Nghề gốm truyền thống Đông Sơn tồn tại và phát triển trong khi bị chiếm bởi phương Bắc.
Dưới tác động chính trị, xã hội, kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến phương Bắc, nghề gốm truyền thống có những biến đổi.
Cần nghiên cứu những dữ kiện khảo cổ học từ những trung tâm sản xuất gốm lớn.
Những thế kỷ đầu Công Nguyên, Giao Chỉ và Cửu Chân hình thành nhiều khu lò sản xuất gốm. Nay hàng trăm tài liệu các lò nung gốm cổ thời Bắc thuộc.
Hệ thống 10 khu lò sản xuất gốm ở 10 thế kỷ SCN, nổi bật 3 trung tâm lớn Thanh Hóa (Tam Thọ), Bắc Ninh (Đại Lai, Bãi Định, Tam Sơn, Thanh Lãng, Đương Xá), Vĩnh Phúc (Đồng Đậu, Thanh Lãng.).
Trung tâm gốm Tam Thọ ở Thanh Hóa hình thành sớm nhất từ cuối TK. I, tồn tại đến TK. IV-V SCN.
Các trung tâm khác hình thành thời Lục Triều, cho thấy quá trình tiếp xúc văn hóa Trung Hoa.
Nghề gốm và gốm truyền thống Việt có những bước chuyển biến quan trọng.
Điểm nổi bật:
Phần lớn các khu lò gốm phân bố khu cư trú các dân Việt cổ sinh sống từ kim khí.
Những khu lò nung gốm có niên đại sớm (như Tam Thọ, Đại Lai, Tam Sơn, Thanh Lãng) tạo dựng gần các khu di chỉ Đông Sơn. Đặc điểm này hình thành từ nhân tố:
Thứ nhất, những khu dân cư đông đúc là thị trường tiêu thụ.
Thứ 2, thời Đông Sơn, chưa có làng nghề chuyên làm gốm, những thợ gốm lành nghề sống trong những làng Việt cổ truyền vừa làm ruộng vừa làm nghề thủ công.
Nguồn nhân lực dồi dào tham gia sản xuất ở những lò gốm người Hán.
Quá trình lao động, thợ gốm Việt tiếp thu nhà sản xuất gốm Trung Hoa kỹ thuật tạo lò (lò hình bánh bao, lò rồng, lò cóc.) cùng nhiều thủ pháp kỹ thuật tạo gốm sứ và mô hình sản xuất gốm kiểu Trung Hoa.
Từ những kinh nghiệm tích lũy, những thợ gốm Giao Chỉ, Cửu Chân tạo những sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội, gửi những hồn cốt phong cách gốm Việt từ tạo dáng đến những hoa văn trang trí.
Đồ gốm phong cách gốm truyền thống Đông Sơn vẫn duy trì nhiều thế kỷ SCN.
Bộ phận khu lò gốm phân bố gần các đô thị, các lỵ sở quận, huyện lỵ.
Khu lò Tam Thọ gần lỵ sở quận Cửu Chân. Khu lò Bãi Định nằm sát thành Luy Lâu - thủ phủ quan trọng thời Hán Đường.
Các khu lò Đồng Đậu, Thanh Lãng gần lỵ sở huyện Mê Linh.
Các lò gốm đáp ứng nhu cầu xây kiến trúc công sự, dinh thự, nhà cửa và nhu cầu tiêu dùng của tầng lớp trên người Hán và của bình dân bản địa.
Các trung tâm sản xuất gốm cùng những sản phẩm cho phép khẳng định nhiều đồ gốm phong cách ngoại lai sản xuất tại Việt Nam.
Dùng gốm Đông Sơn làm đồ tùy táng trong mộ gạch, tồn tại hoa văn trang trí Đông Sơn, xuất hiện loại lò nung mặt bằng dạng hình ống.. cho thấy cùng các lò gốm Trung Hoa còn có các lò gốm Việt và thợ gốm Việt.
Do các lò gốm gần thị trường nông thôn, nông nghiệp trồng lúa nước nên nghề làm gốm phát triển theo hướng dân gian hóa, thể hiện qua đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa chất liệu làm gốm, tiếp tục nung gốm phong cách Đông Sơn.
Các lò gốm tạo dựng luôn thích ứng tự nhiên, lợi dụng tự nhiên trong các thế đồi gò, môi trường giao thông thủy sông nước, cách sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu tự nhiên dễ kiếm.
Những tập quán sản xuất hình thành xuất phát từ đặc điểm tự nhiên môi trường Việt Nam và tập quán cư trú người Việt cổ.
Đó là không gian sinh tồn mà Văn hóa Đông Sơn người Việt thích ứng từ lâu đời.
Nghề gốm góp phần tích cực chống đồng hóa hay giải Hán hóa suốt 10 thế kỷ đầu Công Nguyên, tạo tiền đề phát triển nghề gốm sứ Đại Việt nổi tiếng sau này.
Đồ gốm
Các trung tâm gốm và nghề gốm cho thấy những phong cách gốm truyền thống Đông Sơn duy trì nhiều thế kỷ SCN.
Các nhà khảo cổ nói suốt 10 thế kỷ đầu Công Nguyên có 2 dòng gốm song song phát triển, ảnh hưởng qua lại suốt thời Bắc thuộc, là dòng gốm tiếp nối truyền thống:
Gốm thô Văn hóa Đông Sơn và dòng gốm mịn tráng men phong cách gốm phương Bắc.
Trước khi gốm Trung Hoa vào, đồ gốm nước ta khoảng 7.000 năm trước. Thời Đông Sơn, đồ gốm đất nung gần đạt trình độ đồ sành, độ nung xấp xỉ 1000oC.
Loại "gốm Đường Cồ" trắng mốc hoặc hồng, trang trí văn thừng thô in đập cắt chéo nhau tạo hình mắt lưới ô trám hoặc hình vuông, đặc biệt gốm có xương đanh và độ cứng như sành.
Gốm Đường Cổ so các loại trước đó có tiến bộ đáng kể về chất liệu, kỹ thuật chế tác. Gốm đất nung cứng và đanh vẫn tồn tại loại gốm nung thấp thường bở, mủn.
Truyền thống gốm Đông Sơn bảo lưu trong đồ gốm đất nung. Những đồ gốm thô tiếp nối truyền thống Đông Sơn về chất liệu, kiểu dáng, hoa văn.
Chúng khác gốm Hán, so gốm Đông Sơn có những đổi mới công nghệ tạo, về kiểu dáng, hoa văn trang trí.
Một số khu lò nổi tiếng Tam Thọ, Đồng Đậu, Thanh Lãng, Đương Xá.. dòng gốm cứng truyền thống mang phong cách Đường Cồ khá phổ biến.
Sản phẩm gốm đất nung thời này khá đa dạng, chủ yếu gốm dùng trong sinh hoạt. Thợ gốm bản địa không chỉ sản xuất gốm Đông Sơn còn cả gốm phong cách ngoại lai.
Hai truyền thống gốm cùng sản xuất, cùng dùng. Loại hình gốm kèm phương thức dùng kiểu Trung Hoa (như bình đốt trầm, kho đụn, khẩu giêng, tượng ba chân, tượng thần thú, quái vật hình người.) không có trong các khu lò gốm khai quật.
Cơ sở truyền thống gốm lâu đời, thợ gốm Việt tiếp thu kỹ thuật gốm sứ Trung Hoa. Làm chủ kỹ thuật, tạo những nét mới cho gốm truyền thống với bản sắc riêng.
Xét kỹ thuật, đồ gốm truyền thống Đông Sơn nâng cao hơn chất lượng.
Gốm thô lõi đen vẫn sản xuất cùng đồ sành lõi đen. Gốm thô mỏng hơn, cứng hơn, tăng độ bền, chịu nhiệt.
Gốm áo đỏ, áo trắng mốc kiểu Đường Cồ tiếp tục sản xuất với những đồ đựng lớn.
Tồn tại loại đồ gốm này rộng rãi trong dân gian, làm nhạt Hán hóa, giữ cốt cách truyền thống gốm văn minh Đông Sơn.
Yếu tố nghệ thuật Đông Sơn trên gốm. Thợ gốm Giao Chỉ, Cửu Chân không chép nguyên xi bố cục hoa văn Đông Sơn khi trang trí loại hình gốm mới, mà tách lẻ, hoặc biến đổi chút ít.
Hình sao trên mặt trống đồng trang trí cho nắp bình đốt trầm hương (mộ 1B - Bỉm Sơn) là di vật điển hình mang dáng Trung Hoa.
Hình sao tám cánh trang trí trên các đầu ngói ống Cổ Loa gợi hình ảnh mặt trời với những tia tỏa ra như trên mặt trống đồng.
Một số mô típ trang trí trên đồ đồng Đông Sơn (vòng tròn tiếp tuyến, chấm tròn, răng cưa, đường vạch song song, chữ S) xuất hiện trên một số loại hình gốm phong cách Hán.
Hoặc trên gạch xây mộ thời Hán ở Mạo Khê, Vũng Đông, Nghi Vệ, Thuận Thành, Lãng Ngâm, Tràng Kênh, Chèm..
Nghiên cứu đồ gốm cứng ở lò Đương Xá (TK. IX-X), có ý nói hoa văn trên đồ gốm cứng trở lại phong cách trang trí và mô típ trang trí hoa văn Đông Sơn [6, tr. 79] .
Những loại hoa văn mới thời Đông Sơn còn rất hiếm. Đó là hoa văn mặt người trên đầu ngói (nhiều ở Luy Lâu, một ít ở Cổ Loa, khu lò gốm Tam Thọ).
Các kiểu mặt người này cách điệu cao, đường nét giản đơn, đặc biệt mọi diễn tả ở tư thế cười hồn nhiên, ngộ nghĩnh. Bởi thế, nhiều nhà nghiên cứu đặt tên mặt hề.
Đặc điểm này khác hẳn ngói mặt đàn ông dữ tợn ở Trung Hoa.
Trang trí hình mặt người trên đầu gạch ở Tháp Nhạn (Nghệ Tĩnh) với nụ cười tươi tắn, tả thực, dường như lấy từ bộ mặt trẻ em bú sữa, rất thân thiện..
Có thể từ những nguyên mẫu ngói mặt người Trung Hoa, thợ gốm Việt sáng tạo sản phẩm cùng loại mang tính đặc sắc người Việt.
Thời Đại Việt, những tín hiệu nghệ thuật Đông Sơn tỏa sáng trên thạp gốm, bát, đĩa, ấm.. Lý-Trần.
Gốm Lê-Mạc thấy tín hiệu Đông Sơn truyền thống thể hiện tạo dáng và trang trí trên nhiều loại hình gốm sứ [2, tr. 52-58] .
Hiện vật đồng
Thời Bắc thuộc, nhất thời Đông Hán thống trị, mộ táng và trong tầng văn hóa di chỉ cư trú, thường gặp vài đồ đồng vừa mang phong cách Văn hóa Đông Sơn vừa phong cách văn hóa Hán.
Phần này chỉ đưa vài hiện vật đồng tiêu biểu. Ý nghĩa nhất định, hiện vật này nói sức sống Văn hóa Đông Sơn thời Bắc thuộc.
Chậu trống
Có người gọi chậu trống là trống chậu. Chưa thống kê đủ di vật này, từ các bảo tàng trung ương và địa phương, nay hơn 30 chiếc tập trung ở Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hà Nội.
Đặc trưng chung mặt ngoài đáy chậu trang trí các loại hoa văn thường gặp trên mặt trống đồng (như văn mặt trời nhiều tia ở chính giữa, quanh là các băng văn hình chim bay, văn người hóa trang kiểu cờ bay nhảy múa trên trống đồng Đông Sơn muộn).
Đáy lòng chậu khắc hình đôi cá bơi lượn đầu quay về một hướng là đặc trưng văn hóa Hán. Di vật vừa yếu tố Văn hóa Đông Sơn vừa văn hóa Hán.
Chậu trống trong mộ Đông Hán ở Đá Bạc, Vân Đồn (Quảng Ninh) có 2 hình mặt hổ phù phong cách Hán phần ngoài gần miệng chậu [13, tr. 108] .
BTLSVN lưu hơn 20 chậu loại này. Thạp có ký hiệu Lsb-31260 ở đáy còn trang trí một vành những chim Lạc như trên trống đồng Ngọc Lũ, cho thấy ảnh hưởng rộng lớn văn minh Đông Sơn tới văn hóa Hán (thể hiện qua những chậu chôn theo kẻ xâm lược).
Thạp đồng Đông Sơn trang trí hoa văn Hán
Nguồn gốc thuần Việt, nhưng SCN biến đổi chút ít trong cách trang trí hoa văn.
Trước, Bảo tàng Hà Tây (cũ) trưng bày 2 thạp đồng kiểu Đông Sơn. Di vật này có những yếu tố hoa văn Hán.
Chiếc thứ nhất thuộc loại thạp có nắp (thân hình trụ tròn, đáy bằng, kích thước cao 34cm, miệng rộng 30cm, đáy rộng 26cm).
Kiểu dáng, hoa văn trang trí là thạp Đông Sơn chuẩn mực với những vòng trang trí trên thân thạp (gồm văn vòng tròn tiếp tuyến có tâm, văn răng lược và băng hồi văn, nhưng đôi quai gần vành miệng không phải đôi quai hình chữ U ngược, mà thay bằng đôi quai gắn hình hổ phù đeo vòng rất điển hình văn hóa Hán).
Bình đồng kiểu con tiện
Loại này phát hiện ít. Đây là đồ đồng kiểu văn hóa Hán, nhưng trang trí hoa văn phong cách đồ đồng Đông Sơn.
Sách Đồ đồng Văn hóa Đông Sơn, Hoàng Xuân Chinh giới thiệu các bình đồng kiểu con tiện ở phòng triển lãm cổ vật tại Bảo tàng Hà Nội và Thanh Hóa.
Những bình kiểu con tiện, miệng đứng cổ cao bụng nở gần hình cầu, chân cao choãi có vành lỗ thủng hình gần tam giác, hoặc hình khó xác định, có nắp đậy khít vào gờ miệng.
Bình này rất gần loại "hồ" thời Hán ở Trung Quốc. Vai có đôi quai hình chữ U ngược, cổ và thân trang trí các vành văn vòng tròn tiếp tuyến kép, văn hình tam giác, hoặc văn chữ S có đầu xoáy tròn.
Đó là những "ngôn ngữ nghệ thuật" đặc trưng đồ đồng Văn hóa Đông Sơn [5, tr. 120-121] .
Kết luận
Sức sống Văn hóa Đông Sơn chống Hán hóa suốt 10 thế kỷ là phản ánh quá trình đấu tranh của người Việt qua khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Phùng Hưng, và Ngô Quyền thắng Nam Hán, mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc:
Thời văn hóa, văn minh Đại Việt, đồng nghĩa phục hưng kỳ diệu sức sống Đông Sơn, cội nguồn văn hóa Việt Nam.