Bài luận cao học môn triết học

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi thanghn, 12 Tháng sáu 2023.

  1. thanghn

    Bài viết:
    3
    Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở nước ta từ khi đổi mới (1986) đến nay "

    Xuyên suốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn khẳng định mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước " Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh " . Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta cũng đã xác định mục tiêu chiến lược và dài hạn: " Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao " . Có thể nói, để xây dựng một nền kinh tế phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai yếu tố không thể thiếu thể hiện ở chỗ đây là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất (cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất), có tác động biện chứng với nhau hình thành nên quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Đây quy luật khách quan, cơ bản, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Thực tiễn qua kết quả qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện (từ năm 1986) đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó. Chính vì vai trò, tầm quan trọng của quy luật này trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để nâng cao hơn nữa nhận thức của bản thân, Tôi đã quyết định lựa chọn đề tài " Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở nước ta từ khi đổi mới (1986) đến nay "l

    I. Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất

    Như chúng ta đã biết để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải tiến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định hay con gọi là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữ lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

    1.1. Khái niệm, đặc trưng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

    1.1. 1. Lực lượng sản xuất

    Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữ người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo những nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Lực lượng sản xuất gồm hai bộ phận cơ bản là người lao động và tư liệu sản xuất.

    Người lao động là chủ thể trong quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất xã hội, đồng thời là chủ thể tiêu dùng những của cải vật chất ấy, người lao động là những con người có tri thức, có kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội dưới ảnh hưởng của các cuộc cách mạng công nghiệp, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao đông có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động.

    Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Đối tượng lao động gồm có hai loại là loại có sẵn ví dụ như các loại khoáng sản trong lòng đất, thủy, hải sản ở sông, biển, đất đá ở núi, gỗ trong rừng nguyên thuỷ.. loại thứ hai là loại đã qua chế biến. Loại này thường là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến (ví dụ: Công nghiệp dày da, điện tử). Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, là những điều kiện sản xuất chung, còn được gọi là kết cấu hạ tầng (như đường sá, bến cảng, hệ thống điện, viễn thông). Trong quá trình phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng trở nên quan trọng đối với toàn bộ quá trình sản xuất và sức sản xuất của nền sản xuất xã hội. Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất " trung gian ", " truyền dẫn " giữa người lao động và đối tượng lao động trong quá trình tiến hành sản xuất. Đây chính là " khí quan " của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động. Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, công cụ lao động được tin học hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử, là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. C. Mác đã từng khẳng định " Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào " .

    Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm của lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì người lao động do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển. Bên cạnh đó người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu quyết định năng suất lao động xã hội. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.

    Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ, kinh nghiệm kỹ năng của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội. Tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không tách rời nhau. Lực lượng sản xuất là có tính kế thừa và phát triển " Vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua.. không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra.. Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những thế hệ trước đây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới "

    Nghiên cứu về sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử C. Mác khẳng định" Tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp ". Trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản xuất ra của cải đặc biệt, hàng hóa đặc biệt. Đó là những phát minh, sáng chế, những bí mật công nghệ, trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi lực lượng sản xuất. Khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất đã được rút ngắn, làm cho năng xuất lao động, của cải xã hội tăng nhanh kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra, có khả năng phát triển" vượt trước "và xâm nhập vào các yếu tố của sản xuất. Trở thành mắt khâu bên trong của quá trình sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh, " vật hóa " vào người lao động, người quản lý, công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người. Nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ sự tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng.

    Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó, sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống xã hội từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Lực lượng sản xuất phát triển không nằm ngoài mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất. [1]

    1.1. 2. Quan hệ sản xuất

    Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế - xã hội trong sản xuất. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, có vai trò quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi và quan hệ phân phối sản phẩm, cũng như các quan hệ xã hội khác.

    Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò trực tiếp quyết định đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất, có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Khoa học tổ chức quản lý sản xuất ngày càng hiện đại đã có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.

