót chân chôn trong cát, nhìn đăm đăm vào màn khói mờ dâng lên phía chân trời. Từng đợt sóng cứ liếm mãi vào chân họ. Lạnh lẽo. Tiêu điều. Không một bóng chim. Anh giấu xe trong một bụi dương xỉ diều hâu bên kia những đụn cát. Hai cha con tìm một nơi kín gió dưới những đống củi to và ngồi ở đó rất lâu, người quấn chặt trong chăn. Dọc theo bờ vịnh tước mặt, những mảnh xương nằm rải rác với đám tảo biển. Xuống biển một chút, bộ sườn trắng ở có lẽ là của một con gia súc lộ ra trên bãi. Các hòn đá được phủ bởi một lớp muối màu tro. Gió cuốn những quả ké chạy lông nhông trên bờ biển.

    - Cha có nghĩ là ngoài kia có tầu không?

    - Cha nghĩ là không.

    - Nếu xa quá thì không thể thấy được đúng không ạ?

    - Ừ.

    - Thế phía bên kia biển thì có gì hở cha?

    - Chẳng có gì con ạ.

    - Phải có cái gì đó chứ.

    - Có thể bên kia biển có một ông bố và một cậu con trai đang ngồi cùng nhau trên bãi biển.

    - Cũng có thể.

    - Ừ, biết đâu đấy.

    - Và hai người đó cũng có một đống lửa nữa. Ứ, có lẽ thế.

    - Nhưng chúng ta không biết chắc được.

    - Ừ.

    - Nên chúng ta phải cảnh giác.

    - Thế hai cha con mình sẽ ở đây trong bao lâu ạ?

    - Cha không biết nữa. Chúng ta sắp hết thức ăn rồi.

    - Con biết.

    - Con thích ở đây đúng không?

    - Vâng.

    - Cha cũng thế.

    - Thế con có được bơi không hở cha?

    - Bơi ư?

    - Vâng.

    - Nó sẽ là con đóng băng đấy. Lạnh hơn con nghĩ nhiều.

    - Không sao đâu ạ.

    - Cha không muốn xuống đấy cùng con đâu.

    - Con nghĩ là không cần mà.

    - Ừ, con cứ đi đi.

    - Nhưng cha nghĩ là con không nên ạ?

    - Không đâu. Con nên chứ.

    - Thật ạ. Ừ, thật.

    - Hay quá.

    Thằng bé đứng dậy, trút tấm chăn xuống cát và cởi hết quần áo, giầy dép ra. Đến khi trần như nhộng thì nó ôm lấy người, nhảy tưng tưng lên cho khỏi lạnh rồi chạy thẳng xuống biển. Người thằng bé trắng xanh, trơ xương. Những cục xương vai gồ lên như muốn xuyên thủng lớp da tái nhợt. Nó chạy tồng ngồng trên bãi, nhảy lên những con sóng và hò hét.

    Khi quay trở lại bờ, anh đã thấy con tím tái, thở hổn hển, răng va vào nhau lập cập. Anh lấy chăn bọc lấy con, ôm và xoa cho đên khi thằng bé trở lại bình thường. Nhưng khi anh nhìn vào mặt con thì thấy thằng bé đang khóc.

    - Sao thế con?

    - Không có gì ạ.

    - Nào, con nói cho cha nghe nào.

    - Không có gì đâu, không có gì cha ạ.

    Tối đến, hai cha con nhóm một đống củi ở bên cạnh đống gỗ, ăn mướp tây, đậu xanh và một ít khoai tây còn sót lại. Đồ ăn sắp hết. Họ uống trà, ngồi với nhau bên ngọn lửa, cùng lắng nghe những con sóng rầm rì trên vịnh rồi vùi mình vào cát ngủ. Đêm, anh đứng dậy cuốn chăn vào người và bước ra trước biển. Tối đen như mực. Anh có thể cảm nhận vị mặn của muối trên môi. Chờ đợi và chờ đợi. Một tiếng ầm vang nổ ra trên biển. Sự xáo động của bầu trời rền rĩ một lúc trên biển rồi từ từ lặn mất. Anh nghĩ ngoài khơi có thể có những con tầu chết lênh đênh với những mảnh buồm rách mướp. Còn sự sống dưới đáy biển. Biết đâu những con mực khổng lồ mắt to như cái dĩa vẫn đang trườn đi dưới đáy biển lạnh giá. Và biết đâu bên kia những con sóng bạc đầu là một người đàn ống khác với một đứa trẻ khác đang lang thang trên bãi cát màu xám tro. Họ có thể đang ngủ trên một bãi biển khác giữa đống tro tàn hay đang mặc những bộ quần áo rách rưới trong một thế giới đã biến mất do không có ánh sáng mặt trời.

    Anh nhớ anh cũng đã từng đi dạo thế này. Dạo ấy anh tỉnh dậy vì tiếng lách cách của mấy con cua trong cái nồi mà anh đã để xương bò từ đêm trước. Những tàn lửa li ti vờn nhau trên bãi. Anh nằm dưới một bầu trời đầy sao. Xa xa là vệt biển đen thẫm. Anh đứng dậy và đi chân trần ra bờ cát, ngắm nhìn những con sóng nổi lên, cuộn vào đến bờ rồi lại lăn ra xa, chìm lỉm trở lại vào biển đêm. Được một anh quay lại đống lửa, quỳ xuống bên cạnh và vuốt ve mái tóc của nàng. Nang đang say ngủ. Anh thầm thì:

    - Nếu anh là Chúa, anh sẽ giữ cho trái đất này mãi mãi như thế, không bao giờ đổi khác.

    Khi anh quay lại thì thằng bé đã tỉnh dậy và đang sợ chết kiếp. Nó đã gọi to nhưng anh không nghe thấy tiếng con. Anh ôm con vào lòng.

    - Sóng to quá cha không nghe thấy tiếng con, anh nói.

    Anh chất thêm củi rồi quạt cho lửa cháy lại rồi hai cha con nằm xuống và thiếp đi.

    Sáng hôm sau, anh dậy nhóm lửa. Hai cha con vừa ăn sáng vừa nhìn ra biển. Sự ủ dột và lạnh lẽo của biển trong màn mưa làm nó trông giống một bức họa vùng biển bắc. Chẳng có hải âu, cũng chẳng loài chim nào hết. Những đồ vật cháy xém rải rác dọc bờ biển thỉnh thoảng bị sóng cuốn lăn lăn trên bờ cát. Sau đó, họ lại đi xuống bờ biển.

    - Hai cha con mình là những người nhặt rác trên bãi biển.

    - Họ là những ai hở cha?

    Là những người đi dọc bờ biển và tìm kiếm những đồ giá trị bị dạt lên bờ.

    - Những thứ như thế nào ạ?

    - Tất cả mọi thứ, miễn là còn sử dụng được.

    - Cha có nghĩ là chúng sẽ tìm được cái gì đó không?

    - Cha không biết. Chúng ta phải xem mới biết được.

    - Thế thì cha con mình đi xem thôi.

    Hai cha con đi trên đê chắn sóng nhìn về phía Nam. Những cuộn sóng lừ lừ xô lên kè đá bao quanh vịnh. Bờ biển chạy dài uốn thành đường cong ở phía xa. Cát thẫm như màu đá nham thạch. Gió từ biển phảng phất mùi i-ốt. Chỉ có vậy. Không còn mùi gì gần gũi với biển hơn. Trên những tảng đá vẫn còn vương lại những mảng rêu biển đen xì. Họ bước qua và đi tiếp. Phía cuối bờ cát là một mũi đấy nhô ra biển. Hai cha con bỏ lại bờ biển phía sau, leo lên mũi đất. Con đường mòn ngoằn ngoèo qua các đụn đất đất đầy những xác thực vật biển. Phần đất phía dưới họ bị bao phủ trong bóng tối, gió lao từ trên mũi đất xuống phía bờ biển. Ở phía xa có con tầu ngập một nửa mình trong nước. Hai cha con nằm sụp xuống búi cỏ khô và theo dõi con tàu.

    - Cha ơi, chúng ta làm gì bây giờ?

    - Chúng ta theo dõi nó một lát con ạ.

    - Nhưng con lạnh lắm.

    - Cha biết. Cha con mình lùi lại xuống lối mòn một chút vậy. Như thế sẽ tránh được gió.

    Anh ôm con vào lòng. Những vạt cỏ chết khô rạp xuống, lẩy bẩy trước những cơn gió.. Quang cảnh xung quanh thật hoang vu. Những cơn run rẩy bất tận của biển.

    - Chúng ta phải ngồi đây đến bao giờ hở cha?

    - Không lâu đâu con ạ.

    - Cha có nghĩ là có người trên cái tầu ấy không?

    - Cha nghĩ là không.

    - Có thể là họ núp đi rồi.

    - Ừ, có thể thế, con có nhìn thấy gì khác thường ở đấy không?

    - Không ạ.

    - Chúng ta hãy đợi thêm một lát nhé.

    - Con lạnh lắm.

    Hai cha con lần mò quay lại bờ biển. Gió thổi phần phật. Những mảnh kính lập lờ ở viền nước. Những bộ xương của những con hải âu. Tại mép thủy triều hàng triệu bộ xương cá, cỏ dại phơi ra trên bờ cát trải dài ngút tầm mắt. Trống rỗng. Những ngôi mộ khoét trong muối. Vô nghĩa. Vô nghĩa.

    Từ mũi đất đến con thuyền đó độ khoảng hơn một trăm mét. Toàn nước. Hai cha con chăm chú nhìn con thuyền. Thân nó dài gần hai chục mét, có boong tầu, phần chìm trong nước khoảng hai ba mét. Trông nó có vẻ như đã được trang bị rất kỹ nhưng cột buồm đã gãy và đổ vào boong tầu. Tất cả những gì còn lại của cột buồm là là một cái cọc lởm chởm với những đai bằng đồng còn boong tầu thì chỉ còn lại một vài cái tay vịn của hàng lan can trước đây. Anh quay người nhìn khắp bờ biển và đụn cát hồi lâu rồi đưa cho con khẩu súng. Anh bắt đầu tháo giầy.

    - Cha định làm gì vậy?

    - Cha sẽ ra đó xem xét con thuyền.

    - Con đi với cha được không?

    - Không, cha muốn con ở lại đây.

    - Nhưng con muốn đi với cha cơ.

    - Con phải đứng canh con trai à, hơn nữa nước rất sâu.

    - Thế con có nhìn thấy cha không?

    - Có chứ. Cha sẽ ra hiệu cho con để chắc chắn rằng mọi thứ đều ổn.

    - Con muốn đi cùng cha, cha à.

    Anh ngừng lại và nói:

    - Không thể được, quần áo cha để đây sẽ bay mất. Con phải đ8u1ng trông.

    Anh cuộn quần áo thành một đống. Lạy Chúa, trời lạnh quá. Anh cúi xuống hôn lên trán con.

    - Con đừng lo. Nhớ phải nhìn quanh đấy.

    Anh lội xuống nước té nước cho ướt hết người rồi chuồi người xuống, bắt đầu lặn.

    Anh ngụp lặn, hổn hển trong làn nước lạnh buốt. Đến giữa thân tầu, một cái tay vịn chĩa thẳng xuốn mặt nước. Anh đu người lên cái cửa sổ thép. Thép bị muối ăn mòn và chuyển sang màu xám nhưng anh vẫn nhìn được chữ trên thân tàu. Pájaro de Esperanza. Tenerife. Hai cái cần trục trước đây để đỡ thuyền cứu hộ bây giờ thì trống không. Anh bám vào cái tay vịn, leo lên boong và nằm bẹp ở đấy, tai áp xuống sàn run lập cập. Một vài đoạn dây cáp đập vào các đinh ốc lách cách. Những cái lỗ nham nhở trên sàn gỗ. Có lẽ trước đây ở đó là những cái đinh bị bật ra. Một sức mạnh khủng khiếp đã quét mọi thứ ra khỏi boong tầu. Anh vẫy con nhưng thằng bé không vẫy tay lại.

