Welcome! You have been invited by van2708 to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
13231 1,863
Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Tô Hoài trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

"Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa [..] Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa".

Bài làm

Mở đầu bài thơ "Tiếng hát con tàu", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:

"Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?"

Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì "thứ vàng mười đã qua thử lửa" qua tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập "Truyện Tây Bắc" mà linh hồn của nó là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với "nàng dâu gạt nợ" của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã giới thiệu được số phận bất hạnh của Mị khi bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đó, chúng ta thấy được tài năng của nhà văn Tô Hoài trong nghệ thuật kể chuyện:

"Ai ở xa về [..] đương rập rờn nhảy múa".

Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.

"Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc" cùng "Mường Giơn" và "Cứu đất cứu Mường". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.

Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả số phận bất hạnh của Mị khi bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đó, chúng ta thấy được tài năng của nhà văn Tô Hoài trong nghệ thuật kể chuyện.

Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: "Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm" . Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

Trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài "thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống "không bằng con trâu con ngựa"; và bị hủy diệt về tinh thần "mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, trở thành một người đàn bà bị tước mất linh hồn. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài đã tái hiện lại phần nào cuộc sống khổ cực ấy của Mị.

Mở đầu đoạn trích, ta ấn tượng về một thân phận đau khổ, bất hạnh của Mị qua cách giới thiệu: "Ai ở xa về.. mặt buồn rười rượi."

Đây không phải là hình ảnh xuất hiện một lần, hai lần, một tháng, một năm đôi bận mà hiện hữu thường xuyên đến mức quen thuộc mà bất cứ "ai ở xa về" đều biết. Chính vì thế, nó gợi ra nhiều điều khiến người đọc phải bận tâm. Tại sao cô Mị luôn luôn xuất hiện bên "tảng đá" và cái "tàu ngựa"? Chẳng phải chúng đều là những vật vô tri, vô giác, là cái mảnh sống im lìm, tăm tối, cực nhọc hay sao? Hình ảnh như đã trở nên hết sức quen thuộc, bất biến, thường được trông thấy, nó như xóa đi ranh giới thời gian, không biết cô gái ấy đã ngồi đó tự bao giờ và dường như cuộc đời cô đã gắn liền với "tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa." Chao ôi! Còn gì đáng thương hơn thế?

Mị đang ở độ tuổi đôi mươi đầy xuân sắc xuân thì, căng tràn sức sống. Đáng ra Mị phải luôn vui tươi nhưng ở đây Mị "lúc nào cũng cúi mặt", "mặt buồn rười rượi". Có lẽ, Mị mặc cảm về thân phận thấp kém, yếu hèn nên không dám ngẩng đầu nhưng quan trọng hơn là Mị không muốn ngẩng đầu. Con người ấy luôn muốn có mình lại, thu mình lại, không cần đến sự tồn tại của bản thân. Đó cũng là hình ảnh của con người ôm nhiều nỗi niềm không thể tâm sự, chia sẻ với bất cứ ai, thể hiện một nỗi buồn sâu sắc tràn ngập tâm tư, một nỗi buồn lan tỏa và ám ảnh ngay cả trong tâm hồn. Đó cũng là một nỗi buồn hiện diện rất rõ nét mà chỉ cần nhìn thoáng qua cũng đủ làm người ta xót xa, thân phận nô lệ in sâu dáng vẻ, gương mặt của Mị.

Tô Hoài giới thiệu nhân vật Mị nhưng lại đặt người cô trong sự liên hệ với nhà Pá Tra giàu có, quyền lực, "ăn của dân nhiều", "đồn Tây lại cho muối về bán", "nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng" và Mị là "con dâu" của nhà thống lí. Điều này báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao.

Ở trong bối cảnh là xã hội phong kiến miền núi, thân phận là một người con gái đã là một điều bất hạnh đối với Mị do ảnh hưởng của chế độ nam quyền. Nhưng trớ trêu thay Mị còn là: "Con dâu" của nhà giàu có, vì vậy mà những đau khổ, bất hạnh lại nhân lên gấp bội. Với giọng kể êm, đẹp như ru , thế giới TB hiện ra xa xăm kì diệu, thoang thoảng màu sắc hương vị cổ tích, đã thôi thúc người đọc đi tìm hiểu về số phận và cuộc đời của Mị.