    Quan hệ phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này kích thích trực tiếp lợi ích con người, là" chất xúc tác "kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế xã hội hoặc ngược lại nó có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.

    Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.

    Một xã hội cụ thể thường bao gồm có ba loại quan hệ sản xuất cơ bản đó là: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo.

    Quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, chính trị và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Trong Lời tựa viết cho tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Các Mác viết: " Toàn bộ những quan hệ sản xuất.. hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó " . Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, nếu lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối" quan hệ song trùng "của sản xuất vật chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. [2]

    1.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

    Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một trong những nguyên lý cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quy định sự vận động phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành nên phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi phương thức sản xuất hay quá trình sản xuất xã hội không thể tiến hành được nếu thiếu một trong hai thành tố trên. Trong đó, lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này còn quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất mới có thể tiếp tục phát triển. C. Mác đã chỉ rõ rằng, " trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ.

    Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của xã hội thể hiện ở trên các mặt sau:

    Thứ nhất, vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

    Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất, bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách quan của sự vận động phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện chứng giữ sản xuất và nhu cầu của con người; do tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể của sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.

    Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ"mâu thuẫn" với tính đứng im, tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là "hình thức phù hợp", "tạo địa bàn" phát triển của lực lượng sản xuất trở thành "xiềng xích" kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển. C. Mác nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay quay bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".

    Lực lượng sản xuất quyết định ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất được phát triển lên một nấc thang cao hơn.

    Thứ hai, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với

    Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất, có tính độc lập tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữ quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

    Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Đó là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất và "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.

    Nếu quan hệ sản xuất "đi sau" hay "vượt trước" trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đều không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp thường diễn ra trong sự vận động và phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.

    Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội, hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.

    Sự tác động của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lướng sản xuất thì nền sản xuất sẽ phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng, những thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng nhanh chóng, người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.

    Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn. C. Mác khẳng định: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.. Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng xã hội cũ" Sau này, chính V. I. Lênin trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chỉ đạo cách mạng cũng đi đến kết luận: ".. chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được".

    Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

    Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra "tự động", đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị biến dạng do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật. [3]

    II. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 cho đến nay

    Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển công cụ lao động và lực lượng lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đây là một quá trình lịch sử - tự nhiên, khách quan, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, hay mọi sắc lệnh từ trên ban xuống.

    2.1. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước năm 1986

    Do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm, nên yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa càng bức thiết. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến hành kháng chiến lâu dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con đường xã hội chủ nghĩa. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải phát triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật.

    Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954 và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội III của Đảng (9-1960) xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, tiến hành cách mạng kỹ thuật xây dựng nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Xác lập và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Với đường hướng đó, mặc dù trong điều kiện phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng sản xuất ở miền Bắc đã tăng gấp nhiều lần về cơ sở vật chất-kỹ thuật. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố với ba yếu tố cơ bản: Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; chế độ quản lý kế hoạch hóa, tập trung, hành chính mà Nhà nước là chủ thể; chế độ phân phối theo lao động, có tính đến một phần về đóng góp tư liệu sản xuất (ruộng 5%).

    Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), đất nước thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Đại hội IV của Đảng (12-1976) tiếp tục đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và coi cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Nam theo mô hình đã được xây dựng và củng cố ở miền Bắc, để nhanh chóng thống nhất về chế độ kinh tế. Trong hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, dù bị bao vây, cấm vận và chiến tranh biên giới với những tổn thất nặng nề, song lực lượng sản xuất vẫn phát triển đáng kể; "đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông.." . Xây dựng các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, cầu lớn Thăng Long, Chương Dương, công trình thủy lợi Dầu Tiếng, Kẻ Gỗ, kênh Hồng Ngự thật sự có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội.