    Khoang tàu thấp với cái mái hình vòm và những ô cửa sổ dọc hai bên. Anh nằm rạp xuống lau lớp muối phủ trên kính và nhìn vào trong nhưng chẳng thấy gì cả. Anh cố gắng đẩy cánh cửa bằng gỗ tếch nhưng nó đã bị khóa. Anh thử húc cái vai trơ xương vào nó. Nhưng cũng không được. Anh nhìn quanh xem có cái gì có thể nạy được cái khóa hay không. Anh cứ run lên cầm cập. Anh nghĩ đến việc lấy chân đạp cửa nhưng đó không phải là ý hay. Anh thử lấy khuỷu tay thúc vào cánh cửa. Hình như nó có hiệu quả. Tuy không rõ lắm. Anh thử làm thế vài lần. Khung cửa bị bửa, anh giật nó ra và bước xuống bậc thang để đi vào trong khoang.

    Sàn khoang ngập những nước. Dọc theo những vách ngăn thấm nước là giấy tờ và rác rưởi. Mọi thứ đều có mùi chua chua. Ẩm ướt và nhớp nháp. Anh nghĩ là thể nào con thuyền này cũng bị lục soát rất kỹ rồi nhưng chẳng có gì ngoài nước biển đã tràn vào và xâm chiếm mọi ngóc ngách. Anh đi vào các buồng và khoang bếp. Trên sàn, những hộp thức ăn, bột và cà phê đã bị móp và gỉ. Một cái nhà vệ sinh với bồn cầu và bồn rửa bằng i-nốc. Ánh sáng yếu ớt lọt qua các cửa sổ ở hai bên tường. Quần áo bừa ra khắp nơi.

    Anh cứ thấp thỏm sẽ có chuyện gì đó kinh khủng trên tầu nhưng không có gì xảy ra cả. Những tấm đệm lót trong các buồng đã bị đổ xuống sàn. Giường và quần áo dồn thành đống rác vào các chân tường. Mọi thứ đều ướt nhẹp. Cửa kho hàng ở phía mũi tàu mở nhưng bên trong tối quá không nhìn thấy gì cả. Anh cúi xuống bước qua cửa. Những thùng rượu. Những thiết bị tàu lăn lóc trên sàn. Anh bắt đầu kéo mọi thứ đặt lên một chiếc giường bị nghiêng. Những cái chăn và quần áo rét. Anh tìm thấy một cái áo len ẩm, tròng nó vào người. Anh cũng tìm thấy một đôi ủng cao su và một cái áo gió. Anh mặc tất cả vào cùng với một cái quần màu vàng từ đống đồ bằng vải dầu không thấm nước. Anh vắt cái dây nịt quần qua vai và đeo ủng vào. Sau đó anh leo trở lại lên boong tầu. Thằng bé vẫn ở nguyên chỗ cũ nhìn chăm chăm vào con tàu. Khi anh xuất hiện trên boong, thằng bé giật nảy người bật dậy. Anh quên mất là anh vừa mặc quần áo. Anh vội vẫy tay con và gọi to "cha đây" rồi quay trở xuống.

    Trong phòng ngủ thứ hai, anh tìm thấy mấy cái ngăn kéo nằm dưới gầm giường không hề bị suy chuyển tí nào. Anh dốc nó ra. Toàn giấy tờ và sách bằng tiếng Tây Ban Nha. Vài bánh xà phòng. Một cài vali mầu đen cũng toàn giấy tờ đã mốc meo.. Anh cho mấy bánh xà phòng vào túi rồi đứng dậy. Trên giường là những quyển sách bằng tiếng Tây Ban Nha phồng lên và đang mủn ra. Trên cái giá dựa vào tường còn độc một quyển.

    Sau khi tìm thấy một cái túi vải bạt tráng cao su, anh đảo qua khắp phần còn lại của con tầu, đẩy tay vào tường để tránh bị nghiêng theo thuyền. Cái quần vàng anh mắc bay lật phật vì gió lạnh. Anh nhét vào túi đủ thứ. Một đôi giày vải của phụ nữ anh nghĩ sẽ vừa với con. Một con dao gập chuôi gỗ. Một cái kính râm. Có một cái gì đó cố hữu trong cách tìm đồ của anh. Giống như là anh thường tìm cái anh cần nhất ở những chỗ ít có khả năng nhất trước. Lục lọi xong ở các khoang, anh mới quay trở lại khoang bếp. Anh bật thử cái lò sưởi rồi lại tắt đi.

    Anh kéo chốt cửa hầm xuống buồng máy. Trong ấy có nước ngập đến nửa người và tối om om. Không có mùi của xăng dầu gì cả. Anh sập nắp hầm lại. Trong buồng lái có mấy cái ngăn được xây dưới chiếc bàn dài dùng để chứa nệm, vải buồm, đồ câu. Trong cái ngăn dưới bệ lái, anh tìm thấy vài cuộn dây thừng bằng ni-lông, vài cái bình ga bằng thép và một cái hộp để đồ làm bằng sợi thủy tinh. Gỉ nhưng vẫn xài được. Trong đó có kìm, tua vít và cờ lê. Anh đóng cái hộp rồi quay ra boong xem con thế nào. Thằng bé co ro trên nền cát rúc đầu vào đống quần áo ngủ ngon lành.

    Anh mang cái hộp đồ và một cái bình ga vào trong khoang bếp rồi đi một vòng cuối qua các phòng ngủ. Sau đó anh bắt đầu rà soát lại tất cả những ngăn tủ trong phòng khách lớn, xem qua giấy tờ trong những hộp nhựa và thử tìm nhật ký tầu. Anh tìm thấy một bộ đồ sứ được bọc cẩn thận trong một thùng gỗ lớn giữa đống vỏ bào. Hầu như đã vỡ hết. Tám bộ đồ ăn, cái nào cũng khắc tên con tàu. Chắc là đồ biếu – anh nghĩ. Anh nhấc một ly trà lên xoay xoay trong lòng bàn tay rồi lại đặt nó xuống. Thứ cuối cùng mà anh tìm thấy là một hộp gỗ sồi hình vuông được lắp mộng đuôi én và một cái đĩa đồng trên nắp. Anh đoán có lẽ là hộp đựng xì gà nhưng hình dáng thì không phải. Anh nhấc nó lên, dựa vào trọng lượng của cái vật bên trong mà anh biết nó là cái gì. Anh bật cái lẫy đánh tách một cái và mở nó ra. Trong đó là một kính lục phân định vị tầu biển bằng đồng, dễ phải đến một trăm năm rồi. Anh nhấc nó ra khỏi cái hộp cực kỳ vừa vặn và giữ nó trên tay. Sững sờ vì vẻ đẹp của nó. Lớp đồng hơi xỉn, trên than có những miếng màu xanh được đặt lên cho vừa tay chủ nhân của nó. Anh cạo cạo lớp gỉ đồng trên mặt hộp. Hezzaninth, London. Anh đưa nó lên mắt và xoay thử. Đây là vật đầy tiên làm cho anh thấy hứng thú trong nhiều năm nay. Anh cầm nó trên tay một lúc, sau đó anh đặt nó trở lại vào lớp vải mịn lót bên trong rồi khóa nắp xuống và để vào chỗ cũ.

    Khi quay lại boong tầu, anh sợ đứng cả tim khi không thấy con đâu. Một nỗi hoảng sợ xâm chiếm lấy anh nhưng rồi anh lại nhìn thấy thằng bé đang đi dọc bãi biển với khẩu súng trong tay, đầu cúi xuống. Đứng trên khoang, anh có thể cảm nhận con tầu đang dập dình và trượt đi. Rất nhẹ. Thủy triều lên. Sóng táp ì oạp vào mấy con đê chắn sóng. Anh quay trở lại vào khoang.

    Anh lấy hai cuộn thừng, dùng gang tay đo xem chúng dài khoảng bao nhiêu và đếm xem có bao nhiêu cuộn. Có khoảng hai chục mét dây tất cả. Anh treo chúng vào cầu tầu trên boong và quay vào trong. Anh lượm lặt tất cả mọi thứ, đặt chúng lên bàn. Còn một vài bình nước trong khoang bếp nhưng chỉ một cái là còn nước. Anh nhặt một trong những cái bình rỗng lên và nhận ra rằng vỏ của nó bị nứt nên nước đã chảy ra và đã bị đóng băng ở đâu đó trong cuộc hành trình phiêu dạt của con tầu này. Có khi còn là vài lần. Anh đặt một cái bình còn đầy một nửa lên bàn, mở nắp và nâng bình lên, hớp một ngụm nhỏ rồi anh tu một hơi dài.

    Những hộp bột trong khoang bếp chẳng có vẻ gì là còn tận dụng được. Những vết gỉ khắp nơi. Tất cả các nhãn đã bị bong ra, những chữ được viết trên hộp thì bằng tiếng Tây Ban Nha. Anh không rành thứ tiếng này lắm. Anh xem qua tất cả một lần, lắc thử và bóp mạnh trong tay. Sau anh xếp chúng lên trên tủ lạnh. Anh nghĩ tầu này phải dự trữ thức ăn đâu đó nhưng anh cũng không tin vào điều tốt đẹp ấy lắm. Nhưng dù thế nào thì họ cũng chỉ có thể chất được lên xe một số lượng có hạn. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh rằng anh sẽ mang theo cái kho từ trên trời rơi xuống kia. Nhưng rồi anh vẫn nghĩ may mắn có thể chẳng là cái gì cả. Có những đêm nằm trong bóng tối, anh tah61y không ghen tị với những kẻ đã chết.

    Anh còn tìm được cả những hộp sữa, một hộp chè kim loại gỉ sét, một hộp dầu ô liu cùng một số hộp thức ăn mà anh chịu, không nhận ra đó là món gì. Một nửa hộp cà phê. Anh xem xét một cách kỹ lưỡng mấy cái giá trong các ngăn tủ, cân nhắc xem cái gì nên mang đi. Khi anh đa chất đống tất cả các thứ trong phòng khách lơn, rồi anh quay trở lại bếp với hộp đồ và tháo cái tạo nhiệt ở cái máy sưởi ra.. Anh cắt dây nối, tháo miếng nhôm từ cái tạo nhiệt ra và đút một cái vào túi áo.. Anh lấy cờ lê vặn con ốc bằng đồng rồi tháo cái tạo nhiệt, sau đó anh tách chúng ra nối một đầu vào bình ga. Anh dồn cả sang phòng khách lớn. Cuối cùng anh cho tất cả đồ ăn mà anh tìm được vào một cái bạt và túm nó lại. Anh trút quần áo để chúng vào chung với đống đồ anh vừa thu nhặt. Sau đó anh lên boong tầu trườn xuống cái tay vịn với túi vải bạt, thả mình xuống làn nước xám và buốt giá.

    Anh lên bờ trong ánh sáng cuối cùng của ngày, quẳng túi bạt qua một bên, lấy tay vuốt nước khắp cơ thể rồi mặc quần áo vào. Thằng bé bám lấy cha. Nó cứ hỏi liên tục về vết tím trên vai anh, chỗ mà anh đã dùng để tông vào cửa.

    - Không sao đâu con, nó không đau đâu. Cha lấy được nhiều đồ lắm, lát nữa cha sẽ cho con xem.

    Hai người hối hả quay về chỗ ngồi nghỉ.

    - Nếu con tầu ấy bị cuốn thì sao hở cha?

    - Nó sẽ không bị cuốn đi đâu.

    - Có chứ ạ.

    - Không đâu. Nào, con có đói không?

    - Có ạ.

    - Tối nay hai cha con mình sẽ ăn ngon một chút, nhưng chúng ta phải nhanh chân lên.

    - Con đang đi nhanh đây.

    - Trời có thể sắp mưa.

    - Sao cha biết.

    - Cha có thể cảm nhận được.

    - Thế cha thấy gì.

    - Cha ngửi thấy mùi tro bụi ẩm. Nhanh lên nào.

    Anh bỗng khựng lại.

    - Khẩu súng đâu rồi.

    Thằng bé cứng cả người. Hoảng hốt.

    Lạy chúa! Anh quay lại nhìn bờ biển. Họ đã hoàn toàn khuất bóng con tầu. Anh nhìn con. Thằng bé ôm đầu mếu máo.

    - Cha ơi, con xin lỗi, con rất xin lỗi cha.

    - Anh đặt cái túi bạt xuống. Chúng ta phải quay lại.

    - Con xin lỗi.

    - Không sao cả, chắc chắn nó vẫn còn ở đó.

    Thằng bé đứng đó, đôi vai nhỏ bé run lên. Nó bắt đầu nức nở. Anh quỳ xuống ôm chặt lấy con.

    - Nào, không sao cả đâu con trai. Cha là người phải giữ súng nhưng cha quên mất.

    - Con xin lỗi cha ơi.

    - Thôi, đi nào. Không vấn đề gì cả. Không sao cả.

    Khẩu súng vẫn ở đó. Anh lượm nó lên lắc lắc rồi anh ngồi xuống tháo chốt ổ đạn ra và đưa cho con.

    - Con cầm hộ cha.

    - Nó vẫn bình thường chứ ạ?

    - Tất nhiên là thế rồi.

    Anh tháo ổ đạn ra thổi cho hết cát và đưa cho thằng bé. Anh thổi cả nòng và vỏ ngoài rồi lắp súng lại như cũ. Anh lên cò súng, kéo cò rồi lại lên cò súng một lần nữa. Anh lắp đạn vào ổ đạn.

    - Tất cả đều ổn, đi nào con.

    - Trời sắp tối rồi phải không ạ?

    - Cha không rõ.

    - Chắc là sắp.

    - Nhanh lên nào, chúng ta phải nhanh lên.
     
  9. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 18

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bóng tối bao trùm lấy họ. Khi hai cha con lên được đường mòn thì trời đã tối quá, không còn nhìn thấy gì nữa. Họ đứng trong gió giữa những đám cỏ xào xạc. Thằng bé nắm chặt tay anh.

    - Chúng ta phải đi tiếp con ạ.

    - Con chẳng thấy gì cả.

    - Cha biết, chúng ta chỉ cần bước từng bước một.

    - Vâng.

    - Cố lên con.

    - Dạ.

    - Không vấn đề gì đâu.

    - Vâng, không vấn đề gì.

    Hai cha con tiếp tục đi trong bóng tối dầy đặc, mò mẫm như những người khiếm thị. Anh đưa tay ra đằng trước quờ quạng. Trên mũi đất này, anh chẳng thể đâm vào cái gì khác ngoài những mô đất đầy cỏ dại. Tiếng sóng ngày càng xa hơn. Anh vẫn phải chống chọi cả với những cơn gió. Sau một tiếng dò dẫm, hai cha con đã ra khỏi đám cỏ dại và ra đến bờ biển. Dưới chân hai cha con là cát khô của phần trên bãi biển. Gió lạnh hơn. Anh đưa con nép sang bên khuất gió của mình. Thình lình bãi biển sáng lòa lên rồi lại biến mất.

    - Cha ơi cái gì thế?

    - Không có gì đâu. Chớp ấy mà. Đi tiếp nào.

    Anh vắt cái bạt lên vai nắm chặt lấy tay con, nhấc chân như những chú ngựa đang diễu hành. Cố gắng tránh dẫm lên gỗ dạt hoặc tảo biển. Ánh lại chớp lóa lên một lần nữa. Tiếng sấm xuyên qua màn đêm ầm ì vọng lại từ xa.

    - Cha nghĩ là cha nhìn thấy chỗ nghĩ của hai cha con mình rồi.

    - Vậy là chúng ta đi đúng đường phải không ạ?

    - Ừ.

    - Con lạnh quá cha ạ.

    - Cha biết. Cầu Chúa cho chớp nữa.

    Họ lại đi tiếp. Khi ánh sáng chớp lên, anh nhìn thấy con đang lẩm bẩm cầu nguyện. Anh cố tìm chỗ nghĩ của hai cha con nhưng không thấy gì cả. Gió ngày một dữ dội, anh chờ đợi những hạt mưa đầu tiên. Nếu hai cha con mắc kẹt trên bãi biển suốt đêm với cơn bão này thì chết mất. Hai cha con quay lưng lại để tránh bị gió táp vào mặt, tay giữ chặt lấy mũ áo. Cát quất ràn rạt vào chân hai cha con. Chúng đuổi bắt nhau trong bóng đêm.

    Tiếng sấm nổ ra tận ngoài khơi. Mưa sập xuống nhanh chóng. Tới tấp vào mặt. Anh áp chặt con vào mình.

    Hai cha con đứng dưới trời mưa như trút nước. Họ đã đi được bao xa rồi. Anh chờ những tia chớp nữa nhưng nó cứ ngày một yếu đi. Khi những tia chớp tiếp theo ánh lên, anh biết anh chẳng thể nhận ra được đường đi nữa trong cơn bão này. Họ lê từng bước vất vả trên cát. Hi vọng là sẽ nhìn thấy đống gỗ mà hai cha con đã nghỉ ở đấy. Chẳng còn tia chớp nào cả. Rồi qua màn mưa, anh chợt nghe thấy tiếng lộp độp vẳng lại từ xa. Anh đứng lại.

    - Nghe này con, anh nói.

    - Gì vậy cha?

    - Con nghe đi, thấy không?

    - Con chẳng nghe thấy gì cả.

    - Đi nào.

    - Gì vậy cha?

    - Tấm bạt con ạ. Cha nghe thấy tiếng mưa trên tấm bạt.

    Hai cha con tiến bước, loạng choạng trên cát vá vấp vào những rác rưởi mà thuỷ triều đã dâng lên bờ. Hai cha con về được đến chỗ tấm bạt. Anh vội mò tìm những tảng đá anh đặt lên để chặn giữ tấm bạt, phủ lên người hai cha con rồi lại lấy mấy tảng đá chèn lên mép trong. Anh cởi áo ướt cho con và lấy chăn ra đắp lên. Anh cởi áo khoác của mình, ôm con chặt hơn và hai cha con thiếp đi.

    Đến đêm thì mưa tạnh. Anh thức giấc và lắng nghe. Gió lặng rồi, còn biển thì đang gầm gừ. Khi ánh sáng nhợt nhạt đầu tiên của ngày xuất hiện, anh đứng dậy và bước xuống bãi biển để xem sóng có đánh dạt lên bờ thứ gì dùng được không. Trận bão đã quăng quật mọi thứ và ném bừa bãi trên bãi biển. Trong chỗ nước cạn của đê chắn sóng, giữa đống củi dạt, anh nhìn thấy xác một người già bị dạt vào lúc nâng lên lúc hạ xuống theo nhịp của sóng. Anh ước giá anh có thể giấu đi để con anh khỏi nhìn thấy. Nhưng con anh nói đúng. Anh giấu để làm gì? Khi anh quay lại thì thằng bé đã ngồi dậy trên cát và nhìn anh đi lại từ xa. Anh cuốn chăn và phơi áo khoác của hai cha con lên những bụi cỏ khô. Thằng bé đến cạnh anh và ngồi xuống. Hai cha con cứ ngồi như vậy nhìn những con sóng đen nhịp nhàng lên xuống đằng xa.

    Hai cha con đã mất cả buổi sáng để chuyển đồ từ con tầu sang. Anh nhóm lửa sẵn trên bờ. Khi anh vừa run cầm cập vừa đi lên từ bờ biển lạnh, anh đưa sợi dây cho thằng bé ì ạch kéo cái túi từ dưới biển lên còn anh thì ra đống lửa sưởi. Hai cha con dốc hết đồ từ trong túi ra và trải nó lên bãi biển cho con. Trên thuyền còn nhiều thứ khác má hai cha con không thể mang theo hết. Anh nghĩ là hai cha con nên ở lại vài ngày trên bờ biển ăn uống thỏa thuê nhưng như thế thì rất nguy hiểm. Đêm đó, hai cha con nhóm lửa ngủ lại trên bờ biển với đống đồ đạc lỉnh kỉnh xung quanh. Anh thức dậy và ho. Anh uống chút nước và chất thêm củi vào đống lửa, những tia lửa đỏ không ngừng bắn ra. Thứ gỗ đã ngấm muối này cháy tỏa ra ngọn lửa màu cam và xanh. Anh ngồi nhìn chúng trong một lúc lâu. Sau đó anh đi ngược lên trên bờ biển. Cái bóng của anh đổ dài trên nền cát ngay trước mặt anh. Nó cũng lay động theo ngọn lửa, như một ngọn lửa bập bùng trong gió. Anh ho không dứt. Anh quỳ xuống nắm chặt đầu gối, cảm nhận được vị mặn của máu trong miệng. Những con sóng trườn lên bờ cát rồi rút lui vào trong bóng tối. Anh nghĩ lại về cuộc đời nhưng còn cuộc đời nữa đâu để nghĩ. Sau một hồi anh quay lại. Anh lấy một lon quả ra khỏi túi, ăn chậm rãi. Thằng bé vẫn đang ngủ. Mỗi làn gió thổi, ngọn lửa bùng lên làm những tàn lửa thi nhau chạy theo gió ra ngoài biển. Anh để cái hộp rỗng giữa hai chân. Mỗi ngày là một sự dối trá. Nhưng ta đang chết dần chết mòn. Đấy không phải là một điều dối trá.

    Hai cha con xếp những đồ đạc mới trên tấm bạt hoặc trên những tấm chăn trên bờ biển. Sau đó đóng tất cả lên xe. Thằng bé đã cố gắng mang quá nhiều và hai cha con phải dừng lại để nghỉ. Anh dỡ bớt một phần đồ đạc bên con chuyển sang bên mình. Sau cơn bão, con tàu đã di chuyển một chút. Anh đứng nhìn nó. Còn thằng bé chăm chú nhìn anh.

    - Cha lại định ra đó ạ?

    - Ừ. Một lần cuối.

    - Con thấy sợ lắm cha à.

    - Không sao đấu. Con để ý xung quanh một chút.

    - Chúng ta đã có quá nhiều thứ để mang đi rồi.

    - Cha biết, chỉ là cha muốn xem lại một chút.

    - Vâng.

    Anh xem xét con tầu từ đầu đến cuối một lần nữa. Khoan đã nào. Để xem lại xem. Anh ngồi trên sàn của phòng khách lớn, chân đặt lên cái bệ. Trời đang tối dần. Anh cố gắng nhớ lại mọi chi tiết của con tàu. Anh đứng dậy bước ra boong tàu một lần nữa. Thằng bé đang ngồi cạnh đống lửa. Anh bước xuống khoang lái ngồi tựa vào tường, chân gác lên bàn, gần ngang tầm mắt. Anh mặc một cái áo len và khoác thêm một cái áo gió bên ngoài nữa nhưng chúng chẳng đủ ấm khiến anh cứ run lên cầm cập. Anh đang định đứng dậy thì anh nhận ra cái mà anh cứ nhìn chăm chăm từ nãy đến giờ ở bên vách bên kia là bốn cái chốt. Tất cả làm bằng i-nốc. Ngày trước, những băng ghế này được bọc đệm. Bây giờ, anh có thể thấy dấu vết của những miếng đệm đã rách toang ở các góc. Phía trên băng một chút, một sợi dây ni-lông lộ ra, đoạn cuối của nó được gấp lên và khâu chéo lại. Anh xem xét mấy cái chốt. Chúng có tay quay. Anh quỳ lên băng ghế rồi lấy ngón tay trỏ vặn mấy cái chốt sang bên trái. Chúng đều là chốt lò xo. Khi anh tháo chúng ra anh nắm lấy sợi dây ni-lọng và giật ra, một tấm bảng trượt xuống sàn. Trong cái ngăn đó có vài tấm vải buồm và có lẽ hai cái xuồng cao su đã được cuộn tròn trong một cái dây. Một đoi mái chèo nhựa nhỏ. Một hộp pháo sáng. Trong cùng là một hộp đồ nghề. Quấn quanh nắp khóa là một sợi dây điện. Anh tháo sợi dây ấy ra, mở được nắp hộp. Trong hộp có một cái đèn pin màu vàng, một cái đèn hiệu nhấp nháy chạy bằng pin khô, một túi cứu thương và một cái đèn phát sáng tín hiệu cấp cứu màu vàng, một cái bao màu đen bằng nhựa, to bằng cuốn sách. Anh kéo khóa bao ra. Cái bao đựng vừa vặn một khẩu súng bắn pháo sáng bằng đồng, dài 37mm. Anh khẽ nâng khẩu súng ra khỏi túi bằng cả hai tay. Xem xét rồi đẩy cái chốt và ngó vào bên trong. Không có viên pháo sáng nào trong nòng súng cả, nhưng trong bao còn tám viên to tròn, ngắn và có vẻ mới. Anh đặt khẩu súng vào lại trong bao, và đóng nắp hộp lại.

    Anh lập cập lội vào bờ, ho sù sụ. Choàng khăn lên mình, anh ngồi xuống bên cạnh đống lửa vứt mấy cái hộp vừa thu lượm được sang một bên. Thằng bé cuối xuống cố vòng tay qua người anh. Anh mỉm cười.

    - Cha tìm thấy cái gì thế? Thằng bé hỏi.

    - Cha tìm thấy một túi cứu thương. Và một khẩu súng pháo sáng.

    - Nó là cái gì thế ạ?

    - Để cha cho con xem. Nó dùng để báo hiệu.

    - Nó là cái cha định tìm ạ?

    - Ừ.

    - Sao cha biết được là nó có ở đó.

    - Cha chỉ hy vọng là nó sẽ có ở đó thôi. Nhưng rất may mắn là cha lại tìm được.

    - Anh mở cái hộp ra cho con nhìn.

    - Một khẩu súng.

    - Ừ, một khẩu súng bắn pháo sáng. Đạn của nó là những viên pháo. Nó sẽ bắn viên pháo lên trời rồi viên pháo đấy sẽ nổ tung và phát sáng.

    - Con có thể xem nó không?

    - Có chứ.

    Thằng bá nhấc khẩu súng ra khỏi cái hộp và cầm lấy nó.

    - Liệu con có thể dùng nó để bắn người khác không? Nó hỏi.

    - Có.

    - Thế người đó có chết không?

    - Không. Nhưng nó có thể làm người đó bốc cháy.

    - Vì thế mà cha lấy nó ạ?

    - Ừ.

    - Vì chẳng có ai để cha con mình báo hiệu. Phải không ạ?

    - Cũng không hẳn.

    - Con muốn thấy nó phát sáng.

    - Ý con là bắn thử nó sao?

    - Vâng.

    - Chúng ta có thể bắn thử.

    - Thật không cha?

    - Ừ.

    - Lúc trời tối hả cha?

    - Ừ. Lúc trời tối.

    - Nó sẽ giống như là pháo hoa chúc mừng.

    - Pháo hoa chúc mừng. Ừ, đúng vậy.

    - Chúng ta có thể bắn vào tối nay được không ạ?

    - Sao lại không nhỉ?

    - Nó đã được nạp đạn chưa ạ?

    - Chưa. Nhưng chúng ta sẽ nạp nó sau.

    Thằng bé đứng dậy, tay cầm khẩu súng chĩa thẳng ra biển.

    - Ồ! Nó reo lên.

    Anh mặc quần áo vào, rồi hai cha con đi xuống bờ biển mang theo những món đồ mới lấy được.

    - Cha nghĩ là những người đó đã đi đâu rồi?

    - Những người trên con tàu đó ư?

    - Vâng.

    - Cha không biết.

    - Cha có nghĩ là họ đã chết không?

    - Cha không rõ.

    - Nhưng tình hình có vẻ không có lợi cho họ.

    Anh mỉm cười.

    - Tình hình không có lợi cho họ ư?

    - Vâng. Phải không ạ?

    - Không, có thể là không chứ.

    - Con nghĩ là họ sẽ chết.

    - Không chắc lắm.

    - Con nghĩ đấy là điều đã xảy ra với họ.

    Họ cũng có thể sống sót và đang ở một nơi nào đó lắm chứ. Anh nói. Có thể là như thế chứ. Thằng bé không trả lời. Hai cha con tiếp tục đi, chân được cuốn quanh bằng tấm vải buồm được buộc chặt lại bằng những sợi dây cắt ra từ tấm vải nhựa. Họ để lại trên bãi biển những dấu chân kỳ dị. Trong đầu anh cứ đeo đẳng những suy tư về thằng bé và mối quan tâm của nó. Một lúc sau, anh nói:

    - Có lẽ là con đúng. Họ có thể đã chết.

    - Nếu họ còn sống thì chúng ta đang chiếm đồ đạc của họ.

    - Hiện tại chúng ta không chiếm đoạt con ạ.

    - Con biết.

    - Ừ.

    - Thế cha nghĩ là liệu có bao nhiêu người còn sống.

    - Trên trái đất ư?

    - Vâng, trên trái đất.

    - Cha không biết. Chúng ta nghỉ một lát nhé.

    - Vâng.

    - Con làm cho cha mệt lử rồi.

    - Dạ.

    - Họ để đống đồ xung quanh.

    - Ta có thể ở lại đây bao lâu hở cha?

    - Con đã hỏi cha rồi mà.

    - Con biết.

    - Chúng ta phải xem đã.

    - Có nghĩa là sẽ không lâu ạ?

    - Có thể là vậy.

    Thằng bé bới cát lên đến khi trên mặt cát hình thành một miệng lỗ tròn. Anh chăm chú nhìn con.

    - Cha không biết liệu còn bao nhiêu người sống trên trái đất này. Cha nghĩ là không nhiều lắm.

    - Con biết. Nó nói rồi kéo cái chăn đắp lên vai và nhìn xuống bờ biển hoang vu, xám xịt.

    - Sao thế con? Anh hỏi.

    - Không có gì ạ.

    - Nào, nói cho cha nghe đi.

    - Chắc là một nới đó phải có những người đang sinh sống chứ.

    - Nơi nào cơ?

    - Con không rõ. Nó có thể ở bất kỳ đâu.

    - Ý con là ngoài trái đất.

    - Vâng.

    - Cha không nghĩ là như thế. Họ không thể sinh sống ở bất kỳ đâu nữa.

    - Kể cả khi họ tìm được một nơi như thế ạ?

    - Ừ.

    Thằng bé ngoảnh mặt đi.

    - Sao thế? Anh hỏi.

    Nó lắc đầu rồi nói: -Con không biết chúng ta đang làm gì.

    Anh định trả lời, nhưng rồi lại thôi. Một lúc sau, anh nói:

    - Chắc chắn là vẫn còn người sống. Chắc chắn là như thế. Chúng ta sẽ tìm thấy họ. Rồi con sẽ thấy.

    Anh sửa soạn bữa tối trong lúc thằng bé chơi đùa trên cát. Nó đã chế ra một cái bay từ vỏ hộp thiếc đựng đố ăn và đã xây được một ngôi làng nhỏ trên cát. Thằng bé khoét cát thành một mạng lưới chằng chịt những con đường. Anh lại chỗ con ngồi xổm xuống ngắm công trình của thằng bé. Nó ngẩn đầu lên.

    - Sóng sẽ cuốn trôi nó đúng không cha?

    - Ừ.

    - Thôi kệ vậy. Không sao cả.

    - Con có thể viết bảng chữ cái ABC không?

    - Có.

    - Lâu lắm rồi chúng ta không học hành gì cả.

    - Vâng.

    - Con viết cái gì đó lên cát đi?

    - Có lẽ cha con mình có thể viết một bức thư gửi đến những người tốt bụng. Để nếu như họ có tình cờ đi ngang qua, họ sẽ biết chúng ta đang ở đây. Chúng ta có thể viết thư lên phía trên kia. Thủy triều sẽ không thể xóa được.

    - Thế nếu như những người xấu mà đọc được bức thư của chúng ta thì sao?

    - Ừ nhỉ.

    - Lẽ ra cha không nên nói như thế. Chúng ta có thể viết cho họ một bức thư.

    Thằng bé lắc đầu.

    - Không sao đâu mà, nó nói.

    Anh nạp những viên đạn pháo súng và ngay khi trời tối, hai cha con bỏ lại đống lửa trên bãi rồi đi ra phía biển. Anh hỏi con có muốn tự tay bắn hay không.

    - Cha bắn đi. Cha biết cách bắn mà.

    - Ừ.

    Anh lên cò súng, chĩa ra biển và bóp cò. Viên đạn pháo bay theo đường vòng cung, bừng lên sáng rực cả vịnh. Những tàn pháo lửa từ từ rơi xuống chìm vào lòng biển đêm. Những cơn thủy triều nhờ nhọ đang trườn lên bãi cát cũng sáng lóa lên một lát rồi lịm dần.. Anh nhìn xuống khuôn mặt đang ngước lên của con.

    - Họ có thể nhìn thấy nó từ rất xa phải không cha?

    - Ai hả con?

    - Bất kỳ ai.

    - Không. Không xa lắm.

    - Cái này sẽ giúp cha khi cha muốn chỉ cho họ chỗ cha đang ở.

    - Ý con là báo cho những người tốt?

    - Vâng. Hoặc bất kỳ ai mà cha muốn.

    - Ví dụ như là ai?

    - Con không biết.

    - Như là Chúa ư?

    - Vâng. Có lẽ là một ai đó như Chúa.

    Vào buổi sáng, anh nhóm một đống lửa rồi lang thang trên bờ biển. Thằng bé vẫn đang ngủ. Anh không đi quá xa, nhưng cứ cảm thấy lòng bất an. Khi quay trở về, anh thấy thằng bé choàng khăn đứng chờ anh. Anh rảo bước đi về phía con lúc này đã sụp xuống.

    - Con làm sao thế con trai? Con làm sao thế?

    - Cha ơi, con thấy không khỏe.

    Anh đưa tay lên sờ trán thằng bé. Tránh. Anh bế nó lên và đưa lại gần đống lửa.

    - Không sao. Con sẽ không sao đâu.

    - Không sao đâu con

    Trên bãi cát vắng lạnh, anh ngồi bên cạnh con, đỡ lấy trán thằng bé lúc nó đang cuối xuống, nôn thốc, nôn tháo. Anh lấy tay khẽ lau miệng cho con.

