Các giai đoạn văn hóa thời sơ sử trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau thời đồ đá, các học giả phương Tây mới chỉ biết Văn hóa Đông Sơn thuộc thiên niên kỷ thứ nhất TCN.
Sau ngày miền Bắc giải phóng, các nhà khảo cổ học Việt Nam khám phá dần ra các giai đoạn Văn hóa tiền Đông Sơn.
Khoảng 4.000 năm trước, trong các di chỉ khảo cổ, đồ đá đạt trình độ cực thịnh với kỹ thuật chế tác tổng hợp:
Ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện, mài, đánh bóng tạo những loại hình đa dạng.
Về công cụ có rìu, đục, dao với hình dáng ổn định. Về đồ trang sức có vòng, khuyên, nhẫn gia công trau chuốt tinh tế.
Đặc biệt còn làm được cả tượng như tượng đàn ông ở Văn Điển (Hà Nội) chỉ nhỏ bằng đầu đũa mà sinh động.
Quan trọng người xưa bắt đầu biết đồng, nhờ đó thoát khỏi tình trạng nguyên thủy để từng bước từ trung du xuống và từ duyên hải lên chinh phục đồng bằng, lập làng trù phú, xây dựng xã hội văn hóa - văn minh, chính thức mở đầu lịch sử dựng nước dân tộc.
Tuỳ mức sử dụng đồng và trình độ kỹ thuật đúc đồng, trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ có 3 giai đoạn Văn hóa tiền Đông Sơn phát triển kế tiếp nhau:
Giai đoạn Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ thời đồng thau, tồn tại khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II TCN.
Giai đoạn Đồng Đậu thuộc trung kỳ thời đại đồng thau tồn tại khoảng nửa sau thiên niên kỷ II TCN.
Giai đoạn Gò Mun thuộc hậu kỳ thời đại đồng thau, tồn tại khoảng cuối thiên niên kỷ II TCN.
Văn hóa Phùng Nguyên tuy chưa tìm được công cụ đồng, nhưng ở di chỉ Gò Bông tìm thấy một số cục đồng và xỉ đồng, chứng tỏ luyện kim tại chỗ và tạo hợp kim đồng thau.
Giai đoạn này, nổi bật lên là đồ gốm:
Đa dạng về kiểu dáng và cỡ (có đồ lớn để nấu và đựng có đồ nhỏ làm cốc uống nước), đặc trưng cơ bản là tạo dáng 3 phần với tỷ lệ hợp lý (miệng loe, thân thon, đáy choãi, chững chạc và sinh động).
Đặc biệt về trang trí vẽ nét chìm trên mặt ngoài gốm theo bố cục băng ngang nhưng đôi khi có ô dọc, hoa văn cách điệu từ mẫu hình có sẵn, mang cái đẹp cân đối và tỉ lệ, phản ánh tư duy toán học cao về đối xứng các loại, vẽ tay truyền tình cảm trực tiếp và toát năng lực diễn tả mạnh.
Sang Văn hóa Đồng Đậu, đồ đá vẫn chiếm ưu thế nhất là đồ trang sức, đồ gốm nung cao hơn và trong trang trí phối hợp nhiều kiểu hoa văn, phổ biển là hoa văn sóng nước, thừng bện, chữ S.
Đồ đồng thau nhiều loại như rìu, lao, giữa, lưỡi câu, mũi tên.
Đến Văn hóa Gò Mun, đồ đá suy thoái và bị lãng quên dần, đồ gốm nung già và trang trí hoa văn có xu hướng chim cá.
Từ các Văn hóa tiền Đông Sơn mở ra con đường trực tiếp tiến lên Văn hóa Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng, tồn tại trong thiên niên kỷ 1 TCN và vài thế kỷ đầu CN.
Nhưng địa bàn Văn hóa Đông Sơn rất rộng, bao gồm cả miền Bắc Việt Nam, vì thế còn có các đường khác tiến lên Đông Sơn ở các lưu vực sông Mã và sông Lam.
Dưới nữa có Văn hóa Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ là tiền Chăm Pa và Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ là tiền Phù Nam, về sau cũng hòa nhập vào văn hóa đất Việt.
Văn hóa Đông Sơn, đồ đá rất ít và nghèo, chủ yếu đồ trang sức. Đồ gốm nặng tính thực dụng, trang trí đơn sơ.