Văn học dân gian miền núi cũng từng có tác phẩm kể lại những đau khổ, tủi nhục, uất hận của phận làm dâu trong xã hội cũ:

"Như con trâu nặng nề đeo ách,

Như thân trâu măng buộc cọc tre,

Kéo cày từ sớm đến khuya,

Phận làm dâu chẳng có mùa nghỉ ngơi."

( "Tiếng hát làm dâu" – Dân tộc Hmông)

Đoạn thơ như nói hộ tiếng lòng của Mị đang phải chịu những bi kịch ngậm ngùi không thể thốt thành lời.

Kết cấu đồng tâm đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ không dựng theo trình tự thời gian khiến người đọc muốn ngược dòng thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật.

Ngược dòng thời gian tìm hiểu thì ta biết Mị là một người con của núi rừng Tây Bắc, là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha mẹ. Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con gái. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn có tài, ẩn tàng sự yêu đời, ham sống. Những ngày tháng tuôi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất miền Tây. Mị xinh đẹp "những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị" . Mị có tài thổi sáo khiến "bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị".. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với người có ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.

Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì Mị còn có những phẩm chất tốt đẹp của một người lao động, một cô gái của núi rừng là chăm chỉ, cần cù, chịu thương, chịu khó. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ: "Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô. Con phải cuốc nương, làm ngô trả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu". Lời nói ấy cho thấy một cô Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà làm nương trả nợ. Mị thà nhọc nhằn trên nương rẫy còn hơn nhục nhằn làm dâu nhà thống lý. Mị không chấp nhận, không bằng lòng với cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Lựa chọn ấy cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị. Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ toàn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra, bị ép sống kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi ấy.

Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai, nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu - Mị như chết đứng với số phận từ đây.

Tại sao Mị phải trở thành "dâu gạt nợ" cho nhà thống lí Pá Tra? Đó là do món nợ chung thân của cha mẹ Mị. "Cha Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới nên phải đến vay nhà thống lí", mỗi năm đem nộp lãi một nương ngô, vợ chồng về già chưa trả hết nợ, vợ chết cũng chưa trả hết nợ. Món nợ đeo đẳng suốt cuộc đời cha mẹ Mị, gia đình đã nghèo lại còn nghèo hơn. Cái nghèo này phải chăng xuất phát từ phong tục hôn nhân và vay nặng lãi nơi miền núi cao Tây Bắc? Nó đã kéo còng lưng cha mẹ Mị, và giờ đây đổ ập lên đầu cô.

Nguyên nhân Mị trở thành con dâu nhà thống lí còn do sự lừa gạt của gia đình nhà thống lí đối với một cô gái ngây thơ, trong sáng "Mị sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị cũng thường đeo nhẫn ngón tay ấy" . Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu. Đến đây, ta chợt nhớ đến anh Pha trong "Bước đường cùng" (Nguyễn Công Hoan) cũng cùng chung số phận với Mị, tay trắng, bị dồn vào đường cùng vì món nợ lãi .

Sáng hôm sau Mị mới biết ở nhà thống Pá Trá, lập tức chúng đã cho con ma xó về nhận mặt "tiếng nhạc sinh tiền cúng mà đương rập rờn nhảy múa" . Từ đây, Mị bị ràng buộc bởi phong tục hôn nhân, bị trói buộc bởi thần quyền và bị giam hãm của cường quyền, trong đầu cô đã bị đeo ba chiếc vòng kim cô, như thứ bùa chú khó có thể thoát ra. Nó cương tỏa cuộc đời, giam hãm tuổi thanh xuân, chi phối đến suy nghĩ và hành động của Mị. Không những vậy, chỉ vì món nợ mà Mị đã phải hi sinh tình yêu, cuộc đời từ tươi đẹp sang những ngày héo tàn, giống như bông hoa đang chúm chím nở đã bị chà đạp phũ phàng.

Ta cũng từng biết đến Thúy Kiều, vì thằng bán tơ khốn nạn mà phải bán mình chuộc cha và em. Nàng phải chịu mười lăm năm gió bụi với "Thanh lâu hai lượt và thanh y hai lần". Thúy Kiều cũng phải hi sinh tình yêu, hạnh phúc để bán mình chuộc cha và em. Cô đã đặt chữ hiếu lên trước chữ tình. TK có quyền chủ động lựa chọn theo cách riêng mình:

"Đệ lời thệ hải minh sơn,

Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

.. Quyết tình nàng mới hạ tình:

Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!"