    - Con xin lỗi, thằng bé nói.

    - Thôi nào. Con có làm gì sai đâu.

    Anh bế con vào trong lều, cuốn chăn cho con. Anh dỗ dành cho thằng bé chịu uống chút nước. Anh chất thêm củi vào đống lửa, tay vẫn sờ lên trán thằng bé. Con sẽ ổn thôi mà, anh nói. Thằng bé run rẩy, sợ hãi.

    - Cha đừng đi đâu cả.

    - Tất nhiên là cha sẽ không đi đâu cả.

    - Kể cả là đi một tí thôi.

    - Không, cha không đi đâu cả. Cha ở ngay đây với con.

    - Vâng.

    Anh ôm chặt con cả đêm đó. Chập chờn và choàng tỉnh trong hoảng hốt, anh cảm nhận được nhịp đập yếu ớt của con. Sáng hôm sau, thằng bé vẫn không khá hơn chút nào. Anh cố nài con uống một chút nước hoa quả nhưng thằng bé không uống. Anh áp chặt tay lên trán con, cầu cho thằng bé sẽ mát hơn nhưng thằng bé vẫn sốt cao. Khi nã thiếp đi, anh xa xót khẽ lau đôi môi nhợt nhạt của con. Cha sẽ giữ lời hứa. Anh nói thầm với con.

    - Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cha sẽ không để con đơn độc, cha sẽ không để con ra đi một mình đâu, con trai của cha.

    Anh lục lọi trong túi cứu thương lấy được trên tàu hôm trước, nhưng chẳng có gì dùng được cả. Thuốc aspirin, băng gạt và thuốc tẩy. Một ít thuốc kháng sinh nhưng đã quá hạn sử dụng. Đó là tất cả những gì anh có lúc này, anh đỡ thằng bé dậy cho nó uống thuốc. Người thằng bé ướt đẫm mồ hôi. Trước đó, anh đã lôi cái chăn ra khỏi người con rồi cái áo khoác, bây giờ anh cởi hết quần áo trên người nó ra và đưa ra xa đống lửa. Thằng bé ngước nhìn cha và nói:

    - Con lạnh lắm.

    - Cha biết. Nhưng con đang sốt rất cao và cha con mình phải tìm cách cho con hạ nhiệt.

    - Con có thể đắp thêm chăn được không?

    - Ừ.

    - Cha đừng đi đâu cả.

    - Không. Cha không đi đâu hết.

    Anh mang mấy cái quần áo bẩn đầy bụi đất của thằng bé đi giặt. Anh cởi truồng, run lập cập trong nước biển lạnh giá, vò và vắt từng chiếc quần cái áo. Sau đó, anh xếp mấy cành cây gần đống lửa trên cát để trải chỗ quần áo vừa giặt ra. Anh cho thêm củi rồi đi lại gần con. Tay anh xoa nhẹ lên mái tóc bù xù của thằng bé. Buổi tối anh mở nột hộp súp, đun nóng nó lên. Anh vừa ăn vừa nhìn màn đêm buông xuống rồi ngủ quên mất. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm co ro trên cát. Đống lửa đã tàn, xung quanh chỉ còn là đêm đen. Anh cuống chuồng với sang bên con.

    - Sẽ ổn thôi. Anh thì thầm. -Sẽ ổn thôi con.

    Anh nhóm lại đống lửa, lấy một tấm vải nhỏ, dấp nước và chườm lên trán thằng bé. Bình minh ảm đạm đang lên dần. Lúc trời tờ mờ sáng, anh đi vào trong rừng gỗ phía sau những đụn cát. Khi trở ra, anh mang theo rất nhiều cành củi khô và chất chúng thành đống bên cạnh đống lửa. Anh nghiền nhỏ mất viên aspirin cho vào cốc nước, hòa thêm chút đường và muối. Anh nâng đầu thằng bé lên và giữ cốc cho nó uống.

    Anh đi ra bờ biển, ngồi sụp xuống và ho sù sụ. Anh đứng nhìn những đợt sóng cuồn cuộn, đen ngòm. Bắt đầu thấy lảo đảo vì kiệt sức, anh quay lại, ngồi cạnh thằng bé, gấp lại tấm vải, lau mặt cho con, rồi lại đắp lên trán nó.

    - Mình phải ở cạnh thằng bé. Anh nhủ thầm, mình phải nhanh tay nhanh chân để lúc nào cũng ở cạnh con. Anh ôm con thật chặt. Ngày tàn của thế giới này.

    Thằng bé ngủ li bì cả ngày. Cứ thỉnh thoảng anh lại đáng thức nó đậy để cho nó uống nước đường. Cổ họng khô khốc của thằng bé cứ co giật và nấc lên.

    - Con phải uống, anh nói.

    - Vâng, thằng bé nói với cái giọng khò khè.

    Anh xoay cái cốc xuống nền cát, nhẹ nhàng kéo cái chăn thằng bé đang gối lên để đắp cho nó. Anh ân cần hỏi:

    - Con có lạnh không?

    Nhưng thằng bé đã chìm vào giấc ngủ.

    Anh cố gắng thức qua đêm nhưng cơn đói ngủ cứ kéo tới. Thỉnh thoảng, anh lại choàng tỉnh, ngồi dậy và tự tát vào má mình cho tỉnh ngủ hoặc đứng lên lấy thêm củi cho vào đống lửa. Anh ôm con, cúi xuống nghe những tiếng thở phập phồng, khó nhọc. Tay anh có thể cảm nhận được những chiếc xương sườn con gầy gộc. Anh đi ra phía bờ biển, hai tay bấu chặt lên đầu, rồi cả người anh quỳ sụp xuống, khóc thảm thiết.

    Đến đêm trời mưa. Từng hạt rơi tí tách trên tấm vải nhựa phủ trên người hai cha con. Anh đang ôm thằng bé. Lặng lẽ nhìn những ngọn lửa xanh qua tấm vải nhựa, anh chìm vào một giấc ngủ không mộng mị. Khi anh tỉnh dậy, anh chẳng nhớ nổi mình đang ở đâu. Đống lửa đã tắt, mưa cũng đã tạnh. Anh cất tấm vải nhựa đi, chống khuỷu tay xuống và nhỏm dậy. Ngày ảm đạm. Thằng bé mở mắt ra nhìn anh. Nó gọi:

    - Cha ơi.

    - Cha đây con.

    - Con có được uống nước không?

    - Có. Có chứ. Con thấy trong người thế nào rồi?

    - Con thấy cứ là lạ. Con có đói không?

    - Con chỉ thấy khát thôi.

    - Cha đi lấy nước cho con đây.

    Anh đẩy tấm chăn trên người ra, đứng dậy và chạy đi lấy cho thằng bé một cốc nước. Khi quay lại, anh quỳ xuống, đưa cốc nước lên miệng cho con, dỗ dành. Con sẽ khỏe nhanh thôi, con trai. Thằng bé gật đầu, nhìn cha nó và uống hết cốc nước và còn đòi thêm. Anh nhóm lửa lên, phơi quần áo ướt của thằng bé và mang cho nó một hộp nước táo.

    - Con có nhớ gì không? Anh hỏi.

    - Nhớ gì cơ ạ?

    - Về việc con bị ốm ấy?

    - Con nhớ là cha con mình đã bắn súng phát sáng.

    - Con có nhớ việc lấy các thứ từ con thuyền không?

    Thằng bé ngồi húp nước táo. Nó ngước lên và nói:

    - Con không phải là người mất trí nhớ.

    - Cha biết.

    - Nhưng con mơ thấy nhiều thứ kỳ lạ lắm.

    - Về cái gì?

    - Con không muốn kể cho cha.

    - Ừ. Không sao. Bây giờ con đánh răng nhé.

    - Đánh răng bằng bàn chải ấy ạ?

    - Ừ.

    - Vâng.

    Anh đã kiểm tra tất cả hộp thức ăn và đều thấy chúng an toàn. Những hộp nào gỉ quá rồi thì vứt đi. Tối hôm đó, hai cha con ngồi bên đống lửa, thằng bé húp súp nòng trong khi anh lật qua lật lại quần áo trên lửa cho khô. Anh nhìn con chăm chú làm thằng bé bối rối.

    - Cha đừng nhìn con nữa.

    - Ừ

    Nói rồi nhưng anh vẫn không rời mắt khỏi con.

    Hai ngày tiếp theo, hai cha con cứ đi lang thang dọc bờ biển, đến tận mũi đất rồi lại quay lại. Chân bọc trong những mảnh vải nhựa. Họ đã ăn rất nhiều. Anh đựng lại tấm vải buồm lên bằng mấy cái cọc chắn gió. Hai người cũng đã lọc bớt đồ đạc được để có thể chất vừa lên chiếc xe kéo. Anh dự tính hai cha con sẽ lên đường trong hai ngày nữa. Khi hai cha con quay lại cái lều vào lúc chạng vạng tối, anh nhìn thấy những dấu chân người trên cát. Anh dừng lại, đứng quan sát bờ biển.

    - Ôi, Chúa ơi! Anh rên lên. Chúa ơi!

    - Chuyện gì vậy, cha?

    Anh rút súng ra.

    - Đi nào con. Nhanh lên.

    Tấm vải nhựa đã không cánh mà bay. Những chiếc chăn của họ. Những chai nước và tất cả thức ăn họ gom góp được bấy lâu nay cũng biến mất. Tấm vải buồm đã bị gió thổi tung, bay lên chỗ những đụn cát. Giầy cũng bị lấy đi mất. Anh chạy đến chỗ cất chiếc xe, nhưng chiếc xe cũng không còn ở đó. Tất cả mọi thứ đã bị lấy đi hết. Anh nguyền rủa chính mình. Mày là đồ ngu. Đồ con lừa.

    - Thằng bé tròn mắt ngạc nhiên. Chuyện gì xảy ra vậy cha?

    - Chúng đã lấy đi tất cả đồ của chúng ta rồi con ạ.

    - Thằng bé ngước nhìn lên rơm rớm nước mắt.

    - Theo cha nào. Con phải theo sát cha nhé.

    Anh lần theo vết xe kéo để lại trên cát. Những dấu giày, Có bao nhiêu tên đây? Ra đến nền đất sau mấy bụi dương xỉ thì anh mất dấu. Lần mò một lúc hai cha con ra đến đường lớn, anh ra dấu bảo con dừng lại. Gió cuốn hun hút, bốc lên những đám tro bụi rải rác.

    - Con đừng giẫm lên đường vội. Và nín khóc đi. Chúng ta phải rũ sạch cát khỏi chân đã. Đây, con ngồi xuống.

    Anh tháo tấm vải buồm buộc chân, rũ sạch cát ra và rồi buộc lại như cũ.

    - Cha muốn con giúp. Chúng ta cần tìm nơi cát rơi bên đường. Có thể chỉ là một ít cát thôi. Để chúng ta có thể biết được chúng đã đi đường nào. Được chứ?

    - Vâng.

    Họ tìm thử hai hướng khác nhau trên đường nhựa. Anh vừa đi được một đoạn thì thằng bé gọi.

    - Đây này cha ơi. Bọn chúng đi theo đường này này.

    Khi anh quay lại chỗ thằng bé, nó đang cúi sát mặt đường.

    - Ngay đây này.

    Anh nhìn thấy có một ít cát biển trên mặt đường, Đó hẳn là chỗ cát rơi ra từ hầm chiếc xe kéo của hai cha con. Anh đứng dậy và nhìn theo vệt cát trên đường.