Trái lại, đồ đồng phát triển rất rực rỡ, loại hình phong phú, nghệ thuật tạo dáng và trang trí đều hoàn hảo, kỹ thuật chế tác đạt đỉnh cao mà nay vẫn chưa khám phá hết.
Đặc biệt phát hiện công cụ sắt (như cuốc, mai, thuổng, mũi tên) và dấu tích nghề luyện kim sắt. Văn hóa Đông Sơn thuộc hậu kỳ thời đại đồ đồng sang sơ kỳ thời đồ sắt.
4 giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn là phát triển kế tiếp, liên tục và trực tiếp từ thấp đến cao, từ địa bàn hẹp (Bắc Bộ) đến rộng (nửa nước phía Bắc), có quan hệ với Văn hóa Sa Huỳnh và Óc Eo mà còn tỏa rộng ảnh hưởng ra cả Đông Nam Á để khái niệm "Văn hóa Đông Sơn" thành thuật ngữ khảo cổ học quốc tế.
Chính khoảng 2000 TCN từ sơ kỳ thời đồng thau đến sơ kỳ thời sắt là 4 thời kỳ Hùng Vương dựng nước, đi từ tình trạng sơ khai đến hoàn bị các nhà nước Văn Lang và Âu Lạc.
2. Trống đồng Đông Sơn và nghệ thuật trang trí
Hiện vật tiêu biểu Văn hóa Đông Sơn là trống đồng có ở khắp Đông Nam Á.
Những năm cuối TK. XIX đầu TK. XX thu hút nhiều học giả phương Tây, được chú ý nhất là Heger với công trình "Những trống kim khí ở Đông Nam Á" xuất bản ở Leipzig năm 1902.
Ông chia 4 loại trống, trống loại I sớm nhất, đẹp nhất thuộc Văn hóa Đông Sơn, nay gọi trống đồng Đông Sơn.
Theo thống kê Viện TTKHXH trong thành tựu khảo cổ học Việt Nam (1945-1980) (Hà Nội 1981) đến 1980, số trống đồng loại lớn và trung bình ở Việt Nam 91 chiếc và 78 trống minh khí, tất cả 169 chiếc.
Gần 20 năm nay, tiếp tục tìm nhiều trống đồng Đông Sơn nữa, có những trống rất to và rất đẹp như trống Cổ Loa (Hà Nội), trống Đền Hùng (Phú Thọ).
Việt Nam có mật độ trống đồng Đông Sơn dày đặc, nhiều trống đẹp nhất, địa bàn gốc, như thế chủ nhân trống đồng Đông Sơn là người Việt cổ phát triển từ giai đoạn Phùng Nguyên lên.
Điều này phù hợp việc nhiều trống đồng phát hiện trong mộ táng và tầng Văn hóa Đông Sơn, nhiều hoa văn trang trí trống đồng Đông Sơn giống hoa văn trang trí trên thạp đồng và rìu đồng Đông Sơn.
Những trống Đông Sơn dù to nhỏ khác nhau, trang trí nhiều ít khác nhau, thời gian đúc sớm muộn khác nhau, nhưng đều thống nhất về kiểu dáng gồm 3 khối hình học cơ bản chồng nhau:
Phần chân trống ở dưới là khối nón cụt, phần thân ở giữa là khối trụ và phần tang ở trên là một phần khối cầu bị hai lát cắt song song.
3 khối hình học trên rất khác nhau nhưng kết hợp hài hòa làm trống có các phần cân đối, vững chãi sinh động, đường biên uyển chuyển với 3 phần rõ ràng có hướng phát triển khác nhau.
Nối tang trồng phình ra căng tròn với thân trồng thu lại đứng thẳng là 2 đôi quai vặn thừng tết. Mặt trống là mặt phẳng hình tròn không chờm ra ngoài tang trống.
Trống đồng Đông Sơn đẹp ở tạo dáng càng nổi lên ở tạo hình trang trí bằng nghệ thuật chạm khắc. Về mặt này tiêu biểu là các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa và Đền Hùng.
Bố cục mặt trống là những vòng tròn đồng tâm bao lấy ngôi sao nhiều cánh (12 hoặc 14 cánh) ở giữa - mà cứ giữa hai cánh lại có hình như đôi cá úp bụng vào nhau biểu hiện giao phối Âm Dương, nếu khai triển cho những dải băng song hành gắn với cư dân làm ruộng và đan lát.