    Trước thời kỳ đổi mới thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng chiến và phát huy có hiệu quả trong thời kỳ, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng. Do không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hóa; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ.. quá nhấn mạnh một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hóa vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể;kỳ thị, nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.

    Đại hội VI của Đảng chỉ rõ những thiếu sót sai lầm vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: "Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn" . [1]

    Sự thất bại trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta trước năm 1986 do những sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện ở những điểm sau:

    - Không nhận thức rõ sự phát triển lực lượng sản xuất là một quá trình lịch sử tự nhiên. Không hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền. Không thấy được vai trò kinh tế tư nhân là động lực phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ, lo sợ sự phát triển kinh tế tư nhân sẽ chệch hướng sang con đường tư bẩn chủ nghĩa, cho nên đã nóng vội cải tạo kinh tế cá thể và tư bản tư doanh, xóa bỏ loại hình kinh tế này, biến nền kinh tế quốc dân thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thuần nhất ngay khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, dẫn đến kìm hãm lực lượng sản xuất.

    - Nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý, quan hệ phân phối và nhất là hầu như không xem xét quan hệ sản xuất trong lĩnh vực quan hệ trao đổi và quan hệ tiêu dùng; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động.

    - Đề cao một cách phiến diện yếu tố người về mặt số lượng, không chú ý chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố vật của lực lượng sản xuất.

    - Không quan tâm đến những điều kiện để phát huy ưu thế của phân công và hợp tác lao động - nên đã nóng vội mở rộng quy mô hợp tác xã khiến cho sức sản xuất của lao động giảm sút, kinh tế trì trệ.

    - Chủ quan, duy ý chí trong chủ trương phân bố lực lượng lao động.

    - Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

    - Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng quan hệ sản xuất. [2]

    2.2. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay

    Từ năm 1986 đến nay nhờ vận dụng đúng bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó và điều kiện thực tiễn khi vận dụng ở Việt Nam: Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986), khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Mặc dù, chưa đề cập đến cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế nước ta.

    Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật".

    Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) nêu rõ: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" . Đó là một quá trình lâu dài, "Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" .

    Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ do Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đề ra và xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đất nước. Đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là cần thiết và đúng đắn.

    Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9-2001) ban hành nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (2-2002) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những quan điểm cơ bản đó được thể chế hóa trong sự bổ sung, phát triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã.

    Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định đặc trưng thứ ba trong mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam là: "có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp" . Cương lĩnh nhấn mạnh việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ "giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa" [3]

    Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân: Kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

    Về kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4, 4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8, 2%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6, 8%. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam đath 2, 9% thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Việt Nam đã đạt được "mục tiêu kép" trong phòng, chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế.

    Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, năm 1989 mới đạt 6, 3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268, 4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động việc làm.. tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như: Cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ.. luôn duy trì ở mức cao. Kim ngạch xuất nhập khẩu xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. Đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới. Sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt: Năm 2019, năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, đứng thứ 67/141 nền kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc so với năm 2015, xếp thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ

    Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Trong giai đoạn 2010-2020 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18, 9% năm 2010 xuống 14, 85% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81, 1% lên 85, 15%

    Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện đại. Một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như khoa học-công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông.. đã hình thành và từng bước phát triển. Việc phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.

    Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, tỷ trọng lao động ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. Năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4, 3%/năm, giai đoạn 2016-2020 là 5, 8%/năm. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam tăng 10 bậc từ năm 2015, đứng thứ 42/131 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. [4]

    III. Giải pháp hoàn thiện vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời gian tới [1]

    3.1. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hiện nay

    3.1. 1. Lực lượng sản xuất

    Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác . Các Mác xây dựng học thuyết của mình trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ 2 (cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện năng), còn ngày nay loài người đã ở cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba với sự ra đời của kỹ thuật số (máy tính - Computer) và đang bước vào cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.

    Thứ nhất, với đối tượng lao động nhờ ứng dụng công nghệ trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn trong đó có nhiều loại có hàm lượng tri thức ngày càng lớn hơn. Nếu căn cứ theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên thì nguồn lực tự nhiên đang ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác quá nhiều. Tuy nhiên, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc đã giúp con người phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của tài nguyên thiên nhiên, nhiều vật liệu trước kia tưởng chừng không có ích lại trở thành những vật có ích lớn và nhiều vật tính có ích lại được nhân lên gấp bội với sự xuất hiện của nhiều ngành sản xuất mới nên giúp tạo ra đối tượng lao động mới, phong phú và giàu có hơn.

    Thứ hai, đối với tư liệu lao động (công cụ lao động và phương tiện sản xuất), cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều công cụ lao động mới và đưa đến sự thay thế từng bước các tư liệu lao động truyền thống bằng các tư liệu lao động hiện đại dựa trên thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tập trung ở lĩnh vực công nghệ sinh học, vật liệu mới và công nghệ thông tin. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra các công cụ lao động và phương tiện sản xuất mới với những máy móc tiêu hao ít nhiên liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, không gây ô nhiễm môi trường, tạo nên nền sản xuất phát triển bền vững. Những máy móc, công nghệ mới chứa đựng lượng thông tin cực kỳ lớn cho phép sản xuất với năng suất, chất lượng sản phẩm đặc biệt cao. Tư liệu sản xuất chính sẽ chuyển từ chủ yếu từ vật chất sang phi vật chất, tức là lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động phổ thông thấp sẽ ngày càng mất ưu thế, sản xuất sẽ có xu hướng dịch chuyển từ các nước có nhiều lao động phổ thông và tài nguyên sang những nước có nhiều lao động chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ. Những doanh nghiệp biết tận dụng các công nghệ mới với tư liệu sản xuất phi vật chất của cách mạng công nghiệp 4.0 cũng thu được những thành tựu lớn.

    Thứ ba, đối với người lao động, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động mạnh mẽ đối với người lao động, làm biến đổi chức năng của con người trong sản xuất: Con người dần dần không còn là yếu tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chuyển sang chủ yếu là sáng tạo và điều chỉnh quá trình đó. Sự tác động này được thể hiện ở bốn điểm như sau:

    Một là, nó làm biến đổi nội dung và tính chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất, lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hóa sâu sắc. Do đó, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phá vỡ cấu trúc thị trường lao động truyền thống ở nhiều quốc gia. Hai là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến số lượng việc làm thông qua sự thay thế sức lao động bằng máy móc, robot, trí tuệ nhân tạo và ứng dụng công nghệ thông tin đối với một số ngành, nghề đang diễn ra nhanh chóng thâm nhập nơi làm việc trên thị trường lao động. Xu hướng việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất sử dụng nhiều lao động sang sử dụng nhiều tri thức và công nghệ. Ba là, nó tác động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ năng kỹ thuật (mức trung bình và cao) bao gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì người lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay cốt lõi như: Khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng tập trung.. Bốn là, nền tảng công nghệ số, tích hợp tất cả các thông tin về công nghệ, quy trình, phương thức sản xuất, nhu cầu về ngành, nghề, kỹ năng.. và nhất là khả năng kết nối, chia sẻ trên toàn thế giới thông qua các thiết bị công nghệ.. sẽ làm thay đổi cách thức kết nối giữa cung và cầu trên thị trường lao động, xóa bỏ biên giới cứng của thị trường lao động giữa các quốc gia trong khu vực, khiến thị trường lao động trong khối sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên.

    - Người lao động giờ đây không chỉ được giải phóng về lao động chân tay mà còn được giải phóng cả về lao động trí óc . Máy móc - công cụ lao động trong thời đại công nghiệp 4.0 không chỉ là cánh tay nối dài của người lao động mà cánh tay đó còn được "thông minh hóa". Sự giao tiếp giữa người lao động-robot cao cấp- máy móc thông minh.. tác động vào nguyên, nhiên, vật liệu mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí đáp ứng nhu cầu cá biệt hóa ngày càng tăng của mỗi người tiêu dùng.

    - Sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Nền sản xuất "tự động" hóa sẽ nhanh chóng chuyển sang "thông minh" hóa. Nhân lực chất lượng cao gắn với "sản xuất thông minh", theo đó nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển. Với tác động của cách mạng 4.0 thì vai trò nguồn nhân lực càng được thể hiện rõ hơn.

    - Hệ thống công nghệ cao chính là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất hiện đại . Cho đến nay người ta đã xác định được 4 xu hướng chính của cách mạng 4.0 bao gồm: Phương tiện tự lái, in 3D, robot cao cấp, vật liệu mới và các công nghệ tích hợp khác. Theo dự báo đến năm 2025, sẽ có hàng chục % dân số sử dụng quần áo, mắt kính kết nối Internet, điện thoại di động được cấy ghép vào cơ thể người; gia tăng dân số dùng điện thoại thông minh và thường xuyên truy cập internet; xuất hiện thành phố không dùng đèn giao thông; lượng truy cập internet liên quan đến các thiết bị dân dụng tăng nhanh; đa số người dân tham gia lưu trữ dữ liệu miễn phí; việc kiểm toán ở công ty được thực hiện bằng AI; chính phủ thu thuế qua blockchain, điều tra dân số bằng các nguồn dữ liệu lớn (Bic Data) ; GDP toàn cầu được lưu trữ trên blockchain; robot siêu trí tuệ tham gia hội đồng quản trị công ty; phương tiện cá nhân cũng được chia sẻ ngày càng nhiều hơn.

    Đã hình thành lực lượng sản xuất mới với những đặc điểm mới vượt xa với thời Mác . Đặc điểm của lực lượng sản xuất mới là: Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Hai là, tri thức khoa học làm thay đổi đặc điểm của lực lượng sản xuất mới. Ba là, do tri thức khoa học mang tính toàn cầu nên lực lượng sản xuất ngày nay - dựa trên tri thức khoa học - mang tính toàn cầu hóa. Bốn là, vốn người (humancapitan - tư bản con người) là vốn quan trọng trong lực lượng sản xuất mới. Năm là, bền vững và thân thiện với môi trường là một trong những đặc điểm mới của lực lượng sản xuất. Có thể nói lực lượng sản xuất ngày nay đã có những sự phát triển vượt bậc, vượt xa so với thời Mác.

    3.1. 2. Quan hệ sản xuất

    Do tác động của cách mang 4.0 quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất đã thay đổi đáng kể:

    - Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 không chỉ làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc mà còn thay đổi cả cách thức giao tiếp trong quá trình sản xuất, xuất hiện xu hướng: Con người ngày càng có xu hướng ít quan hệ trực tiếp với nhau, chuyển từ xu hướng quan hệ trực tiếp sang quan hệ gián tiếp trong quá trình sản xuất (chủ yếu quan hệ gián tiếp qua công nghệ số hóa). Khả năng hàng triệu người kết nối với nhau qua điện thoại di động, với sức mạnh xử lý, dung lượng lưu trữ và sự tiếp cận tri thức chưa từng có tiền lệ, là không giới hạn. Thậm chí, những khả năng đó còn được nhân lên gấp bội nhờ vào những đột phá về công nghệ mới nổi trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử.

    - Về quan hệ sở hữu, trước đây khi đề cập đến đối tượng sở hữu, Các Mác chủ yếu mới nói đến sở hữu về tư liệu sản xuất, như người nô lệ, ruộng đất, hầm mỏ, súc vật, nhưng ngày nay đối tượng sở hữu không còn bó hẹp như quan niệm thời Mác nữa. Đối tượng sở hữu hiện nay không dừng ở tư liệu sản xuất, mà đã xuất hiện những dạng mới thời Mác chưa hề có, đó là: Năng lượng, thông tin, trí tuệ, kinh nghiệm, sở hữu số.. Quan hệ sở hữu ngày càng mở rộng, tính công hữu (sở hữu cộng đồng) ngày càng gia tăng, nhất là công nghệ siêu hiện đại (IOT, Data, điện toán đám mây và các công nghệ dịch vụ miễn phí khác).

    - Về quan hệ quản lý, với xu hướng robot hóa nền sản xuất, nhất là robot cao cấp với trí thông minh nhân tạo sẽ trở thành người quản lý, là thành viên hội đồng quản trị.. khiến năng lực, chứ không phải nguồn vốn, trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất. Ở cấp độ doanh nghiệp: Hệ thống phân công lao động thế giới ngày nay được chuyên môn hóa, chi tiết theo chuỗi giá trị ngày càng phổ biến, làm biến đổi căn bản cách thức tổ chức tiến hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Lao động kỹ thuật số là xu hướng mới nhất trong phân công lao động quốc tế hiện nay. Quan hệ cung - cầu cũng thay đổi đáng kể. Nguồn cung từ nhà cung cấp đến chuỗi giá trị, đối thủ cạnh tranh, tính sáng tạo gia tăng, dẫn đến chất lượng, giá cả và tốc độ thay đổi cũng nhanh hơn khiến các logic truyền thống không còn phù hợp phải thay bằng quy trình linh hoạt và sáng tạo. Theo đó, cầu cũng thay đổi, tính minh bạch ngày càng cao, sự cá biệt hóa là một xu hướng, làm cho mối quan hệ cung - cầu ngày càng gắn kết hơn bao giờ hết, sản xuất gắn với tiêu thụ theo yêu cầu. Người tiêu dùng sản phẩm có thể đặt hàng và kiểm tra sản phẩm của mình từ A - Z trong quy trình sản xuất 3D, khiến cho doanh nghiệp buộc phải quan tâm đổi mới quy trình sản xuất kinh doanh, tình trạng mất cân đối cung - cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu trầm trọng như hiện nay sẽ được loại bỏ.

    - Về quan hệ phân phối, nhiều nền công nghiệp đang chứng kiến sự xuất hiện của những công nghệ giúp tạo ra những phương thức hoàn toàn mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu hiện nay, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong những chuỗi giá trị công nghiệp hiện nay. Sự đột phá cũng đang xuất hiện từ những nhà cạnh tranh linh hoạt và sáng tạo, những người được hưởng lợi từ việc tiếp cận các phương tiện số toàn cầu để tiến hành nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán hàng và phân phối. Thuận lợi đó giúp họ cải thiện chất lượng, tốc độ và giá cả cho phù hợp với giá trị của hàng hóa được phân phối, từ đó có thể cạnh tranh và đánh bại các đối thủ lớn khác với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Những thay đổi lớn về nhu cầu cũng đang diễn ra khi tính minh bạch ngày một cao, sự tham gia của người tiêu dùng và những hành vi mới của người tiêu dùng (ngày càng được xây dựng trên cơ sở tiếp cận mạng lưới và dữ liệu di động) buộc các công ty phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm và dịch vụ của mình. Những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ sự sáng tạo sẽ là những nhà cung cấp vốn tri thức, tài chính (nhà sáng chế, cổ đông và đầu tư). Thị trường lao động chuyển hóa thành hai nhóm: Nhóm kỹ năng thấp được trả lương thấp và nhóm kỹ năng cao được trả lương cao. Xuất hiện mô hình thị trường lao động "tăng hai đầu, rỗng ở giữa".