    - Làm tốt lắm, con trai. Đi nào.

    Họ lại đi tiếp. Anh nghĩ là với tốc độ này, anh sẽ đuổi kịp bọn chúng, nhưng không thể. Anh phải dừng lại vì những cơn ho dữ dội.

    - Chúng ta sẽ phải đi bộ. Nếu bên kia nghe thấy tiếng chúng ta chạy, chúng sẽ trốn vào hai bên đường. Đi thôi con.

    - Họ có bao nhiêu người vậy cha?

    - Cha không biết, cũng có thể chỉ có một tên thôi.

    - Chúng ta sẽ giết họ à?

    - Cha chưa biết.

    Họ lại tiếp tục đi theo vệt cát. Hơn một giờ đồng hồ trong đám bụi, lúc đo trời cũng đã nhá nhem tối, thì họ mới đuổi kịp theo kẻ trộm. Hắn đang gò lưng kéo chiếc xe đầy đồ, chật vật bước ngay phía trước hai cha con. Khi hắn ta nhìn lại sau và thấy hai người, hắn cố hết sức để kéo chiếc xe chạy, nhưng chiếc xe chất quá nhiều đồ nên hắn buộc phải dừng lại. Hắn đứng phía sau cái xe kéo, tay lăm lăm con dao phay. Khi hắn nhìn thấy khẩu súng, hắn lùi lại mấy bước, nhưng tay vẫn cầm chặt con dao.

    - Tránh xa chiếc xe ra. Hắn gằn giọng.

    Hắn nhìn hai cha con, nhìn vào thằng bé. Một kẻ cù bất cù bơ. Những ngón tay của bàn tay phải đã bị cắt cụt. Hắn rụt tay lại, giấu những ngón tay sau lưng. Chiếc xe được chất cao ngất, hẳn là hắn không bỏ sót một chút gì của hai bố con.

    - Tránh xa chiếc xe ra và thả con dao xuống.

    Hắn dáo dác nhìn quanh như thể quanh đó sẽ có gì giúp được hắn. Hắn ta gầy giơ xương, thảm hại, râu ria xồm xoàng và bẩn thủi. Cái áo khoác hắn đang mặc chằng chịt băng dính. Mặc dù biết tên kẻ trộm kia đã sợ hết hồn hết vía khi trông thấy khẩu súng trong tay anh, nhưng anh vẫn lên đạn để dọa hắn. Hai tiếng lên cò khô khốc, lạnh lùng phá tan không gian tĩnh mịch chỉ có một âm thanh duy nhất là tiếng thở của mỗi người. Đứng cách tên kẻ trộm một đoạn mà hai cha con vẫn có thể ngửi thấy mùi hôi hám bốc ra từ đống quần áo rách tới tả trên người hắn. Nếu mày không đặt con dao xuống và tránh xa chiếc xe của tao ra, tao sẽ bắn vỡ sọ mày. Tên trộm đưa mắt nhìn thằng bé. Hắn đặt con doa trên đống chăn và lùi lại mấy bước và cứ đứng đó.

    - Lùi lại nữa đi.

    Hắn lùi lại thêm ấy bước.

    - Cha ơi. – Thằng bé rụt rè lên tiếng.

    - Con ở yên chỗ đó.

    Anh vẫn không rời mắt khỏi tên kẻ trộm.

    - Thằng khốn này.

    - Cha ơi, đừng giết ông ấy.

    Tên trộm lấm la lấm lét nhìn hai cha con. Thằng bé mếu máo.

    - Nào ông bạn, tôi đang làm những gì ông bảo đây. Ông nghe thằng bé đi.

    - Cởi quần áo ra.

    - Cái gì.

    - Cởi quần áo ra. Cởi hết.

    - Thôi nào, đừng bắt tôi làm vậy.

    - Làm đi, không tao sẽ cho mày chết ngay tại chỗ.

    - Đừng giết tôi, xin ông, đừng giết tôi.

    - Tao không nhắc lại lần nữa đâu.

    - Được rồi, được rồi. Bình tĩnh đã ông bạn.

    Tên trộm từ từ cởi đám giẻ rách trên người ra và để trên mặt đường.

    - Giày nữa.

    Thôi nào, tôi xin ông.

    - Tên trộm nhìn thằng bé cầu cứu. Nó quay mặt đi và lấy tay bịt chặt tai.

    - Được rồi, tên trộm nói. Được rồi.

    Đến lúc này thì nhắn đã hoàn toàn trần truồng, hắn ngồi xuống đường và bắt đầu tháo giầy ra khỏi chân. Sau đó, hắn đứng dậy, cầm đôi giầy trên tay.

    - Để chúng vào xe.

    Hắn tiến mấy bước rồi đặt đôi giày lên trên đống chăn, rồi lại lùi lại. Hắn ta đứng đó, bẩn thỉu, trần truồng và ốm đói. Hắn ôm lấy người, run lên cầm cập.

    - Để đống quần áo của mày lên xe.

    Hắn cuối xuống, gom lại đống quần áo tổ đĩa của hắn và để lên trên đôi giày. Co quắp vì lạnh, hắn van nài: -Xin đừng làm vậy, thưa ông.

    - Mày có bận tâm khi làm thế với tao đâu.

    - Tôi xin ông, tôi cầu xin ông.

    - Cha ơi.

    - Thôi nào, ông nghe thằng bé nói đi.

    - Mày đã cố tình giết chúng tao.

    - Tôi sắp chết đói. Nếu ông là tôi ông cũng sẽ làm như thế thôi.

    - Mày đã lấy đi tất cả mọi thứ của tao không chừa một cái gì cả.

    - Tôi xin ông. Tôi sẽ chết mất.

    - Tao sẽ đối xử với mày như cách mày đã làm với chúng tao.

    - Tôi xin ông, tôi van ông.

    Anh lôi cái xe và quay nó vòng trở lại. Đặt khẩu súng lên đống đồ anh nhìn con.

    - Đi thôi.

    Họ đẩy chiếc xe đi dọc con đường về phía nam, thằng bé cứ vừa đi, vừa khóc, vừa quay lại nhìn người đàn ông trần truồng, đứng co quắp đằng sau..

    - Cha ơi. Thằng bé mếu máo.

    - Không khóc nữa.

    - Con không thể.

    - Thế con có nghĩ đến việc chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không thể bắt được hắn không? Không khóc nữa.

    - Vâng.
     
  10. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 19

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi đi đến khúc quanh của con đường, họ vẫn thấy người đàn ông kia đứng co quắp ở đó. Hắn ta chẳng có chỗ nào để đi cả. Thằng bé cứ ngoái đầu nhìn lại cho đến khi nó không thể thấy gì nữa. Nó đứng lại và ngồi phịch xuống đường khóc nức nở. Anh đừng xe lại và đứng nhìn con. Anh lục lấy hai đôi giầy ra khỏi xe kéo, từ từ ngồi xuống và tháo tấm vải bọc chân con. Nín đi con.

    - Con không thể.

    Anh xỏ giầy cho thằng bé và cho mình rồi đứng dậy, đi ngược trở lại nhưng anh không còn thấy tên trộm ở đó nữa. Anh quay lại và cuối xuống nói với con:

    - Hắn đi rồi.. Chúng ta cũng đi thôi.

    - Ông ấy chưa đi, thằng bé nói và ngẩng lên nhìn anh.

    Gương mặt nó tèm lem vì bụi bẩn và nước mắt.

    - Ông ấy chưa đi đâu.

    - Thế con muốn làm gì?

    - Mình giúp ông ấy đi cha. Chỉ giúp ông ấy một chút thôi.

    Người đàn ông ngoảng đầu nhìn lại.

    - Cha ơi, ông ấy đói lăm. Ông ấy sắp chế.

    - Kiểu gì thì hắn cũng chết mà.

    - Ông ấy đang rất sợ, cha ơi.

    Anh ngồi bệt xuống đất, đưa mắt nhìn con.

    - Cha cũng rất sợ. Con có hiểu không? Cha cũng rất sợ.

    Thằng bé không trả lời. Nó ngồi đó, mặt cuối gầm và sụt sịt khóc.

    - Con không phải là người phải lo lắng về mọi thứ.

    Thằng bé lí nhí nói điếu gì đó, nhưng anh không nghe thấy gì cả.

    - Con bảo sao? Anh hỏi.

    Nó ngẩng lên nhìn cha, một khuôn mặt lấm lem và nhòa vì nước mắt.

    - Vâng, cha là người duy nhất lo cho những thứ này.

    Họ chật vật đẩy chiếc xe kéo quay trở chỗ tên kẻ trộm. Trời càng ngày càng lạnh giá hơn và bóng tối cũng đang bao trùm dần khắp mọi nơi. Họ cất tiếng gọi, nhưng không một ai đáp lại.

    - Ông ấy sợ hãi nên đã không dám trả lời cha ạ.

    - Có phải đây đúng là chỗ lúc nãy ta gặp hắn không?

    - Con không biết, nhưng con nghĩ thế.

    Họ cứ đi dọc con đường, cất tiếng gọi tên kẻ trộm. Trong màn đêm buốt giá, tĩnh mịch đến rợn người, tiếng gọi của họ như bị mất hút vào bóng tối. Mây tiếng hú gọi chỉ được đáo lại bằng sự lạnh lẽo, cuối cùng anh để lại quần áo và đôi giày của tên kẻ trộm trên đường, đặt một hòn đá lên trên đó..

    - Cha con mình phải đi thôi.

    Họ đựng lều, nhưng lần này không nhóm lửa. Anh chọn ra vài hộp đồ ăn cho bữa tối, dùng ngọn đèn hàn để sưởi ấm. Thằng bé không hề nói một lờ nào trong lúc hai cha con ăn tối. Trong ánh đèn tờ mờ, anh cố nhìn vào khuông mặt con. Cha không cố ý giết hắn ta, anh nói. Thằng bé vẫn nín thinh. Họ nằm ngủ thu lu trong chăn. Trời tối đen, rét cóng. Anh nghĩ mình nghe thấy tiếng sóng, nhưng có lẽ đó chỉ là tiếng gió. Anh thở dài. Trằn trọc. Thằng bé thức giấc. Một lúc sau, nó nói:

    - Cha con mình đã giết ông ấy.

    Sáng hôm sau, hai cha con ăn sáng và lại tiếp tục lên đường. Chiếc xe kéo nặng quá nên phải rất vất vả họ mới đẩy được nó đi. Bánh xe sắp long ra. Con đường uốn theo đường bờ biển. Những búi cỏ chết khô bên đường. Biển ở phía xa, nặng nề xám xịt. Yên ắng quá. Đêm đó anh chợt tỉnh dậy. Ánh trăng thê lương mờ mờ trên những bụi cây. Anh quay mặt đi, ho sù sụ. Có mùi tro ẩm. Trời đang mưa. Thằng bé cũng đã thức giấc.

    - Con phải nói gì đó với cha chứ.

    - Vâng.

    - Xin lỗi đã làm con thức dậy.

    - Không sao ạ.

    Anh đứng lên và đi về phía con đường. Con đường ngoằn ngoèo và lẩn khuất trong màn đêm. Bỗng nhiên, từ xa vọng lại âm thanh ấm ì. Không phải sấm. Anh còn có thể cảm thấy mặt đất đang rung chuyển. Một âm thanh khó xác định, và cũng khó để miêu tả được. Anh mơ hồ cảm thấy có điều gì đó đang thay đổi, chuyển mình ngoài kia, trong bóng đêm mịt mùng. Trái đất đang co lại ư. Vì lạnh. Không thấy tiếng gì nữa và cũng không thấy đất rung chuyển. Bây giờ là đang tháng mấy nhỉ. Con anh anh đã được bao nhiêu tuổi rồi? Anh tiếp tục đi, rồi lại đứng lại. Sự hoang vắng này.

    Yên lặng. Đâu đâu cũng bắt gặp quang cảnh những thành phố ngập ngụa trong bùn đất. Tại một ngã tư, anh bắt gặp một khu đất quy tụ mộ phần của các nhà tiên tri. Những ngôi mộ ở đây giờ chỉ còn là đống hoang tàn, vụn nát. Vẫn sự tĩnh mịch ghe người. Chỉ có tiếng gió thổi hun hút. Bạn sẽ nói gì? Một người đang sống mà nói ra những lời này sao? Anh chuốt lại chiếc bút lông ngỗng bằng con dao nhíp rồi chấm chấm vào muội đèn và ghi chép. Một phút bất cẩn? Hắn sẽ lấy đi đôi mắt của ta, sẽ trát kín miệng ta bằng bùn đất.

    Anh rà soát lại mấy hộp đồ ăn, cầm từng hộp lên mà nắn nắn như người ta xem xét độ chín của hoa quả vậy. Sau khi loại bỏ những hộp anh cho là hỏng, số còn lại anh chất lên xe đẩy rồi hai cha con họ tiếp tục lên đường. Sau ba ngày, họ đến một thị trấn cảng nhỏ. Anh giấu xe đẩy trong gara phía sau một ngôi nhà. Sau khi cẩn thận chất một đống hộp cũ lên trên cái xe, anh còn nán lại xem xét xung quanh xem liệu có ai không. May mắn thay không có ai trông thấy cha con anh. Anh lục tung mấy ngăn tủ trong ngôi nhà nhưng không tìm được gì cả. Thằng bé mỗi lúc một còi cọc, nó cần vitamin D. Anh đến bên bồn rửa bát, nhìn ra cửa sổ ra lối đi bên nhà. Nước rửa bát đóng két lại trên những tấm kính cửa sổ. Thằng bé ngồi rũ cạnh bàn, hai tay ôm đầu.

    Hai cha con đảo một vòng quanh thị trấn, xuống hết các bến tàu. Thị trấn trống trơn không một bóng người. Anh để khẩu súng lục trong túi áo và cầm súng bắn pháo trong tay. Họ đi ra phía cầu tàu. Những tấm ván xù xì, phủ hắc ín xám xịt được ghim chặt vào những cọc gỗ bên dưới Mùi muối từ vịnh phả vào khiến hai cha con muốn ói. Từ vị trí này, họ có thể nhìn thấy một dãy nhà kho và các tàu chở dầu rỉ sét ở phía bờ bên kia. Một giàn cần trục chơ vơ giữa nền trời ảm đạm.

    - Ở đây chẳng có ai con ạ.

    Thằng bé không nói gì.

    Hai cha con lại đẩy xe dọc các con phố nhỏ trong thị trấn, băng qua đường ray ở phía đường cái ở ven thị trấn. Đúng lúc đi hết dãy những căn nhà gỗ ảm đạm, anh bất chợt nghe thấy một tiếng rít vèo qua tai, sau đó là tiếng va đập xuống đường và tiếng va chạm vào bức tường của dãy nhà bên kia đường. Anh chộp vội lấy con, nằm úp lên thằng bé và kéo mạnh chiếc xe đẩy về phía mình. Cái xe bị giật lật úp, chăn chiếu tung tóe trên đường. Anh nhìn thấy một người đàn ông phía sau khung cửa sổ tầng trên một ngôi nhà đang giương cung về phía hai cha con. Anh giúi đầu thằng bé xuống, ra sức lấy toàn bộ thân mình che chắn cho con. Một tiếng "phựt" khô khốc. Rồi anh thấy đau nhói ở chân. Anh gầm lên:

    - Thằng khốn. Khốn kiếp.

    Anh gạt phăng đống chăn sang bên, chộp lấy khẩu súng bắn pháo sáng, đứng phắt dậy, dựa vào xe, giương súng, lên đạn. Thằng bé núi chặt lấy cha. Khi gã đàn ông xuất hiện trở lại bên cửa sổ và giương cung nhắm bắn hai cha con, anh bóp cò. Một tia lửa vụt ra, đi theo đường vòng cung hướng thẳng về phía ô cửa sổ. Ngay sau đó, là tiếng rú đau đớn của gã bắn cung. Anh gỡ tay thằng bé ra, vơ chăn phủ lên con.

    - Con nằm im. Không được cử động và không được nhìn.

    Anh lôi đống chăn ra khỏi cái xe đẩy, lục tìm hộp đạn pháo. Cái hộ lăn ra, anh vồ vội lấy nó, nạp một quả đạn vào súng, còn lại bỏ hết vào túi áo.

    - Con ở nguyên đây nhé.

    Anh khẽ khàng nói với thằng bé, tay vỗ nhẹ qua tấm chăn rồi tập tễnh chạy qua đường.

    Anh vào nhà kho theo lối cửa sau, súng cầm sát ngang hông. Anh thận trọng đi qua phòng khách và đừng lại dưới chân cầu thang, lắng nghe động tĩnh trên tầng. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, quan sát chiếc xe đẩy vẫn đang ở ngoài phố, rồi từ từ bước lên cầu thang.

    Một người đàn bà đang ngồi trong góc phòng, ôm chặt gã đàn ông xấu số với tấm áo khoác đắp trên mình. Ngay khi trông thấy anh, bà ta cất tiếng chửi rủa. Đan phái bắn ra đã làm cháy xém một khoảng sàn nhà. Vẫn còn đó một lớp tro tàn trăn trắng và mùi cháy khen khét. Anh đi về phía cửa sổ, quan sát. Người đàn bà vẫn dõi theo nhất cử nhất động của anh. Bà ta gầy nhẵng, mái tóc xám xổ ra rũ rượi.

    - Còn ai nữa không?

    Bà ta không trả lời. Anh bước qua chỗ họ, tập tễnh đi kiểm tra các phòng. Vết thương ở chân mỗi lúc một ra nhiều máu hơn. Anh có thể cảm thấy chiếc quần sũng máu bám dính vào da thịt. Anh quay lại căn phòng, cất tiếng hỏi người đàn bà.

    - Cái cung đâu rồi?

    - Tao không có cung tên nào cả.

    - Nó ở đâu rồi?

    - Tao không biết.

    - Bọn chúng để lại mình bà ở đây phải không?

    - Không có bọn chúng nào ở đây cả. Ở đây chỉ có mình tao.

    Anh quay đi, tập tễnh lết xuống cầu thang và ra ngoài theo lối cửa chính Sau khi kiểm tra kỹ phía sau ngôi nhà, anh trở ra phía đường, đỡ con dậy và chất lại đồ đạc lên xe. Vừa làm vừa thì thào:

    - Đứng sát vào cha. Đứng sát vào cha.

    Hai cha con dừng chân tại một nhà kho ở cuối thị trấn. Anh đẩy cái xe vào một căn phòng phía sau, đóng cửa lại và chặn cái xe chỗ lối ra vào. Xong, anh lấy đèn dầu và can xăng ra châm đèn, đặt xuống sàn nhà rồi mở khóa thắt và cởi chiếc quần đẫm máu ra. Thằng bé lặng im theo dõi. Mũi tên đã rạch một vết dài chừng ba centimet ngay trên đầu gối. Vết thương vẫn đang chảy máu. Toàn bộ phần đùi bên trên tím tái, trắng bệch. Có thể thấy rõ là vết thương khá sâu. Anh ngẩng lên nhìn thằng bé và nói:

    - Con xem hộp sơ cứu ở đâu?

    Thằng bé không nhúc nhích.

    - Lấy hộp đồ sơ cứu đi. Đừng có ngồi ì ra như thế.

    Thằng bé bật dậy, đi ra phía cái xe và bắt đầu lục lọi dưới tấm vải nhựa và đống chăn. Nó cầm hộp đồ lại, đưa cho anh. Anh cầm lấy cái hộp, đặt nó xuống sàn tháo khóa, mở hộp. Lẳng lặng không nói một lời. Anh với tay vặn đèn cho sáng hơn rồi mới quay sang bảo thằng bé:

    - Mang cho cha chai nước.

    Thằng bé lật đật đi lấy nước. Anh mở nắp chai, đổ nước rửa vết thương rồi lấy tay khép miệng vết thương lại trong khi tay kia lau sạch máu. Anh tẩm thuốc sát trùng vào miếng gạc, rồi dùng răng xé túi ni-lông đựng kim khâu và chỉ y tế ra. Ngồi tại chỗ, giơ kim lại gần đèn, anh xâu chỉ. Xong, anh lấy một cái kẹp trong hộp sơ cứu ra, kẹp kim vào đó và bắt đầu khâu vết thương. Anh làm rất nhanh và trên khuôn mặt không biểu lộ một chút đau đớn nào. Thằng bé vẫn gò lưng, ngồi bên cạnh nhìn cha. Anh ngước nhìn con rồi lại cúi xuống khâu tiếp.

    - Con không phải nhìn đâu.

    - Vết thương không sao chứ ạ?

    - Ừ. Không sao.

    - Có đau không ạ?

    - Có. Đau chứ con.

    Anh thắt chỉ sát vết khêu, rồi dùng kéo cắt. Xong xuôi, anh nhìn con. Nãy giờ nó vẫn theo dõi anh một cách tỉ mỉ.

    - Cha xin lỗi vì đã quát con.

    Thằng bé ngẩng lên.

    - Không sao ạ.

    - Vậy mình cho qua nhé.

    - Vâng ạ.

    Trời đang mưa. Gió mạnh đập vào cánh cửa kính sau nhà. Anh đứng bên cửa, lặng lẽ quan sát. Một nửa bến tàu đã sập, ngập sâu trong biển nước. Xa xa, thấp thoáng những chỏm màu xam xám của những khoang thuyền đánh cá. Không một chuyển động. Tất cả mọi cật, mọi thứ có thể chuyển động đều đã bị cuốn đi. Vết thương ở chân anh giật liên hồi vì đau nhức. Anh tháo băng, rửa vết thương. Phần thịt quanh vết thương sưng phồng lên, trắng bợt. Chỗ vết khâu thì thâm đen lại. Anh băng lại vết thương, rồi kéo chiếc quần sậm màu máu khô lên.

    Hai cha con ngồi trong phòng cả ngày, giữa đống hộp ngổn ngang.

    - Con phải nói chuyện với cha chứ.

    - Con vẫn đang nói đây ạ.

    - Con chắc không?

    - Thì lúc này con đang nói đây ạ.

    - Con có muốn cha kể chuyện cho con không.

    - Không ạ.

    - Tại sao không?

    - Thằng bé nhìn anh rồi quay đi.

    - Tại sao không?

    - Những câu chuyện cha kể đều không có thật.

    - Những câu chuyện đó không nhất thiết phải có thật. Vì chúng chỉ là những câu chuyện thôi mà.

    - Vâng, nhưng trong câu chuyện chúng ta luôn giúp đỡ người khác. Còn sự thật là chúng ta không giúp ai cả.

    - Vậy sao con không kể cho cha nghe một câu chuyện nhỉ?

    - Con không muốn.

    - Được thôi.

    - Con chẳng có chuyện gì để kể cả.

    - Con có thể kể chuyện của con.

    - Cha đã biết hết mọi chuyện về con rồi. Lúc nào mà cha chẳng ở cạnh con.

    - Có những chuyện nếu con không nói ra thì cha không biết.

    - Ý cha là những chuyện kiểu như những giấc mơ ạ?

    - Ừ, những giấc mơ. Hay chỉ đơ giản là những đều con nghĩ.

    - Vâng, nhưng chuyện thì phải kết thúc có hậu đúng không ạ?

    - Không nhất thiết phải vậy.

    - Cha luôn kể những câu chuyện kết thúc có hậu còn gì.

    - Thế con không có một câu chuyện nào vui sao?

    - Những câu chuyện của con giống đời thật hơn.

    - Chuyện cha kể không giống với đời thật à?

    - Không, chuyện của cha không thật tí nào.

    Anh nhìn con.

    - Cuộc sống thật tệ thế sao con?

    - Cha nghĩ thế nào ạ?

    - À, cha nghĩ mình vẫn ở đây. Có rất nhiều điều tệ hại đã xảy ra, nhưng giờ cha con mình vẫn ngồi đây đấy thôi.

    - Vâng.

    - Con không thấy thật kỳ diệu sao?

    - Cũng bình thường ạ.

    Hai cha con kéo một cái bàn ra sát cửa sổ và trải chăn lên đó. Thằng bé lúc này đang nằm sấp trên bàn, nhìn ra ngoài vịnh, còn anh ngồi đó với cái chân bị thương duỗi thẳng ra. Hai khẩu súng và hai hộp đạn pháo đặt trên tấm chăn, ở giữa hai cha con. Im lặng một hồi, anh lại cất tiếng:

    - Cha vẫn nghĩ việc mình còn sống là một điều tốt đẹp. Nó phải được tính là một câu chuyện rất có hậu đấy chứ.

    - Được ạ. Con chỉ muốn yên tĩnh một lát thôi.

    - Thế còn những giấc mơ? Trước, con vẫn hay kể cho cha nghe về những giấc mơ của con.

    - Con không muốn nói chuyện gì cả.

    - Được rồi.

    - Dù sao, con cũng chẳng có một giấc mơ đẹp nào cả. Chỉ toàn là những việc không hay đang diễn ra. Cha đã có lần nói là không sao cả, vì những giấc mơ đẹp không phải là điềm lành.

    - Có lẽ vậy, cha không rõ lắm.

    - Khi cha thức giấc và ho, cha ra ngoài, đi dọc theo con đường hoặc ra một chỗ nào đó, con vẫn có thể nghe thấy cha ho sù sụ.

    - Cha xin lỗi.

    - Có lần, con nghe thấy tiếng cha khóc.

    - Cha biết.

    - Vì thế, nếu con không nên khóc thì cha cũng nên như vậy.

    - Ừ.

    - Cha không cần phải nói như vậy.

    - Tại sao.

    - Vì con biết cha đang đau lắm.

    - Không đến mức vậy đâu con.

    - Người đàn ông đó đã cố tình giết mình phải không cha?

    - Ừ.

    - Cha đã giết ông ta à?

    - Không.

    - Có thật không ạ?

    - Thật.

    - Vậy là được rồi.

    - Thế là tốt rồi chứ con?

    - Vâng ạ.

    - Cha tưởng con không muốn nói chuyện.

    - Không đâu ạ.

    Hai ngày sau, họ lại tiếp tục lên đường. Anh đi tập tễnh sau xe đẩy, thằng bé đi sát bên cha cho đến khi ra khỏi ngoại ô thị trấn. Con đường chạy theo bờ biển rộng nhuốm màu tro bụi. Gió cuốn để lại trên bờ cát những đụn dài cản bước hai cha con. Họ phải dùng một tấm ván để súc cát sang bên lấy lối đi. Khi ra đến bờ biển, hai cha con ngồi tránh gió sau những đụn cát và xem lại bản đồ. Chiếc đèn dầu vẫn là bạn đồng hành của hai cha con suốt chặng đường đi. Họ đun nước, pha trà và cuộn mình trong chăn ngồi giữa cái rét căm căm. Phía xa bờ là đống ván chắn bão của một con tàu cũ kỹ. Những tấm ván có tay quay ngập chìm trong cát. Những thân tàu bằng sát màu tím hoa cà có lẽ được nung trong một lò nung nào đó ở Cadiz hoặc Bristol, rồi được tán đều trên một cái đe nhọ nhem. Trông chúng đủ bền để có thể tồn tại trên bờ biển này suốt ba trăm năm. Ngày hôm sau, hai cha con đi ngang qua một khu nghỉ mát đổi nát, hoan tàn. Từ đây, hai cha con đi xuyên qua một rừng thông về phía đường cái. Lá thông nằm phủ kín mặt đất đen xì và gió xào xạc qua những tán cây âm u.

    Khoảng trưa, anh ngồi bệt xuống đường, chỗ sáng nhật và bắt đầu cắt chỉ vết thương ở chân. Xong xuôi, anh cất kéo lại vào hộp sơ cứu và lấy cái kẹp ra, rút từng sợi chỉ đen nhỏ ra khỏi da thịt; ngón tay trỏ của anh ấn chặt xuống để rút chỉ bớt đau. Thằng bé vẫn ngồi bên cạnh, theo dõi từng cử động của cha. Mỗ lần một sợi chỉ được rút, máu lại ứa ra. Sau khi đã rút hết chỉ, anh cất kẹp và bắng vết thương lại bằng băng gạc. Xong xuôi, anh kéo quần lên và đưa hộp đồ cho thằng bé cất đi.

    - Đau lắm phải không cha?

    - Ừ.

    - Cha đúng là rất dũng cảm phải không?

    - Chỉ bình thường thôi con ạ.

    - Thế điều dũng cảm nhất mà cha đã từng làm là gì?

    Anh khạc một ít đờm toàn máu xuống đất.

    - Là thức dậy vào sáng nay.

    - Thật ạ?

    - Không. Đừng tin cha. Thôi nào, mình đi thôi.

    Đến chiều tối, hai cha con đến một thành phố biển âm u khác. Nơi đây cũng có những tòa nhà đứng xiêu vẹo trong màn sương khói lờ mờ. Anh cho rằng lớp vỏ bên ngoài những tòa nhà đã luồng khí nóng bỏng làm cho mếm oặt đi nên các tòa nhà mới trở nên xiêu vẹo như thế. Những tấm kính cửa sổ bị nung nóng đế chảy ra, giờ đã đông cứng lại trên tường trông như lớp kem bánh ga-tô vậy. Họ lại đi. Thỉnh thoảng, trong đêm, anh chợt bừng tỉnh khỏi một giấc mơ về một thế giới dịu dàng đầy tình người, ngập tràn trong những giai điệu đáng yêu của những chú chim và của ánh mặt trời rực rỡ để lại đối diện với màn đêm thăm thẳm và những mảnh vụn lạnh lẽo của thế giới này.

    Anh gục đầy lên cánh tay đang đẩy chiếc xe, ho sù sụ. Có máu. Anh đưa tay quệt đi nhưng máu trong miệng vẫn chảy ra. Này hai cha con buộc phải dừng lại tìm chỗ nghĩ. Thằng bé im lặng nhìn cha. Trong một thế giới khác đang tồn tại, thằng bé có thể bắt đầu loại bỏ anh khỏi cuộc đời nó. Nhưng nó cũng có cuộc đời nào đâu. Đêm nay, thằng bé vẫn thức và đang lắng nghe xem anh có thở không.

    Mỗi ngày vẫn trôi qua. Không biết đã bao lâu, bao năm tháng rồi. Hai cha con đã lang thang khắp các bang trên đất nước này; đã thấy những hàng xe nối đuôi nhau, vụn nát, cháy đen và hoen gỉ. Vành xe vẫn dính chặt những cái lốp đã chảy ra. Người chết cháy bị co rút lại, nhỏ như một đứa trẻ, ngồi dựng đứng trên những tấm ghế xe chỉ còn trơ lò xo. Hai cha con vẫn đi, lần mó trong cái thế giới chết chóc, tang thương này. Thật chẳng khác gì số phận của những chú chuột nhắt đang chạy nháo nhác dưới bánh xe. Những đêm dài câm lặng, chết chóc ngày một trở nên u ám và lạnh lẽo và câm lặng hơn.. Rét thấu xương.. Hai cha con hầu như chẳng nói với nhau một lời. Anh ho không dứt và thằng bé phải chứng kiến cảnh anh rạp người xuống đường ho, ho ra máu, nhếch nhác, rách rưới và vô vọng. Thường thì bây giờ thằng bé đi trước, rồi dừng lại, ngó lại phía sau, chờ anh trong khi anh tì vào cái xe đẩy, ho rũ rượi. Những lúc như thế, anh lại ngước nhìn con, hai hốc mắt sâu hoắm như thấy trước một tương lai dành cho thằng bé. Một tương lai mà chính anh cũng không hình dung nổi.

    Con đường này dẫn họ qua một đầm lầy đã khô cạn. Ở đây, những tảng băng hình ống nhô lên khỏi mặt đầm trong như nhũ đá trong hang động vậy. Bên đường còn sót lại tàn tro của một đống lửa. Có một con dê dài đắp bằng xi măng qua cái đầm. Cái đầm lầy tang tóc.

    Những thân cây chết khô bên dòng nước đục ngầu, rêu phong bao phủ. Anh đứng tựa người vào bờ đê thô ráp. Có lẽ, ít nhất giữa những đống đổ nát của thết giới này, người ta vẫn có thể tìm thấy chút gì nguyên vẹn còn sót lại. Trên các, đại dương, trên các dãy núi. Tất cả đều mang một vẻ đau đau buồn, hoang tàn và ảm đạm trong cái lạnh lẽo đến vô cùng. Không gian như thẳm sâu hơn trong cái tĩnh lặng đến rợn người.

    Hai cha con đã xuất phát từ những con đường trải đầy thông khô, đã băng qua những đồng cỏ trơ trụi, cằn cỗi của mỗi miền quê. Những ngôi nhà đổ, những cuộn dây điện rối tung, loằng ngằn lăn lóc trên những con đường tan nát, không còn nguyên vẹn. Một mớ hỗn độn khiên cha con anh phải rất vất vả mới có thể lôi được chiếc xe đẩy qua. Cuối cùng, họ ngồi bệt bên vệ đường, nhìn chăm chăm vào vật cảnh phía trước mặt. Những mái nhà cong vênh. Những thân cây khô quắp, trơ trụi.. Và một con thuyền chơ vơ trên nền trời u ám, chạng vạng tít tắp đằng xa.

    Hai cha con lục lọi trong đống đổ nát. Sau cùng, anh cũng tìm được một cái túi làm bằng vải bạt, có thể đeo được và một cái va li nhỏ cho thằng bé. Họ sắp xếp đồ đạc, nhét hết chăn, tấm vải nhựa và số đồ ăn còn lại vào ba lô và cái túi vải, rồi lại lên đường, bỏ lại cái xe đẩy trơ trọi đằng sau. Hai cha con trèo qua những đống đổ nát. Chầm chậm từng bước. Anh phải dừng lại để nghỉ lấy sức. Bên đường có một băng ghế sô-pha, đệm ghế phồng lên vì ngấm nước. Anh ngồi lên đó, gập mình xuống ho sù sụ. Miếng vải đã thấm đầy máu. Mệt mỏi và chậm chạp, anh mang nó lại một rãnh nước giũ sạch. Xong, anh vắt khô miếng vải và lại đứng lặng nhìn con đường. Từng hơi thở là từng làn khói mỏng. Vậy là mùa đông đến rồi. Anh quay lại nhìn con. Thằng bé tội nghiệp đứng bên chiếc vali trông như mọt đứa trẻ mồ côi đang đứng đợi một chuyến xe buýt vậy.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...