Sang mặt bên trống phần tang vẫn bố cục hoa văn trang trí theo băng ngang, phần thân lại kết hợp cả băng ngang với dải dọc tạo những ô chữ nhật là loại thường thấy ở nghệ thuật cư dân chăn nuôi.
Hoa văn trang trí trên các trống đồng Đông Sơn luôn gồm 2 loại là hồi văn hình học và hoa văn xã hội.
Hồi văn phổ biến là vòng tròn chấm tâm chung tiếp tuyến về hai phía (gần chữ S nằm) là tam giác cân nổi và chìm đan xen nhau, dải chấm trầm, dải vạch ngang hoặc chéo, chữ S gãy góc thành triện nằm.
Các hồi văn này kéo dài như vô tận, bố trí thành từng nhóm cân đối hai bên một dải chính hay một vạch, phong phú và chững chạc.
Kẹp giữa hai dải hồi văn là các hoa văn xã hội diễn tả các hoạt động xã hội người, chim và thú.
Ở đây có những yếu tố văn hóa vùng cao (hươu chạy, chim bay), những yếu tố văn hóa vùng trũng sông biển (thuyền chiến, thuyền đua, cá, chim, nước), có những yếu tồ văn hóa vùng đồng bằng (cảnh giã gạo, chơi trồng nụ trồng hoa, nhà sàn, múa hát, các chiến binh).
Bên những yếu tố văn hóa bản địa, có yếu tố văn hóa ngoại nhập (bò u).
Tất cả hoạt động của người và sinh vật đều xoay quanh mặt trời (ngôi sao) đang tỏa sáng, có thể đó là biểu hiện tín ngưỡng thờ mặt trời.
Những hình trang trí trống đồng Đông Sơn, nổi trội lên là những sinh hoạt con người, hầu hết là hoạt động tập thể, ít cũng đôi trai gái giã gạo hoặc chơi trồng nụ, trồng hoa, nhiều thì đoàn múa hát tay uốn cong quá độ, nhất là những thủy thủ trên các thuyền chiến và thuyền đua.
Tất cả chim, thú và người đều thống nhất chuyển động ngược chiều kim đồng hồ, gợi lên vòng quay tự nhiên (dây leo, khoáy tóc) và chuyển động ảo của mặt trời.
Nếu các hồi văn là hoa văn hình học hóa, các cảnh sinh hoạt xã hội là sơ đồ hóa phát triển từ hình học lên, luôn bám sát hiện thực cuộc sống, diễn tả theo lối đơn tuyến bình đồ, nhưng đến cuối thời Đông Sơn do trong lòng xã hội khủng hoảng mà các hình ngày càng trừu tượng và rối.
3. Nghệ thuật tạo tượng
Đầu thập niên 80 TK. XX, tìm được được trên 200 tượng thuộc thời đồ đồng.
Trừ 2 tượng gốm chưa được xác định, các giai đoạn tiền Đông Sơn có 22 tượng (gồm 1 tượng đá, 20 tượng gốm, 1 tượng đồng), Đông Sơn có 183 tác phẩm (1 tượng gỗ, 1 tượng đá, 1 tượng gốm, 2 tượng sừng, 178 tượng đồng).
Xã hội càng phát triển đời sống văn hóa nghệ thuật càng phong phú, chất liệu cũ (đá, đất nung) phổ biến ở giai đoạn tiền Đông Sơn sang giai đoạn Đông Sơn chỉ chiếm tỉ lệ hết sức nhỏ bé, nhường chỗ cho chất liệu đồng có nhiều ưu thế trong chế tác và bảo quản.
Nếu ở tiền Đông Sơn mới chỉ có 3 tượng người, sang Đông Sơn nâng lên 34 tượng người, chứng tỏ xã hội càng văn minh, nghệ thuật càng lấy con người làm đối tượng ca ngợi.
Con người có khi ở tư thế ngồi chơi thoải mái, nhưng có khi vui múa hát, thổi khèn và ân ái, có lúc đứng đĩnh đạc trên cán dao hoặc chuôi kiếm như tượng đài.