( "Truyện Kiều" – Nguyễn Du)

Nhưng Mị đâu có quyền được lựa chọn dù cô khao khát cuốc nương làm ngô để giả nợ.

Đoạn văn ngắn nhưng đã khái quát cuộc đời Mị với những bi kịch đau thương. Mị có được tài năng, nhân phẩm tốt đẹp nhưng không được hưởng hạnh phúc. Qua đoạn văn, ta cũng thấy được sự bạo tàn, trắng trợn của cha con nhà thống lí Pá Tra. Bọn chúng đã lợi dụng đồng tiền, thần quyền để bóc lột, hủy hoại cuộc đời của những người dân nghèo.

Đoạn trích đã hé mở về bi kịch cuộc đời Mị cũng như hé lộ nguyên nhân Mị lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Đây là lát cắt đầu tiên rất nhỏ về cuộc đời của Mị, nhưng đoạn trích đã giống như một thứ rượu khai vị đủ để kích thích độc giả tìm hiểu về cuộc đời của Mị trong chuỗi ngày làm dâu gạt nợ.

Nhà văn đã sử dụng thành công nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị và A Phủ với những tính cách, tâm lí phức tạp. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt: Kể đan xen tả; ngòi bút miêu tả thiên nhiên, những sinh hoạt gắn với phong tục, tập quán rất chân thật góp phần giải thích tính cách, tâm hồn nhân vật cùng ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình, biểu cảm. Tác phẩm xứng đáng là một trong những sáng tác văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn học luôn lấy con người làm đối tượng phản anh ra và mỗi giải đoạn, ta lại thấy những nhân vật điển hình. Nhìn lại chặng đường của nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp hình tượng Chí Phèo vừa đi vừa chửi "ngật ngưỡng bước ra từ trang sách" của Nam Cao, điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ta xót thương cho thân phận bị cái đói cái nghèo thì sát đất của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho người lao động miền biển. Ta day dứt trước số phận của Mị trong thân phận "nàng dâu gạt nợ" nhà thống lí Pá Tra qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Tô Hoài, là đại diện cho người lao động nghèo miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh tự đứng lên giải phóng chính mình.

Qua đoạn trích, ta cũng thấy được nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Tô Hoài. Đó là cách nhà văn lựa chọn ngôi kể, thủ pháp, phương thức được sử dụng trong quá trình trần thuật. Nghệ thuật kể chuyện còn được xác định trong việc xây dựng kết cấu không gian và thời gian của câu chuyện. Mỗi yếu tố của nghệ thuật kể chuyện đều có vai trò làm nên sức hấp dẫn khác nhau của câu chuyện. Trong đoạn trích, nhà văn sử dụng ngôi kể thứ ba khách quan, chân thực, giấu mặt đứng ngoài quan sát biết hết mọi chuyện. Phương thức biểu đạt: Chính là tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm góp phần tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn hơn từ đó trang đời của Mị dần dần được hé mở. Chưa hết, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập khi đặt Mị trong sự tương phản với gia đình nhà thống lí Pá Tra; trong khát vọng hạnh phúc với hành động bạo tàn của thống lí, khắc họa bản chất tàn bạo của bọn thống trị miền núi và số phận bất hạnh của người lao động miền núi. Không gian câu chuyện: Tây Bắc xa xôi, huyền bí; thời gian: Đảo lộn không tuân theo trật tự tuyến tính tạo nên sự hấp dẫn, kích thích trí tò mò từ người đọc. Qua nghệ thuật kể chuyện ta thấy được tài năng Tô Hoài linh hoạt, trần thuật sinh động giúp cho câu chuyện có sức hút hơn. Đồng thời với nghệ thuật kể chuyện này tác giả đã thể hiện được ý đồ nghệ thuật của mình trong việc tư tưởng của chuyện: Nghệ thuật kể chuyện có vai trò quan trọng quyết định cho sự thành bại của câu chuyện. Mỗi nhà văn lại có một cách kể chuyện riêng để làm nên "thương hiệu" của mình.

"Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" - Schedrin.

[HIDETHANKS=1]Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.[/HIDETHANKS]

"Ta bây giờ như chồi non mọc lại

Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình

Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại

Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."
 
Last edited by a moderator:

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back