    3.2. Về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển giao thoa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

    Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi cả phương thức sản xuất, phương thức quản lý đời sống xã hội của con người, dẫn đến những thay đổi lớn lao của kinh tế, xã hội, văn hóa.. trong nhiều thập kỷ qua. Chẳng hạn: Không còn sự phân định rạch ròi ranh giới của một số yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất do sự phát triển có tính tính chất giao thoa giữa chúng, cụ thể: Tổ chức quá trình sản xuất không thuần túy chỉ là một bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất mà còn là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất, nó là chất kết dính giữa các yếu tố vật chất và con người trong lực lượng sản xuất, chi phối trực tiếp tính hiệu quả của quá trình sản xuất; khoa học và công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Con người dẫu vẫn là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của quá trình sản xuất, nhưng lao động quản lý, chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vi mô ngày càng giữ vị trí quan trọng hơn so với lao động trực tiếp sản xuất.

    Giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội hiện đại do tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 như thế nào là một thách thức lớn trong việc xử lý mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đối với các nhà nước và nói chung với toàn nhân loại.

    3.3. Giải pháp hoàn thiện vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời gian tới.

    - Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh..", trước tiên cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất, bao gồm trước hết là người lao động, tư liệu sản xuất (trong đó có công cụ lao động, phương tiện truyền tải và đối tượng lao động). Vì lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là động lực của sự phát triển xã hội. Chừng nào lực lượng sản xuất chưa phát triển thì chừng đó chưa có điều kiện để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Bởi vì, lực lượng sản xuất là nội dung, là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, trong khi quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể hoàn thiện hình thức, khi chưa có nội dung nền tảng vật chất.

    - Không thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nếu không đồng thời hoàn thiện kiến trúc thượng tầng tương thích với cơ sở hạ tầng.

    - Phát triển lực lượng sản xuất phải bảo đảm sự phù hợp giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, sự cân đối giữa nguồn nhân lực và tư liệu sản xuất cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 và hội nhập toàn cầu hóa. Hoàn thiện quan hệ sản xuất không chỉ tập trung vào ba mặt quan hệ: Sở hữu, quản lý và phân phối mà còn phải chú ý hoàn thiện cả hệ thống quan hệ sản xuất bao gồm cả quan hệ trao đổi và quan hệ tái sản xuất, hội nhập quốc tế.

    - Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường.

    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày 01/02/2021 đã xác định mục tiêu cụ thể:

    "Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

    Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

    Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao"

    Và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030 trong đó xác định:

    "Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế.

    Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới" [2]

    Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật tồn tại tất yếu, khách quan thể hiện rõ nét trong các giai đoạn phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử từ xã hội công xã nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư sản và xã hội cộng sản trong tương loại. Quy luật này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận động phát triển của phương thức sản xuất, thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng. Sự vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam qua 35 năm qua đã đem lại cho nước nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và y tế, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi mọi mặt của nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức chưa từng có để đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đến nay và trong tương lai vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và giá trị thời đại. Do đó, việc tiếp tục vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, khoa học và đúng đắn trong điều kiện thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý của Nhà nước theo từng giai đoạn là một yêu cầu tất yếu nhằm xây dựng nước ta theo mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã xác định: "Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao".

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Giáo trình triết học (Dùng cho cao học không chuyên ngành chuyên học, GS, TS Trần Văn Phòng (chủ biên) Nxb lý luận chính trị, 2019.

    2. Giáo trình triết học (Trình độ đại học, khối các ngành ngoài lý luận chính trị GS, TS Phạm Văn Đức (chủ biên), 2019.

    3. PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc, Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhìn từ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lyluanchinhtri.vn.

    4. TS. Lê Minh Nghĩa, Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Trang thông tin điện tử - Hội đồng lý luận TW .

    5. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

    6. "35 năm đổi mới: Bước phát triển ngoạn mục của nền kinh tế", Trang thông tin điện tử - Hội đồng lý luận TW .

    7. "Những thành tựu nổi bật của đất nước sau 35 năm đổi mới", Link .

    8. "Một Việt Nam bứt phá sau 35 năm Đổi mới" , Link .
     
    Dương2301, Tiên NhiLieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...