Dù sao trong cuộc sống đơn sơ, người thời đại đồ đồng có nhiều gắn bó mật thiết với môi trường, họ tập trung diễn tả những con thú quanh mình.
Thời tiền Đông Sơn, tổng số 22 tượng, ngoài 22 tượng động vật vỡ nát không xác định được con gì, có một nửa là tượng bò (10), 1/4 là tượng gà và chó (3 + 2 = 5), tức tập trung vào những giống vật thuần dưỡng coi như bạn thân con người.
Thời Đông Sơn, tổng số 183 tượng, có 80 tượng cóc, 10 tượng nhái - chiếm một nửa, biểu hiện của việc cầu mưa rất cần cho nông nghiệp lúa nước.
Tượng rùa khá nhiều (25 con), hẳn là vật thiêng, có thể liên tưởng Thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa và chế nỏ thần.
Những con vật khác thì hổ nhiều nhất (10 con), người xưa cần tìm hiểu để phòng tránh và có thể tôn nó làm thần để trừ ma tà.
Ngoài ra có voi (15), lợn (4), rắn (4), hươu (2), trâu (1) và chó (1) đều là những con vật dễ gặp trong cuộc sống.
Những tượng thời đồ đồng dù bằng chất liệu rất sẵn (đá, đất nung) hay chất liệu quý hiếm (đồng) đều là tượng nhỏ, thông thường chỉ 5- 7cm, dùng trang trí, có khi để đeo như bùa hộ mệnh.
Nhỏ bé, nhưng tả khá chi tiết, rất thần thái. Sớm nhất là tượng người đàn ông Văn Điển thuộc Văn hóa Phùng Nguyên chỉ cao 3, 6cm, bằng đá, chạm rõ mặt trái xoan, màu thắng, mắt tròn, ngực nở, bụng thon, rõ giới tính.
Tiếp đến tượng bò Đồng Đậu chỉ dài 5cm, bằng đất nung, dáng hung dữ với u nhô lên, mặt cúi gầm, đưa cặp sừng chĩa ra đằng trước như muốn lao vào đối thủ.
Đến Văn hóa Đông Sơn, chó trên thỏi đồng Hà Đông chỉ dài 2, 8cm rõ ràng đang thủ thế với dáng đứng choãi chân, nhô đầu ra dằng trước và há mõm sủa.
Người Việt Khê thổi khèn, các cặp trai gái ân ái trên tháp đồng Đào Thịnh và hai người cõng nhau ở Đông Sơn có nhỉnh hơn một chút càng sinh động với nội tâm phấn chấn đến ngây ngất.
Tượng tròn ở thời đồ đồng có tính hiện thực sâu sắc nhưng không sa vào trạng thái tự nhiên, nhờ khái quát hóa mà cả hình và tượng đều đạt đẹp sắc sảo song vẫn dung dị, tạo hướng đi đúng cho nghệ thuật tạo hình người Việt cổ.
4. Thành tựu kiến trúc
Người Việt cổ thời Đông Sơn còn ứng dụng nghệ thuật vào đời sống hàng ngày.
Trước hết là làm đẹp cho con người với các kiểu đầu tóc búi cao trên đỉnh hoặc cắt xõa ngang vai, có khi tết đuôi sam bỏ dài sau lưng.
Với các kiểu áo dài xẻ tà sang trọng và kiểu con trai đóng khố, con gái mặc váy quây lại. Đặc biệt là các kiểu đồ trang sức khuyên tai, vòng tay, chuỗi hạt đeo cổ rất phong phú.
Thành tựu lớn trong nghệ thuật đời sống là kiến trúc. Từ thời đại đồ đá tiến sang thời đại đồ đồng thau cũng từ miền núi tiến sâu dần vào đồng bằng, chiếm lĩnh các đất, gò bãi, sườn đồi để quần cư lập ấp dựng làng, yêu cầu cấp thiết làm nhà.
Từ những lều, chòi qua thực nghiệm sừ dụng dần cải tiến, để đến Văn hóa Đông Sơn tạo lập kiến trúc riêng mà mô hình nhà còn thấy khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn và dấu tích kiến trúc còn để lại ở di chỉ Đông Sơn, với những cột nhà bằng gỗ dài 4m5 có lỗ 6 mộng (để tra dầm sàn) cách chân cột 1m25, những dóng tre và mảnh phên đan.
Kết hợp những nguồn tư liệu trên, nhận ra đó là những nhà sàn phù hợp điều kiện môi trường sống còn nhiều hoang dã, vừa phòng tránh thú rừng làm hại, vừa thích nghi hoàn cảnh úng lụt xảy ra hàng năm theo chu kỳ.
2 kiểu nhà sàn chính. Kiểu thứ nhất là loại nhà dài, mái cong võng hình thuyền và chảy xuống sát sàn kiêm luôn vách che chắn, hai đầu mái nhô ra và uốn cong cuộn lại duyên dáng, trên nóc mái có 1 hoặc 2 chim to đậu, sàn nhà dựng trên hệ thống cột.
Kiểu 2 là loại nhà ngắn, mái cong vồng lên như mui thuyền, hai sườn mái rất dày, sàn nhà dựng trên đầu 1 cột to ở giữa có các tay chống nhô ra đỡ, cẩn thận lại có thêm tường vách đỡ hai bên.
Những mẫu nhà này đều thon thả mà chắc chắn, dựng lên bằng gianh, tre, gỗ, sàn có tại chỗ, chúng liên kết tạo ra bộ khung cột - kèo - xà, dồn sức nặng xuồng nền nhà qua các cột, nó là chỗ trú ngụ mà thực sự là công trình kiến trúc ở kiểu dáng và trang trí. Phối hợp những đơn nguyên kiến trúc gần nhau thành làng.
Do nhu cầu chống thiên tai, cải tạo môi trường và an ninh đời sống, các làng liên kết lại dưới chỉ đạo của nhà nước sơ khai. Phải có kinh đô.
Nếu kinh đô nước Văn Lang còn là truyền thuyết, kinh đô Âu Lạc là thành Cổ Loa vẫn còn dấu tích rõ ràng đến nay.
Thành Cổ Loa ở ngoại thành Hà Nội nay, trung tâm Âu Lạc, đầu mối hệ thống giao thông đường thủy.
Nơi đây ở ven sông Hoàng Giang vừa có gò bãi vừa có đầm lầy, đắp nổi những dải đắt cao, gia cố nền móng những nơi đất lấy bằng kè đá và rải mảnh gốm để chống trôi sụt.
Truyền thuyết kể thành xây "9 lớp, chu vi 9 dặm" có hàm ý là số thiêng chỉ quy mô lớn trùm tất cả.
Thực tế khảo sát, tòa thành này có 3 vòng khép kín, bao lấy nhau nhưng lệch gần sát về phía Nam.
Vòng ngoài dài chừng 8000m, vòng giữa 6500m, cả 2 không có hình thù rõ rệt, vòng trong hình chữ nhật chu vi 1650m. 3 vòng thành dài hơn 16km, kèm theo có hào nước bên ngoài, thêm nhiều ụ hỏa hồi để kiểm soát trận địa, đòi hỏi lượng đất đá đào đắp khổng lồ.
Dân cả nước lúc đó chỉ chừng 1 triệu người, đây là kỳ tích lao động với nhiều sáng tạo, dường như vượt ngoài sức con người, viện dẫn đến trợ giúp của thần tiên.
Văn hóa Đông Sơn đang phát triển, từ TK. II TCN với cuộc xâm lược từ phương Bắc, đồng thời có giao tiếp cưỡng bức với văn hóa Hán theo xu hướng đồng hóa.
Thế bất lợi, Văn hóa Đông Sơn bị đập vụn nhưng nhiều mảnh nhỏ được lưu trong các xóm làng, cơ sở đó phần nào cảm hóa lại tầng lớp thống trị ngoại tộc, tiếp thu chọn lọc và biến cải một số yếu tố văn hóa Hán, tiếp tục đúc trống đồng Đông Sơn dưới hình thức trá hình để ngửa là chậu (nhưng cập kênh) mà để úp là trống.
Tiếp nhận tự giác văn hóa Phật giáo Ấn Độ thâm nhập hòa bình và hòa nhập tín ngưỡng bản địa.
Những điều đó gây men cho ý thức dân tộc để đấu tranh giải phóng, từ những thắng lợi tạm thời của Hai Bà Trưng, Lý Bí đến thắng lợi hoàn toàn của Ngô Quyền, cơ sở để xây dựng văn hóa dân tộc kỷ nguyên Đại Việt.