Bài viết: 1903 



Từ xưa đến nay, tinh thần hiếu học luôn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam ta. Sử sách nước Việt Nam ta đã lưu danh vô vàn tấm gương nghèo hiếu học vượt khó. Có những trạng nguyên, danh nhân, thần đồng còn đã đỗ đầu liên tiếp hai kỳ thi Hội, thi Đình; hoặc đỗ trạng nguyên từ khi mới chỉ là cậu bé nhỏ tuổi.
Gương hiếu học của cha ông chính là động lực khiến biết bao nhiêu tấm gương học sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay đã vươn lên, vượt khó, đạt nhiều thành tích cao trong các kì thi cấp quốc gia cũng như trên đấu trường quốc tế.
Chúng ta ai cũng mong muốn mình tài giỏi và khẳng định giá trị bản thân. Một trong những cách để tiến gần với ước muốn đó là học tập. Top Những câu chuyện kể về các tấm gương hiếu học trong lịch sử Việt Nam hy vọng sẽ giúp các bạn thấm thía hơn tầm quan trọng của việc học và tạo nguồn động lực để các bạn yêu thích việc học, có tinh thần hiếu học, rèn luyện thói quen tìm tòi học hỏi, trau dồi những thế mạnh và sở trường để có cuộc sống tốt đẹp nhé!
**
Gương hiếu học của cha ông chính là động lực khiến biết bao nhiêu tấm gương học sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay đã vươn lên, vượt khó, đạt nhiều thành tích cao trong các kì thi cấp quốc gia cũng như trên đấu trường quốc tế.
Chúng ta ai cũng mong muốn mình tài giỏi và khẳng định giá trị bản thân. Một trong những cách để tiến gần với ước muốn đó là học tập. Top Những câu chuyện kể về các tấm gương hiếu học trong lịch sử Việt Nam hy vọng sẽ giúp các bạn thấm thía hơn tầm quan trọng của việc học và tạo nguồn động lực để các bạn yêu thích việc học, có tinh thần hiếu học, rèn luyện thói quen tìm tòi học hỏi, trau dồi những thế mạnh và sở trường để có cuộc sống tốt đẹp nhé!

**
Câu chuyện về thần đồng Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi trở thành trang nguyên hai nước
Câu chuyện thứ nhất
Mạc Đĩnh Chi con nhà nghèo, người đen đủi, xấu xỉ. Tuy còn nhỏ, nhưng ngày nào cậu bé cũng vào rùng kiếm củi giúp đỡ cha mẹ.
Gần nhà Mạc Đĩnh Chi có một trường học, các bạn trong làng đến học đông vui. Không có tiền ăn học nhưng cậu bé rất thèm được hộc. Mỗi lần gánh cửi qua trường, cậu lại ngấp nghé học lỏm.
Nhiều ngày như vậy, thầy thấy cậu bé nhà nghèo mà hiếu học, thầy cho phép cậu bé vào trường.
Nhờ có trí thông minh, Mạc Đĩnh Chi nhanh chóng trở thành học trò giỏi nhất trường. Buổi tối, Mạc Đĩnh Chi mới có thì giờ đọc sách vì ban ngày cậu phải làm việc khác. Nhưng lại không có đèn dầu thắp, cậu bé đã nghĩ ra cách bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng làm đèn.
Không mấy lúc Mạc Đĩnh Chi ngơi đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách, kể cả lúc vai gánh củi đi bán. Không có sách học, thì mượn thầy mượn bạn. Mạc Đĩnh Chi cố học nhiều cuốn sách quý. Không có tiền mua nến để đọc sách, thì Mạc Đĩnh Chi đốt củi, hết củi thỉ lấy lá rừng đốt lên mà học, thật là vô cùng gian khổ, nhưng chú bé không hề nản chí.
Miệt mài học tập với ngọn đèn đom đóm ấy, chẳng bao lâu, Mạc Đĩnh Chi trở thành người học rộng, tài cao, thi đỗ trạng nguyên (khoa thi năm 1304). Nhưng vì nhà vua thấy ông nhà nghèo lại xấu xí, có ý không muốn cho ông đỗ đầu, buộc ông phải làm một bài văn để thử tài.
Mạc Đĩnh Chi làm ngay bài phú lấy tên là "Bông sen trong giếng ngọc" để -tỏ rõ chí hướng và tài năng của mình. Bài phú rất hay, hay đến nỗi vua Trần phải phong cho ông một chức quan trong triều. Với lòng yêu nước thương dân, ông đã làm nhiều việc lớn cho đất nước.
Câu chuyện thứ hai:
Sau khi trở về kinh đô, nhà vua cho vời Trạng vào bệ kiến, hỏi việc chính trị, Trạng nói đâu ra đấy, vua rất hài lòng, ban cho Trạng chức Hàn lâm học sĩ, sau thăng dần đến chức Thượng thư, rồi Đại Liêu ban Tả Bộc Xạ (tương đương chức Tể tướng).
Năm Đại Khánh triều vua Trần Minh Tông (1314 – 1329), Mạc Đĩnh Chi được cử làm Chánh sứ sang nhà Nguyên đáp lễ. Trong quá trình đi sứ của ông đã biểu hiện rất xuất sắc tài năng ngoại giao và tầm trí tuệ vĩ đại của ông khiến cho vua tôi nhà Nguyên vô cùng kính phục.
Trên đường đi sứ, ngay trên biên giới hai nước, ông đã chứng tỏ tài ứng đối. Khi đoàn sứ giả tới ải Pha Lũy (tức Mục Nam Quan). Cửa ải đóng chặt, có một vế đối dán sẵn ở cửa ải như sau:
– Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
Nghĩa: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Vế đối hiểm hóc ở chỗ có 4 chữ quan và 3 chữ quá. Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ giả biết rằng đây là mưu kế của bọn quan lại nhà Nguyên ra điều kiện để được mở cửa quan. Nếu đoàn sứ giả không đối được thì sẽ không vào được biên giới Trung Hoa. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới quốc thể.
Sau khi suy nghĩ một chút, Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:
– Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.
Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước
Vế đối cũng có 4 chữ đối và 2 chữ tiên. Tình thế đổi khác. Tưởng đã bí thế mà lại hóa ra một câu đối hay, viên quan nhà Nguyên chịu là vị Trạng nguyên đất Việt có tài ứng biến nên lập tức xuống mở cửa ải, ân cần đón đoàn sứ giả.
Ngay lần gặp mặt đầu tiên: Vua quan nhà Nguyên muốn làm nhụt chí của đoàn sứ giả, tự cho mình như mặt trời đỏ, ra vế đối ý kiêu căng:
Nhật hỏa, vân yên, bạch đản thiêu tàn thỏ ngọc.
Nghĩa là: "Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng"
Vế đối còn có ý ám chỉ đối phương yếu và nhát như thỏ.
Nghe xong Mạc Đĩnh Chi đối lại:
Nguyệt cung, tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô.
Nghĩa là: "Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời"
Vế đối rất chỉnh và tài tình, đã nêu cao được ý chí và sức mạnh của đại Việt. Vế đối còn rất đẹp về hình ảnh mặt trăng lưỡi liềm giống như cây cung, muôn ngàn vì sao lấp lánh giống như những viên đạn. Hơn nữa vế đối còn có ý ám chỉ đối phương là con quạ vì kim ô vừa nghĩa là mặt trời, lại vừa có nghĩa là con quạ sắt. Vua Nguyên thấy mình bị trả miếng rất đau, nhưng hết sức phục tài viên sứ nước Đại Việt. Vì vậy, vua tỏ ra vui vẻ:
– Quả là danh bất hư truyền. Lời đồn đại về tài năng của người thật chẳng ngoa. Nói rồi, vua Nguyên sai ban rượu ngon và bắt viên nội giám xuất nhiều vàng bạc trong kho để tặng thưởng Mạc Đĩnh Chi.
Đoàn sứ giả nước Đại Việt đang chuẩn bị về nước vì đã hoàn thành sứ mệnh vua giao, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra:
Công chúa nhà Nguyên qua đời, vua Nguyên sai sứ thần của triều đình đến gặp Mạc Đĩnh Chi và nói:
Thưa tiên sinh, hôm nay đại bất hạnh cho hoàng tộc, bà trưởng công chúa đã mất, Thánh thượng biết ngài là người có giọng đọc tốt, hơn nữa tên sinh lại là người ngoài nên Triều đình có ý muốn nhờ tiên sinh đọc bài điếu văn cho thêm phần trang trọng.
Mạc Đĩnh Chi nhận lời:
– Tôi cũng muốn đến để viếng công chúa và chia buồn với nhà vua, nhưng chẳng hay bài điếu văn này, triều đình muốn tôi phải viết ý tứ gì?
Sứ giả nhà Nguyên nói:
Bài điếu văn đã được viết sẵn rồi. Chỉ dám phiền tiên sinh đọc mà thôi.
Tang lễ được cử hành rất linh đình để khoe sự giàu sang và truyền thống nghi lễ của nước lớn. Đến ngày cuối cùng là ngày an táng công chúa, Mạc Đĩnh Chi được mời vào cung để đọc điếu văn.
Ông được một viên văn quan long trọng nâng hai tay ngang đầu chuyển cho ông bài điếu văn.
Một sự kiện cổ kim không tiền khoáng hậu có một không hai xảy ra. Bài điếu văn chỉ có một chữ là chữ "Nhất" rất to.
Trước sự việc như vậy, Mạc Đĩnh Chi không hề bối rối vì ông biết chắc chắn thế nào người Nguyên thử tài mình bằng những cách thức vô cùng hiểm hóc.
Sau một thoáng suy nghĩ, ông lấy giọng đọc sang sảng lâm ly bài điếu sau:
Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chỉ hoa
Quảng Hàn nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.
Nghĩa:
Trời xanh có một đám mây
Trong bầu vũ trụ có một điểm tuyết
Trong vườn thượng uyển có một cành hoa
Cung Quảng Hàn có một vầng trăng
Than ôi! Mây đã tan, tuyết đã tan, hoa đã tàn
Vầng trăng đã khuyết!
Đọc xong với vẻ mặt buồn rầu, ông nghiêm trang bước ra trước sự xúc động nghẹn ngào của những cung phi mỹ nữ và trước vẻ tưng hửng của vua tôi nhà Nguyên; vì họ đã giương bẫy để hại sứ nước Đại Việt. Do tài trí tuyệt vời mà sứ giả nước Đại Việt lại ung dung đi ra trước sự khâm phục của mọi người. Mạc Đĩnh Chi lại tạo ra một kỳ tích có một không hai trong lịch sử văn chương chữ nghĩa trong thời đại của ông.
Mạc Đĩnh Chi làm quan trải 3 triều vua: Trần Anh Tông (1293 – 1314), Trần Minh Tông (1314 – 1329), Trần Hiếu Tông (1329 – 1341) đến chức Đại Liêu ban Tả bộc xạ (Tể tướng) đứng đầu triều.
Khi làm quan thì ông nổi tiếng là trung thực và thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước, đến lúc già về hưu chỉ có nếp từ đường (thờ tổ tiên) nhỏ bé mà thôi, thường ngày ông vẫn ra ngồi nơi quán lá uống bát nước vối, chuyện trò thân mật với dân làng, ông sống thanh bạch, giản dị như những người dân quê.
Chỉnh sửa cuối: