QUYỂN III - BÙN ĐẤY, NHƯNG LẠI LÀ TÂM HỒN Chương 1 Bấm để xem Giăng VanGiăng đang ở dưới cống ngầm Pari. Xuống đấy, càng thấy Pari giống như một biển cả. Hụp lặng trong đó cũng như trong biển có thể biến mất như chơi. Kể cái việc di chuyển ấy cũng kỳ lạ. Giăng VanGiăng vừa ở giữa thành phố vừa là đã ra ngoài thành phố. Chỉ một nháy mắt, vừa đủ để mở cái vung lên rồi đậy ngay lại, Giăng VanGiăng đã từ một nơi đầy ánh sáng bước vào một nơi tối đen như mực, từ giữa trưa bước vào nửa đêm, từ náo động bước vào tĩnh mịch, từ nơi sấm sét dồn dập bước vào cảnh tĩnh tại trong mồ. Cuộc biến đổi kỳ diệu gấp mấy cuộc biến đổi trên phố Pôlôngxơ, Giăng VanGiăng bước từ một nơi vô cùng nguy hiểm đến một nơi tuyệt đối an toàn. Rơi tõm vào một cái hầm: Bỗng chốc mất hút dưới lãnh cung thành Pari, rời một đường phố đầy rẫy chết chóc xuống một hầm mộ có sự sống. Phút ấy thật kỳ lạ. Giăng VanGiăng choáng váng mấy giây đồng hồ, người như mất hồn. Cái bẫy cứu người vừa mới mở ra dưới chân ông. Lòng Trời dường như lừa gạt dúi ông vào đấy. Cạm bẫy của Chúa mới phúc đức làm sao! Tuy nhiên người bị thương vẫn im lìm, không động đậy. Giăng VanGiăng không biết là mình vác trên vai một xác chết hay một người còn sống. Thoạt tiên ông thấy như mù cả hai mắt. Bỗng dưng chẳng trông thấy gì. Trong khoảnh khắc, ông lại cảm thấy như điếc cả hai tai nữa, không nghe thấy gì hết. Cuộc chém giết như một cơn bão táp điên cuồng đang diễn ra ở trên đầu ông, cách mấy thước, chỉ còn là tiếng động đùng đục, mơ hồ, vì cách một lớp đất dày, giống như tiếng rầm rì ở một nơi sâu thẳm. Ông cảm thấy dưới chân ông, có cái gì rắn chắc, chỉ thế thôi; nhưng như thế cũng đủ. Ông quờ một tay lên rồi quờ tay kia; hai tay chạm phải vách tường ở hai bên, nhờ thế ông biết rằng con đường hầm này hẹp. Ông thấy đường trơn, biết là đá lát cũng sũng nước. Ông thận trọng đưa chân sờ soạng, sợ có hố, có giếng chứa bẩn hay vực thẳm. Ông nhận thấy đá lát còn kéo dài. Một mùi hôi thối bốc lên, ông đoán biết ông ở đâu. Chỉ một lát sau, ông thấy mắt không mù nữa. Có một chút ánh sáng chiếu ra cửa hầm ông vừa tụt xuống, và ông cũng đã quen với bóng tối trong hầm. Ông nom lờ mờ được rồi. Ở cái hành lang mà ông vùi mình- phải nói như vậy mới đúng cảnh- phía đằng sau ông, có một bức tường bưng kín; chỗ ông đứng nấp là một cái ngách cụt mà ngôn ngữ chuyên môn gọi là chi nhánh. Đằng trước cũng là một thứ đường khác: Đó là đêm dài thăm thẳm. Ánh sáng đục mờ lọt vào chỉ soi được mươi, mười hai bước trước mặt Giăng Vangiăng và yếu ớt chiếu vào thành tường ẩm ướt trong vòng mấy mét. Quá khoảng ấy thì bóng tối dày đặc, dấn mình vào đấy thì thật là khủng khiếp tưởng như rơi vào vực thẳm. Tuy thế vẫn có thể xông vào bức tường mù mịt ấy, cần phải xông vào đấy; hơn thế phải xông vào nữa kia. Giăng Vangiăng nghĩ rằng bọn lính có thể trông thấy, như ông, tấm vỉ sắt dưới đống gạch lúc nãy, họ cũng có thể xuống cống, vào sục sạo, sự ngẫu nhiên ấy quyết định tất cả. Không được chậm một phút. Lúc nãy ông đã đặt Mariuytx xuống đất, bấy giờ ông nhặt lên, tiếng này cũng dùng đúng- vác trên vai mà lần đi. Ông cương quyết bước vào đêm tối. Giăng VanGiăng tưởng hai người đã thoát nạn, nhưng sự thật thì chưa thoát được. Những nguy hiểm kiểu khác, nhưng không kém nghiêm trọng có lẽ đang chờ đợi họ. Sau cuộc chiến đấu dữ dội như sấm sét, là một cái hang đầy uế khí, đầy cạm bẫy. Qua một nơi chiến trường hỗn độn lại đến một cống nhớp nhúa. Giăng VanGiăng rơi từ vòng địa ngục này vào vòng địa ngục khác. Đi được năm mươi bước thì phải dừng lại. Phải giải quyết một vấn đề. Con đường hầm gặp một hầm khác xuyên ngang. Giăng VanGiăng đứng trước hai con đường. Biết đi đường nào! Rẽ tay trái hay tay phải? Biết phương hướng nào mà mò đi trong cái khoảng tối tăm rắc rối này? Nhưng như ta đã nói, những con đường chằng chịt ấy vẫn có một lối ra là xuôi theo chiều dốc; cứ xuôi theo chiều dốc mà đi tất ra phía bờ sông. Giăng VanGiăng hiểu ngay tức khắc. Ông tự bảo chắc là đang ở dưới cống khu chợ, nếu rẽ sang tay trái, rồi theo con đường dốc, chắc chưa đầy mười lăm phút là sẽ ra đến miệng cống ở bờ sông Xen, quãng giữa cầu Pôngtôsăng và cầu Pôngnớp, tức là ra một nơi đông đúc nhất Pari, giữa ban ngày ban mặt. Có khi lại đâm ra một ngã tư nào. Người qua đường sẽ kinh hoàng thấy hai người máu me be bét chui từ dưới chân họ lên. Cảnh binh đến, đồn lính bên cạnh động binh. Như thế thì chứ kịp chui ra đã bị bắt rồi. Thà rằng cứ giấu vào cái mê đồ trận chằng chịt này, cứ phó thân cho cái cảnh đen ngòm này, rồi thượng đế dẫn dắt đến đâu thì đến. Ông rẽ phải, đi ngược chiều dốc. Khi ông quặt khỏi cổng chính chút ánh sáng mờ mờ nơi cửa hầm tắt hẳn, bức màn đêm lại buông xuống trước mặt; ông lại như mù mắt. Ông cứ đi cố hết sức đi nhanh. Hai cánh tay Mariuytx choàng qua cổ ông, hai chân buông thõng đằng sau. Một tay ông nắm giữ hai tay Mariuytx, tay kia ông sờ soạng dọc tường. Má Mariuytx đẫm máu, dính vào má ông. Ông thấy dòng máu nong nóng của Mariuytx chảy lên người ông và thấm dưới lần áo. Nhưng miệng Mariuytx kề sát tai ông, vẫn có một hơi ấm ươn ướt, dấu hiện của hơi thở, tức là của sự sống. Cái cống này rộng hơn cống trước. Giăng VanGiăng nặng nề lê bước. Những trận mưa hôm qua chưa tháo hết nước; một dòng nước vẫn chảy giữa móng lòng cống ngầm. Ông phải ép người vào sát vách để đi, để khỏi đẫm nước. Cứ thế ông mò mẫm đi, giống như con vật ăn đêm lần mò trong khoảng mờ mịt và lạc lối trên những con đường của bóng tối ở trong lòng đất. Nhưng dần dần, hoặc là có những cửa hầm xa tít le lói một thứ ánh sáng chập chờn trong khoảng sương mù đùng đục, hoặc là nhờ hai mắt đã quen bóng tối, ông trông đã hơi rõ. Ông phảng phất đoán thấy đây là bức tường ông chạm phải, kia là cái vòm hầm ông chui qua. Con người trong đôi mắt mở căng ra trong đêm tối, và cuối cùng thấy được ánh sáng; cũng như tâm hồn người ta mở căng ra trong cảnh khốn cùng, và rồi thấy được Thượng đế. Định hướng mà tiến không phải là dễ. Có thể nói đường lối ở cống ngầm phản ánh đường phố bên trên. Thuở ấy, Parri có hai nghìn hai trăm phố. Thử tưởng tượng ở dưới này, cái mà người ta gọi là cống ngầm đó như một rừng rậm rạp những cành nhánh ngang dọc đen ngòm. Cái hệ thống cống ngầm dạo ấy, cứ đem đặt nối nhau, phải dài đến mười một dặm. Chúng tôi đã nói ở trên là nhờ sự nỗ lực đặc biệt ba mươi năm gần đây, hệ thống cống ngầm ngày nay dài không kém sáu mươi dặm. Thoạt đầu, Giăng VanGiăng nhầm lẫn. Ông tưởng đang ở dưới phố Xanh Đơni, nhưng đáng tiếc là không phải. Ở dưới phố Xanh Đơni có một cái cống cũ bằng đá, xây từ thời Luy III, cống ấy đưa thẳng đến cống cái, mà người ta gọi là Cống lớn, chỉ qua một khuỷu và một chi nhánh thôi; khuỷu nằm bên phải, ngang tầm quảng trường Miraclơ, còn chi nhánh là cống Xanh Máctanh, cắt nhau thành hình chữ thập. Còn cống Pơtit Tơruyăngđơri mà cửa nằm cạnh quán Côranh thì chẳng có lúc nào mở thông với cống Xanh Đơni; nó đưa đến cống Môngmác, nơi mà Giăng VanGiăng đã đi vào. Vào đây thì có nhiều cơ thất lạc lắm, vì cống Môngmác là một trong những cống rồi rắm nhất. Cũng may Giăng VanGiăng đã đi qua cống khu chợ mà bố cục giống như một rừng cột buồm với dây, đòn xoắn nhau; nhưng ông vẫn gặp những lúng túng khó nghĩ và nhiều góc phố- đúng là những đường phố- hiện ra trong tăm tối như những chấm hỏi: Thứ nhất là ở bên trái cái cống rộng Platơrie, như một trò chơi rối óc, chăng mớ hầm chữ đinh chữ chi hỗn độn của nó ở dưới lâu đài Bưu điện và dưới cái vựa chứa tròn ở chợ Gạo, và đến sông Xen thì chấm dứt theo hình chữ Y; thứ hai, ở bên phải, cái hành lang cong phố Cađrăng với ba ngõ cụt, như ba chiếc răng; ở bên trái nhánh phố Mai, thoạt vào đã rẽ ra thành một chĩa hai và cứ quanh co nhiều bận để dẫn đến cái hầm thoát lớn của điện Luvrơ, hầm này ngăn thành từng đoạn và đâm nhánh khắp các hướng; cuối cùng, ở bên phải, cái cống cụt phố Giơnơ; đó là không tính những ngách nhỏ đó đây trước khi đi đến cống bọc vành. Chỉ có cống này có thể đưa ông đến một lối thoát xa chiến trường, do đó an toàn. Giá Giăng VanGiăng hiểu biết ít nhiều về những điều nói trên đây, tất ông đã nhanh chóng nhận thấy mình không phải ở dưới cống ngầm phố Xanh Đơni, dù chỉ sờ vách không cũng đủ biết vậy. Vì cống Xanh Đơni xây bằng thứ đá đẽo ngày xưa, với lối kiến trúc cũ kiêu kỳ và vương giả đến cả trong cống, với móng và nền bằng đá hoa cương và vôi béo, kiểu kiến trúc này tốn bốn trăm đồng một mét; ông không sờ phải những thứ đó, dưới tay ông chỉ có lối kiến thiết rẻ tiền ngày nay với nguyên liệu thông dụng vôi chịu nước và đá cối trên một lớp bêtông, lối kiến thiết này chỉ tốn hai trăm mỗi mét; đó là lối xây cất tư sản với vật liệu nhỏ. Nhưng ông chẳng biết gì về những điều đó. Tuy ông lo ngại nhưng ông cứ bình tĩnh đi lên; ông không trông thấy gì, không hiểu gì, ông dấn thân vào nơi may rủi, tức là chìm nghỉm trong thiên mệnh vậy. Phải nói rằng mỗi lúc ông thấy rùng rợn thêm. Bóng tối bên ngoài nhập dần vào tâm hồn ông. Ông bước đi trong bí hiểm. Cái cống nước nhớp nhúa này thật đáng sợ; nó chằng chịt đến choáng váng. Lạc giữa thành phố Pari đen ngòm này thật là bi đát. Giăng VanGiăng phải tìm thấy lối, hầu như phải tự tạo ra đường lối để mò mẫm đi. Trong khoảng lạ lùng này, mỗi bước đi có thể là bước cuối cùng trên đời. Làm thế nào mà thoát ra được? Ông có tìm được lối ra không? Mà có tìm ra kịp thời không? Cái tấm rong khổng lồ có lỗ đá này có đi vào, có xuyên qua được không? Hay phải gặp một gút mắc tối mò nào? Hoặc phải đến chỗ cùng kế, không gỡ ra, không vượt khỏi? Mariuytx có vì ra máu nhiều mà chết ở đây không? Ông có chết đói không? Cả hai người có bỏ xác nơi này mà thành hai bộ xương chỏng chơ một xó trong cái khoảng đêm này không? Biết làm sao được! Ông tự hỏi như vậy mà không thể trả lời. Gan ruột Pari là một vực thẳm. Ông đang ở giữa bụng một con quái vật, như nhà tiên tri kia. Bỗng, ông hết sức ngạc nhiên. Ông đang cứ thẳng đường mà tiến mãi thì bất ngờ, ông thấy đường không dốc lên nữa. Nước ở dưới lòng cống không phải chảy ngược đầu ngón chân mà lại thúc đằng sau gót. Cống cứ dốc dần xuống! Tại sao vậy? Sắp sửa ra đến sông Xen rồi hay sao? Ra thì nguy hiểm, mà quay trở lại càng nguy hiểm hơn. Ông cứ tiến lên. Đi như vậy không phải ra sông Xen. Đất Pari ở hữu ngạn sông Xen làm thành một thứ lưng lừa mà một bên đổ xuôi về sông Xen, còn bên kia đổ về Cống lớn. Cái đỉnh của lưng chừng đó, cũng là đường phân lưu, uốn lượn hết sức bất ngờ. Chỗ cao nhất chia các dòng nước thành hai triền nằm ở cống Xanhtơ Avoa, qua phố Hầu tước Misen, ở cống Lơ luyrơ, gần các đại lộ và ở cống Mông Máctanh gần khu chợ. Đỉnh cao đó là nơi Giăng VanGiăng đã đến. Ông đang đi về phía Cống lớn bao quanh Pari. Ông đi đúng hướng rồi. Nhưng ông không hề biết. Mỗi khi gặp một cống nhánh, ông sờ soạng các góc xem cống ấy to hay nhỏ; nếu nhỏ hơn các cống ông đang đi thì ông không vào, cứ đi thẳng; bởi vì cống nhỏ tất là cống cụt, càng đi cành xa đích, tức là càng xa lối thoát. Cách ấy đã giúp ông thoát khỏi bốn cái mê đồ trận chăng bẫy trong bóng tối. Có lúc ông nhận thấy rằng ông ra khỏi vùng Pari tê liệt trong cuộc bạo động, ở đấy các chiến lũy chướng ngại vật chặn đứng mọi sự giao thông và ông đã bước đến dưới vùng thành phố Pari bình thường, sống động. Bất chợt như nghe tiếng sấm ở trên kia, xa xôi nhưng không ngớt. Tiếng ấy là tiếng xe cộ đi lại. Theo ông tính trong bụng thì ông đi được nửa giờ rồi, nhưng ông không nghĩ đến nghỉ ngơi; ông chỉ đổi tay đỡ Mariuytx. Tối om om, nhưng bóng tối khiến ông yên lòng. Bất thình lình, ông thấy bóng ông ngã trước mặt. Bóng in trên một vùng ánh sáng đỏ lờ mờ nhuộm thắm cả cống dưới chân ông và vòm cống trên đầu ông, và lướt ở hai bên trên mặt đường ươn ướt. Ông sửng sốt quay đầu lại. Phía sau, trong cái hành lang ông vừa đi qua, hình như mãi đằng xa tắp, cái gì như một ngôi sao đỏ rực ghê rợn chọc thủng đêm dày, đang nhìn ông. Đằng sau ngôi sao, chín mười cái bóng lờ mờ lay động, những cái bóng đen, cứng nhắc, mập mờ, ghê gớm.
Chương VIII & IX Bấm để xem Giữa lúc tuyệt vọng như vậy thì có một bàn tay đặt lên vai ông; một giọng khe khẽ nói với ông: - Chia đôi nhé. Ai ở trong bóng tối này? Lúc tuyệt vọng thì người ta như ở trong cơn mộng. Giăng VanGiăng tưởng mình nằm mơ. Ông có nghe thấy tiếng bước chân bước đâu. Có quả là có tiếng người không? Ông ngẩng lên nhìn. Một người đứng ngay trước mặt. Người ây mặc một cái áo bờlu, chân giẫm đất, tay trái xách đôi giầy. Chắc hẳn là hắn ta đã tháo giầy ra để đi đến gần Giăng VanGiăng mà ông không hề hay biết. Giăng VanGiăng không lưỡng lự một phút. Tuy gặp gỡ bất ngờ ông nhận ra hắn tan gay. Người ấy là Tênacđiê. Mặc dù có thể nói ông vừa chợt tỉnh, nhưng vốn ông đã quen với những nguy hiểm, vốn ông đã dạn dày với những miếng đòn bất ngờ phải đối phó ngay tức khắc, nên ông lại trấn tính được ngay lúc ấy. Vả lại lúc bấy giờ, không có thể có tình thế nào nguy ngập hơn thế, tình cảnh đã đến chỗ cùng đồ không thể tăng thêm lên, và ngay cả đến hình ảnh Tênácđiê cũng không thể làm cho bóng đêm này đen thêm được. Hai bên cùng chờ đợi. Tênácđiê giơ tay phải lên ngang tầm trán, để che cho khỏi chói mắt, long mày nhíu lại, mắt nheo đi, môi hơi mím, dấu hiệu của một người chăm chú cố nhận mặt kẻ khác. Không nhận ra là ai cả. Ta vừa nói, Giăng VanGiăng ngồi quay lưng ra ánh sáng, mặt mày nhem nhuốc, đẫm máu, đến ngay giữa ban ngày ban mặt cũng khó nhận ra. Trái lại, Tênácđiê quay mặt ra ánh sáng, tuy chỉ là ánh sáng mờ nhạt trong hầm, mờ nhạt mà lại chính xác, nên mặt mày Tênácđiê đập ngay vào mắt Giăng VanGiăng, nói theo lối ẩn dụ thông thường nhưng rất mạnh. Trong cuộc đọ sức bí mật giữa hai tình thế, hai con người này, chỉ một sự chênh lệch điều kiện như thế cũng đủ tạo cho Giăng VanGiăng một ít ưu thế. Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ giữa Giăng VanGiăng có khăn che mặt và Tênácđiê bị lột mặt nạ. Giăng VanGiăng biết ngay là Tênacđiê không nhận ra mình. Hai người nhìn nhau một lúc trong ánh sáng mờ mờ này, như để dò xét nhau. Tênácđiê là người đầu tiên phá tan sự im lặng ấy: - Mày định làm thế nào mà ra? Giăng VanGiăng không trả lời. Tênácđiê nói tiếp: - Mở cửa thế đếch nào được. Nhưng mày phải cút khỏi nơi đây chứ! Giăng VanGiăng đáp: - Đúng thế. - Thế thì chia đôi nhé. - Cái gì cơ? - Mày giết nó, được. Còn tao, tao có chìa khóa. Tênácđiê chỉ Mariuytx. Nó còn tiếp: - Tao không quen mày, nhưng tao muốn giúp mày. Chắc là cùng cảnh với nhau cả. Giăng VanGiăng bắt đầu hiểu. Tênácđiê tưởng ông là kẻ giết người. Tênácđiê lại nói: - Này đằng ấy này. Đằng ấy giết thằng này hẳn đằng ấy đã nhìn xem trong túi nó có gì. Chia cho tớ một nửa. Rồi tớ mở cửa cho. Rồi thò một cái chìa khóa to tướng ra khỏi áo bơ-lu rách bươm, nó nói: - Có muốn xem cái bảo bối dùng để chuồn ra ngoài không? Đây này. Giăng VanGiăng "cứ sững sờ" – tiếng đó là của cụ Goócnâyđơ xưa kia, không biết là mơ hay thật. Thật đúng là Thượng đế hiện lên, ghê tởm, đúng là vị thiên thần cứu mệnh từ dưới đất chui lên, nhập vào hình Tênácđiê. Tênácđiê thọc tay vào cái túi rộng dưới áo bờlu, lấy ra một cái thừng đưa cho Giăng VanGiăng và nói: - Này, cho thêm mày cái này. - Thừng à? Để làm gì? - Phải có tảng đá nữa, ngoài kia khối. Ở đấy có một đống đá tướng. - Đá à? Để làm gì? - Đồ ngốc, vứt thằng cha này xuống thì phải buộc nó vào đá chứ, không thì để nó nổi lềnh bềnh trên mặt nước à? Giăng VanGiăng cầm cuộn dây thừng vừa chợt nghĩ ra điều gì: - À này, đằng ấy này, làm cách nào mà thoát được vũng bùn ấy thế? Tớ không dám liều đấy. Khiếp, đằng ấy hôi bỏ mẹ. Nghỉ một lát nó nói thêm: - Tớ hỏi mãi, đằng ấy không trả lời, kể cũng có lý. Tập sự đề phòng mười lăm phút ra trước lão dự thẩm mà lị. Vả chăng không nói gì thì cũng đỡ sợ nhỡ nói to tiếng quá. Cũng chả sao. Tớ không trông rõ mặt đằng ấy, không biết tên đằng ấy, nhưng đừng có tưởng tớ không biết đằng ấy là ai, đằng ấy muốn gì. Biết tất. Đằng ấy cũng có vặn cổ ông này đôi chút nên bây giờ đằng ấy muốn cất giấu gã ta đâu đây! Đằng ấy muốn vứt xuống sông chứ gì, phải đấy, sông là cái tủ cất giấu mọi dại dột. Để tớ gỡ rối cho. Giúp cho anh em qua bước khó khăn là tớ thích lắm. Tuy mồm nó thì nói tán thành Giăng VanGiăng im lặng, nhưng rõ ràng là nó tìm đủ mọi cách để làm cho Giăng VanGiăng phải nói. Nó thích vào vai ông, cốt để nhìn nghiêng nét mặt Giăng VanGiăng. Rồi nó kêu lên, nhưng nó cố giữ cho tiếng nói không cất cao. - Qua được vũng bùn, kể cũng yêng hùng thật, Thế sao không vứt quách thằng cha này xuống? Giăng VanGiăng vẫn im lặng. Tênácđiê miệng nói, tay kéo cái mảnh vải dùng làm ca-vát lên tận gần sát cằm, trông ra vẻ một người đứng đắn: - Nói cho đúng thì có lẽ đằng ấy làm thế là khôn đấy! Mai bọn thợ vào lấp cái hố lại, nhất định sẽ thấy có ai bỏ quên thằng cha nào ở đấy, họ lần từng tí, từng tí, rồi vớ được những vết chân đằng ấy, rồi đến tóm đằng ấy. Có người chui qua cống. Ai? Ra lối nào? Có ai trông thấy nó ra không? Cảnh sát nó tinh ghê lắm cơ. Còn cái cống thì đểu bỏ mẹ nó tố cáo mình ngay. Cái của này trong cống thì hiếm thật, ai cũng phải chú ý đến nó, chẳng mấy ai dùng đến cái cống mà làm ăn. Còn con sông thì là của chung của thiên hạ. Sông mới là cái huyệt thực sự. Một tháng sau mới vớt được xác thằng cha này vào lưới ở Xanhcơlu. Ừ, thế thì còn làm cóc gì nữa? Một cái thây rữa chứ gì! Ai giết? Pari. Tòa án cũng chẳng thèm thông báo! Đằng ấy làm thế là phải. Tênácđiê càng thao thao, Giăng VanGiăng càng im lặng. Tênácđiê lại lay vai ông: - Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, chia đôi nhé. Đằng ấy trông thấy cái chìa khóa của tớ rồi đấy; bây giờ cho tớ xem chỗ tiền của đằng ấy đi. Tênácđiê trông hung tợn, ám muội, hơi có vẻ dọa nạt, lại ra dáng thân mật. Thật lạ lùng! Dáng điệu Tênácđiê không bình thường nó có vẻ không được tự nhiên lắm, nó làm ra dáng không bí mật, nhưng lại nói nhỏ. Thỉnh thoảng nó có để ngón tay lên miệng, khe khẽ bảo: Suỵt! Khó mà đoán tại sao như vậy. Ở chỗ ấy chỉ có hai người với nhau. Giăng VanGiăng nghĩ rằng có lẽ còn có những thằng kẻ cướp khác nhau đang chúi ở một xó xỉnh nào, không xa đây lắm và chắc thằng Tênácđiê không muốn chia phần nào cho bọn chúng. Tênácđiê lại nói: - Thôi, cho xong đi nào! Lần túi của thằng cha này được bao nhiêu? Giăng VanGiăng lục túi áo mình. Ta còn nhớ, thường Giăng VanGiăng vẫn giắt tiền trong người. Trong cuộc đời phải luôn ứng phó xoay sở của mình. Giăng VanGiăng lấy đó làm một nguyên tắc. Thế mà lần này thì bị một vố bất ngờ quá. Tối hôm qua, lúc mặc bộ quần áo quốc dân quân, ông mải mê với những ý nghĩ bi đát, nên quên bẵng không mang cái ví. Chỉ còn một ít tiền trong túi sũng bùn bê bết và rải trên bờ cống một đồng lu-i vàng, hai đồng năm phơrăng và sáu đồng xu đôi. Tênácđiê bĩu môi, cổ vặn lại rất có ý nghĩa. Nó nói: - Có thế, mà cũng giết người ta! Rồi nó cứ tự tiện sờ nắn mọi túi của Giăng VanGiăng và Mariuytx. Giăng VanGiăng chỉ cốt làm sao quay lưng ra phía cửa, nên mặc nó làm gì thì làm. Lúc nắn quần áo của Mariuytx. Tênácđiê tìm cách xé một mảnh vạt áo của Mariuytx, khéo léo, lanh lẹn đúng như một tên kẻ cắp. Giăng VanGiăng không hề biết. Nó giấu mảnh áo dưới áo bờlu của nó, chắc nó nghĩ sau này có mảnh vạt áo ấy thì sẽ tìm ra người bị ám sát và kẻ ám sát. Ngoài số ba chục phơrăng đó, nó chẳng thấy gì thêm. - Đúng rồi, chúng mày thằng nọ cõng thằng kia cũng chẳng có gì hơn thế này. Rồi quên mất câu "chia đôi nhé", nó vơ lấy tất. Lúc cầm mấy đồng xu đôi nó hơi ngần ngại. Sau khi nghĩ kỹ nó vơ cả, miệng lẩm bẩm: - Thây xác! Công chọc tiết người ta như thế này thì rẻ quá. Vớ tiền xong, nó lại móc chìa khóa ở dưới áo bờlu ra: - Bây giờ thì mời ông tướng ra cho. Ở đây cũng như ở phiên chợ, ra phải trả tiền. Đằng ấy trả rồi thì ra đi. Thế rồi nó cười. Tênácđiê giúp Giăng VanGiăng đặt Mariuytx lên vai; rồi nó nhón chân tiến ra phía cửa, ra hiệu cho Giăng VanGiăng đi theo nó. Nó nhìn ra ngoài, nhón tay đặt lên miệng, nó có vẻ như do dự trong mấy giây. Xem xét xong, nó tra chìa khóa vào ổ khóa. Mở khóa tuột ra, cánh cửa quay. Không một tiếng rít, không một tiếng sắt nghiền! Rất êm ái nhẹ nhàng. Rõ ràng là cái cửa ấy bản lề được tra dầu mỡ cẩn thận, thường thay luôn, chứ không phải họa hoằn lắm đâu. Êm ái mà rùng rợn. Trong sự nhẹ nhàng êm ái đó, người ta nghe thấy tiếng đi lại vụng trộm, bước chân ra vào êm lặng của những kẻ ăn sương, gót chân rón rén của tội ác. Hẳn cống ngầm có mưu với bọn bí mật nào đây. Cái cửa câm lặng này là một kẻ oa trữ. Tênácđiê mở hé cảnh cửa, vừa đủ cho Giăng VanGiăng lọt qua rồi nó đóng cửa lại, quay chìa khóa hai lần. Rồi nó lại lẩn sâu vào bóng tối, chỉ nghe thấy một tiếng nhè nhẹ như gió thoảng. Bàn chân nó lướt nhẹ nhàng như bàn chân nhung của con hổ. Một lát sau, đấng cứu tinh ghê tởm ấy lại trở về cõi vô hình. Giăng VanGiăng đã ở bên ngoài. IX DƯỚI CON MẮT MỘT NGƯỜI THÀNH THẠO MARIUYTX CÓ VẺ NHƯ ĐÃ CHẾT RỒI Giăng VanGiăng nhẹ nhàng đặt Mariuytx xuống bãi cát. Hai người đã ở bên ngoài rồi. Nào xú khí, nào bóng đêm, nào ghê rợn, tất cả đều trút sạch lại đằng sau. Không khí tràn ngập, không khí tốt lành, trong sạch, đầy sinh khí, vui ve, tha hồ mà thở. Bốn bề im lặng, cái im lặng dễ thương của buổi trời chiều, mặt trời ngã trên nền trời xanh thẳm. Lúc ấy đã là hoàng hôn. Đêm đang đến, đêm là kẻ giải phóng vĩ đại, là người bạn chân tình của những ai cần khoác cái áo bóng tối để vượt ra khỏi hãi hùng. Cả bầu trời đâu đâu cũng một bình tĩnh mênh mông. Con sông vỗ dưới chân như một cái hôn nhẹ nhàng. Trên không, trong lùm cây du quảng trường Săng Êlidê, tiếng chim chiều từ các tổ thánh thót chúc tụng nhau. Mấy ngôi sao lác đác trên da trời xanh nhạt, chỉ con mắt mơ màng mới nìn thấy, giống như những chấm sáng li ti. Cảnh chiều tà rải trên đầu Giăng VanGiăng tất cả những êm dịu của không gian vô tận. Cái giờ phút mơ hồ, kỳ thú. Cái giờ phút không nơi có, không! Đã khá đủ bóng đêm để cách một quãng người ta mất dấu nhau; nhưng cũng còn khá đủ ánh sáng để đứng gần nhau còn nhận được nhau. Giăng VanGiăng không thể cưỡng lại cái bầu không khí trong lành uy nghiêm và mơn trớn ấy. Có những phút lãng quên như vậy; lúc đó, đau khổ buông tha cho kẻ khốn cùng; mọi lo buồn trong lòng đều tiêu biến. Cảnh yên bình, như tấm màn đêm, bao phủ người mơ mộng. Và trong buổi hoàng hôn ngời sáng tâm hồn người ta cũng lấp lánh những vì sao, tựa như bầu trời rạng rỡ bên ngoài. Giăng VanGiăng không thể không chiêm ngưỡng cảnh đêm quang đãng trên đầu ông. Trong cảnh yên tĩnh hùng vĩ của bầu trời bất diệt, ông mơ màng gửi hồn vào cõi hư không và ông cầu nguyện. Rồi như chợt nhớ đến nhiệm vụ, ông hối hả cúi xuống Mariuytx; ông vốc nước vào lòng bàn tay, khẽ vẩy mấy giọt lên mặt anh. Mắt Mariuytx nhắm nghiền nhưng miệng anh vẫn hé thở. Giăng VanGiăng toan nhúng tay xuống nước thì chợt thấy trong người gai gai khó chịu, giống lúc ta cảm thấy như có ai đứng đằng sau mà ta chưa trông thấy. Chúng tôi đã nói đến cảm giác ấy mà ai cũng đã từng có. Ông quay lại. Cũng giống như lúc nãy, quả nhiên có một người lù lù đứng đằng sau. Một người vóc dáng cao, mặc một cái áo dài, hai tay khoanh trước ngực, tay phải nắm một cây gậy ngắn, quả chùy thò ra ngoài. Hắn đứng cách mấy bước, ngay sau Giăng VanGiăng, ông này đang ngồi xổm một bên Mariuytx. Trong bóng tối, trông hắn như một ma hiện. Một người thực thà hẳn phát khiếp, vì lúc ấy nhá nhem tối; một người chín chắn hẳn phải sợ vì cái quả chùy. Giăng VanGiăng nhận ra Giave. Chắc bạn đọc đã đoán ra rằng người đuổi theo Tênácđiê chính là Giave. Sau khi không thấy chút hy vọng mà lại thoát được khu chiến đấu, Giave về sở cảnh sát yết kiến qua viên cảnh sát trưởng và báo cáo nhiệm vụ. Ta còn nhớ, trong tờ giấy bắt được trong người Giave, có ghi cần phải kiểm soát khu hữu ngạn, phía Săng Êlidê, khu này ít lâu nay sở Cảnh sát đã chú ý đến. Đến nơi, Giave trông thấy Tênácđiê và đuổi theo nó. Câu chuyện ra sao ta đã biết. Ta cũng biết rằng Tênácđiê ân cần mở cửa hầm cho Giăng VanGiăng là nó dùng thủ đoạn khôn khéo. Nó cảm thấy Giave vẫn đứng đấy; người ta khi có ai rình thì đánh hơi thấy ngay. Phải vứt một mẩu xương cho con chó săn. Một thằng giết người, còn gì bở bằng? Một kẻ thay thế mình, bỏ qua làm sao được? Tênácđiê thả Giăng VanGiăng ra thế mạng cho nó; nó đã quẳng một miếng mồi cho cảnh sát. Thế là viên cảnh sát không theo dấu nó để vớ một món to hơn. Như vậy là nó thưởng cho Giave đã tốn công chờ, tên mật thám hẳn thú vị lắm, còn nó, nó lại vớ được ba mươi phơrăng và thế nào cũng thoát thân, nhờ cái mưu đánh tráo ấy. Giăng VanGiăng gặp gỡ liên tiếp như thế này! Rơi từ tay Tênácđiê sang Giave! Cuộc đời sao mà bất nhẫn quá thế? Giave không nhận ra Giăng VanGiăng bởi vì ông đổi khác hẳn, như ta đã nói ở trên. Hắn vẫn khoanh tay, ngầm nắm chắc cây gậy chùy. Lời hắn nói vắn tắt và bình tĩnh: - Anh là ai? - Tôi đây. - Tôi là ai! - Giăng VanGiăng. Giave cắn quả chùy vào miệng, chân gấp xuống, mình cúi nghiêng, đặt hai bàn tay rắn chắc lên vai Giăng VanGiăng như hai cái kìm kẹp chặt. Hắn nhìn Giăng VanGiăng, nhận ra ông. Mặt hai người gần chạm nhau. Con mắt Giave thật khủng khiếp. Giăng VanGiăng im lìm không cử động dưới bàn tay nắm chặt của Giave như một con sư tử chịu nằm trong vuốt con linh miêu. Ông nói: - Ông thanh tra Giave, ông bắt được tôi. Ngay từ sáng nay tôi đã tự coi như ở trong tay ông rồi. Tôi đã nói rõ chỗ ở của tôi tất không phải là để trốn ông. Bây giờ ông bắt tôi đi. Nhưng tôi chỉ xin ông một điều. Giave hình như chẳng nghe thấy gì. Hắn nhìn Giăng VanGiăng chòng chọc. Cằm hắn nhăn lại, môi nhếch lên gần mũi như thế nghĩa là hắn đang mải mê với những ý nghĩ hung tợn. Sau cùng, hắn buông ra đứng hẳn dậy, tay nắm lại cây chùy và thì thầm hỏi như mật giấc mộng: - Anh làm gì đấy? Người này là ai? Hắn vẫn tiếp tục không mày tao với Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng trả lời, tiếng ông như đánh thức Giave tỉnh dậy: - Đúng là tôi muốn nói với ông chuyện của người này. Ông làm gì tôi thì tùy ông; nhưng xin ông giúp tôi mang anh ta về nhà anh ta đã. Tôi chỉ xin có thế. Mặt Giave nhăn nhúm lại; cứ mỗi lần người ta tưởng hắn có thể nhượng bộ là mặt hắn co rúm lại như vậy. Tuy nhiên hắn cũng không nói: Không. Hắn cúi xuống lần nữa, rút ở trong túi ra một cái mùi soa, nhún xuống nước rồi lau trán cho Mariuytx đẫm máu. Hắn nói khe khẽ, như nói với mình: - Người này lúc nãy ở ngoài chiến lũy. Người ta gọi hắn là Mariuytx. Giave là tên mật thám bậc nhất, lúc ở chiến lũy, tuy tưởng rằng mình sắp chết mà cái gì hắn cũng nhận xét nghe ngóng nghe thấy gì là lượm ấy, ngay cả trong cơn hấp hối hắn vẫn do thám; lúc ấy hắn đã tự tỳ tay lên mộ nhưng vẫn còn ghi chép. Hắn cầm tay Mariuytx, để tìm mạch. - Bị thương. Giăng VanGiăng nói. - Hắn chết rồi, Giave bảo. Giăng VanGiăng trả lời: - Không, chưa chết. - Thế anh cõng hắn từ chiến lũy về đây à? Giave nhận xét. Giave chắc là tâm trí đang bận rộn lắm, nên không hỏi gì đến việc kỳ dị mà đã làm là do con đường cống mà cứu thoát Mariuytx và cũng không để ý đến việc Giăng VanFiăng cứ im lặng không trả lời câu hỏi của hắn ta. Về phần Giăng VanCiăng, ông cũng chỉ có độc một ý nghĩ. Ông nói tiếp: - Anh này ở khu phố Mare phố Phiơ đuy Canve, nhà ông anh ta.. tôi không nhớ tên gì. Giăng Vangiăng lục túi Mariuytx, lấy quyển sổ ra, mở đến trang Mariuytx ghi bút chì rồi đưa cho Giave. Trên không vẫn còn chập chờn chút ánh sáng đủ để đọc. Vả lại, Giave vốn có con mắt của loài cú vọ ăn đêm, sáng như có chất lân tinh. Hắn đọc mấy dòng chữ Mariuytx rồi lẩm bẩm nói: - Gilơnormăng, phố Phiơ đuy Canve, nhà số 6. Hắn gọi to: - Xe! Ta còn nhớ cái xe ngựa vẫn chờ lúc cần. Giave giữ lấy quyển sổ của Mariuytx. Lát sau, cái xe theo con đường dốc ngựa đi uống nước, uống tận bờ sông. Mariuytx được đặt trên cái ghế ở phía sau, còn Giave ngồi cạnh Giăng Vangiăng trên ghế phía trước. Cửa xe đóng, xe chạy nhanh lên bên tàu, tiến về phía ngục Bátxti. Họ rời bờ sông đi vào phố. Bóng bác đánh xe đen ngòm trên ghế, quất vào hai con ngựa gầy gò. Trong xe, lặng ngắt. Mariuytx ngồi im lìm, lưng tựa vào một góc ở cuối xe, đầu gục xuống ngực hai tay buông thõng, chân cứng đờ; chàng có vẻ như chỉ còn đợi cái quan tài. Giăng VanGiăng như một bóng đen, còn Giave như băng đá. Mỗi khi xe chạy qua một ngọn đèn bên đường trong xe tối om lại lóe lên một thứ ánh sáng nhợt nhạt khiến người ta thấy sự tình cờ đã tập hợp và muốn đối chiếu một cách bi đát ba khối bất động thê thảm; một xác chết, một bóng ma, một pho tượng.
Chương X & XII Bấm để xem Mỗi lần xe gặp ổ gà, máu trên tóc Mariuytx lại nhỏ xuống một giọt. Lúc xe đến ngôi nhà số 6 phố Phiơ đuy Canve thì đã tối mịt. Giave nhảy xuống trước tiên; hắn liếc nhìn số nhà trên cổng lớn. Hắn nhắc một cái búa nặng bằng sắt lên, gõ một nhát thật mạnh. Cái búa này chạm theo kiểu xưa, một con dê đánh nhau với thần Xatia[1] . Cổng hé mở, Giave đẩy mạnh. Bác gác ló ra nửa người, miệng ngáp, bộ còn ngái ngủ, tay bác cầm một cây nến. Nhà đã ngủ cả. Ở khu Mare thường người ta đi ngủ sớm, nhất là những ngày bạo động. Cái khu phố cổ hiền lành này thấy cách mạng là hoảng sợ, nên lẩn trốn trong giấc ngủ, cũng như là trẻ con thấy nói ông ba bị đến là vội rúc đầu vào trong chăn. Lúc ấy Giăng VanGiăng và bác đánh xe khiêng Mariuytx ra khỏi xe, Giăng VanGiăng nâng nách còn bác kia đỡ hai chân. Vừa khiên Mariuytx như vậy, Giăng VanGiăng vừa luồn tay dưới làn áo rách bươm của chàng sờ lên ngực, thấy tim vẫn còn đập. Tim có phần lại đập yếu hơn, hình như xe lăn đi khiến anh hồi tỉnh lại được một phần. Giave gọi giật bác gác lại, thật đúng giọng một viên nhà chức nhà nước gọi người gác cổng nhà một tên phiến loạn: - Ai ở đây là Gilơnormăng không? - Có. Ông hỏi gì ạ? - Người ta mang con ông ta về đây này. - Con à? Bác ngây ngô hỏi. - Hắn chết rồi. Giăng VanGiăng rách tả tơi, bỉu thỉu, đi sau Giave; dáng người ông làm cho bác gác cổng kinh tởm. Ông lắc đầu ra hiệu là không phải chết. Bác gác hình như chẳng hiểu tí gì về câu nói của Giave và cũng không hiểu dấu hiệu của Giăng VanGiăng. Giave nói tiếp: - Hắn ta đã ra chiến lũy, và bây giờ hắn đây này. - Chiến lũy ư? Bác gác kêu. - Hắn đi tìm cái chết! Vào đánh thức bố hắn dậy đi. Bác gác không động đậy. Giave bảo: - Đi đi chứ Rồi nói thế: - Mai nhà này có đám ma. Đối với Giave, những việc xảy ra trên đường đất nhà nước bào giờ cũng phải phân loại rạch ròi; đó là bước đầu để phòng xa và kiểm soát; và mỗi việc xảy ra, như được xếp trong những ô kéo và tùy lúc mà chui ra, nhiều hay ít. Việc ngoài phố thì có huyên náo, biến động, hội hè, đám ma. Bác gác chỉ đánh thức lão Bátxcơ. Lão Bátxcơ đánh thức Nicôlét. Nicôlét đánh thức bà dì Gilơnormăng. Còn lão Gilơnormăng thi họ cứ để ngủ yên; mọi người đều nghĩ rằng lão biết sau cũng chẳng muộn gì. Người ta khiêng Mariuytx lên tầng gác thứ nhất trong khi mọi người ở trong nhà không hề hay biết, rồi đặt anh trên một chiếc trường kỷ ở chái bên ngoài buồng ông Gilơnormăng. Trong lúc lão Bátxcơ đi tìm thầy thuốc và Nicôlét mở tủ quần áo, Giăng VanGiăng thấy bàn tay Giave mó lên vai mình. Ông hiểu ngay, vội đi xuống nhà, Giave theo sau bén gót. Bác gác nhìn hai người đi ra, cũng như lúc nãy nhìn hai người vào nhà, vẻ mặt vừa ngái ngủ, vừa kinh hoàng. Hai người lại lên xe, bác đánh xe cũng trèo lên ghế. - Thưa ông thanh tra Giave - Giăng VanGiăng nói – Xin ông một điều nữa. Giave gay gắt hỏi: - Điều gì? - Xin ông cho tôi ghé qua nhà một chốc. Sau đó, ông làm gì tôi cũng xin nghe. Giave im lặng một lát, cằm thụt vào trong cổ áo dài. Rồi hắn hạ cái cửa kính phía trước xuống và bảo: - Bác xe, phố Lomácmê, nhà số 7. XI CÁI TUYỆT ĐỐI BỊ LUNG LAY Suốt dọc đường, hai người tuyệt đối không hé răng nói một lời nào nữa. Giăng VanGiăng muốn gì? Làm nốt công việc ông đã bắt đầu; báo tin cho Côdét, nói cho Côdét biết Mariuytx ở đâu; có lẽ bày cho cô điều gì khác có lợi và nếu có thể thì thu xếp mấy điều tối hậu. Còn về phần ông, vầ phần đối với riêng ông, thì xong rồi. Giave đã bắt được ông, ông không kháng cự lại. Một người khác, ở trong trường hợp này, chắc là có thể lờ mờ nghĩ đến cái dây thừng Tênácđiê đã cho mình và những chấn song nhà ngục mình sẽ bước chân vào. Nhưng từ ngày gặp giám ngục, mỗi lần đứng trước một vụ mưu hại nào, dù là đối với bản thân mình, bao giờ Giăng VanGiăng cũng phân vân trong lòng, mối phân vân của kẻ ngoại đạo. Tự vẫn, một sự xúc phạm bí mật vào huyền bí có thể giết chết linh hồn, Giăng VanGiăng không thể làm việc ấy. Xe vừa rẽ vào phố Lomácmê thì dừng lại; phố này hẹp quá, xe không vào được. Giave và Giăng VanGiăng nhảy xuống đất. Bác lái xe khúm núm trình với "quan thanh tra" là tấm nhung Uytơrếch trong xe bê bếch những máu của người bị giết và lấm bùn của thằng giết người. Ấy, bác hiểu như thế. Bác nói thêm là phải bồi thường cho bác. Vừa nói, bác rút ra ở túi một quyển sổ son, xin ông thanh tra làm ơn biên cho bác "mẫy chữ nhận thực làm bằng". Giave lấy tay gạt quyển sổ của bác đánh xe đưa bảo: - Hết bao nhiêu kể cả lúc đợi và chuyên chở? - Thưa, đi bảy giờ mười lăm phút, còn tấm nhung thì mới nguyên ạ. Thưa ông thanh tra tám mươi phơrăng. Giave móc túi lấy bốn đồng Napôlêông đưa cho bác đánh xe rồi cho bác đi. Giăng VanGiăng nghĩ bụng chắc Giave định dẫn bộ ông về đồn Bơlăng Măngtô hay đồn Ácsivơ ngay gần đấy. Hai người đi vào trong phố. Cũng như thường ngày phố hôm nay vắng vẻ, Giave bước theo Giăng VanGiăng. Đến căn nhà số 7, Giăng Vangiăng gõ cửa. Cửa mở. Giave nói: - Được, anh lên đi. Rồi hắn nói thêm, giọng lạc hẳn đi, nghe rất lạnh lùng, mà hình như phải gắng sức lắm mới nói được. - Tôi chờ anh ở đây. Giăng VanGiăng nhìn Giave. Cái lối làm như thế, thật ít khi Giave làm. Nhưng, ông nghĩ ví dụ bây giờ Giave đối với ông một thứ ngạo mạn đi nữa, thứ tin cậy của con mèo thả con chuột tự do trong tầm móng vuốt của mình, thì ông cũng chẳng để ý làm gì, vì ông đã quyết tâm sẽ nộp mình cho Giave và không còn chờ mong gì nữa. Ông đẩy cửa bước vào trong nhà. Ông bảo bác gác đã buông màn đi ngủ: "Tôi đây mà", rồi ông lên gác. Đến tầng thư nhất, ông dừng lại nghĩ. Con đường đau khổ nào mà không có những chỗ nghỉ chân. Cái cửa sổ ở chỗ ngoặt trên cầu thang, một kiểu cửa sập lúc ấy mở. Trong những căn nhà lối cổ, cầu thang thường sát ngay đường cho sáng và để nhìn xuống phố. Cái đèn ngoài phố ở ngay trước mặt, soi một chút ánh sáng trên bậc thang, như thế đỡ tốn được món tiền dầu.. Giăng VanGiăng nhô đầu ra ngoài, không biết là để thở hay bất giác làm như thế. Ông cúi xuống phố. Phố thì ngắn, cái đèn rủ soi sáng từ đầu phố đến cuối phố. Giăng VanGiăng bỗng rất đỗi kinh dị, sửng sốt; không một bóng người. Giave đã đi mất. [1] Là tên những thần hạ đẳng mình người, chân dê trong thần thoại Hy, La cổ.
QUYỂN IV Bấm để xem Giave chậm rãi bước một khỏi phố Lomácmê. Lần đầu tiên trong đời hắn, hắn cúi gầm xuống đi và cũng lần đầu tiên trong đời, hắn chắp tay sau lưng mà đi. Trong hai dáng điệu của Napôlêông, cho đến ngày hôm nay, Giave chỉ biết có một, dáng điệu cương quyết, tức là hai tay khoanh trước ngực; còn dáng điệu lưỡng lự, hai tay chắp sau lưng, Giave chưa hề biết đến bao giờ. Bây giờ đã có sự biến đổi; tất cả người hắn, chậm chạp, ủ ê, biểu lộ một mối ưu tư. Hắn đi sâu vào những phố vắng lặng. Thế nhưng hắn đi về một hướng nhất định. Hắn tiến thẳng về phía sông Xen, qua những đường ngắn nhất, rẽ qua phố Ormơ, dọc theo bờ sông mà đi, qua Lagơrevơ rồi dừng lại, cách cái đồn ở công viên Satơlê một quãng ở góc cầu Đức Bà. Đến quãng này, - tức là nơi ở giữa bờ Mêgixơri và bến Hoa, thì con sông Xen giống như một cái hồ vuông cạnh, ở giữa là một dòng thác chảy xiếc. Quãng sông này, các thủy thủ đi sông phải sợ. Ngày ấy, dòng thác trong lòng sông còn bị thắt lại và các cột chân cối xoay ở cầu, nay đã phá hủy, làm cho chảy cuộn lên rất nguy hiểm. Hai cầu xây gần nhau quá, con sông càng thêm hiểm trở; nước đổ dữ dội dưới vòm cầu; sông nổi từng đợt khủng khiếp; nước sông dồn lại, tụ lại. Những luồng sông giống như từng từng cuộn dây thừng bằng nước to tướng gắn hết sức kéo bật chân cầu đi. Ai sẩy chân rơi xuống quãng sông này không bao giờ ngoi lên được, những người bơi lội tài giỏi nhất cũng chịu chết đuối. Giave tì hai khủy tay lên thành cầu, cằm chặt vào giữa hai bàn tay, móng tay tự nhiên bấu vào hai bên ria má rậm rì. Hắn nghĩ ngợi. Một sự mới lạ, một cuộc cách mạng, một tai biến vừa xảy ra trong đáy lòng hắn; vì thế nên hắn mới tự vấn lương tâm. Giave thấy lòng đau quặn. Từ mấy tiếng đồng hồ nay, hắn không phải là con người đơn giản nữa. Hắn rất bối rối; bộ óc hắn vốn trong suốt trong đui mù, nay không còn trong suốt nữa. Khối pha lê ấy vẫn đục một đám mây mờ. Trong lương tâm, hắn thấy có hai con người, hắn không thể tự dối mình được. Lúc bất ngờ gặp Giăng VanGiăng dưới bãi sông Xen, hắn có cái cảm giác như một con sói tóm lại được con mồi, và như một con chó được gặp lại chủ cũ. Hắn thấy trước mặt hắn có hai con đường, thẳng tắp cả hai, nhưng vẫn là hai con đường. Xưa nay, suốt đời hắn, hắn chỉ thấy có một con đường, nên lúc ấy hắn khiếp sợ. Điều dằn vặt nhất là hai con đường ấy lại đi trái ngược nhau. Con đường nọ không dung con đường kia. Con đường nào là con đường đúng? Giave ở trong một tình trạng rất khó tả. Được một tên gian phi cứu sống, nhận cái ơn ấy rồi lại trả ơn, tuy không muốn mà phải đặt mình ngang bằng với một tên tù tái phạm; lấy nghĩa trả nghĩa; để cho tên tù phạm ấy bảo mình "Thôi đi đi", rồi đến lượt mình lại bảo hắn: "Đi đâu thì đi". Vì những lý do cá nhân mà bỏ cả nhiệm vụ, cái bổn phận chung đó và lại thấy những lý do cá nhân ấy có cái gì cũng là chung, mà có lẽ lại trọng hơn. Phản lại xã hội để nghe theo tiếng nói lương tâm. Đấy, tất cả những điều phi lý ấy cứ xẩy ra, cứ chồng chất trên đầu hắn, hắn thấy vô cùng kinh hoảng. Điều làm cho hắn ngạc nhiên là Giăng Vangiăng đã tha cho hắn và điều làm cho hắn kinh dị là hắn đã tha cho Giăng VanGiăng. Hắn bây giờ thế nào? Hắn tự hiểu mình mà không biết mình ra sao. Phải làm gì bây giờ? Bắt lấy Giăng VanGiăng là không đúng, mà để mặc kệ Giăng VanGiăng cũng không xong. Trong trường hợ thứ nhất thì người nhà nước lại hèn mạt hơn một tên tù; trong trường hợp thứ hai, thì một tên tù khổ sai lại vượt lên trên pháp luật, giày xéo lên pháp luật. Trong cả hai trường hợp, Giave đều mất danh dự cả. Dù có đi theo con đường nào cũng là sa ngã. Số phận con người có những bờ vực trên đỉnh của sự nan giải, nếu vượt qua một cái thì cuộc đời chỉ còn là vực sâu. Giave đang đứng ở một nơi tận cùng như vậy. Một điều khiến hắn bàng hoàng, là hắn cứ phải loay hoay nghĩ ngợi. Hắn thấy trong người nôn nao, không nghĩ không được. Từ xưa, hắn chưa hề nghĩ ngợi bao giờ, bây giờ hắn thấy nghĩ ngợi thật là đau khổ lạ lùng. Mà đã nghĩ, tất có những tư tưởng phản kháng ngấm ngầm; hắn thấy bực bọc trong người. Trong bất kỳ nhiệm vụ nhỏ hẹp thường ngày của hắn, hắn đều thấy nghĩ ngợi không ích gì, mà lại thêm mệt. Đến hôm nay, nghĩ ngợi về những việc đã xảy ra trong ngày lại là một nhục hình. Tuy vậy, sau những xúc động như thế, hắn thấy phải nhìn thẳng vào lương tâm mình, phải chính mình báo cáo cho mình biết con người mình. Nghĩ đến việc hắn vừa làm, hắn rùng mình. Hắn, Giave hắn đã tự ý thả một tên tội phạm, trái hẳn với tất cả luật lệ cảnh sát, trái hẳn với toàn bộ luật điển. Hắn đã thừa nhận việc ấy. Hắn đã lấy việc riêng làm việc công. Thế chẳng quá lắm hay sao? Mỗi lần nghĩ đến cái việc hắn đã phạm, không biết gọi là tội gì, hắn lại run bắn người lên. Biết làm thế nào? Chỉ còn độc một cách là mau mau trở lại phố Lomácmê bắt Giăng VanGiăng. Rõ ràng là phải làm như thế mới đúng. Nhưng không thể làm được. Có cái gì chặn ngang con đường ấy lại? Cái gì? Biết cái gì! Thế ra, ở đời này, ngoài tòa án, ngoài những bản tuyên án, ngoài sở cảnh sát, ngoài nhà nước ra, lại còn có cái gì khác nữa à? Giave vô cùng hoang mang. Một tên tù khổ sai mà bất khả xâm phạm! Một tên trọng phạm thoát vòng pháp luật! Chính Giave là thủ phạm việc ấy! Giave và Giăng VanGiăng, một người sinh ra để trừng trị tội, một người sinh ra để bị trừng trị, cả hai người cùng là đối tượng của pháp luật, thế mà tình cảnh lại xui nên hai người ấy cùng vượt lên trên pháp luật, hỏi như thế có rùng rợn không? Thế nào! Để cho xảy ra những việc quái đản như thế mà không ai bị trừng trị cả à? Giăng VanGiăng đứng trên toàn bộ trật tự xã hội, sẽ được tự do, mà Giave vẫn sẽ cứ điềm nhiên ăn cơm gạo nhà nước à? Càng nghĩ hắn càng thấy kinh khủng. Trong ý nghĩ, cũng có khi hắn tự trách về cái tên phiến loạn đã được mang về phố Phiđơ đuy Canve kia; nhưng hắn cũng bỏ qua việc ấy. Tội nhỏ thường dễ lẫn trong tội lớn. Vả lại tên phiến loạn ấy thế nào cũng chết rồi; pháp luật không truy tố người đã chết. Giăng VanGiăng mới chính là cái cục đá nặng trĩu trong đầu óc hắn. Giăng VanGiăng làm hắn hoang mang. Tất cả những nguyên lý trước đây là chỗ dựa cho cả cuộc đời hắn, nay bỗng nhiên sụp đổ trước con người ấy. Lòng đại lượng của Giăng VanGiăng đối với Giave làm cho hắn khổ. Hắn còn nhớ những việc khác mà trước đây hắn cho là nói láo, là xằng bậy, bây giờ hắn nhớ lại và thấy như là những chuyện có thật. Hình ảnh ông Mađơlen lại hiện lên đằng sau Giăng VanGiăng; hai khuôn mặt đáng tôn kính. Giave cảm thấy có cái gì ghê tởm thấm sâu vào tâm hồn hắn; đó là lòng khâm phục một tên tù khổ sai. Kính phục một tên trọng phạm, có thể như thế được không? Hắn rùng mình nhưng không thoát khỏi. Hắn có giãy ra nhưng vô hiệu. Trong thâm tâm hắn, hắn thú thực là tên cùng khốn ấy cao cả thật. Rõ ghê tởm chưa! Một kẻ ác có lòng thiện, một tên tù khổ sai biết thương người, hiền từ, phúc đức, đại lượng, lấy ơn trả oán, lấy lòng tha thư đáp trả lại lòng căm thù, ưa thương người chứ không báo oán, thà hy sinh thân mình chứ không màng hại kẻ địch, cứu kẻ đã hại mình; kẻ ấy quỳ gối trên đạo đức cao cả, kẻ ấy gần thiên thần hơn là gần loài người, Giave phải tự thú là con quái vật ấy có thật. Không thể kéo dài như thế mãi được. Chúng tôi nhấn mạnh chỗ này, Giave không phải đã đầu hàng không kháng cự con quái vật ấy, vị thiên thần chết giẫm ấy, đấng anh hùng dị hợm ấy mà hắn vừa căm vừa khinh dị. Hắn vừa uất ức còn kinh hoàng. Khi ngồi đối diện với Giăng VanGiăng trên xe ngựa, hàng chục lần, con hùm của pháp luật đã gầm lên trong người hắn. Đã hàng chục lần, nó định nhảy xô vào Giăng VanGiăng mà vồ lấy, mà ngấu nghiến, tức là tóm cổ Giăng Vangiăng. Nào có gì giản dị hơn! Đến một đồn cảnh sát, cứ việc kêu lên: "Một tên tiền án vi phạm luật quản thúc đây!". Cứ việc gọi lính sen đầm mà bảo: Đây, trao tên này cho các anh, thế rồi bỏ đi, mặc kẻ tội phạm ở đấy, ra sao thì ra, không dính dáng gì đến nữa. Kẻ ấy là tù nhân của pháp luật; pháp luật muốn làm gì thì làm. Còn gì công minh hơn? Giave đã nói với mình tất cả những điều ấy. Hắn đã muốn bỏ qua tất cả, muốn ra tay hành động, bắt lấy người kia, thế nhưng lúc ấy cũng như bây giờ, hắn không thể làm được. Mỗi lần bàn tay hắn run run giơ lên định tóm lấy cổ Giăng VanGiăng, thì lại như một vật nặng phi thường, rơi xuống, hắn nghe thấy một tiếng nói trong đáy lòng, một tiếng nói lạ lùng, tiếng ấy kêu lên: - Khá đấy! Cứ bắt lấy người đã cứu sống mày đi. Thế rồi mang cái chậu của Pôngxơ Pilát đến mà cọ rửa móng vuốt. Rồi hắn lại nghĩ đến hắn. Bên cạnh Giăng VanGiăng lớn lao hơn, hắn thấy hắn, Giave, bé nhỏ đi. Một tên tù khổ sai lại là ân nhân của hắn! Nhưng tại sao hắn lại để lại cho người kia tha chết cho hắn? Ở chiến lũy, hắn có quyền được người ta giết chết. Đúng lẽ hắn phải dùng đến cái quyền ấy. Đáng lẽ phải kêu cứu những người bạo động khác để chống lại Giăng VanGiăng, bắt người ta bắn chết mình, làm như thế mới phải. Hắn dằn vặt nhất là lúc không còn biết thế nào là phải. Hắn như bị mất rễ. Luật lệ chỉ còn là một đoạn gươm ngắn hắn nắm trong tay. Hắn thấy lòng hắn băn khoăn, những nỗi băn khoăn từ xưa hắn chưa từng biết tới. Trong người hắn, bừng lên một thứ tình hoàn toàn khác hẳn cái khẳng định tính của pháp luật, - cái mực thước duy nhất của hắn từ xưa tới nay. Cứ đứng nguyên trong cái vòng liêm khiết cũ kỹ, hắn thấy chưa đủ. Cả một loạt những việc bất ngờ trỗi dậy, khuất phục hắn; nhận ơn và trả nghĩa, lòng hy sinh, lòng nhân ái, lòng khoan dung, lòng trắc ẩn chống lại tính khắc nghiệt, việc công nhận con người, không còn án quyết vĩnh viễn, không còn đầy đọa mãn kiếp, có thể có một giọt lệ trong con mắt luật pháp, một thứ công lý của Thượng đế đi ngược lại thứ công lý của loài người. Trong khoảng tối mịt mù, hắn thấy mọc lên một mặt trời đạo đức lạ lùng đáng sợ. Hắn kinh tởm và quảng cả mắt. Hắn như con cú bị bắt buộc phải nhìn với con mắt của chim ưng. Hắn tự bảo mình đúng như vậy, ở đời này có những trường hợp ngoại lệ, nhà chức trách có thể dung túng trước một sự việc luật pháp có khi bó tay; không phải cái gì cũng định sẵn trong luật lệ; điều bất ngờ có thể cần được tuân theo, đạo đức của một tên tù khổ sai có thể là cạm bẫy như vậy. Rồi hắn tuyệt vọng thấy rằng ngay hắn ta cũng không thoát khỏi một sự bất ngờ như vậy. Hắn buộc phải nhận là ở trên đời quả là có lòng nhân đức. Tên tù khổ sai kia có lòng nhân đức. Và, lạ lùng quá, chính hắn, hắn cũng vừa có lòng nhân đức. Như thế là hắn đã sa ngã. Hắn thấy hắn hèn nhát; hắn thấy chính hắn làm cho hắn ghê tởm. Lý tưởng đối với Giave đâu phải là nhân đạo, là vĩ đại, là cao cả. Giave chỉ muốn là người không phạm lỗi gì. Thế là hắn vừa lầm lỗi. Sao hắn có thể đến như thế này? Việc này đã diễn ra như thế nào? Hắn không biết trả lời ra sao. Hai tay hắn ôm đầu, nhưng vô hiệu hóa, hắn không thể giải nghĩa tại sao sự tình lại đến nông nỗi này. Thật ra hắn vẫn luôn luôn có ý định giao Giăng VanGiăng cho luật pháp. Giăng VanGiăng là kẻ tù nhân của luật pháp. Còn hắn, Giave, hắn là nô lệ của pháp luật. Lúc còn nắm Giăng VanGiăng trong tay, chưa bao giờ hắn thấy rằng hắn có ý định thả Giăng VanGiăng. Hình như vô tình mà bàn tay hắn đã mở ra và buông thả tên tù. Đủ mọi điều mới lạ bí hiểm hé mở trước mắt hắn. Hắn tự đặt những câu hỏi rồi tự trả lời: Những câu trả lời càng làm hắn thêm ghê sợ. Hắn tự hỏi: Cái tên tù khổ sai ấy, ta săn đuổi nó, khủng bố nó, tên tù ấy đã giẫm chân lên lưng ta, nó có thể báo thù, báo thù cho hả giận và để cho yên thân, thế nó lại tha cho ta sống, nó đã làm gì vậy? Nhiệm vụ chăng? Không. Có cái gì hơn thế nữa. Thế còn ta, đến lượt ta tha cho nó, ta đã làm gì? Nhiệm vụ chăng? Không. Hơn thế. Thế ra còn cái gì hơn cả nhiệm vụ? Đến đây, hắn hoảng sợ. Cái cân của hắn đã rời, một đĩa cân rơi xuống vực thẳm, một cái bay thẳng lêm trời. Giave thất kinh nhìn cả hai cái, cái trên cao và cái dưới thấp. Hắn chẳng như những đồ đệ của Vônte, hoặc là những triết nhân hay là những người chẳng tin gì hết; trái lại, tự bản năng hắn, hắn rất kính cẩn đối với cái nhà thờ chính thống; cái nhà thờ ấy, hắn coi như là một bộ phận uy nghiêm của toàn thể xã hội, trật tự là giáo lý của hắn; và chỉ có thế. Từ khi trưởng thành và ra làm một viên chức, hắn coi sở cảnh sát như cả một tôn giáo. Hắn làm mật thám cũng như người ta làm cố đạo vậy; ở đây chúng tôi dùng danh từ không chút mỉa mai, dùng với cái nghĩa rất đúng đắn của nó. Hắn có một cấp trên là ông Gixkê; cho đến nay hắn chưa hề nghĩ đến một đấng bề trên khác, là Chúa. Đấng thủ lĩnh mới này, tức là Chúa, nay bỗng nhiên hắn cảm thấy và lòng hắn sinh ra bối rối. Thấy Thượng đế, hắn như lạc mất phương hướng. Hắn không biết phải làm gì đối với cấp trên này, trong khi hắn biết thừa cấp dưới phải luôn luôn phục tùng, không nên cãi lệnh, không nên chỉ trích, không nên thảo luận; đối với một cấp trên làm cho ta quá đỗi kinh ngạc thì chỉ có cách xin từ chức. Thế nhưng làm sao mà xin Chúa cho từ chức? Dù sao thì cái sự kiện nổi lên hàng đầu và khiến hắn luôn luôn nghĩ tới là hắn vừa vi phạm kỷ luật một cách kinh khủng.. Hắn vừa nhắm mắt bỏ qua một tên tù tái phạm vượt ngục. Hắn vừa thả một tên trọng phạm. Hắn vừa đánh cắp của pháp luật một người ở trong tay pháp luật. Hắn đã làm như thế. Hắn không hiểu mình nữa. Không biết hắn có còn là hắn không. Ngay cả những lý do hành động của hắn, hắn cũng không nhớ, hắn chỉ mường tượng thấy rất hỗn loạn. Từ trước đến nay, hắn chỉ sống với một lòng tin mù quáng. Bây giờ, lòng tin đã mất, lòng chính trực cũng không còn nữa. Tất cả những cái gì hắn đã tin, nay tiêu tan đi. Những sự thật hắn không ưa cứ ám ảnh hắn hoài, rất khốc liệt. Từ nay, phải biến thành một người khác. Lương tâm hắn như con mắt bỗng nhiên phải cắt màng, hắn đau đớn quá chừng. Hắn phải trông những cái hắn kinh tởm. Hắn thấy mình kiệt lực, vô dụng, tách rời hẳn cuộc đời cũ, bị bãi chức, bị hủy bỏ đi. Trong hắn, con người nhà nước đã chết. Hắn không còn lý do tồn tại nữa. Xúc động là một tâm trạng khủng khiếp! Rắn như sắt đá, mà lại hoài nghi! Hắn là hiện thân của hình pháp, như đúc nguyên khối trong khuôn luật pháp, thế mà nay bỗng lại thấy ở trong ngực đồng đúc của mình một cái gì phi lý, nghịch mệnh, na ná như một trái tim! Hắn lại lấy đức báo đức, cái đức ấy, bấy nay hắn vẫn coi là một cái tội! Là một con chó giữ nhà mà lại đi liếm tay! Là một khối nước đá lạnh buốt mà lại tan! Là cái kìm bỗng hóa ra bàn tay! Mà những móng tay tự nhiên lại buông ra! Buông tay, rõ khủng khiếp chưa! Con người như viên đạn phóng ra mà nay không biết con đường mình đi, và lùi lại! Phải thú nhận điều này: Cái không thể sai lầm vẫn có thể sai lầm; trong giáo lý vẫn có lầm lỗi; cái gì đã nói trong bộ luật cũng chưa phải là đã xong; xã hội không phải là hoàn hảo, quyền thế cũng có chỗ lung lay, cái bất biến có thể nứt rạn, tòa án có thể sai chệch! Trên nền trời xanh như tấm kính, trông thấy có vết rạn. Điều xảy ra trong người Giave là sự ngã nghiêng của một lương tâm vốn thẳng tắp, sự chệch đường của một tâm hồn, sự bẹp dí của một bản chất trung thực lao theo con đường thẳng nhưng lại va phải Chúa. Quả là lạ! Một người đốt lò trật tự, một người thợ máy của quyền lực nhà nước cưỡi con ngựa sắt mù, chạy trên đường thẳng, mà đột nhiên một tia sáng làm cho ngã ngựa! Cái bất dịch, cái thẳng thắn, cái đúng đắn, cái hình học, cái hoàn hảo lại càng nao núng đi! Đầu máy xe lửa mà lại chạy trên con đường ánh sáng! Chúa luôn luôn ở bên chúng ta; Chúa là lương tâm chân chính chống lại lương tâm giả dối, là lệnh cấm tắt đối với đốm lửa, là lời phán truyền cho tia sáng phải nhớ vầng dương, là chỉ thị linh hồn phải nhận ra tuyệt đối chân chính khi nó đối diện với tuyệt đối hư ảo; Chúa là một nhân loại bất diệt, là nhân tâm vĩnh cửu, cái hiện tượng huy hoàng, cái điều kỳ diệu đẹp nhất bên trong chúng ta đó, Giave có hiểu không? Hắn có nhận thức thấu đáo không? Hắn có thấy rõ không? Tất nhiên không. Tuy nhiên dưới áp lực của cái hiển nhiên không thể hiểu, hắn cảm thấy trí não hắn mở ra. Hắn là nạn nhân của điều kỳ diệu ấy hơn là người được biến cải. Hắn chịu đựng một cách căm phẫn. Hắn chỉ thấy khó sống trong cảnh này. Hắn cảm thấy từ nay trở đi sẽ khó thở. Giave chưa hề biết trên đầu mình có cái huyền bí. Xưa nay, bên trên hắn, hắn chỉ thấy một mặt phẳng, giản đơn, trong suốt; ở đấy, chẳng có gì là bí mật, tối tăm; cái gì cũng rõ ràng, ăn khớp, dính chặt với nhau, chính xác, đúng đắn, tiếp giáp nhau, có ranh giới, có hạn định. Cái gì cũng thấy trước được; nhà nước là một mặt bằng phẳng; ở đây không có cái gì sụt xuống; cũng không có cái gì nhô lên cao ngất. Chỉ ở bên dưới hắn, mới có cái khó hiểu. Cái bất thường, cái bất ngờ, cái lỗ hổng mở vào cánh cửa ngổn ngang, cảnh phức tạp, nơi có thể trượt chân ngã xuống vực thẳm, đó là chuyện của những khu vực bên dưới, khu vực của những kẻ phiến loạn, những kẻ gian tà, những kẻ khốn khổ. Bây giờ Giave ngửa ra đằng sau, thì mới hoảng hồn nhận thấy một vực thẳm một vực thẳm bất chợt xuất hiện trên đầu. Chao ôi! Hắn bây giờ như cả một thành trì san bằng từ móng tới đỉnh. Hắn vô cùng bối rối! Biết trông cậy vào đâu? Điều hắn tin tưởng nay đã sụp đổ. Thế nào! Hóa ra một tên khốn khổ cao thượng đã tìm thấy chỗ yếu trong cái vỏ xã hội. Thế nào! Hóa ra một người đầy tớ trung thành của luật pháp bỗng nhiên bị kẹp giữa hai trọng tội: Tội thả một người và bắt giữ người ấy lại. Thế ra mệnh lệnh của nhà nước giao cho người viên chức cũng không phải là đúng cả! Trong nhiệm vụ, vẫn còn có những lối nghẽn tắc! Thế nào! Tất cả những cái ấy là sự thật cả ư! Có phải rằng một thằng kẻ cướp đã còng lưng dưới bao tội tình, nay lại có thể đứng ngay dậy và thắng lý không? Có thể tin được như thế không? Vậy ra có những trường hợp luật pháp cũng phải lùi bước trước tội ác được cải tạo và ấp úng mấy câu xin lỗi! Đúng, quả đúng như thế. Chính mắt Giave đã trông thấy! Chính tay Gaive đã sờ thấy! Không những hắn không thể chối cải, hắn còn là người đã tham dự vào việc ấy. Đấy là những sự thật hiển nhiên. Có điều ghê sợ là tại sao những việc hiển nhiên lại có thể dị kỳ quái gở đến thế! Nếu sự kiện làm chứng nhiệm vụ của mình thì sự kiện chỉ là những bằng chứng của luật pháp; sự kiện do Chúa gửi xuống. Phải chăng ngày nay rối loạn lại tự trên trời xuống? Sự hoảng loạn thường phóng đại sự việc, sự kinh hoàng thường làm cho ta bị ảo thị, cho nên cái gì có khả năng giảm nhẹ và chỉnh đốn cảm giác của Giave đều lu mờ, và xã hội, và nhân quần, và vũ trụ, từ nay dồn tóm thành một nét giản đơn và dị hợm. Thế là hình phạt, hình án, quyền lực của luật pháp, án quyết của tòa án chung thẩm, quan tòa, chính phủ, việc giam cứu, việc trấn áp, sự sáng suốt của chính quyền, sự đúng đắn của luật pháp, nguyên tắc quyền lực, tất cả những giáo lý làm cho nền an ninh công cộng, quyền uy, công lý, lôgic của hình bộ luật, cái tuyệt đối xã hội, chân lý công khai, tất cả những cái ấy đã đổ nát ngổn ngang, vung vãi, lộn xộn hay sao? Bản thân hắn, Giave người canh gác trật tự, hiện thân của liêm chính phục vụ sự nghiệp an ninh, thần gác cửa của xã hội, hắn đã bị thua, đã đo đất. Trên cảnh hoang tàn đổ nát ấy, có một người đứng đắn, mũ xanh trên đầu, hào quang quanh trán. Đấy, hắn đã lâm vào cảnh đảo lộn đó. Đấy cái hình ghê gớm đã hiện lên trong tâm hồn hắn. Cái điều đó có thể chịu được không? Không. Một tình trạng quyết liệt. Chỉ có hai lối thoát. Một là về ngay nhà Giăng VanGiăng, mang tù nhân trả lại cho nhà tù. Hai là.. Giave rời bỏ thành cầu, đầu ngẩng cao, quả quyết bước về phía đồn cảnh sát, nhờ có một cái đèn ở góc công viên Satơlê nên nhận thấy. Đến nơi, nhìn qua cửa kính thấy một viên cẩm. Hắn bước vào đồn. Cứ xem cách mở cửa đồn, bọn cảnh binh cũng đủ biết là người cùng bọn. Giave xưng tên, đưa thẻ cho viên cẩm, rồi ngồi ở một cái bàn có thắp cây nến. Trên bàn có một cái bút, một lọ mực làm bằng chì, và giấy má để làm biên bản khi bất thần và ghi những nhận xét trong các cuộc tranh tuần tra ban đêm. Đồn cảnh sát nào cũng có cái bàn này, kèm theo một cái ghế rơm. Đó là một thể lệ. Giave cầm lấy cây bút và một tờ giấy rồi đặt bút viết. Hắn viết như sau: Mấy nhận xét để công việc nhà nước tiến hành được tốt. "Thứ nhất: Xin ông thị trưởng cảnh sát chú ý. " Thứ hai: Những người bị giam cứu từ phòng dự thẩm về thường phải cởi giầy ra, đi chân không để người ta khám xét. Nhiều người vì thế bị ho khi vào nhà pha. Như thế hao phí cho quỹ bệnh xá. "Thứ ba: Việc theo dõi kẻ phạm pháp bằng cảnh sát đặt từng chặng thì tốt, nhưng trong những trường hợp quan trọng, cần phải có hai cảnh sát ở gần nhau, trông thấy được nhau, để khi một người khiếm khuyết vì một cớ gì đó, thì người kia có thể kiểm tra và thay thế. " Thứ tư: Không hiểu tại sao nội quy riêng của ngục Mađơlonnét lại cấm tù nhân không được có ghế, dù họ có chịu trả tiền cũng không. "Thứ năm: Ở ngục Mađơlonnét, căn tin chỉ có hai chấn song, nên chị bán hàng có thể để tù nhân sờ tay mình được. " Thứ sáu: Những tù nhân có trách nhiệm gọi những tù nhân khác ra phòng tiếp, bắt người ta phải trả hai xu mới gọi rõ tên, như thế là một sự đánh cắp. "Thứ bảy: Trong xưởng dệt, cứ mỗi sợi chỉ bung, tù nhân phải chịu khấu mười xu; như thế là người thầu khoán đã lạm dụng, bởi vì vải không vì thế mà kém phẩm chất. " Thứ tám: Để những người khách thăm qua ở ngục La Forxơ phải qua sân trẻ con mới đến được phòng tiếp của ngục Xanh Mari Lêgipxiêng là điều bất lợi. "Thứ chín: Ngày nào người ta cũng nghe thấy ở sân thị sở những viên sen đầm đáng lẽ phải nghiêm túc, mà kể lại những chuyện đã nghe được ở phòng dự thẩm thì là một sự mất nề nếp nghiêm trọng. " Thứ mười: Bà Hăngri là một người ngay thẳng; Căngtin của bà ấy khá sạch sẽ; nhưng để một người đàn bà giữ cửa của cái bẫy chuột bí mật thì không tốt. Điều ấy không đáng tồn tại ở nhà Khám lớn của một nước văn minh ". Giave viết những dòng chữ trên rất bình tĩnh và rất đúng thể cách, không bỏ sót một dấu phẩy; hắn kéo ngòi bút chạy sàn sạt trên mặt giấy. Bên dưới dòng cuối cùng, hắn ký: " Giave, "Thanh tra hạng nhất " Làm tại đồn quảng trường Satơlê, Ngày 7 tháng sáu năm 1832, khoảng một giờ sáng " Giave thấm mực ướt trên giấy, gấp như một phong thư, dán lại rồi đề ở ngoài:" Công văn gửi cơ quan quản lý". Hắn để bức điện trên bàn rồi đi ra ngoài. Cái cửa kính có song sắt khép lại sau lưng hắn. Hắn lại đi chéo qua quảng trường Satơlê, ra bến, rồi chính xác như cái máy, hắn trở lại đúng nơi cách đây mười lăm phút hắn vừa bỏ đi. Cũng cùng một dáng điệu y hệt lúc nãy, hắn tì vào bao lơn, vẫn ở hòn gạch lát ấy. Trông tưởng như từ lúc nãy hắn chưa hề nhúc nhích. Đêm đã tối hẳn, lúc này là lúc quá nửa đêm, trời ảm đạm. Mây như bức trần nhà che lấp cả sao xa. Trời giống như một khoảng dày đặc ghê hồn. Nhà cửa trên đảo Xitê đã tắt ngấm đèn. Không một người qua lại. Từ phố xá, từ bến tàu trông ra, chỉ thấy vắng lặng. Nhà thờ Đức Bà và Tòa án trông như những nét phác họa của đêm khuya. Một cái đèn chiếu màu đỏ trên thành bến. Bóng những cái cầu lệch lạc trong sương mù, cái nọ xếp sau cái kia. Con sông tràn nước mưa. Nơi thành bến mà Giave đứng tựa chính là nơi bên trên thác nước trong dòng sông Xen, như ta còn nhớ, ở ngay trên xoáy nước kinh người ta cứ xoăn lại, rồi lại mở ra như một cái đanh vít không cùng. Giave cúi đầu xuống nhìn. Đen ngòm. Không thấy gì hết. Nghe thấy tiếng bọt, nhưng không trông thấy sông. Thỉnh thoảng, dưới cái vực sâu thẳm, một vết ánh sáng mờ mờ hiện ra, trườn trong bóng tối. Trong khoảng đen tối mịt mù, không hiểu dòng sông lấy ánh áng ở đâu mà biến thành hình rắn nước. Ánh nước tắt, lại chẳng trông thấy gì hết. Hình như đây là nơi đi vào mênh mông. Bên dưới chúng ta, không phải là nước, mà là vực thẳm. Thành bến dốc đứng, lờ mờ trong xương mù, bỗng biến đi, tưởng như là cái dốc dựng ngược của vô cùng vô tận. Không trông thấy gì, nhưng như cảm thấy cái gì giá buốt hằn thù của nước lạnh và mùi đá ẩm ướt nhạt tanh. Một cơn gió gay gắt từ dưới vực bốc lên. Nước đang lên trong dòng sông chỉ đoán thấy chứ không trông rõ, tiếng sóng rầm rì thê thảm, bóng các nhịp cầu to lù lù dễ sợ, cái dòng thác có thể tưởng tượng trong khoảng không mờ mịt, tất cả bóng tối ấy thật là kinh khủng. Giave đứng im như tượng mấy phút, mắt nhìn vào cái hố tối om ấy. Hắn đăm đăm nhìn vào cái khoảng vô hình với sự tập trung chú ý. Nước vẫn rì rào. Bỗng hắn bỏ mũ ra, đặt xuống bao lơn. Một lát sau, nếu có khách đêm khuya khoắt đi qua, ắt trông thấy một bóng người cao lớn, đen ngòm, như một bóng ma đứng trên bao lơn bến, cúi xuống sông Xen, rồi thẳng đứng người lên và rơi thẳng xuống vực thẳm. Một tiếng tõm đùng đục. Chỉ có bóng tối biết những cơn quằn quại của cái bóng mờ mờ chìm dưới dòng nước.
QUYỂN V Chương I & II Bấm để xem Những việc kể bên trên xảy ra được ít lâu thì lão Bulatơruyen lại qua một cơn xúc động mạnh mẽ. Bulatơruyen là cái lão phu lục ở Môngphécmây ta đã thoáng gặp qua những phần đen tối của truyện này. Chắc người ta còn nhớ, Bulatơruyen là người lúc nào cũng bận vào những việc ám muội và linh tinh. Lão đập đá và gây hại cho những khách trên đường cái. Vừa làm thợ đắp đất vừa làm nghề ăn trộm, lão nuôi một cái mộng: Lão mơ cái kho tàng châu báu chôn trong rừng Môngphécmây. Lão hy vọng một ngày kia sẽ tìm được tiền chôn dưới một gốc cây; trong lúc chờ đợi, lão vui lòng kiếm chác trong túi khách đi qua đường. Nhưng lúc này lão đã cẩn thận hơn. Lão vừa may mà thoát nạn. Ta đã biết, người ta vừa nhặt lão trong nhà nát của Giôngđơrét cùng với bọn kẻ cướp. Một tật xấu cũng có khi có lợi; lão thoát tù vì lão say rượu. Người ta dò xét mãi mà không biết lão là kẻ cướp hay là khổ chủ. Dựa trên tình trạng lão thực sự say rượu tối hôm xảy ra vụ bẫy người, tòa án đã ra lệnh miễn truy tố và lão được thả ra. Lão lại trở về với khu rừng cũ. Lão trở lại khúc đường từ Ganhi đến Lanhi để rải đá cho nhà nước, dưới sự kiểm soát của cơ quan hành chính. Mặt lão tiu nghỉu, ra vẻ rất nghĩ ngợi, hơi cụt hứng đối với việc trộm cướp nó đã làm lão suýt khốn, nhưng lão lại càng thêm trìu mến hũ rượu đã cứu vớt lão. Còn cái cơn xúc động mẽ lão trải qua sau khi trở về dưới mái cỏ của người phu lục lộ, nó như thế này. Một buổi sáng, lúc ấy mặt trời chưa mọc, như lệ thường Bulatơruyn đi làm, và có lẽ cả đi rình mò nữa, lão thấy một bóng người thấp thoáng sau cành lá trong rừng. Lão chỉ thấy sau lưng người ấy từ đằng xa, lúc ấy lại chưa sáng rõ, nhưng trông dáng điệu hơi quen quen. Mặc dù nghiện rượu, Bulatơruyn vẫn có trí nhớ đúng đắn, sáng suốt, cái vũ khí tự vệ cần thiết của tất cả những ai có phần nào chống đối với trật tự xã hội. Lão tự hỏi: - Quái, mình đã gặp cái thằng cha này ở đâu rồi nhỉ. Nhưng lão không trả lời được, lão chỉ thấy người kia giống như một dạng mập mờ thoáng qua trí óc lão. Cái dáng ấy, lão chưa xác định lai lịch được, nhưng lão lại tính toán, đối cứu sự việc. Người ấy không phải là người vùng này. Người ở nơi khác đến, tất nhiên là đi bộ. Giờ này, chẳng có xe quái nào qua Môngphécmây cả. Chắc là hắn đi suốt đêm. Ở đâu đến? Không xa đâu. Chẳng có xắc, chẳng gói gì hết! Chắc hẳn là ở Pari đến. Tại sao lại vào khu rừng này? Tại sao lại đến vào giờ này? Đến để là gì? Bulatơruyen nghĩ đến cái kho tàng châu báu. Cố sức nặn óc, lão mới lờ mờ nhớ ra rằng, cách đây lâu lắm, đã bao nhiêu năm, đã có lần lão gặp sự biến như thế này. Cái người bây giờ, lão cho có thể là người ngày trước. Mải nghĩ, nặng trĩu cả óc, lão cúi đầu xuống, cái ấy cũng tự nhiên, nhưng chẳng khôn khéo tí nào. Lúc ngẩng đầu lên thì lão chẳng thấy gì nữa. Người kia đã biến trong khu rừng, trong bóng mờ rạng đông. - Mẹ kiếp! Bulatơruyen làu bàu. Rồi thế nào mình cũng tìm thấy nó. Tao sẽ tìm ra cái địa phận của tên giáo dân này cho mà xem. Tại sao cái thằng ấy lại ưa đi lúc tinh mơ thế này, rồi mình sẽ biết tuốt. Ở trong khu rừng của tớ, chả có điều bí mật nào mà không có tớ xen vào. Lão cầm lấy cái cuốc mũi rất nhọn của lão, rồi lầm bầm: - Cái này để bới đất và để bới người. Thế rồi, như thể người ta nối sợi dây chỉ này vào sợi chỉ kia, lão cố bước khớp theo dấu chân phỏng đoán của người kia và cứ thế đi qua khu rừng. Đi được độ một trăm bước thì mặt trời bắt đầu mọc. Lão trông rõ lối đi. Lão thấy những dấu giầy in rải rác trên cát, những vạt cỏ bị giẫm, những bụi cây bị xéo, những cành cây non trong bụi rậm bị uốn xuống, từ từ vươn lên, tựa như một người đàn bà xinh đẹp đang duỗi tay lúc trở dậy. Lúc đã thấy vết đi của người kia, lão đi theo, nhưng bỗng mất hút. Thời gian cứ qua. Lão tiến sâu nữa vào khu rừng, rồi đến một mô đất. Một người đi săn sớm đi qua con đường mòn xa xa, vừa đi vừa huýt sáo theo điệu Ghiơri. Lão chợt nảy ra ý trèo lên cây cao. Tuy lão đã già nhưng lão còn nhanh nhẹn. Ở đây có một cây dẻ to, thật xứng cho Titia và Bulatơruyen trèo. Bulatơruyen cố trèo hết sức cao lên cây dẻ. Kể ý ấy cũng hay thật. Nhìn kỹ về phía khu rừng hoang vu, rậm rì và ghê gớm nhất, bỗng Bulatơruyen trông thấy người kia. Vừa thoáng thấy, người kia đã biến mất! Người kia đi vào, - hay len lỏi vào thì đúng hơn, - len lỏi vào một quảng rừng thư ở khá xa, khuất sau những cây to. Những quãng rừng ấy, Bulatơruyen biết lắm, lão vừa nhận ra được băng bằng một tấm kẽm to tướng. Khu rừng thưa ấy, ngày xưa người ta gọi là bất động sản Blarruy. Đống đá ấy không biết dùng để làm gì, ba mươi năm trước đã thấy rồi, nay chắc vẫn còn. Chẳng cái gì sống lâu hơn một đống đá, có chăng những bức giậu bằng ván gỗ. Để tạm đấy thôi, thế mà hóa ra trường thọ. Bulatơruyen mừng rỡ tụt xuống nhanh như chớp. Đã tìm thấy hang con thú, chỉ còn việc bắt lấy nó. Cái kho tàng mơ ước bấy lâu đích thị là ở đây rồi. Đi đến tận khu rừng thưa ấy, đâu phải chuyện dễ. Đi theo những lối mòn cứ uốn khúc như trêu ngươi, phải mất mười lăm phút còn nếu đi đường thẳng, qua bụi rậm rất dày, đầy gai góc, rất hiểm trở, phải mất những nửa giờ. Khốn nỗi Bulatơruyen lại không hiểu cho điều ấy. Lão tin ở con đường thẳng; thật là một ảo tưởng đẹp đẽ, nhưng đã hại biết bao người. Khu rừng rậm dù có gai góc đến đâu, Bulatơruyen cũng cứ tưởng là con đường ngắn. Lão nói: - Cứ đường thẳng chó sói mà đi thôi. Bulatơruyen, vốn quen đi đường quanh, lần này lại phạm sai lầm là đi đường thẳng. Lão vấp phải nào ô rô, nào gai, nào sơn tra, nào hồng dại, nào thảo nhi, nào cây ngấy đến gây sự. Trầy sướt cả da thịt. Bên dưới rãnh có nước, phải lội qua mà đi. Sau cùng, lão cũng đến được khu rừng thưa Bơlaruy, nhưng mất đến bốn mươi phút, mồ hôi đầm đìa, hổn ha hổn hển, ướt át, mặt đầy vết cây xước, giận dữ. Chẳng có ai ở đấy cả. Bulatơruyen chạy đến đống đá. Đống đá vẫn nguyên chỗ cũ. Chẳng ai tha đi đâu cả. Còn người kia thì đã biến vào rừng sâu. Người ấy đã trốn mất. Trốn đi đâu? Về phía nào? Trong khu rừng nào? Không tài nào đoán biết trước được. Đau đớn nhất là lại thấy ở sau đống đá, ngay trước cái cây bịt kẽm, một khoảnh đất mới xới, một cái cuốc để quên hay vứt lại đó, và một cái hố. Hố ấy trống rỗng. Bulatơruyen giơ hai tay về phía chân trời, kêu lên: - Đồ ăn cắp! II MARIUTX VỪA RA KHỎI NỘI CHIẾN LẠI CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN TRANH TRONG NHÀ Một thời gian lâu, Mariuytx chẳng ra sống, chẳng ra chết. Hàng mấy tuần liền, anh lên những cơn sốt mê sảng. Có nhiều triệu chứng khá nghiêm trọng ở não vì não bị các vết thương ở đầu làm chấn động, chứ không phải do dính các vết thương phạm vào. Hàng đêm đằng đẵng, trong những lời nói mê ghê rợn và thao thao bất tuyệt qua cơn sốt, trong cơn hấp hối và cứ kéo dài thảm đạm, Mariuytx lúc nào cũng gọi tên "Côdét". Mấy vết thương lớn rất nguy hiểm, bởi vì mủ ở những nơi ấy thường nung ở tận dưới thịt, có thể làm chết người, do ảnh hưởng của thời tiết; mỗi khi đổi trời thầy thuốc lại lo ngại. Ông thường nói: Nhất là người bệnh lại không cảm thấy gì cả. Băng bó rất khó khăn, phức tạp. Thời ấy chưa tìm ra vải nhựa để dán băng, dán thuốc. Nicôlét tốn một tấm khăn trải giường- "to bằng cái trần nhà" như chị ta thường nói – để làm băng buộc các vết thương. Dùng các chất cơlôtuya và nitơrát bạc phải chật vật công phu lắm mới trừ được chứng thối thịt. Bệnh tình Mariuytx còn trầm trọng thì lão Gilơnormăng cũng vẫn còn như chàng, chẳng ra sống, chẳng ra chết. Lão vẫn ngồi ở đầu giường cháu, cuống cuồng cả người. Theo lời bác gác cổng kể lại ngày nào cũng vậy, có khi một ngày hai bận, một ông già tóc bạc, ăn mặc sang trọng đến hỏi bệnh tình Mariuytx và đưa lại một gói băng lớn. Cuối cùng tính từng ngày là bốn tháng ròng, sau cái đêm đau đớn Mariuytx được khiêng về nhà dở sống dở chết, ngày 7 tháng chín, thầy thuốc tuyên bố bảo đảm chàng sống. Thời kỳ dưỡng bệnh bắt đầu. Thế nhưng Mariuytx còn phải nằm trên một cái ghế dài ròng rã hai tháng trời, vì xương đòn gánh bị gãy thỉnh thoảng lại giở những chứng bất ngờ. Đấy, thường vẫn thế, cái vết thương cuối cùng thường không mím miệng lại ngay, cứ phải băng bó mãi, người ốm rất khó chịu. Nhưng được cái thời gian ốm lâu như thế, lại bình phục lâu như thế, nên Mariuytx không bị truy nã. Ở nước Pháp những cơn phẫn nộ, ngay những cơn phẫn nộ của công chúng, cũng thường không kéo dài quá sáu tháng. Những cuộc biến động như trong tình trạng xã hội hiện nay là cốt lõi của tất cả mọi người, nên cũng cần phải nhắm mắt lại. Ta nên nói thêm rằng cái lệnh quá quắt của Giskê bắt các thầy thuốc phải tố cáo những người bị thương đã làm dư luận bất bình; mà người bất bình đầu tiên lại là nhà vua. Dư luận ấy đã che chở, bảo vệ cho những người bị thương. Chỉ trừ những người bị bắt làm tù binh ngay tại trận, những người khác không ai bị tòa án binh động tới. Thế là Mariuytx được yên than. Thoạt đầu, lão Gilơnormăng nếm tất cả những đau đớn, ê chề, sau lão hưởng tất cả những nỗi say sưa. Đêm đêm, lão ở liền bên cạnh người ốm, ngăn sao cũng không được. Lão cho mang cái ghế bành lớn lại gần giường Mariuytx. Lão bắt con gái trong nhà phải lấy khăn áo đẹp nhất trong nhà để làm vải buộc, làm băng. Bà dì Gilơnormăng vốn là người tinh khôn, lại là con gái lớn trong nhà, tìm cách giữ các khăn áo đẹp lại vừa làm cho lão tưởng con vẫn nghe lời mình. Lão Gilơnormăng không cho phép ai cắt nghĩa cho lão biết rằng làm băng thì vải chéo không tốt bằng vải thô và vải mới không bằng vải cũ. Bao giờ băng hộ cho Mariuytx lão cũng có mặt, còn bà dì thì ra chỗ khác và e thẹn kêu lên: Ối! Ối! Không gì cảm động bằng khi lão đưa chén thuốc cho người bị thương, tay run run vì tuổi già. Lão cứ hỏi thầy thuốc liên hồi. Lão không biết là lão cứ hỏi đi hỏi lại những câu đã hỏi rồi. Hôm thầy thuốc báo cho lão biết Mariuytx đã qua cơn hiểm nghèo, lão sướng điên lên. Lão thưởng cho bác gác cổng ba đồng lu-i. Tối hôm ấy, lúc trở về buồng riêng, lão vừa đi vừa nhảy điệu ga-vốt, ngón tay cái bật vào ngón tay trỏ đánh nhịp. Lão hát bài hát sau đây: Đồng cỏ Phigie Là nơi Gian ở Ơi Gian! Ơi mình! Vậy em rất tình Anh si Các cậu bé thần kỳ Nấp trong mắt đẹp Với túi tên phép Ranh nhép! Ta say nàng Gian Hơn nữ thần Đian Say đôi vú cứng Cô gái Brơtan Rồi lão quỳ xuống một cái ghế, Bátscơ nhòm qua khe cửa hé mở, tin chắc là lão đang cầu kinh. Từ xưa, nào lão có tin Chúa bao giờ. Mỗi khi bệnh Mariuytx thuyên giảm, mà càng ngày chàng càng đỡ hơn, lão lại càng thêm kỳ quặc. Lão làm lắm việc vô lý, ra vẻ rất khoái chá. Không việc gì cũng lên gác, xuống gác mãi được. Một chị hàng xóm kể ra cũng xinh, một buổi sáng sửng sốt nhận được bó hoa to tướng. Bó hoa ấy là của lão Gilơnormăng gửi tặng. Anh chồng nổi một trận ghen. Lão Gilơnormăng lại cố ôm Nicôlét đặt ngồi lên vế mình. Lão gọi Mariuytx là ông nam tước. Lão hét: "Chế độ cộng hòa muôn năm!". Lúc nào lão cũng hỏi thầy thuốc: "Có phải là không ngại gì nữa chứ?". Lão nhìn Mariuytx âu yến như bà nhìn cháu. Lúc Mariuytx ăn, lão nhìn rất trìu mến. Lão không biết đến lão nữa; lão không đáng kể nữa, bay giờ Mariuytx là ông chủ nhà; trong nỗi vui sướng, lão đã thoái vị, lão là đứa cháu của cháo lão. Sống trong cảnh sảng khoái như thế, lão trở thành đứa trẻ đáng kính nhất. Lão đứng sau người ốm mà mỉm cười, sợ người ốm mệt hay khó chịu. Lão hớn hở, tươi cười, sung sướng, dễ yêu, non trẻ. Nét mặt lão như có nguồn sáng tươi vui, lại thêm mớ tóc bạc trên đầu, nên trông lão càng thêm oai nghiêm một cách dịu dàng. Khi những nếp nhăn lại điểm thêm duyên dáng thì trông người ta thật đáng yêu kính. Người già vui vẻ thì trên mặt rạng rỡ một thứ bình minh. Còn Mariuytx, lúc người ta băng bó trông nom cho chàng, chàng chỉ có độc ý nghĩ: Cô dét. Từ khi dứt cơn sốt và không mê sảng bữa, chàng không gọi tên ấy lên nữa. Chàng không nói, chính bởi và cả tâm hồn chàng là ở đấy. Chàng không biết bây giờ Côdét ra sao; tất cả những việc xảy ra ở phố Săngvrơri, nay chỉ còn như một đám mây mờ trong ký ức. Những bóng người mờ mờ phảng phất trong trí óc, Êpônin, Gavrốt, Mabớp, gia đình Tênácđiê, tất cả các bạn chập chờn ảm đạm trong khói mù chiến lũy. Rồi các việc ông Phôsơlơvăng hiện qua trong cuộc chiến đấu đẫm máu, nay tưởng như một bí ẩn trong cơn bão táp. Chàng không hiểu tại sao chàng sống, ai đã cứu chàng sống, cứu như thế nào. Mọi người chỉ biết nói với chàng có một cái xe ngựa đang đêm chở chàng về phố Phiơ đuy Canve. Quá khứ, hiện tại, tương lai, tất cả chỉ còn đám sương mù mờ ảo, nhưng trong đám sương mù ấy, có một điểm bất động, một nét nổi bật, rõ ràng, chính xác, một cái gì như bằng đá hoa cương, một điều quyết định, một ý chí: Tìm Côdét. Đối với chàng, ý nghĩ về cuộc đời không tách rời khỏi ý nghĩ về Côdét. Lòng chàng đã nhất quết rằng chàng sẽ không chịu sống ở đời nếu không có Côdét. Bất kỳ ai bắt chàng sống, dù là ông chàng, dù là số mệnh hay là địa ngục, thì chàng nhất định cũng phải đòi lại cho kỳ được nơi cực lạc chàng đã mất. Những khó khăn, không phải là chàng không hiểu. Ở đây, ta cần nhấn mạnh điều này: Ông chàng có hết lòng ân cần, âu yếm, chàng cũng không hề chuyển lòng và cảm động. Trước tiên, và chàng không biết hết tất cả những sự săn sóc, chiều chuộng ấy. Sau nữa, trong sự suy nghĩ mơ màng, chàng nghi ngờ những cử chỉ trìu mế ấy, coi như một hành động lạ lùng, mới mẻ, cốt để chinh phục chàng. Chàng giữ thái độ lạnh lùng. Ông chàng tha hồ nở những nụ cười móm mém nhưng chỉ mất công toi. Mariuytx tự bảo khi mình chưa nói, cứ để mực cho người ta làm gì thì làm, thì còn tốt; chứ khi nói đến Côdét thì chàng sẽ thấy một bộ mặt khác hẳn, ông chàng sẽ lộ rõ bộ mặt thật. Lúc ấy mới gay go. Rồi hàng vạn vấn đề gia đình, rồi thì môn đăng hộ đối, rồi vừa mỉa mai vừa bắt bẻ, rồi nào Phôsơlơvăng với Cupơlơvăng, nào gia tài, nghèo khổ, nào đeo vạ vào thân, nào tương ai. Chống lại kịch liệt; kết cục; từ chối. Mariuytx phải cứng cỏi ngay từ bây giờ. Vả lại chàng càng khỏe ra, những nỗi bất bình cũ càng trở lại, những vết loét trong ký ức lại lở ra, chàng nhớ lại dĩ vãng; đại tá Pôngmécxi lại đứng giữa lão Gilơnormăng và chàng, Mariuytx. Chàng tự bảo chàng sẽ không thể hy vọng một tấm lòng tốt chân thật nào ở con người đã xử tệ và bất công với cha chàng đến thế. Càng khỏe ra chàng thấy như càng oán ghét ông chàng hơn. Ông lão âm thầm đau đớn về thái độ của Mariuytx, từ ngày được người ta khiêng về nhà và từ ngày chàng tỉnh lại, chưa bao giơ chàng gọi lão là "ông ngoại" cả; biết vậy nhưng lão không nói gì. Chàng cũng không gọi là "ngài", đã đành. Nhưng chàng tìm cách lẩn tránh, để khỏi phải gọi tiếng này cũng chẳng phải gọi tiếng kia. Hiển nhiên là sắp có một cơn biến động. Cũng như mọi người khi gặp trường hợp tương tự, Mariuytx thử sức nhè nhẹ trước khi tấn công. Như thế gọi là thăm dò trận địa. Mỗi buổi sáng, lão Gilơnormăng, nhân tình cờ đọc một tờ báo, bộp chộp nói về Hội nghị Quốc ước và thốt ra một câu phán xét có tính chất bảo hoàng về Đăngtông, Xanhgiuýt và Rôbétxpie. Tức thì Mariuytx nghiêm nghị trả lời: Những con người năm 93 ấy là những người khổng lồ. Lão già nín lặng cả ngày hôm ấy, không hé răng nói nửa lời. Mariuytx, bao giờ nghĩ đến ông, cũng có ngay trong óc một hình ảnh người ông sắt đá những ngày chàng còn nhỏ, nên chàng cho rằng ông chàng im lặng là vì cố nén cơn giận. Chàng liền đoán trước một cuộc chiến đấu ác liệt và trong thâm tâm, chàng sửa soạn thật đầy đủ để chiến đấu. Chàng quyết định nếu bị từ chối, chàng sẽ lột hết vải băng bó làm trẹo xương đòn gánh, những vết thương còn đau thì vứt cả băng đi cho hở miệng cả ra, rồi không ăn không uống gì nữa. Những vết thương là đạn dược của chàng. Một là được Côdét, hai là chết. Chàng kiên nhẫn đợi chờ thời cơ – cái kiên nhẫn tinh ranh của người ốm. Thời ấy đã đến.
QUYỂN V Chương III & IV Bấm để xem Một hôm, trong lúc bà dì Gilơnormăng xếp gọn chai lọ, cố tách trên mặt tủ ô kéo, thì lão Gilơnormăng cúi xuống Mariuytx, lấy giọng hết sức dịu dàng bảo cháu: - Mariuytx con ạ, con xem, nếu ông mà như con thì nay ông ăn thịt, chứ không ăn cá nữa. Lúc còn dưỡng bệnh thì nên ăn cá thờn bơn rán, nhưng con muốn dậy được thì phải cố ăn ít sườn chứ. Mariuytx bây giờ đã hầu như bình phục hẳn, chàng lấy hết sức ngồi dậy, hai bàn tay bíu chặt lấy cái khăn trải giường. Rồi chàng nhìn thẳng vào mặt ông chàng, giọng nói hung hãn: - Nhân thể, tôi muốn nói cái này. - Cái gì cơ? - Là tôi muốn cưới vợ. - Ông đã biết mà. Nói xong lão phá lên cười - Biết là biết thế nào? - Được, ông đã dự kiến rồi. Con sẽ lấy con bé ấy. Mariuytx sửng sốt đến choáng cả lên chân tay run lẩy bẩy. Lão Gilơnormăng nói tiếp: - Được, con sẽ lấy con bé ấy, con bé kháu khỉnh ấy. Ngày nào cô ấy cũng đội một lốt ông già đến thăm tin con. Từ ngày con bị thương, lúc nào cô ấy cũng khóc và ở nhà làm băng cho con. Ông đã điều tra. Cô ấy ở phố Lomácmê, số 7. Đấy, được rồi, con thích thì con sẽ được! Con tiu nghỉu rồi chứ gì. Con đã bố trí một âm mưu nho nhỏ, con tự bảo con: - Để rồi mình bảo thẳng cho cái lão già ấy, cái xác ướp thời nhiếp chính, thời đốc chính ấy, cái anh chàng trai lơ ngày xưa cái anh thanh niên công tử nay hóa ông cụ tai ác, phải bảo thẳng cho lão ấy biết. Xưa kia lão chơi bời chán, nào tình nhân vụng trộm, nào gái lẳng lơ, lão cũng có những cô Côdét của lão, lão đã diện chán, lão cũng đã bay lượn, đã nếm cái vị xuân tình. Những cái ấy lão phải nhớ chứ. Để rồi xem. Giao chiến thôi. Thế là con cầm đằng đuôi đứt đi rồi. Được. Ông bảo con ăn thịt thì con trả lời lại: "Nhân thể tôi muốn lấy vợ". Chuyển đề hay quá! Con nhất định gây chuyện chứ gì! Con không biết là ông rất nhát gan ư? Kết quả như con nghĩ thế nào? Con bực tức hắn? Con không ngờ ông lại ngốc hơn con, thế là cụt hứng, cái bài diễn văn của ông trạng sư thế là mất toi, ức thế. Đã thế, mặc kệ, cứ khùng lên con muốn gì, ta cũng ừ, thế là hết cả khùng đồ nỡm! Con nghe đây này. Ông đã cho đi dò hỏi: Ông, ông cũng tinh quái lắm chứ. Con bé ấy dễ thương, ngoan nết lắm; câu chuyện thằng kỵ binh là câu chuyện láo, cô ta cắt cả một đống băng, thương con ra trò.com mà chết thì hóa ba người chết: Quan tài cô ta sẽ đi theo quan tài của ông. Từ khi con khá hơn, ông vẫn có ý định hôm nào đặt quách cô ấy ngồi sừng sững ngay đầu giường con. Nhưng chỉ trong tiểu thuyết mới thấy người ta đưa các thiến nữ đến bên giường những chàng trai xinh đẹp đang bị thương, những chàng trai mà các cô thích. Còn ngoài thì chả thấy ai làm thế bao giờ. Vả lại rồi dì con lại nói. Suốt ngày đêm, con chẳng mấy lúc mặc quần áo. Cứ hỏi Nicôlét mà xem, chị ấy chẳng rời con chút nào, thử hỏi xem có cách nào đem phụ nữ đến trước mặt con lúc ấy không. Thế rồi còn thầy thuốc nữa. Một cô gái đẹp thì chữa khỏi sốt sao được. Thôi, được, chẳng phải nói thêm nữa đã định rồi, đã xong rồi, nhất định rồi, con cứ việc cưới về. Đấy, ông dữ tợn như thế đấy. Con xem, ông biết là con chả yêu ông, ông vẫn bảo: Biết làm thế nào để thằng súc sinh ấy yêu được mình? Ông lại bảo: Này nhé mình đã nắm con bé Côdét trong tay, để rồi mình cho hai đứa lấy nhau, lúc ấy nó sẽ yêu mình một tý, không thì nó nói tại sao chứ. Úi chào, con tưởng rằng lão già này sẽ quát tháo lên, la rầm lên, thét: "Không được" rồi giơ gậy gộc ra trong cái cảnh bình minh này? Không phải đâu. Côdét: Được. Yêu nhau: Được. Ông chẳng mong gì hơn nữa. Thưa ngài ngài chịu khó lấy vợ cho con. Con ạ, ông chỉ mong con được sung sướng. Nói xong, lão già nức nở khóc. Lão ôm đầu Mariuytx, hai tay ghì chặt vào cái ngực già nua của lão; cả hai người cùng òa lên khóc. Thật là một hạnh phúc tuyệt vời, Mariuytx kêu lên: - Cha ơi! Lão già nói: - Trời! Thế ra con yêu ông ư! Cái phút ấy sao mà khó tả. Cả hai người cùng nghẹn ngào, không nói nên lời. Cuối cùng lão già nói lắp bắp: - Thế nó đã cởi mở rồi. Nó đã gọi ta là cha. Mariuytx gỡ đầu khỏi tay ông và nói: - Cha ạ, bây giờ con khỏe rồi, con có thể gặp cô ấy được chứ? - Vẫn định thế rồi, ngày mai con gặp. - Cha ơi! - Gì cơ? - Thế thì hôm nay. Đồng ý hôm nay. Con đã nói ba lần "Cha ơi", thì đáng được thế lắm. Để rồi ông liệu. Sẽ đưa cô ấy đến đây. Đã bảo là định thế từ trước rồi cơ mà! Chuyện này đã ghép thành thơ rồi mà! Đây là đoạn kết thúc hận ca Chàng trẻ ốm của Ăngđơrê, người bị cắt cổ bởi bọn sát.. - à, bọn những người khổng lồ 93. Lão Gilơnormăng tưởng như thấy Mariuytxhơi cau mày lại: Nhưng thật ra Mariuytx tâm hồn đang bay bổng trong niềm vui sướng, chẳng thiết nghe gì nữa. Chàng nghĩ nhiều đến Côdét hơn là đến 1793. Lão già run sợ lên vì đã nói tới Ăngđơrê Sêniê không đúng chỗ, lão vội vàng nói tiếp: - Cắt cổ thì không phải. Sự thật thì những nhà cách mạng thiên tài cũng chẳng độc ác gì, điều ấy đã dĩ nhiên rồi, họ là những vị anh hùng.. hừ! Họ thấy Ăngđơrê Sêniê làm phiền họ một chút nên đem xử ch.. - nghĩa là ngày 7 tháng nắng, những con người vĩ đại ấy, vì nhiệm vụ cứu nước, đã mời Ăngđơrê Sêniê quá bộ đi.. Lão Gilơnormăng nghẹn họng vì câu nói của mình, không biết nói gì thêm. Lão chẳng biết nên nói tiếp như thế nào, cũng chẳng chối chữa được. Trong khi bà con gái sửa gối cho Mariuytx thì lão hết sức lực đi cho nhanh ra khỏi buồng ngủ, đóng sập cửa lại. Lão đỏ gay mặt, nghẹn ứ hơi, sùi cả bọt mép, hai mắt long lên, chạm trán ngay phải lão Bátscơ thét lên dữ dội: - Mẹ cha cái lũ ăn cướp ấy, chính chúng nó đã giết chết ông ấy. - Thưa cụ, ông nào cơ ạ? - Ăngđơrê Sêniê. - Thưa cụ vâng ạ. Lão Bátscơ kinh khủng trả lời. IV RỐT CUỘC DÌ GILƠNORMĂNG KHÔNG THẤY KHÓ CHỊU KHI ÔNG PHÔSƠLƠVĂNG VÀO NHÀ LẠI ÔM THEO MỘT CÁI GÓI. Côdét và Mariuytx gặp lại nhau. Cuộc gặp gỡ thế nào, chúng tôi miễn tả. Có những thứ người ta không thể cố vẽ lại được; mặt trời là một. Lúc Côdét vào, tất cả gia đình đều tụ họp trong buồng Mariuytx, cả lão Bátscơ và Nicôlét nữa. Côdét hiện trên ngưỡng cửa, như trong hào quang. Vừa đúng lúc, lão Gilơnormăng sắp xỉ mũi; lão đứng ngay lại; mùi soa vẫn ở trên mũi, lão nhìn Côdét, reo lên: - Đáng yêu thật! Thế rồi lão xỉ mũi mạnh. Côdét say sưa, sung sướng, sợ hãi, hồn bay bổng trên mây. Nàng bàng hoàng cả người, đúng như lúc người ta bàng hoàng vì hạnh phúc. Nàng nói năng ấp úng, da tái xanh rồi lại đỏ gay; nàng muốn nhảy xổ vào tay Mariuytx nhưng lại không dám. Yêu đương dưới mắt mọi người nàng thấy xấu hổ. Không có ai thương những cặp tình nhân sung sướng, mọi người cứ đứng lì đấy giữa lúc họ đang khao khát được ngồi riêng với nhau. Nào họ có cần gì đến ai! Vào cùng với Côdét, bước ngay sau nàng, có một ông cụ già tóc bạc, dáng nghiêm nghị nhưng miệng hé một nụ cười phảng phất buồn. Người ấy là "ông Phôsơlơvăng"; người ấy là Giăng VanGiăng. Đúng như bác gác đã nói, ông ăn mặc rất chỉnh tề, quần áo mới tinh, toàn đồ đen, thắt ca vát trắng. Bác gác thật khó nhận ra được ông rằng ông tư sản chững chạc, - có vẻ là một viên thừa phát lại ấy - lại là cái người vác xác chết khủng khiếp ở đâu hiện lên ngay trước cửa nhà bác, đêm hôm 7 tháng sáu. Ngày hôm ấy rách rưới, nhậy nhụa, dữ tợn, mặt bôi đầy máu và bùn, tay đỡ lấy nách của Mariuytx bất tỉnh. Thế nhưng bác gác cổng nhà nghề cũng đánh hơi thấy cái gì. Lúc ông Phơsơlơvăng cùng đến với Côdét, bác đã nói riêng với vợ câu sau này: Không hiểu sao tôi cứ ngờ ngợ như trông thấy ông ấy ở đâu rồi. Ông Phôsơlơvăng ở trong cái buồng Mariuytx nhưng như đứng riêng bên cạnh cửa cái. Ông cắp một cái gì na má như một quyển sách khổ giấy gấp tám, bọc trong tờ giấy. Tờ giấy bọc màu xanh nhờ, hình như đã mốc. Bà dì Gilơnormăng vốn dĩ không ưa gì sách vở khẽ hỏi Nicôlét: - Có phải cái lão kia lúc nào cũng khư khư ôm sách như thế không? Lão Gilơnormăng nghe thấy, cũng khe khẽ trả lời: - Này, ông ấy là một nhà bác học đấy. Thế thì sao? Lỗi tại ông ấy à? Trước, ta có quen ông Eula, ông ấy cũng thế, chẳng đi đâu mà không có quyển sách; ấy, lúc nào cũng ôm quyển sách trước ngực. Rồi lão ngả người chào, cất giọng nói to: - Thưa ông Tơrăngsơlơvăng[1].. Lão Gilơnormăng không định tâm gọi như vậy nhưng, cái lối không chú ý đến tên họ người ta ở lão vốn là một thói quen quí phái. - Thưa ông Tơrăngsơlơvăng, tôi lấy làm dinh dự dạm hỏi tiểu thư cho cháu trai tôi là nam tước Mariuytx Pôngmécxi. "Ông Tơrăngsơlơvăng" nghiêng mình. Lão Gilơnormăng nói: Rồi quay lại phía Mariuytx và Côdét, lão giơ hai tay làm dấu cầu phúc cho hai con, rồi reo lên: - Từ nay các con được phép tha hồ yêu nhau. Hai cô cậu không phải đợi phải giục lần thứ hai. Mặc kệ tiếng ríu rít bắt đầu. Họ khe khẽ nói chuyện với nhau. Mariuytx tựa khuỷu tay xuống ghế dài, còn Côdét đứng bên cạnh. Côdét thì thẩm bảo chàng: - Trời ơi! Em lại thấy ông! Ông đây rồi! Sao lại đánh nhau như thế! Tại sao cơ chứ? Khiếp quá! Sống mà như chết, ròng rã bốn tháng trời. Trời ơi, ai lại tàn nhẫn thế, ai lại đi lao vào cuộc đánh nhau ấy bao giờ! Em đã làm gì ông nào? Thôi, em bỏ qua cho ông, lần sau đừng làm thế nữa. Lúc nãy, khi có người đến gọi em đến đây, em vẫn cứ tưởng là em sắp chết nhưng chết vì sung sướng. Trước lúc ấy em buồn lắm. Chẳng kịp trang sức nữa, ông trông em có gớm không này. Cái cổ áo nhàu quá đi mất, không biết gia đình ông có nói gì không. Ông nói đi chứ! Cứ để em nói một mình mãi. Bố con em vẫn ở phố Lomácmê. Vai ông người ta bảo trông khiếp lắm cơ, cho nắm tay vào cũng lọt. Với lại, hình như phải lấy kéo mà cắt thịt. Đau quá nhỉ. Em khóc mãi bây giờ nhòe cả mắt. Sao khổ đến thế được, khỉ thật. Ông ngoại trông có vẻ hiền lành lắm nhỉ. Thôi, ông nằm xuống, đừng tì khuỷu tay như thế nữa; không khéo lại đau. Trời ơi, em sung sướng quá. Thế là hết khổ rồi. Em hóa ngốc mất. Em định nói với ông những gì, bây giờ chẳng nhớ nữa. Ông vẫn yêu em chứ? Bố con em ở phố Lomácmê. Không có vườn. Lúc nào em cũng làm băng. Đây, ngài trông đây này, ngón tay em có chai, tại ông đấy. Mariuytx nói: Ôi! Thiên thần! Tiếng ấy là tiếng độc nhất trong ngôn ngữ không bao giờ cũ đi cả. Không tiếng nào khác khỏi sáo mòn khi được các đôi tình nhân dùng chán chê như thế. Rồi, vì ở chỗ đông người, họ im bặt, không nói gì nữa, se sẽ mân mê tay nhau. Lão Gilơnormăng quay lại phía sau mọi người trong buồng kêu to: - Còn các ông, các bà nói to lên đi chứ. Làm ầm lên đi chứ, các người ở hậu trường! Nào, ầm ĩ lên một tí nào! Để cho hai trẻ nó chuyện trò, ríu rít với nhau cho thỏa. Rồi lão lại gần Mariuytx và Côdét, khẽ nói thầm: - Các con cứ gọi nhau là anh em đi, đừng ngượng gì cả. Bà dì Gilơnormăng sững sờ nhìn thấy cái ánh sáng ấy đột nhập vào cõi lòng già cỗi của mình; nhưng sững sờ mà chẳng hằn học. Chẳng có tí gì là con mắt cú mèo phẫn nộ, thèm thuồng nhìn đôi chim câu gù; ấy là con mắt đần của một người đàn bà thơ ngây năm mươi bảy tuổi đầu, lỡ làng duyên phận, nhìn một cuộc đời đắc thắng vì tình yêu. Lão Gilơnormăng nói với con gái: - Cô ả này ta đã bảo là thế nào con cũng có ngày như thế này. Sau một lát im lặng lão lại nói: - Con nhìn hạnh phúc của người khác mà coi. Rồi lão quay về phía Côdét: - Con bé xinh tệ, xinh lắm. Như hệt một bức tranh của Gơrơđơ[2] . Thằng ranh, thế là mày chiếm lấy món quà của quý ấy một mình đấy nhé. Gớm thật, thằng nhãi thế mà thoát được tay tao; tao mà trẻ đi mười tuổi thì thế nào tao với mày cũng đấu gươm một phen để xem ai chiếm được cô nàng. Ấy, tiểu thư ạ, tôi cảm tiểu thư quá đi mất. Có gì lạ đâu. Đó là quyền của cô. Ôi, đám cưới phải biết là hay nhé. Làm lễ cưới ở giáo trường Xanh Xacơrơmăng thì đúng địa hạt ta, nhưng thôi, tôi sẽ xin miễn, để cưới ở XanhPôn. Nhà thờ ở đấy hơn. Nhà thờ ấy của người Giêđuýt xây. Diện hơn. Ở trước bồn nước dinh giáo chủ Biragơ. Còn kiệt tác của nền kiến trúc Giêđuýt thì ở Namuya. Gọi là Xanhlu. Cưới xong, thế nào cô cậu cũng phải đến nơi mà xem. Đáng công đi lắm. Thưa cô, tôi hoàn toàn thuộc phái của cô; con gái sinh ra thì phải lấy chồng chứ. Tôi chỉ muốn cái bà thánh Catơrin ấy xổ tóc. Ở vậy thì khá đấy nhưng lạnh lẽo lắm. Thánh kinh chả nói: "Hãy sinh sản đi" là gì. Phải có bà Gian Đa cứu nước; nhưng muốn có dân lại cần đến mụ Gigônhơ. Thế cho nên các cô, các cô cứ lấy chồng đi. Thật tôi thấy đàn bà ở vậy chẳng có lợi gì. Tôi cũng biết là những trinh nữ độc thân có một phòng nguyện riêng trong nhà thờ, và có giáo đoàn Đức Mẹ đồng trinh để gia nhập. Nhưng, mẹ cha nó chứ, một người chồng xinh xắn, giỏi trai, thế rồi một năm sau, một thằng cu béo tốt hồng hào cứ sùng sục bú ti, đùi nó núng nính những mỡ, hai bàn tay nó hồng hồng cứ thọc bừa vào ngực mình mà nghịch ngợm, miệng nó cười như buổi bình minh, thế chẳng gấp nghìn vạn lần là cứ tay cầm mẩu nến, miệng tụng Tarris eburea[3] . Lão già xoay như con quay trên gót chân tuổi tác của mình, rồi lại cất tiếng nói, như chiếc lò xo bật ra: Thế rồi mơ mộng, thôi thôi nhé! Anxíp ngày mai sẽ lấy chồng. - À này! - Gì cơ cha? - Hình như con có một người bạn thân? - Có ạ, anh Cuốcphêrắc. - Anh ấy bây giờ ở đâu? - Chết rồi ạ. - Thế cũng hay. Lão ngồi xuống gần đôi trẻ, bảo Côdét ngồi xuống rồi hai tay răn reo cầm lấy bốn bàn tay họ: - Cô bé xinh lạ, cô Côdét thật là một tuyệt tác. Cô là một cô bé rất bé mà lại có dáng bà lớn rất lớn. Cô mà sẽ chỉ là một bà nam tước thì là hơi thấp đấy. Cô có tướng một bà hầu tước kia. Trông lông mi mà xem! Các con ạ, các con làm phải lắm, các con cứ yên trí như thế. Cứ yêu nhau đi.. Yêu si yêu dại vào. Tình yêu vừa là cái ngu dại của loài người, vừa là cái tinh anh của Thượng đế. Cứ yêu thương nhau cho thắm thiết - bỗng giọng lão ủ ê – nhưng khốn nổi, ông lại nhớ đến điều này. Ông đã gửi quá nửa gia tài để hưởng thực lợi chung thân. Ông còn sống thì còn được, chứ độ hai mươi năm nữa, ông chết đi thì các con không có một đồng xu, khốn khổ quá! Thưa bà nam tước, lúc ấy hai tay trắng muốt của bè sẽ phải quần quật suốt ngày vì túng thiếu. Đến đây, chợt thấy giọng nói trầm tĩnh: - Cô Ơphơrađi Phôsơlơvăng có sáu mươi vạn phơrăng. Đó là tiếng nói của Giăng Vangiăng. Từ nãy ông chưa nói lời nào, cũng không ai biết ông ngồi đấy nữa, ông cứ đứng yên lặng sau những người sung sướng ấy. Lão Gilơnormăng sửng sốt hỏi: - Cô Ơphơrađi Phôsơlơvăng là ai cơ ạ? - Con đấy ạ - Côdét đáp. - Sáu mươi vạn cơ à? - Lão già tiếp. Giăng VanGiăng nói: - Có lẽ kém độ vạn tư, vạn rưởi gì đấy. Nói rồi, ông đặt lên bàn cái gói mà dì Gilơnormăng tưởng là quyển sách. Tự tay Giăng VanGiăng mở gói ra. Một bó giấy bạc. Người ta đếm từng tờ. Có năm trăm tờ một nghìn phơrăng và một trăm sáu mươi tám tờ năm trăm. Cộng tất cả là năm mươi tám vạn bốn nghìn phơrăng. Lão Gilơnormăng bảo: - Cuốn sách hay thật! - Năm mươi tám vạn bốn nghìn phơrăng – bà dì lẩm bẩm. - Được khối việc cô cả nhỉ! – Lão già lại tiếp. Thế là cu cậu Mariuytx vớ được con chim oanh triệu phú trên cái cây xứ mộng. Thế mà bảo mãi bọn trẻ chúng nó chỉ yêu nhau vớ vẩn! Những cậu sinh viên lại tìm được những cô sinh viên có sáu mươi vạn phơrăng! Tiên đồng mà đắc lực hơn Rốtsin[4] . Bà dì Gilơnormăng vẫn khe khẽ nhắc: - Năm mươi tám vạn bốn nghìn phơrăng. Năm mươi tám vạn bốn nghìn phơrăng! Khác gì sáu mươi vạn chứ lị! Trong lúc đó thì Mariuytx và Côdét mải ngắm nhìn nhau; họ chẳng chú ý gì đến chi tiết nọ. [1] Phôsơ là cắt, tơrăngsơ cũng nghĩa là cắt, nên lão Gilơnormăng nhớ nhầm. [2] Họa sĩ Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX [3] Tháp ngà [4] Chủ ngân hàng Pháp giàu nổi tiếng ở đầu thế kỷ XIX
Chương V - VI Bấm để xem Chẳng cần cắt nghĩa dài dòng, chúng ta cũng hiểu rằng sau vụ Săngtơmatiơ, GiăngVanGiăng nhờ mấy ngày trốn thoát nên đã kịp về Pari rút số tiền ở ngân hàng Laphít số tiền ông kiếm được ở Môngtơrơi Xuyame, thời ông còn là ông Mađơlen. Ông sợ lại bị bắt- quả sau bị bắt thật, - nên ông chôn giấu số tiền trong khu rừng Môngmécxây, nơi gọi là bất động sản Bơlaruy. Số tiền tất cả là sáu mươi ba vạn, toàn giấy bạc, không kềnh càng lắm, bỏ gọn trong một cái hòm nhỏ bằng gỗ sồi nhét đầy vỏ bào gỗ dẻ để tiền khỏi ẩm. Ông lại để trong hòm một món của khác của ông, tức là những cây chân đèn của giám mục. Ta còn nhớ, lúc trốn khỏi Môngtơrơi Xuyame, ông mang theo đôi đèn ấy. Cái người mà Bulatơruyen bắt gặp một tối lần đầu, người lạ ấy là Giăng VanGiăng. Sau này mỗi khi cần tiền, Giăng VanGiăng lại đến lấy ở khu rừng thưa Bơlaruy. Vì thế, thỉnh thoảng ông lại đi vắng. Ông giấu một cái cuốc ở một nơi rất kín, chỉ mình ông biết. Khi Mariuytx đương phục hồi sức khỏe ông thấy là sắp đến lúc cần tiền, nên ông lấy tất cả về. Bulatơruyen lại thấy bóng ông trong khu rừng, lần này thấy buổi sáng, chứ không phải là buổi tối như kỳ trước. Bulatơruyen thừa hưởng được cái cuốc. Số tiền đếm cho đúng là năm mươi tám vạn bốn nghìn năm trăm phơrăng. Giăng VanGiăng giữ lại cho mình năm trăm phơrăng. Ông nghĩ bụng. - Sau này sẽ hay. Trước kia số tiền lấy ở ngân hàng Laphít ra là sáu mươi ba vạn; nay còn số tiền trên tức là ông đã tiêu xài trong mười năm trời, từ năm 1823 đến năm 1833. Năm năm ẩn trong nhà tù tiêu hết năm nghìn phơrăng. Giăng VanGiăng đặt hai chân đèn bạc lên lò sưởi; đôi chân đền ấy sáng chói lọi làm bà Tútxanh thích mê. Giăng VanGiăng cũng biết là mình đã thoát khỏi tay Giave. Ông đã nghe người ta kể, - sau, tờ Mônitơ cũng có đăng tin, ông đã xem rõ- một thanh tra cảnh sát tên là Giave chết đuối, xác giạt vào dưới lườn một chiếc thuyền của thợ giặt giữa cầu Sănggiơ và cầu Pôngnớp. Ông ta là một người cảnh sát gương mẫu, được cấp trên quí trọng. Một bức thư để lại làm cho người ta đoán rằng ông ta bị loạn óc và tự vẫn. Giăng VanGiăng nghĩ thầm trong bụng: Kể ra, hắn đã tóm được mình mà lại thả ra, tất là hắn điên rồi. VI HAI CỤ GIÀ, MỖI NGƯỜI MỘT LỐI, LÀM TẤT CẢ ĐỂ CÔDÉT ĐƯỢC SUNG SƯỚNG Người ta sửa soạn tất cả cho đám cưới. Thầy thuốc tuyên bố có thể cưới vào vào tháng hai. Bây giờ là tháng chạp. Mấy tuần lễ say sưa trong hạnh phúc hoàn toàn trôi qua. Lão Gilơnormăng là một trong những người sung sướng nhất. Nhiều khi lão chiêm ngưỡng Côdét hàng giờ. Lão reo lên: - Con bé mới xinh làm sao! Trông vừa hiền lại vừa thảo! Chẳng phải nói nịnh, thật suốt đời ông, ông chưa thấy có cô con gái nào xinh đẹp như Côdét. Sau này, chắc lại lắm nết thơm tho kín đáo như đóa hoa tím. Thật là phúc trời ban cho. Bên cạnh con người như thế, anh cũng phải thanh cao. Mariuytx con ạ, con là nam tước, con lại giàu có, ông van con, con đừng làm thầy cô thầy kiện quèn nữa. Côdét và Mariuytx bỗng nhiên từ dưới mồ bay lên thiên đường. Việc chuyển tiếp hơi đột ngột, nên hai người như quáng lên, nếu không bị hơi choáng váng. Mariuytx bảo Côdét: - Em có biết tại sao như thế không? Côdét trả lời: - Không. Nhưng mà hình như Trời thương chúng mình. Giăng VanGiăng việc gì cũng làm, khó khăn nào cũng san bằng, hòa giải tất cả, làm cho mọi việc được dễ dàng. Ông hối hả tiến đến hạnh phúc của Côdét, hăm hở, bề ngoài có vẻ sung sướng không kém gì Côdét. Trước ông đã làm thị trưởng nên ông giải quyết được một vấn đề tinh tế, tức là hộ tịch của Côdét mà chỉ một mình ông biết điều bí mật. Cứ nói thẳng gốc tích nàng, biết đâu việc cưới xin sẽ chẳng không thành. Ông vớt Côdét ra khỏi tất cả những khó khăn. Ông bày đặt ra một gia đình toàn những người chết cả; chỉ có cách ấy mới tránh khỏi mọi điều khiếu nại. Côdét là người độc nhất còn lại của một gia đình tự tuyệt. Côdét không phải là con gái ông, mà là con gái một ông Phôsơlơvăng khác. Hai anh em ông Phôsơlơvăng cùng làm ở vườn nhà tu Pýchquýt. Người ta đến tận nhà tu hỏi, chẳng thiếu gì những tin rất tốt và những bằng chứng chắc chắn. Những tu nữ thật thà ít hiểu và cũng không ưa việc tìm tòi gốc tích người ta; họ lại không bao giờ có sự ranh mãnh nào trong ấy, nên chẳng bao giờ tìm biết rõ Côdét là con gái lão Phôsơlơvăng này hay Phôsơlơvăng kia. Ai bảo sao họ nói vậy, và lại nói rất hăng hái nữa kia. Thế là Côdét đã trở thành cô Ơphơrađi Phôsơlơvăng. Cô được công nhận mồ côi cả cha lẫn mẹ. Giăng VanGiăng tìm cách để được công nhật là người đỡ đầu cho Côdét với cái tên là ông Phôsơlơvăng; còn lão Gilơnormăng là người đỡ đầu dự khuyết. Còn số tiền năm mươi vạn bốn nghìn phơrăng là di sản lưu lại cho Côdét của một người đã chết, muốn giấu tên. Trước kia, số tiền di tặng là năm mươi chín vạn bốn nghìn, nhưng đã chi tiêu mất một vạn vào việc giáo dục cô Ơphơrađi, trong số ấy có năm nghìn trả cho chính tu viện Pơti Pýchquýt. Số tiền ấy gửi một người thứ ba, sẽ trao cho Côdét lúc cô đến tuổi thành niên hay lúc đi lấy chồng. Những việc xếp đặt ấy, ai cũng dễ cho là phải, nhất là lại thêm món tiền hơn nửa triệu. Cũng có đôi chút bất thường nhưng nào có ai thấy. Một người liên quan đến công việc thì có cái băng ái tình bịt mắt, còn các người kia thì lại tối mắt vì sáu mươi vạn phơrăng. Côdét biết mình không phải là con một ông cụ mình vẫn gọi bằng cha từ bấy lâu nay. Ông cụ chỉ là một người trong họ. Một ông Phôsơlơvăng khác mới thật là cha nàng. Lúc khác thì nằng đã đau đớn lắm. Nhưng trong giờ phút sung sướng khó tả này, đó chỉ là một chút bóng đen, một chút u ám, nàng vui sướng quá nên đám mây mờ cũng nhanh chóng tan đi. Nàng có Mariuytx. Chàng trai đến thì ông già lui. Việc đời thế. Vả, từ bao năm trời ròng rã, Côdét đã quen sống trong cảnh đời đầy bí hiểm. Những ai đã sống trong cuộc đời thơ ấu mịt mù vẫn sẵn sàng nhận biết nhiều việc. Tuy nhiên nàng vẫn gọi Giăng VanGiăng là cha. Côdét trong lúc vui sướng, rất phấn khởi với lão Gilơnormăng. Nói cho đúng, lão tặng nàng biết bao nhiêu lời tán tỉnh, biết bao món quà xinh. Trong lúc Giăng VanGiăng xây dựng cho Côdét một địa vị bình thường như mọi người trong xã hội và một gia tài vững vàng thì lão Gilơnormăng chăm nom sắm sửa đồ chơi cho Côdét. Lão thấy không gì thú bằng tỏ ra mình hào phóng. Lão cho Côdét một cái áo bằng ren tỉnh Banhsơ, của bà nội lão. Lão bảo: - Những mốt ấy bây giờ hồi phục lại, đồ cổ bây giờ được mọi người ham chuộng. Những thiếu phụ trẻ thời ông đã già lại ăn mặc như những bà già hồi ông còn bé tí. Lão moi tất cả đồ đạc trong những cái tủ ô kéo hình bầu bầu, bằng sơn mài Côrômăngđen, hàng bao nhiêu năm nay vẫn đóng kín mít. Lão bão: - Bắt các bà quý tộc này xưng tội đi chứ! Xem bụng các bà ấy chứa những gì nào! Rồi lão bới tung cả lên những ngăn kéo bụng phệ đầy quần áo của các bà vợ, của các cô nhân tình của lão, của các bà tổ mẫu nữa. Nào hàng tơ lụa Bắc Kinh, nào gấm vóc Đa Ma, nào vải vóc Lam Pa, nào hàng vân in màu, nào áo dài đắt tiền thành Tua, nào mùi xoa Ấn Độ thêu bằng thứ chỉ bằng vàng có thể giặt được, nào những bức thêu Giênơ và Alăngxông, nào đồ kim hoàn kiểu cổ, nào những hộp kẹo bằng ngà chạm những trận đánh nhau li ti, nào áo quần, đồ trang sức, ruy băng; lão cho Côdét tất cả. Côdét say sưa ngây ngất trong mối tình Mariuytx, nặng ơn đối với lão Gilơnormăng. Nàng đương mơ giấc mơ hạnh phúc không cùng xa tanh, nhung lụa. Nàng tưởng như các vị thiên thần đang giơ tay đỡ lấy những đồ cưới của nàng. Tâm hồn bay bổng trên khoảng trời xanh, vỗ đôi cánh bằn hàng ren tỉnh Malin. Như ta đã nói, lão già cũng khoái chí chẳng kém gì đôi tình nhân đang say sưa trong tình ái. Phố Phiơ đuy Canve nhộn lên như nổi một điệu kèn vui. Mỗi sáng, lão Gilơnormăng lại tặng Côdét một thức. Những dải lụa là tung nở lộng lẫy quanh mình Côdét. Trong cảnh sống hạnh phúc, cũng nhiều khi Mariuytx ưng nói chuyện trang nghiêm; một hôm không biết nhân việc gì, chàng bảo: - Những người thời cách mạng vĩ đại thật, danh tiếng họ lừng lẫy như đã trôi qua bao thế kỷ, như thể Catông hay Phôxiông, họ đã được ghi trên đài vân thiên cổ. - Vân cổ! Phải rồi, lụa vân cổ! Cảm ơn con. Chính ông đang chớm có cái ý ấy. Và ngày hôm sau, lão lại cho thêm Côdét một cái áo hàng vân cổ lộng lẫy, màu nâu đen. Lão rút ra ở những đống vải cũ ấy một bọc triết lý: - Tình yêu, được lắm. Nhưng phải thêm cái này chứ. Hạnh phúc thì phải thêm cái gì phù phiếm. Hạnh phúc chỉ là cái cần thiết tối thiểu. Cứ tra bừa thêm đồ gia vị vô dụng vào. Một lâu đài và một trái tim. Một trái tim và cung điện Lơ Luvơrơ. Một trái tim và các bể nước cung điện Vécxây. Một chị nữ mục đồng quấn hoa mua, tốt, nhưng phải chất thêm cho chị mười vạn đồng tiền vàng. Ngắm một cảnh đồng quê thiên nhiên bát ngát, được, nhưng phải ngồi nơi lầu son gác tía, dát ngọc, nạm vàng. Hạnh phúc suông thì cũng như bánh suông. Ăn thì ăn, nhưng chẳng thú vị gì. Ông thì ông thích những cái vô dụng, phù phiếm, cái kỳ cục, cái thừa thãi, cái chẳng dùng vào việc gì hết. Ông còn nhớ được xem ở nhà thờ lớn Stơrátxbua một cái đồng hồ to bằng ngôi nhà ba tầng; cái đồng hồ ấy cứ chỉ giờ, nó chịu khó chỉ giờ nhưng hình như nó chẳng phải làm ra để chỉ giờ. Đánh xong hồi chuông giữa trưa hay giữa đêm, trưa là giờ của mặt trời, nửa đêm là giờ của tình yêu, hay giờ gì cũng được, thì trên mặt đồng hồ lại hiện ra mặt trăng và các vì sao, đất và bể, chim và cá, thái dương thần và Hằng nga rồi một lô những thứ gì chui ở ổ ra, rồi mười hai thánh tông đồ, rồi hoàng đế Sáclơ Canh rồi Epônin và Xabinuyt, và lại thêm một đống những người nhỏ tí mạ vàng đang thổi kèn chưa kể những hồi nhạc lý thú nó ném ra giữa không trung bất cứ lúc nào, không rõ lý lẽ gì? Một cái mặt đồng hồ xấu xí trần trụi chỉ biết có chỉ giờ, hỏi có bằng cái kia không? Ông thì ông thích cái đồng hồ to ở Stơrátbua hơn, thích hơn là cái đồng hồ có độc con chim O Hướu xứ Phorê Noa kêu. Những lời ca tụng dài dòng, lão xen tất cả những tiếng văng tục từ thế kỷ mười tám. - Các anh không biết nghệ thuật khánh tiết, lão hét tướng lên như vậy. Thời buổi này các anh không biết tổ chức lấy một ngày hội. Cái thế kỷ XIX của các anh đây tồi lắm. Nó thiếu sự thái quá. Nó không biết kẻ giàu sang, người quyền quí. Về việc gì nó cũng lè tè, thấp trệt. Cái đẳng cấp thứ ba của các anh vô vị, vô hương, vô hình, vô sắc. Mấy mụ tư sản của các anh, không nói đến việc lập gia đình họ chỉ mơ có một cái khuê phòng xinh xinh, trang hoàng mới rợi, có bàn ghế bóng và rèm vải che cửa. "Đẹp! Đẹp! Anh chàng Grigu cưới cô nàng Gripơxu đây!". Huy hoàng, rực rỡ lắm! Người ta dán một đồng xu Lu-i vàng vào cây nến. Thời đại này là thế đấy! Tôi xin được chạy tránh xa. Chao ôi! Từ năm 1787, tôi đã tiên báo là hỏng rồi, hỏng tất rồi, khi tôi thấy ngài công tước Rôlăng kiêm hoàng thân Lêông, công tước Sabô, công tước Môngbadông, hầu tước Xubidơ, Tử tước Tua, Pháp quốc thượng khanh đi chơi rừng Lôngsăng trên một chiếc xe cọc cạch. Kết quả sờ sờ ra đó. Thời nay, người ta kinh doanh, người ta chơi giá khoán, người ta làm ra tiền và người ta keo kiệt. Người ta sửa soạn bên ngoài cho hào nhoáng. Trông người ta ngay ngắn, thẳng thớm, sạch sẽ, gội rửa xà phòng, cạo, chải, là, cọ sát, đánh xi-ra, bên ngoài lau chùi sạch trơn sạch bóng không chê vào đâu được, láng lậy như một hòn cuội và đồng thời, ôi! Đức hạnh của cô mèo tôi ạ! Trong đáy lương tâm có những đống phân, những hố bẩn làm thối lui những chị chăn bò vốn không ngại lấy tay xỉ mũi. Tôi ban cho thời buổi này cái châm ngôn: Sạch mà uế. Mariuytx, con đừng giận nghe, con cho phép ông chửi sơ cái đám tư sản ấy một trận. Phải rồi. Thương thì cho roi cho vọt. Vậy, nói thẳng tuột ra rằng ngày nay người ta lấy vợ lấy chồng nhưng đâu người ta có biết cách cưới xin. Ôi! Đúng quá, tôi tiếc nhớ những tục lệ dễ ưa thời trước. Tôi tiếc tất cả. Cái phong nhã, cái hào hoa, những cái xử thế duyên dáng và trang trọng, cảnh xa hoa ấm lòng của các gia đình. Âm nhạc là một thành phần của hôn lễ, tầng lớp trên thì giao hưởng, tầng lớp dưới thì trống kèn, rồi thì khiêu vũ, tiệc tùng làm rạng rỡ các gương mặt, thơ chúc tụng chải chuốt, ca hát pháo hoa, tiếng cười giòn giã, băng thắt thành nơ to tướng và gì nữa, nổi đình đám và lu bù như ngày hội quỉ. Ta đâm tiếc cái nịt tất của cô dâu. Nịt tất của cô dâu có họ gần với dải lưng của nữ thần Vênuýt. Chiến tranh Tơroa xảy ra vì gì nào? Vì chiếc nịt tất của Hêlen chứ còn gì nữa! Tại sao họ đánh nhau? Tại sao Điômêđơ thần lực lại choảng nát cái mũ đồng to tướng đính mười mũi nhọn trên đầu Mêriônê, tại sao Asilơ và Hecto xăm mình nhau bằng những phát thương dữ dội? Bởi vì Hêlen đã để cho Pari lấy chiếc nịt tất của nàng. Với cái nịt tất của Côdét thì Hôme sẽ viết một Hiađơ mới. Ông sẽ để trong trường ca của một ông lão già ba hoa như ta và ông gọi lão ấy là Mexto. Các bạn ạ, thời xưa, cái thời xưa đáng ưa ấy, người ta cưới xin một cách khoa học; ký một hôn ước chắc chắn xong thì rồi là một bữa tiệc ra trò. Bỏ bút xuống là cầm đũa. Chứ sao! Dạ dày là một con vật dễ mến, nó đòi hỏi phần nó và cũng muốn tham gia lễ tiệc. Thời ấy người ta ăn ngon, và ở bên cạnh người ta có một ả trẻ đẹp không trùm khăn, không che giấu bộ ngực mình thái quá. Chao ôi! Những cái miệng cười toe toét! Cái không khí vui sao! Thời ấy tuổi trẻ là một bó hoa. Người thanh niên nào cuối cùng cũng có một cành đinh hương hoặc một cụm hoa hồng, chiến tướng hay mục đồng đều vậy. Và nếu tình cờ mà người ta là đại úy hay long binh, thì người ta cũng cố tìm cách để có cái tên Phlôriăng. Người ta muốn được xinh đẹp. Người ta mặc áo thêu, người ta ưa sắc thắm. Một anh tư sản là một đóa hoa, một vị hầu tước là một viên ngọc. Người ta không nịt bàn chân, không đi ủng. Người ta phơi phới, nhanh nhẹn, bóng nhoáng, long lanh, chấp chới, kháu khỉnh, bảnh bao, tuy nhiên người ta vẫn đeo gươm bên sườn. Con chim đẹp lông vẫn có mỏ và móng. Thời dó là thời Ấn Độ phong tình. Thế kỷ ấy có phương diện tế nhị lại có phương diện huy hoàng. Và người ta vui nhộn đáo để, mẹ kiếp nó! Ngày nay người ta nghiêm nghị. Bọn tư sản keo kiệt, giai cấp tư sản đạo mạo và thế kỷ của các anh thật là bất hạnh. Nếu Ngọc nữ giáng trần thì người ta sẽ đuổi họ đi vì mặc áo hở quá ngực. Than ôi! Đời nay họ che giấu vẻ đẹp như là một cái gì xấu xa. Từ khi có cách mạng, ai cũng mặc quần dài, kể cả các vũ nữ. Một vai hề nữ cũng phải nghiêm nghị; những điệu hát của các anh rất giáo điều. Các anh muốn oai vệ. Nếu không cúi gằm mặt trên cà vạt thì không được! Lý tưởng của một thằng nhóc hai mươi tuổi lấy vợ là phải giống ngài Rôie Cônla. Các anh có biết cứ oai mãi cái kiểu ấy thì trở nên gì không? Trở nên nhỏ bé. Hãy nhớ điều này: Cái vui không chỉ là vui, nó còn là lớn lao hơn. Phải si tình một cách vui vẻ đi chứ, mẹ kiếp! Khi cưới vợ, anh phải cưới trong cơn sốt và cơn choáng hạnh phúc và cảnh ồn ào hỗn độn của hạnh phúc. Vào nhà thờ cần nghiêm chỉnh, phải. Nhưng mà làm lễ xong thì, quỉ thần ơi! Phải cho mộng ảo quay cuồng chung quanh cô dâu. Hôn lễ thì phải đế vương và hư ảo, phải diễu hành từ nhà thờ Ranhxơ đến chùa Săngtơlu. Tôi ghê tởm những hôn lễ đê tiện. Cao tằng cố tổ ạ! Ít nhất cái ngày hôm đó Phải ngự trên thiên đàng chứ! Phải là thần linh chứ! Chao ôi! Muốn là gì cũng được: Thần không trung, thần nô đùa, thần vui cười, hoặc là lính ngân khôi ngân giáp. Người ta là những galupia mà. Các bạn ạ, mỗi chú rể phải là một ông hoàng hoan lạc. Hãy nhân cơ hội có một không hai trong đời này mà bay bổng lên cõi thiên thanh với lũ thiên nga và chim ưng để hôm sau lại có thể rơi xuống thế giới của lũ ếch nhái tư sản. Đừng dè xẻn trên đám cưới, chớ cắt xén những huy hoàng sang trọng của nó. Chớ có đếm từng xu nhỏ trong cái ngày anh tràn ngập hào quang. Lễ tiệc không phải là việc nội trợ hàng ngày. Chao! Nếu ta được làm theo hứng thú của ta thì sẽ là. Chương trình của ta như sau: Thanh niên và bạch ngân. Ta mời các thần thôn dã, các nữ thần rừng, nữ thần biển đến dự lễ. Một hôn lễ của các nữ thần Ăngphitơrít, một đám mây hồng, những thần nữ tóc vấn đẹp đẽ, hoàn toàn khỏa thân, một vị hàn lâm dâng thơ cho nữ thần, một cỗ xe có những con quái biển kéo. Tơritông đi đầu, dùng tù và thổi. Những tiến du dương khiến ai cũng bồi hồi bổi hổi. Quả là một chương trình khánh tiết, đúng một chương trình khánh tiết, ta nói chẳng sai chút nào, mẹ kiếp! Trong lúc lão cao hứng một mình nói một mình nghe như vậy thì Côdét và Mariuytx được tự do ngắm nhìn nhau đến say sưa. Bà dì Gilơnormăng nhìn tất cả những cảnh ấy thản nhiên lạ lùng. Từ năm, sáu tháng nay, bà đã xúc động khá nhiều lần. Mariuytx trở về, Mariuytx máu me đầm đìa được khiêng về, Mariuytx khiêng ở một chiến lũy về, Mariuytx chết rồi lại sống dậy, Mariuytx làm lành với gia đình, Mariuytx đính hôn, Mariuytx lấy một con bé nghèo khổ, Mariuytx lấy một cô gái triệu phú. Lần cuối cùng bà ngạc nhiên là số tiền sáu mươi vạn phơrăng. Số tiền sáu mươi vạn ấy là niềm cảm xúc tối hậu. Sau đó bà lại lãnh đạm như trước kia. Bà lại đi lễ đều đặn, lại lần tràng hạt, lại cầu kinh những ngày lễ và những ngày chủ nhật, ba ngồi trong một xó nhà thì thầm đọc kinh "Kính Bà", trong khi ở một xó khác người ta thì thầm "I love you"; bà lờ mờ nhìn thấy Mariuytx và Côdét như hai cái bóng. Nhưng chính bà mới là một cái bóng. Có một lối khổ lạnh đến trì độn, tâm hồn người ta tê liệt, như vô tri, không biết là cuộc đời, chỉ trừ khi động đất hay khi tai biến, còn chẳng biết gì là tình cảm con người, vui sướng không, đau khổ cũng không. Lão Gilơnormăng bảo con gái: - Cái lối sùng đạo ấy cũng như ngạt mũi vậy. Con chả biết mùi đời là cái gì. Không thấy thơm mà cũng chẳng thấy thối. Dù sao thì sáu mươi vạn phơrăng cũng làm cho bà gái già thôi không phân vân nữa. Lão Gilơnormăng chẳng mấy khi đếm xỉa đến bà, nên việc cưới của Mariuytx, lão cũng chẳng hỏi ý kiến gì bà. Lão cứ làm theo lối bốc đồng của lão; từ một ông chúa chuyên chế lão trở thành một con người nô lệ, lão chỉ có độc một ý nghĩa là làm thỏa lòng Mariuytx. Còn bà dì kia, dù bà sờ sờ ra đấy hay có ý kiến gì, lão không thèm để ý tới. Dù lành như đất, bà dì cũng phải phật ý. Trong thâm tâm, bà cũng có phần phần uất, nhưng bề ngoài vẫn thản nhiên; bà tự bảo: "Cha mình định đoạt việc cưới xin này không hỏi ý gì mình; mình sẽ giải quyết việc gia tài không hỏi gì cha mình". Bởi vì bà dì giàu, còn ông bố thì không có gì, hẳn bà ta mặc kệ cho nó nghèo xác. Thây xác ông cháu. Đã cưới một con xơ xác thì cho xơ xác. Nhưng thấy Côdét có sáu mươi vạn, bà rất hài lòng; số tiền ấy thay đổi vị trí của bà trong gia đình đối với cặp tình nhân kia. Phải trọng cái số tiền sáu mươi vạn chứ! Và cố nhiên không thể không để gia tài cho họ được, bởi vì bây giờ họ không cần đến nữa. Người ta thu xếp cho đôi vợ chồng ở trong buồng lão Gilơnormăng. Lão nhất định nhường cho họ cái buồng của lão, cái buồng đẹp nhất trong nhà. Lão nói: Có lẽ tôi mới trẻ lại được. Đó là dự định cũ. Tôi vẫn định tổ chức cưới trong buồng của tôi. Lão cho kê ở trong buồng một đống những đồ lặt vặt cũ đỏm dáng. Lão cho căng một tấm vải rất to làm bằng trần nhà; miếng vải nguyên xấp, lão bảo hình như mua ở Utơrết, nền xanh tanh màu hoa mao lương, thêu hoa nhung màu hoa liên hình. Lão bảo tấm vải ấy là loại vải làm khăn trải giường của Ăngvi công tước phu nhân ở lâu đài Larốtsơ Guyông. Lão bày trên lò sưởi một bức tượng xứ Xaxơ nho nhỏ ôm con chó trên cái bụng tênh hênh. Cái phòng sách của lão Gilơnormăng này dùng làm văn phòng trạng sư cho Mariuytx; ta còn nhớ hội đồng luật sư bắt trạng sư nào cũng phải có văn phòng riêng.
QUYỂN VI- ĐÊM TRẮNG I Chương I Bấm để xem Đêm 17 rạng 17 tháng hai 1833 là một đêm tốt lành. Ở trên khoảng bóng tối đêm sâu, vòm trời quan đãng. Đêm ấy là đêm hôn lễ của Mariuytx và Côdét. Cả hai ngày vừa qua cũng rất đẹp. Hôn lễ này không phải là ông ngoại mơ tưởng, nghĩa là một ngày hội thần tiên có vô số thiên thần và thần đồng bay lượn trên đầu đôi vợ chồng mới cưới, một hôn lễ đáng chạm lên viền cửa. Tuy nhiên cũng rất êm đềm và vui vẻ. Cách cưới xin năm 1833 khác với ngày nay. Hồi đó, nước Pháp chưa mượn của nước Anh cái kiểu tế nhị tối cao là đem ngay vợ đi sau khi ở nhà thờ ra, trốn một nơi nào đó vì xấu hổ với cảnh hạnh phúc của mình, và phối hợp hành tung của một anh vỡ nợ với niềm say sưa của thiên Thần tụng. Hồi đó, người ta chưa hiểu tính chất thanh khiết, đoan trinh và lý thú của việc cho hạnh phúc của mình nhồi xóc trong xe trạm, lấy tiếng lóc cóc của bánh xe làm nhịp cho nói huyền bí riêng tư, dùng giường quán làm giường cưới; lại còn trả một đêm một số tiền về cái buồng chung chạ để lưu lại đằng sau mình cái kỷ niệm thiêng liêng nhất lẫn lộn với những cảnh đối diện với anh xà ích và chị gái quán. Ở nửa sau cái thế kỷ mà chúng ta đang sống đây, ông xã trưởng với chiếc băng choàng, ông cố đạo với cái áo lễ, pháp luật và Chúa không đủ nữa. Phải bổ sung bằng anh đánh xe trạm ở Lônggiuynô; áo vét xanh viền đỏ, cúc hình nhạc đồng, lập lắc đeo tay, quần cộc bằng da mầu xanh, thét chửi để thúc những con ngựa Noócmăng buộc đuôi, cầu vai giả, mũ đánh bóng, tóc rắc phấn, roi to, ủng khỏe. Người Pháp chưa nâng mức mỹ lệ lên đến chỗ tổ chức cho người ta ném một trận mưa giầy sờn giày dép cũ lên mái xe của đôi vợ chồng mới cưới, như giới thượng lưu Anh; cái tục lệ đó được đặt ra tưởng nhớ Sơcsin, từ khi Mácbôrút cưới vợ mà bị bà cô nổi trận lôi đình và cái lôi đình đó mang may mắn đến cho ông ta. Nhưng hãy kiên nhẫn, mỹ tục còn phát triển thì rồi chúng ta sẽ đến đó thôi. Một trăm năm trước cái thời 1833, người ta không tổ chức lễ cưới trên xe ngựa đi nước kiệu lớn. Thời đó, người ta nghĩ một cách kỳ quặc rằng hôn lễ là một ngày lễ gia đình và xã hội, và một bữa tiệc gia tộc không làm hỏng vẻ long trọng thân tình; người ta cho là vui nhộn dù thái quá mà lành mạnh vẫn không làm thiệt gì cho hạnh phúc; cuối cùng, nếu việc hòa hợp hai số kiếp mà bắt đầu từ nhà cha mẹ, và từ đó buồng cưới sẽ là người chứng của đôi vợ chồng trẻ, thì chỉ có tốt và thành kính thôi. Nghĩ như thế cho nên thời đó người ta trâng tráo làm đám cưới tại nhà. Vậy nên hôn lễ Mariuytx cử hành ở nhà lão Gilơnormăng, theo cái mốt ngày xưa lỗi thời. Dù việc cưới xin là việc tự nhiên, việc thường ngày nhưng mọi thủ tục niêm yết, giấy tờ phải làm, công việc ở thị sảnh, ở nhà thờ, bao giờ cũng có vài rắc rối. Cho nên không thể thu xếp xong trước ngày 16 tháng hai. Cũng chỉ nói thêm cho chính xác thôi, ngày 16 lại trúng vào ngày lễ "Thứ ba béo". Mọi người do dự, ngại ngần nhất là bà dì Gilơnormăng. Nhưng lão Gilơnormăng bảo: - Thứ ba béo! Càng tốt! Tục ngữ có câu: Cưới ngày thứ ba béo Không sinh con bạc bẽo Cứ như vậy, 16 thì 16. Mariuytx, con muốn hoãn chăng? - Hẳn là không ạ. Anh chàng si tình trả lời. - Thế thì cứ cưới đi. Ông già nói. Đám cưới tổ chức ngày 16, bất chấp chuyện vui công cộng. Hôm ấy trời mưa, nhưng một đôi trai gái yêu nhau lúc nào cũng tìm thấy một mảnh trời dành riêng cho họ, dù mưa đổ khắp nơi. Ngày hôm trước Giăng VanGiăng đã giao cho Mariuytx, trước mặt lão Gilơnormăng, số tiền năm trăm tám mươi bốn nghìn phơrăng. Cuộc hôn nhân làm theo chế độ cộng đồng tài sản[1] cho nên giấy tờ cũng đơn giản. Bà Tút xanh, Giăng VanGiăng không cần nữa, Côdét được thừa hưởng và nâng lên làm hầu phòng. Còn Giăng VanGiăng thì ở nhà lão Gilơnormăng đã có một gian phòng xinh xắn xếp đặt riêng cho ông ta; Côdét đã bảo ông: "Cha ơi! Con van cha đấy", thiết tha đến nỗi Giăng VanGiăng phải hầu như hứa với nàng ông sẽ đến ở. Mấy hôm trước ngày cưới, Giăng VanGiăng gặp một điều không may. Ông bị dập nhẹ ngón tay bên phải. Vết thương không nặng lắm, ông không để cho ai săn sóc, băng bó cho ông, cũng không để cho ai trông thấy nữa, cả Côdét cũng vậy. Nhưng ông cũng phải lấy vải quấn bàn tay và treo cánh tay lên vai ông không ký được vào giấy tờ. Lão Gilơnormăng đỡ đầu dự khuyết cho Côdét phải thay ông ký. Chúng tôi không dẫn độc giả đến thị sảnh hay nhà thờ. Người ta không lẽo đẽo đi theo đôi trai gái yêu nhau cho đến tận đây; thường thường khi chú rể đã gài vào ve áo cánh hoa chú rể thì mọi người quay lưng không đi sâu vào cuộc tình duyên kia nữa. Chúng tôi chỉ kể lại một sự việc mà những người dự đám cưới không để ý tới, xảy ra trên quãng đường từ phố Phiơ đuy Canve đến nhà thờ XanhPôn. Lúc bấy giờ người ta đang lát lại cầu đường phía Bắc phố Xanh Luy, xe cộ bị chặn lại từ ngang phố Pácroaina. Đoàn xe đám cưới không thể đi thẳng đến nhà thờ XanhPôn. Bắt buộc phải đi lối khác, đơn giản nhất là vòng phía đại lộ. Một người dự đám cưới bảo đại lộ sẽ vướng rất nhiều xe vì là ngày hội thứ ba béo. Lão Gilơnormăng hỏi: - Vì sao? – Người kia trả lời: - Vì có những đoàn người trá hình[2] . Lão đáp: - Tuyệt lắm! Cứ đi lối ấy. Hai trẻ lấy nhau, chúng sắp vào cuộc đời, cũng nên để cho chúng làm quen với cái trò trá hình này một chút. Đám cưới đi về phía đại lộ. Chiếc xe hòm đầu tiên là xe Côdét, có bà dì Gilơnormăng, lão Gilơnormăng và Giăng VanGiăng. Mariuytx ngồi chiếc xe thứ hai vì theo tục bấy giờ chú rể chưa được ngồi cùng cô dâu. Đoàn xe cưới đi khỏi phố Phiơ đuy Canve thì xếp ngay vào dãy xe dài vô tận từ phố Mađơlen đến nhà Bátsti và từ nhà Bátsti đến phố Mađơlen. Trên đường đầy dẫy những người trá hình. Mặc dầu thỉnh thoảng trời lại mưa, bọn hề vẫn đi giễu. Với cái không khí vui nhộn mùa đông năm 1833 ấy, Pari đã biến thành Vơnidơ[3] . Bây giờ thì không còn những ngày hội thứ ba béo như thế nữa vì không còn những cuộc diễu trá hình của dân chúng. Hai bên lề đường chật ních người qua lại, cửa sổ đầy những bộ mặt tò mò, những hàng hiên các rạp hát cũng chen chúc người xem. Người ta xem những người trá hình, người ta xem cái dãy xe đủ kiểu như ở trường đua Lôngsăng, đi rất trật tự theo kỷ luật đi đường của cảnh sát, xe nọ bám xe kia như trên đường ray. Người ngồi trên xe vừa được xem vừa được người ta xem. Những viên đội cảnh binh ở hai vệ đường đứng giữ trật tự, để cho hai dãy xe vô tận đi song hành ngược chiều với nhau không va chạm gì như hai dòng suối, một chảy xuôi về đường Đăngtanh, một chảy ngược lên ô Xanh Ăngtoan. Xe mang huy hiệu của những vị đại thần và đại sứ đi lại tự do ở giữa lòng đường. Một vài đoàn hoa lệ vui nhộn, đặc biệt là đám rước Bò béo, cũng hưởng đặc quyền ấy. Nước Anh vút roi trên cảnh vui nhộn của Pari, xe trạm của huân tước Xâynua chạy qua ầm ĩ, với một mệnh danh dân gian bám theo sau. Trong hai dãy xe, có những lính cảnh vệ phi ngựa kèm dọc theo như những con chó chăn cừu, người ta thấy đây đó những cỗ xe nhà hiền lành chật cứng những bà dì, bà cô, bà cố. Trong khung ửa các xe đó, có những trẻ con trá hình; hề lên bảy, hề gái lên sáu; những người bé rất dễ yêu đó cảm thấy mình được chính thức tham gia và tỏ ra nghiêm trang như những viên chức. Thỉnh thoảng lại tắc nghẽn khiến một trong hai dãy xe xuôi ngược phải dừng lại, cho đến khi gỡ xong cái nút rối. Một chiếc xe vướng thì cả dãy xe bị tê liệt. Sau đó dòng xe lại chuyển bánh. Đoàn xe đám cưới ở trong dãy xe đi về phía nhà Bátsti dọc theo phía bên phải đại lộ. Đến ngang phố Pôngtôsu đoàn xe ngược lại một lát. Vừa đúng lúc ấy, ở bên kia đường, dãy xe đi về phố Mađơlen cũng dừng lại. Ngay chỗ ấy có một chiếc xe trá hình. Những chiếc xe ngựa, hay nói đúng hơn những chiếc xe bò chở người trá hình ấy, người dân Pari rất quen thuộc. Nên ngày thứ ba béo, hay nghỉ lễ giữa tuần chay mà không có những chiếc xe trá hình ấy thì nhân dân cho là có điều gì không hay, và sẽ bàn tán: Chắc có ẩn tình gì đây. Có lẽ nội các thay đổi mất! Những Cátxăng, Áccơlanh Côlôngbin[4] lóc xóc trên những chiếc xe ấy, ngất ngưởng trên đầu khách bộ hành, những người lố lăng nhất, từ anh chàng Thổ trá hình đến người đóng mọi rợ, những đô lực sĩ nâng những bà hầu tước, những mụ hàng cá khiến đến Rabơle[5] phải bịt tai, những mụ lẳng lơ làm cho Arixtophan[6] phải cúi mặt, tóc giả bằng sô gai, may ô hồng, mũ công tử vỏ, kính thằng hề, mũ ba sừng có con bướm vờn của Gianô, tiếng la ó ném xuống người bộ hành, hay chống nạnh, đủ các bộ điệu lõa lồ, vai trần, mặt nạ, cả một mớ trò trâng tráo do một anh xà ích đội mũ hoa đưa diễu qua đường; đó là tục lệ xe trá hình. Hy-lạp cũng có thể nhai được, rập được, kể cả bản khuôn rập. Ngày hội Xatuyết, cái nhăn nhó của vẻ đẹp cổ đại ấy, từ phóng đại này đến phóng đại khác, đã trở thành ngày thứ ba béo; ngày xưa có vành cành nho, tràn trề ánh nắng, với những bộ ngực cẩm thạch phơi bày trong cảnh bán khỏa thân thần thánh, ngày nay đã nhũn đi dưới cái tã ướt sũng phương Bắc, rốt cục đã mang cái tên gọi là ngày hội mặt nạ. Tục diễu xe trá hình xuất hiện từ những thuở xưa xa xưa của chế độ quân chủ. Sổ sách của Luy XI cấp cho quan quản các "hai mươi xu đúc ở Tua về ba cỗ xe trá hình ở ngã tư". Ngày nay những mớ người ồn ào quái lạ ấy chồng đống nhau lên những chiếc xe ngựa hai bánh cổ lổ mui xuống; hàng hai mươi người chồng chất lên một chiếc xe sáu chỗ; trên ghế chính, trên ghế phụ, trên vành mui, trên gọng xe; đứng nằm, ngồi, quặp chân vào, thõng chân xuống, đàn bà ngồi trên gối đàn ông. Tất cả hai núi người điên cuồng vui nhộn ấy, từ đằng xa đã thấy nổi lên trên làn sóng đầu người. Những xe người ấy tạo nên những núi nhộn giữa đám đông lộn xộn. Côlê, Pana và Pirông từ đó mà ra, giàu có thêm bao nhiêu tiếng lóng. Từ trên chót vót ấy, người ta phun những lời nhật tụng thô tục xuống công chúng. Chiếc xe chồng đống chương khê ấy nghênh ngang kiêu hãnh trên đường: Ồn ào đằng trước, ầm ĩ sau lưng, chửi rủa, hò hét, kêu gào, quằn quại vì sung sướng; vui cười gầm thét lên, chế nhạo nẩy lửa, bông lơn phô trương màu đỏ sực, hai con lừa khổ kéo chiếc xe chiến thắng của thần Cười. Nhưng vui cười trâng tráo quá nên cũng không thể là thành thật. Cái vui nhộn ấy có một cái gì đáng nghi ngờ. Cái vui nhộn ấy có một nhiệm vụ làm cho người dâu Pari tin ở trò vui ấy. Những chiếc xe hàng tôm, hàng cá giấu giếm một cái gì tối tăm làm người hiểu biết phải suy nghĩ. Có bàn tay của chính phủ trong đó. Người ta sờ thấy ở giữa những người nhà nước và những người nhà thổ một mối quan hệ bí mật. Chồng chất ô nhục để làm ra vui nhộn, lấy xấu xa nhơ nhuốc để cám dỗ dân chúng, một đồng một cốt, thằng ngô con đĩ vừa làm trò vui cho quần chúng vừa đương đầu quần chúng, cả cái đống người kinh khủng ấy diễu trên bốn chiếc bánh xe những mớ tã hào nhoáng nửa rác rưởi, nửa ánh sáng, vừa sủa vừa hát làm cho quần chúng vui phá lên, vỗ tay hoan nghênh cái vinh quang làm bằng ô nhục, rồi phải có cả một đội cảnh sát điều khiển những con giao long hai mươi đầu ấy, có thể mới làm được hội hè cho nhân dân, thì thật cũng đáng buồn, nhưng biết làm thế nào? Những chiếc xe cộ bùn nhơ rác rưởi kết hoa, kết dải ấy quần chúng vừa chửi vừa tha thứ. Tiếng cười chung ấy như đồng lõa với sự sa đọa cũng như bọn bạo chúa đều ưa thích những thằng hề. Vua có Rôcơlơrơ, dân có Paidatxơ. Pari là thành phố lớn cuồng vui mỗi khi nó không là thành phố lớn tuyệt diệu. Hội hè là bộ phận của chính trị. Phải thú nhận là Pari vui lòng xem diễn trò qua sự ô nhục. Nó chỉ đòi hỏi ở những ông chủ - khi nó có chủ - một điều thôi là bôi son trát phấn cho bùn nhơ. Rômơ cũng có tính cách ấy: Rômơ ưa Nêrông, Nêrông là một anh hề chợ phiên khổng lồ. Chúng tôi đã nói tình cờ một đống người kỳ quái ấy gồm cả đàn bà và đàn ông trá hình lắc lư trên một chiếc xe rộng lớn, dừng lại ở phía trái đại lộ khi đoàn xe cưới dừng ở bên ngoài. Chiếc xe trá hình bên kia đường nhìn thấy chiếc xe cô dâu đối diện ở bên này. - Kìa một đám cưới. Một người trá hình kêu lên. - Đám cưới giả. Một người khác trả lời. Chúng ta mới là đám cưới thật. Vì quá cách xa, họ không réo gọi đám cưới kia được và cũng sợ bọn cảnh binh can thiệp, hai người này quay nhìn chỗ khác. Tất cả cái đám người trên xe trá hình ấy cũng đang gặp lúc khó khăn, họ đành phải đối đáp với tất cả quần chúng dưới lòng đường đang la ó giễu cợt họ, đó là cánh đám đông mơn trớn các xe trá hình, hai người trá hình trên kia cũng phải nhập với cả bọn để đương đầu với đám dân chúng kia, những tiếng động thô tục hàng tôm hàng cá tung ra tất cả cũng không thừa để đối đáp lại những tràng văng tục của công chúng. Giữa hai bên có sự thay đổi gớm ghiếc những lời bóng gió. Khi đó hai người trá hình khác cùng trong chiếc xe ấy, một đóng vai Tây ban Nha với cái mũi khổng lồ, một vẻ người già nua và bộ ria đen cùng với mụ hàng cá gầy gò, còn là con gái, mang một cái mặt nạ chó sói; hai người này cũng nhận thấy đám cưới. Khi mọi người trá hình trên xe và quần chúng ở dưới la ó chửi bới nhau thì hai người này nói chuyện riêng. Câu chuyện riêng ấy chìm ngập trong tiếng ồn ào. Những làn mưa đổ xuống, làm ướt đẫm cả chiếc xe rộng không mui. Gió tháng hai cũng chẳng ấm nào, mụ hàng cá mặc áo hở vai vừa trả lời người Tây Ban Nha vừa run cầm cập, cười và ho luôn luôn. Đây là lời đối đáp của họ. - Này! - Cái gì ông bố? - Mày có trông thấy lão già kia không? - Lão kia, trong xe cưới thứ nhất, ngồi bên phía chúng ta. - Lão có cánh tay treo bằng cái dải đen ấy à? - Phải. - Thế làm sao? - Tao nhận được nó, chắc lắm. - Thế à? - Tao mà không nhận ra cái lão Pariđiêng này thì cứ xin cắt cổ tao đi, và cả đời tao không nói anh, mày, tao gì được sất. - Hôm nay Pari thật là trò múa rối. - Mày cúi xuống một chút xem có trông thấy cô dâu không? - Không. - Chú rể? - Chú rể không có ở trong xe ấy. - Hừ! - Họa chú rể là lão già thứ hai ấy! - Cúi nữa! Cố nhìn thấy cô dâu. - Không thể được. - Thôi cũng được, cái lão già buộc cẳng tay kia chắc chắn là tao biết. - Bố biết thì làm cái gì? - Biết đâu đấy, có khi. - Bọn lão già thì được cái thá gì? Tôi cóc cần. - Tao biết hắn. - Thì cứ tha hồ. - Thế quái nào mà hắn lại dự cái đám cưới này nhỉ? - Thế thì chúng ta cứ dự đám cưới cả chứ sao? - Đám cưới này ở đâu nhỉ? - Tôi biết hẳn? - Này nghe tao. - Cái gì? - Xuống xe và theo dõi đám cưới này. - Để làm gì? - Xem đám cưới ấy ở đâu, đám cưới ấy là gì. Mau lên. Xuống xe đi, con gái của bố, con là thanh niên mà. - Tôi không rời được cái xe này. - Sao thế? - Người ta mướn tôi. - Bực nhỉ! - Tôi phải làm con mẹ hàng cá một ngày, cho trên sở. - Ừ nhỉ. - Nếu tôi rời khỏi cái xe này thì viên thanh tra cảnh sát đầu tiên trông thấy tôi sẽ là bắt ngay tôi. Bố biết chứ? - Phải, tao biết. - Ngày hôm nay chính phủ mua tôi rồi. - Không sao. Nhưng cái lão già kia làm tao bực mình. - Những lão già làm bố bực mình à, nhưng bố có phải là con gái đâu. - Hắn ở trong xe thứ nhất. - Thế sao? - Trong xe có cô dâu. - Rồi sao? - Thế thì hẳn là bố. - Thế thì việc gì đến tôi? - Tao bảo hắn là bố mà. - Không phải chỉ có người bố ấy thôi. - Này nghe tao. - Cái gì? - Tao, tao phải trá hình mới ra ngoài này được. Ở đây tao giấu mặt được, không ai biết tao là ai. Nhưng ngày mai không còn mặt nạ nữa. Mai là ngày thứ tư lễ Tro rồi. Tao ra đường sẽ bị tóm nên phải chui vào lỗ thôi. Mày, mày có thể đi lại tự do được. - Chẳng tự do lắm. - Cũng tự do hơn tao rồi. - Thế thì sao? - Mày có cố dò xem đám cưới này đi đến đâu. - Đến đâu à? - Phải. - Thế thì biết rồi. - Thế nó đến đâu? - Đến Cađơrăng Bơlơ. - Không phải về phía ấy. - Thế thì đến Larapê. - Hoặc thì chỗ khác. - Nó đến đâu thì đến, đám cưới là tự do. - Không phải chuyện ấy. Tao bảo mày phải cố tìm ra cho tao cái đám cưới ấy là đám cưới gì, cái đám cưới có lão già ấy, cái đám cưới ấy ở đâu? - May nhỉ! Chuyện đùa đấy! Dễ tìm ra được một đám cưới ở Pari trong ngày hội thứ ba béo, tám ngày sau! Đáy bể mò kim. Dễ thường làm được đấy hẳn? - Muốn thế nào, phải cố tìm cho ra, nghe chưa Adenma? Hai dãy xe lại chuyển bánh đi ngược chiều nhau hai bên đại lộ; chiếc xe trá hình không nhìn thấy chiếc xe cô dâu nữa. [1] Của bỏ chung, vợ và chồng không giữ của riêng [2] Tí quậy nghĩ rằng sử dụng từ "lễ hội hóa trang" phù hợp hơn [3] Một thành phố thương mại thuộc nước Ý, rất trù phú hồi thế kỷ thứ XIV-XV, ở đây nhân dân thường tổ chức những ngày hội trá hình [4] Nhân vật hề của rạp hát [5] Nhà văn tròa phúng Pháp thế kỷ XVI [6] Nhà văn trào phúng thời cổ Hy lạp
QUYỂN VII - DỐC CẠN CHÉN TÂN TOAN Chương I Bấm để xem Những sáng hôm sau lễ cưới thường vắng lặng. Người ta tôn trọng cái hạnh phúc của những người sưng sướng và cũng có phần nào tôn trọng cả giấc ngủ muộn của họ. Những cuộc thăm viếng và chúc mừng ồn ào ít lâu sau mới bắt đầu. Sáng hôm 17 tháng hai, đã quá trưa một lát, Bátscơ, chiếc khăn lau và cái chổi lông cặp dưới nách đang "đang túc trực ở chái ngoài" bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Người ta không kéo chuông, những ngày ấy không kéo chuông là lịch sự. Bátscơ mở cửa và thấy ông Phôsơlơvăng. Anh đưa ông vào phòng khách hãy còn bừa bãi, đảo lộn như bãi chiến trường của những cuộc vui hôm trước. Bátscơ nói khéo một câu: - Chà! Thưa ông chúng tôi dậy hơi muộn. - Ông chủ nhà anh đã dậy chưa? Giăng VanGiăng hỏi. - Cánh tay của ông đã đỡ chưa ạ? Bátscơ trả lời. - Khá hơn. Ông chủ anh đã dậy chưa? - Ông chủ nào ạ? Ông chủ cũ hay ông chủ mới ạ? - Ông Pôngmécxi. - Ngài nam tước ấy ạ? Bátscơ ngẩng đầu lên hỏi lại như vậy. Người ta quan kia tước nọ trước hết là để cho kẻ ăn người ở trong nhà. Họ cũng lợi một phần nào. Mà nhà hiền triết đã nói họ cũng được vấy một chút cái chức tước ấy lên người, họ lấy thế làm hãnh diện. Là một chiến sĩ cộng hòa đã từng chiến đấu vì lý tưởng, nay Mariuytx trở thành nam tước bất đắc dĩ. Một cuộc cách mạng nhỏ đã xảy ra trong gia đình xung quanh cái tước vị ấy. Bây giờ chính lão Gilơnormăng tha hiết nói với nó còn Mariuytx thì lại thờ ơ, nhưng đại tá Pôngmécxi đã giối lại: Con tôi sẽ mang chức tước của tôi, Mariuytx tuân theo lời di chúc ấy. Còn Côdét nữa, nàng cũng rất sung sướng được làm nam tước phu nhân bởi vì tâm lý người đàn bà đã chớm nở trong cô gái nỏ. Bátscơ nhắc lại: - Ngài nam tước ấy à? Để tôi vào xem. Tôi sẽ bảo là ông Phôsơlơvăng đã đến ạ. - Đừng, đừng nói là tôi. Chỉ bảo với ông ấy là có người muốn được gặp để nói chuyện riêng với ông ấy thôi, đừng nói tên. Bátscơ ngạc nhiên kêu: - Thế à! - Tôi muốn dành cho ông ấy một sự bất ngờ. - Thế à! Bátscơ nhắc lại tiếng "thế à" này như để giải thích chữ "thế à" trước. Rồi hắn đi ra. Giăng VanGiăng một mình ở trong phòng. Phòng khách rất bề bộn như chúng ta đã thấy. Nếu lắng tai nghe thì hình như còn thấy dư âm ồn ào của buổi tiệc cưới hôm trước. Hoa rơi đầy dưới sàn, mọi thứ hoa, từ đây hoa trong phòng, từ vành hoa trên mũ rụng xuống. Nến cháy đến tận gốc còn để lại trên đèn treo pha lê những dòng thạch nhủ bằng sáp. Không một chiếc bàn ghế nào ở yên chỗ cả. Góc nào cũng có ba bốn chiếc ghế tựa kéo lại gần nhau hình như còn tiếp tục câu chuyện thân mật. Cả gian phòng còn giữ vẻ tươi vui. Một tối vui tàn rồi vẫn còn ít nhiều thi vị. Đêm qua chắc là vui lắm. Trên mấy chiếc ghế lộn xộn giữa những bông hoa tàn tạ, dưới những cây nến đã tắt, người ta phải nghĩ đến cảnh vui. Đèn đã tắt nhưng mặt trời kế vị đã vui vẻ ùa vào trong phòng. Mấy phút qua. Từ khi Bátscơ đi ra, Giăng VanGiăng vẫn đứng yên một chỗ, mặt ông xanh xao, mắt trũng vì mất ngủ, sâu hõm như là biến đi đâu. Những nếp gấp trên chiếc áo dài đen của ông cũng nhòa đi và đã thức thâu đêm. Khuỷu tay áo dạ dính chỉ trắng vì cọ xát vào vải lót giường. Giăng VanGiăng nhìn xuống bóng cửa sổ mà mặt trời in trên sàn ở dưới chân mình. Cửa có tiếng động, ông ngẩng lên. Mariuytx bước vào, đầu ngẩng cao, miệng tươi cười, một thứ anh sáng chan hòa trên khuôn mặt, vầng trán rạng rỡ, mắt ngời ngời. Chàng cũng cả đêm không ngủ. Thấy Giăng VanGiăng chàng kêu lên: - Cha đấy à! Thế mà cái thằng ngốc Bátscơ ấy làm ra vẻ bí mật. Nhưng sao cha đến sớm thế? Mới có mười hai giờ rưỡi. Côdét còn ngủ. Cái tiếng cha mà Mariuytx gọi ông Phôsơlơvăng có nghĩa là tràn trề hạnh phúc. Ta đã biết giữa hai người đó trước đây vẫn có cái gì ngăn cách cái gì lạnh nhạt gò bó, một dải băng phải đập vỡ hay phải làm cho tiêu tan ra. Mariuytx lúc này say sưa đến mức san phẳng được bức tường ngăn cách, làm tan được dải băng lạnh giá: Ông Phôsơlơvăng đối với chàng bây giờ là một người cha cũng như đối với Côdét. Chàng nói tiếp, lời nói vội vàng, dồn dập như lúc người ta vui sướng cực độ: - Cha đến con mừng quá đi thôi! Nếu cha biết hôm qua chúng con nhớ cha như thế nào! Chúc cha vui khỏe ạ. Tay cha thế nào? Dễ chịu hơn rồi chứ. Chàng vui sướng vì câu tự trả lời tốt đẹp kia của chàng nên lại nói luôn: - Chúng con đã nói chuyện nhiều về cha! Côdét yêu cha lắm lắm! Cha đừng quên rằng cha có phòng riêng ở đây. Chúng con không thích cái phố Lomácmê nữa, không thích tí nào. Sao cha lại lần mò đến ở cái phố ấy được, cái phố bệnh hoạn, kêu rên, xấu xí, lạnh lẽo ấy, cái phố có chắn một đầu, cái phố không bước vào được ấy. Cha sẽ đến ở đây ngay hôm nay. Nếu cha không đến thì sẽ lôi thôi với Côdét đấy. Con báo cho cha biết là Côdét ghê gớm lắm, cô ấy muốn xỏ mũi mọi người mà dắt. Cha đã biết cái phòng của cha rồi, ở ngay sát phòng chúng con, có cửa đi ra vườn hoa, ổ khóa đã sửa lại, giường ngủ đã dọn xong, cha chỉ việc đến thôi. Côdét đã đặt gần giường cha một cái ghế bành cổ, to, lót nhung uy tơ rếch, nàng đã bảo cái ghế: "Mày dang tay niềm nở ra đón cha ta nhé!". Mùa xuân nào ở rặng cây kim hợp trước cửa sổ cũng có một con họa mi. Hai tháng nữa thì nó đến. Bên phía trái cha là cái tổ họa mi, bên phải cha là tổ của chúng con. Ban đêm chim họa mi hót. Ban ngày Côdét chuyện trò. Phòng của cha hướng chính nam, Côdét sẽ xếp sách, truyện của cha, cuốn du lịch của đại úy Cúc và Văngcuvơ[1], tất cả đồ dùng của cha và hình như có cả chiếc hòm nhỏ cha rất yêu quý; con đã dành một chỗ danh dự cho cái hòm ấy. Cha đã chinh phục được ông ngoại con, ông ngoại con mến cha lắm. Chúng ta sẽ sống với nhau. Cha biết chơi bài Anh không? Nếu cha biết chơi thì ông con không đòi hỏi gì nữa. Khi con bận việc ở tòa án thì cha sẽ đưa Côdét đi chơi, cha sẽ khoác tay nàng như hồi trước ở vườn Luýchxămbua, cha nhớ chứ? Chúng con quyết định tận hưởng hạnh phúc. Cùng với cha, cha nghe chưa. A! Thế cha ở ăn sáng với chúng con chứ? - Thưa ông - Giăng VanGiăng nói – tôi có một điều muốn nói với ông. Tôi nguyên là một thằng tù khổ sai. Giới hạn những tiếng âm cao tai mà người ta có thể nghe được, trí người ta có thể tưởng tượng được cũng có thể vượt qua. Những tiếng: "Tôi nguyên là một thằng tù khổ sai" vừa ở miệng ông Phôsơlơvăng đập vào tai Mariuytx, cũng đi qua giới hạn ấy. Mariuytx không nghe thấy. Chàng chỉ biết rằng chỉ có người vừa nói cái gì với chàng, nhưng chàng không biết là nói cái gì. Chàng sững sờ. Bây giờ chàng mới nhận thấy là người đag nói chuyện với chàng trông thật dễ sợ. Vừa rồi quáng mắt vì sung sướng, chàng đã không nhận thấy cái vẻ mặt xanh xao ghê sợ ấy. Giăng VanGiăng tháo cái băng vải đen buộc treo cánh tay phải ông, mở miếng vải bó bàn tay, giơ ngón tay cái cho Mariuytx xem và nói: - Bàn tay tôi không việc gì cả. Mariuytx nhìn ngón tay cái. Giăng VanGiăng nói tiếp: Tôi không hề đau ngón tay ấy bao giờ. Quả thật không có một dấu thương tích nào. Giăng VanGiăng nói tiếp: - Tôi không có mặt ở đám cưới của ông là hợp lẽ. Tôi đã cố hết sức để vắng mặt nhiều nhất. Tôi đã vẽ ra cái vết thương này để khỏi phải phạm một tội giả mạo, để khỏi làm cho những giấy tờ giá thú vô hiệu lực, để khỏi phải ký. Mariuytx lắp bắp: - Thế nghĩa là làm sao? Giăng VanGiăng trả lời - Nghĩa là tôi đã từng làm khổ dịch dưới chiến thuyền. Mariuytx hoảng hốt kêu lên: - Ông làm tôi phát điên. Giăng VanGiăng nói: - Ông Pôngmécxi này, tôi đã khổ sai mười chín năm. Vì ăn cắp. Rồi tôi bị kết án khổ sai chung thân vì ăn cắp và tái phạm. Hiện nay tôi là người vi phạm án câu thúc. Mariuytx cố lùi bước trước sự thật, cố phủ nhận sự việc, cưỡng lại hiển nhiên, nhưng rồi cũng phải khuất phục. Chàng bắt đầu hiểu, và điều này cũng thường xảy ra trong những trường hợp tương tự, chàng còn hiểu quá sự thật nữa. Có một tia sáng vừa bừng lên trong trí óc khiến chàng rùng mình. Một ý kiến thoáng qua trong tương lai một số mệnh ghê tởm cho chàng. Chàng thét lên: - Nói tất cả, nói hết đi. Ông là cha của Côdét kia mà. Rồi chàng lùi lại hai bước, với dáng điệu ghê tởm không tả được. Giăng VanGiăng ngẩng đầu lên, dáng người lẫm liệt khiến ông như cao đến trần nhà. - Thưa ông! Ông cần phải tin lời tôi nói ở đây. Tuy rằng lời thề của những người như chúng tôi không được công lý thừa nhận.. Đến đây ông dừng lại im lặng rồi nói tiếp từ từ, dằn từng tiếng một với một thứ uy nghi tuyệt đối và bi đát. * * * Ông tin tôi. Tôi là cha của Côdét ư? Trước mặt Chúa tôi bảo tôi là không phải! Thưa ông nam tước Pôngmécxi, tôi là một nông dân ở Phavơron, tôi làm nghề xén cây. Tên tôi không phải là Phôsơlơvăng, tên tôi là Giăng VanGiăng. Tôi không là gì đối với Côdét cả. Ông hãy yên lòng. Mariuytx lắp bắp: - Ai chứng thực cho tôi? - Tôi, tôi đã bảo ông như vậy mà. Mariuytx nhìn con người ấy. Người ấy bình tĩnh mà bi thảm. Cái bình tĩnh ấy không thể đẻ ra cái dối trá được. Lạnh giá là thành thực. Trong cái lạnh lẽo cõi mồ ấy người ta cảm thấy chân lý. - Tôi xin ông – Mariuytx bảo. Giăng VanGiăng nghiêng đầu như để xác nhận điều đó và nói tiếp: - Tôi là gì đối với Côdét? Một người qua đường. Cách đây mười năm tôi không hề biết có cô ta. Tôi yêu Côdét, đúng. Tôi, một người đã già, tôi gặp Côdét một trẻ nhỏ, tôi yêu Côdét; khi người ta già, người ta coi đứa trẻ nào cũng như cháu cả. Ông có thể giả dụ rằng tôi có một cái gì trong người giống như một trái tim. Côdét mồ côi, không cha, không mẹ, cần có tôi, nên tôi đã yêu Côdét. Trẻ thơ nó yếu đuối, nó bé bỏng lắm nên bất cứ ai, cả một người như tôi nữa cũng có thể che chở. Tôi đã làm nhiệm vụ ấy đối với Côdét. Tôi thiết nghĩ một việc nhỏ mọn như vậy không thể gọi là việc thiện được, nhưng nếu quả có thể gọi là một việc thiện thì cũng cho là tôi đã làm việc thiện ấy. Cũng là một trường hợp giảm tội. Bây giờ đây Côdét tách khỏi cuộc đời tôi hai con đường xa nhau. Từ nay tôi không giúp nàng được gì nữa. Nàng là bà Pôngmécxi. Sao mệnh của nàng đã thay đổi, và thay đổi rất hay cho nàng. Mọi việc đều hoàn hảo. Còn số tiền sáu trăm nghìn phơrăng ông không nhắc đến, nhưng tôi hiểu được ý ông, đó là một món tiền gửi. Sao món tiền gửi ấy lại ở trong tay tôi. Chẳng quan trọng gì! Tôi giao lại món tiền người ta gửi. Người ta không thể đòi hỏi gì hơn ở tôi nữa. Tôi hoàn tất công việc giao trả này bằng cách nói rõ cả tên thật của tôi, thế là đầy đủ lắm. Điều này cũng là việc riêng của tôi: Tôi thấy cần phải nói để ông biết rõ tôi là người như thế nào. Nhìn Mariuytx, nhìn thẳng vào mặt chàng. Cảm xúc của Mariuytx thật là ồn ào hỗn loạn. Có những cơn gió của số mệnh làm nổi những làn sóng như vậy trong tâm hồn chúng ta. Tất cả chúng ta đều đã từng gặp những giờ phút hoang mang như vậy; lúc ấy thần trí chúng ta phân tán, tan tác. Chúng ta bạ gì nói nấy, nhiều khi lại chính là những cái không nên nói. Có những điều phát hiện quá đột ngột, chúng ta không tiếp nhận nổi, làm cho ta choáng váng như một thứ rượu hại người. Cái tình thế mới kia là cho Mariuytx kinh ngạc đến mức chàng như là oán trách người ấy sao đã thú nhận như vậy với chàng. Chàng nói to: - Nhưng mà, sao ông lại nói với tôi tất cả những điều ấy? Ai bắt buộc ông nói? Ông có thể giữ nguyên bí mật cho riêng ông. Không ai tố cáo ông, không ai truy nã ông, săn bắt ông. Ông phải có một lý do gì để tự dưng thú tội như vậy. Ông nói nốt đi. Còn có điều gì khác nữa? Ông thú thật như vậy để làm gì? Vì lẽ gì? Giăng VanGiăng trả lời nhỏ nhẹ, thầm thì như nói với mình chứ không phải nói với Mariuytx. - Vì lẽ gì? Phải rồi vì lẽ gì tên khổ sai ấy lại xưng ra: Tôi là một thằng tù khổ sai. Phải đấy. Động cơ rất lạ lùng: Chỉ vì lòng ông lương thiện. Này, ông này, cái điều đau khổ nhất là cái sợi dây, cái sợi dây ở trong trái tim nó ràng buộc tôi. Chính khi người ta già rồi những sợi dây ấy càng bền chắt. Cuộc đời xung quanh tan rã hết, nhưng sợi dây ấy vẫn còn nguyên. Nếu tôi dứt được sợi dây ấy, tôi chỉ việc đi thôi, có những chuyến xe khách phố Buloa; ông bà đã sung sướng, tôi đi hẳn. Tôi đã cố thử dứt sợi dây ấy, tôi cố kéo, nó vẫn chắc, không đứt, tôi đã kéo căng cả trái tim tôi cùng với sợi dây ấy. Thế rồi tôi tự nghĩ: Ta không thể sống ở đâu khác được, ta phải ở lại đây. Ừ mà phải, ông nói có lý, tôi là một thằng ngốc, sao lại không cứ ở lại một cách tự nhiên. Ông dành cho tôi một phòng trong nhà ông, bà Pôngmécxi vẫn quí mến tôi. Bà ấy đã bảo chiếc ghế bành giơ tay đón tôi. Cụ ngoại cũng muốn có tôi, tôi cũng vừa ý cụ, chúng ta cùng ở với nhau, ăn chung với nhau, tôi sẽ khoác tay Côdét, xin lỗi ông – bà Pôngmécxi, tôi vẫn quen mồm – chúng ta chung một mái nhà, chung một bàn ăn, chung một ngọn lửa, chung một góc lò sưởi mùa đông, cùng đi dạo chơi mùa hạ, vui vẻ đấy, hạnh phúc đấy, cảnh gia đình êm ấm, ôi gia đình! Nói đến tiếng ấy, Giăng VanGiăng bỗng nhiên trở nên dữ dội. Ông khoanh tay nhìn xuống sàn, dưới chân mình như muốn đào một cái vực thẳm và giọng nói của ông tự nhiên sang sảng lên. - Gia đình! Không. Tôi không có gia đình nào. Tôi không phải thuộc gia đình ông. Tôi không ở trong gia đình loài người. Tôi là con người thừa ở trong những gia đình êm ấm của người ta. Gia đình thì có đấy, cố nhiên, nhưng không phải dành để cho tôi. Tôi là người khốn khổ, tôi lang thang giữa trời. Tôi có bố, có mẹ không? Tôi cũng không chắc nữa. Tôi gả chồng cho Côdét, thế là hết. Tôi đã được thấy Côdét sung sướng, Côdét được sống với người yêu, ở đấy có một ông già tốt, một lứa đôi thiên thần, có mọi điều vui vẻ, như thế là hoàn toàn rồi và tôi tự bảo: Còn mày, đừng có bước chân vào đấy! Tôi có thể nói dối được, thật đấy, đánh lừa tất cả mọi người, vẫn cứ là ông Phôsơlơbăng. Khi còn lừa dối vì Côdét thì tôi đã lừa dối được, nhưng bây giờ thì là vì tôi, tôi không được làm như vậy. Giá tôi chỉ im lặng thôi, mọi việc sẽ lại tiếp diễn như thường. Ông hỏi: Cái gì đã bắt buộc tôi nói? Một điều giản dị thôi: Lương tâm tôi. Im lặng là việc quá dễ. Cả một đêm tôi đã cố tự thuyết phục tôi im lặng. Ông muốn cho tôi xưng tội, phải, điều tôi vừa nói với ông rất kỳ quái ông có quyền hỏi tôi sự thật; thực tế suốt một đêm tôi cố tìm mọi lý lẽ, tôi đã tìm ra những lý lẽ rất tốt để im lặng, tôi đã cố hết sức, thật đấy. Nhưng có hai điều tôi không làm được; dứt đứt cái sợi dây ràng buộc, nó gắn chặt, nó cột chặt trái tim tôi ở đây và bịt cái miệng vẫn thường nói nhỏ với tôi trong lúc vắng lặng. Vì vậy mà tôi đã đến nói thật tất cả với ông sáng hôm nay. Tất cả, hay gần như tất cả. Cũng có những cái khác thường nhưng không có ích lợi gì, nó chỉ là chuyện riêng của tôi thôi; những cái đó tôi dành riêng cho tôi. Điều căn bản nhất, ông đã biết cả. Tôi mang điều bí ẩn của tôi đến cho ông. Tôi đã phanh cái bí mật của tôi trước mắt ông. Không phải là một điều dễ làm đâu. Tôi đã vật vã suốt đêm. Hừ! Ông tưởng rằng tôi đã không tự bảo vụ này khác với vị Săngmachiơ, lần này tôi giấu tên thì cũng chẳng cho ai, cái tên Phôsơlơvăng, chính lão Phôsơlơvăng đã cho tôi để đền ơn tôi, tôi có quyền giữ cái tên ấy, tôi sẽ giữ lại trong cái phòng ông dành cho tôi, hưởng cuộc đời sung sướng, tôi không làm bận ai, tôi có cái nhỏ bé của tôi. Côdét là của ông, nhưng tôi thì tôi cũng sung sướng là được ở cùng một nhà với Côdét. Mỗi người sẽ được hưởng cái hạnh phúc lớn hay nhỏ của mình. Cứ vẫn ông Phôsơlơvăng, thì mọi việc sẽ ổn thỏa, phải trừ tâm hồn tôi. Tất cả sẽ vui vẻ trong đời tôi, riêng đáy lòng tôi đen tối. Có phải chỉ sung sướng là đủ đâu, mình còn phải bằng lòng mình nữa. Như thế tôi vẫn là ông Phôsơlơvăng, cái mặt thật của tôi, tôi vẫn giấu, trước cái rạng rỡ của đời ông tôi vẫn ôm ấp điều bí ẩn của tôi, giữa cái ánh sáng chói lọi của đời ông, tôi vẫn mang cái bóng tối của tôi, tôi sẽ mang cả cái lao tù của tôi vào trong gia đình ông, không bảo ai, không nói sao, tôi sẽ ngồi vào bàn ăn của ông với cái ý nghĩ rằng nếu ông biết tôi là ai thì ông phải đuổi tôi đi; những người ở trong nhà này sẽ hầu hạ tôi nhưng nếu họ biết thì họ phải kêu lên: Ôi! Ghê tởm! Cánh tay tôi sẽ va chạm cánh tay ông, điều mà ông có quyền không thích, tôi sẽ ăn cắp những cái bắt tay của ông. Trong nhà ông người ta sẽ lẫn lộn, tôn trọng cùng với những mớ tóc bạc đáng kính những mớ tóc bạc ô nhục; trong những giờ thân mật, khi mọi người tin tưởng đã chan hòa cùng nhau đến tận đáy lòng, khi bốn người chúng ta cùng họp mặt, ông cụ ngoại, vợ chồng ông, và tôi, thế mà lại có một cuộc đời ông, với điều quan tâm duy nhất là giữ yên cái nắp đã đậy cái giếng ghê tởm của tôi lại. Tôi một người chết, tôi sẽ cưỡng bức những người sống là các ông bà phải thừa nhận tôi. Tôi sẽ bắt Côdét chung thân phải chịu đựng tôi. Ông, Côdét và tôi cả ba người sẽ đội chung một cái mũ xanh. Ông có kinh tởm không? Tôi bây giờ chỉ là người đau khổ nhất, làm như thế, tôi sẽ trở thành người ghê tởm nhất. Cái tội ác ấy hàng ngày tôi sẽ phạm phải! Hàng ngày tôi sẽ dối trá! Và hàng ngày tôi sẽ cứ mang cái bộ mặt đen tối ấy! Và cái ô nhục của tôi, hàng ngày ông và Côdét sẽ phải chia một phần! Phải hàng ngày! Những người tôi yêu quí nhất, những người con của tôi, những người ngây thơ trong trắng của tôi, phải chia của cải ấy. Có phải đâu không nói là dễ? Im lặng là giản đơn? Không, không phải giản đơn. Có cái im lặng dối trá. Và sự dối trá của tôi, sự gian lận của tôi, sự nhục nhã, hèn nhát, phản bội, tội lỗi của tôi, tôi sẽ uống từng giọt, khạc ra rồi lại uống vào, uống hết lúc nửa đêm lại bắt đầu uống trở lại lúc giữa trưa, buổi sáng chào cũng dối trá, buổi chiều hỏi cũng dối trá, ngủ trên tất cả cái đó, trộn tất cả cái dó với thức ăn, và tôi vẫn nhìn mặt Côdét, vẫn đem cái miệng quỷ sứ của tôi cười đáp nụ cười thiên thần của Côdét, tôi sẽ là một kẻ lừa dối ghê tởm. Để làm gì? Để được sung sướng! Tôi mà muốn sung sướng ư? Tôi có quyền được sung sướng không chứ? Thưa ông, tôi ở ngoài rìa cuộc đời rồi. Giăng VanGiăng ngừng lại. Mariuytx vẫn nghe. Không ai ngắt được những chuỗi ý nghĩ, những niềm khắc khoải trên miệng ấy. Giăng VanGiăng lại hạ thấp giọng, nhưng lúc này giọng không âm thầm nữa, mà ghê rợn. - Ông hỏi vì sao tôi nói? Không ai tố cáo, không ai truy nã, không ai săn bắt tôi, ông bảo thế. Có! Tôi có bị tố cáo; có, tôi có bị truy nã, tôi có bị săn bắt bởi ai? Bởi chính tôi: Chính tôi đã chặn đường tôi, tôi lôi tôi đi, tôi đẩy tôi đi, tôi tự bắt tôi, tôi tự xử tôi, và khi mình lại tự nắm giữ mình thì nắm chắt lắm. Ông tự tay nắm lấy áo mình, kéo lại phía Mariuytx, ông nói tiếp: - Ông nhìn cái nắm tay này, ông có thấy nó nắm cái cổ áo này và sẽ không để rời ra không? Lương tâm lại còn nắm chắc hơn thế. Muốn sung sướng, thưa ông, thì không nên bao giờ hiểu bổn phận rồi, vì bổn phận hết sức khắc nghiệt, người ta tưởng như bổn phận trừng phạt ta vì ta đã hiểu thế nào là bổn phận. Nhưng không phải thế. Bổn phận ban thưởng ta, nó dẫn ta vào địa ngục mà ta cảm thấy có Chúa Trời bên cạnh mình. Vừa tự xé ruột xong thì lòng lại thấy yên tĩnh với lòng. Ông Pôngmécxi, cái việc này không hợp lẽ thường, việc tôi là một người lương thiện. Trước mắt ông tôi có tự hạ tôi, thì tôi mói đề cao tôi được trước mắt tôi. Chuyện thế này tôi đã làm một lần, nhưng không đau xót nhiều như bây giờ, nó chẳng đáng kể gì. Vâng, một người lương thiện. Tôi sẽ không còn là một người lương thiện nữa nếu tôi cứ để ông quí mến tôi, bây giờ ông khinh miệt tôi thì tôi lại là người lương thiện. Thật là một định mệnh độc ác: Tôi chỉ có thể ăn cắp lòng kính trọng của mọi người đối với tôi, nhưng sự kính trọng ấy lại làm thâm tâm tôi nhục nhã, lại giày vò tôi, tôi để cho tôi được tự trọng thì đành phải để mọi người khinh rẻ tôi. Bây giờ tôi mới ngẩng đầu lên được. Tôi là một tên tù khổ sai tuân theo lương tâm của nó. Tôi biết như vậy cũng không phải là bình thường. Nhưng ông nghĩ tôi biết làm thế nào. Thực là như vậy. Tôi đã tự hứa hẹn với tôi, tôi phải giữ lời hứa. Có những sự gặp gỡ ràng buộc chúng ta. Có những sự ngẫu nhiên lôi ta vào bổn phận. Ông Pôngmécxi, thưa ông, ông thấy đó, đời tôi thật lắm nỗi éo le. Giăng VanGiăng lại dừng một lát, nuốt nước bọt một cách khó nhọc, như thể lời nói của ông có một dư vị cay đắng. Ông nói tiếp. Khi người ta mang một nỗi nhục nhã ghê gớm như vậy, người ta không có quyền bắt những người khác vô tình phải chung chịu, người ta không có quyền làm họ sa dần xuống cái vực thẳm của mình mà không biết, không có quyền vứt bừa bãi cái dịch tễ đó, không có quyền làm họ sa dần xuống cái vực thẳm của mình lên cuộc đời họ, không có quyền mang cái đau khổ của mình lén lút luồn vào cái hạnh phúc của người khác. Đến bên những người lành mạnh, mang cái ung nhọt vô hình của mình mà cọ xát vào người họ, thật là ghê tởm. Phôsơlơvăng có cho tôi mượn tên nhưng tôi không có quyền sử dụng cái tên ấy, hắn cho nhưng tôi không có quyền nhận. Một cái tên là một con người. Thưa ông, ông xem, tôi cũng có suy nghĩ một chút, hiểu biết sư thật. Ông thấy tôi nói năng cũng nghe được. Tôi đã tự giáo dục tôi. Thật thế, lấy một cái tên và giấu mình dưới cái tên ấy, là một điều bất lương; những chữ cái, người ta cũng ăn cắp như ăn cắp một ví tiền hay một chiếc đồng hồ. Là một chữ ký giả mạo bằng xương, bằng thịt, là một cái chìa khóa biết nói biết đi, giả mạo chìa khóa để mở cửa vào nhà người lương thiện, không bao giờ dám nhìn thẳng, chỉ nhìn nghiêng thôi, trong thâm tâm mình là một người đê nhục, không! Không! Không! Không thể được! Thà chịu đau khổ đổ máu, đổ nước mắt, thà tự tay mình cấu xé da thịt mình, thà quằn quại thâu đêm, thà tự giày vò tim óc mình. Đó, vì sao tôi đến để kể tất cả với ông, tự nguyện nói tất cả với ông, như ông đã bảo. Giăng VanGiăng thở một cách nặng nề và nói lớn lên lời cuối cùng này: - Để sống, xưa kia tôi đã ăn cắp một cái bánh, bây giờ để sống tôi không muốn ăn cắp một cái tên. Mariuytx ngắt lời: - Để sống! Ông không cần cái tên ấy để sống à! Giăng VanGiăng ngẩng đầu lên rồi lại cúi xuống mấy lần, trả lời: - À! Tôi biết tôi mà. Im lặng một lát. Cả hai người đều không nói gì cả, mỗi người đắm đuối trong một vực tư tưởng. Mariuytx đã ngồi xuống gần một chiếc bàn, một ngón tay gấp tì vào khóe miệng. Giăng VanGiăng đi đi lại lại. Ông dừng lại trước một tấn gương và đứng im. Ông nhìn vào tấm gương mà không biết có mình, rồi nói một mình như tự trả lời cho mình: - Còn bây giờ thì lòng mình nhẹ hẳn! Ông lại đi và bước về đầu kia phòng khách. Khi quay trở lại, ông thấy Mariuytx, đang nhìn ông đi. Bấy giờ ông nói với Mariuytx, bằng một giọng khó tả: - Chân tôi hơi kéo lê. Bây giờ thì ông hiểu tại sao. Khi ông đã quay hẳn về phía Mariuytx: - Và bây giờ, thưa ông, ông thử hình dung như thế này, tôi không nói gi cả, tôi vẫn là ông Phôsơlơvăng, tôi đến ở nhà ông, tôi ở trong một phòng tối, sáng sáng đi giầy vải sang ăn cơm, chiều chiều cả ba người chúng ta cùng đi xem hát, tôi đi chơi cùng bà Pôngmécxi đến cung điện Tuylơri và quảng trường Rôian. Chúng ta cùng sống với nhau, ông cũng ở đây, chúng ta cùng chuyện trò, cười nói, bỗng nhiên có người thét lên "Giăng VanGiăng" là một bàn tay kinh khủng, bàn tay cảnh sát từ trong bóng tối nhô ra và dứt cái mặt nạ của tôi! Ông lại ngừng, Mariuytx đứng lên, rùng mình. Giăng VanGiăng tiếp: - Ông nghĩ sao? Mariuytx trả lời bằng sự yên lặng. Giăng Vangiăng lại nói: - Ông xem đó, tôi nói ra là phải. Thôi! Hãy tận hưởng hạnh phúc của ông, hãy ở trên thiên đường, cứ là thiên thần của một thiên thần, cứ rạng rỡ như ở trên mặt trời, vui hưởng cái hạnh phúc ấy, đừng băn khoăn vì chuyện một tên đọa đày khốn nạn làm thế tự phanh ngực ra để làm bổn phận của hắn. Trước mặt ông chỉ là một người khốn khổ. Mariuytx vượt qua phòng khách, khi đến gần Giăng VanGiăng, chàng đưa tay cho ông. Nhưng bàn tay Giăng VanGiăng không chìa ra, Mariuytx phải đưa tay mình đến tận nơi tìm bắt bàn tay ấy. Giăng VanGiăng cứ để mặc Mariuytx và chàng cảm thấy như một bàn tay đá. Mariuytx nói: - Ông tôi có nhiều bạn hữu, tôi có thể xin cho ông được ân xá. - Vô ích - Giăng VanGiăng đáp. Người ta tưởng tôi đã chết, thế là được rồi. Người ta không theo dõi những kẻ đã chết. Những kẻ đã chết được quyền cứ việc mục rửa dần. Chết thì cũng như được ân xá vậy. Ông rút bàn tay mình ra khỏi tay Mariuytx và nói một cách đường hoàng, nghiêm nghị: - Làm tròn bổn phận của tôi, đó là người bạn mà tôi cầu cứu; tôi chỉ cần một sự ân xá của lương tâm tôi. Giữa lúc ấy, ở đầu kia phòng khách, cánh cửa hé mở từ từ và trong khung cửa nửa khép nửa mở, cái đầu Côdét hiện ra. Người ta chỉ thấy vẻ mặt dễ mến của nàng; đầu nàng xõa tóc trông rất xinh, mí mắt còn mọng vì ngủ. Nàng như là một con chim ở trong tổ thò đầu ra, nhìn chồng rồi nhìn Giăng VanGiăng vừa cười vừa nói. Trông nàng như một nụ cười ở trong lòng một đóa hoa hồng. - Không sai rồi! Các ngài lại đương bàn chuyện chính trị! Thật là ngớ ngẩn! Sao không vào với người ta? Giăng VanGiăng giật mình. Mariuytx lắp bắp: - Côdét!.. Rồi chàng không nói được gì nữa. Trông họ giống hai người phạm lỗi. Côdét vẻ mặt rạng rỡ nhìn hết người này lại nhìn người kia. Trong khóe mắt của nàng như thoáng thấy những khoảng thiên đường. Màng nói: - Tôi bắt được các ngài quả tang nhé! Tôi vừa nghe thấy đằng sau của cha Phôsơlơvăng của tôi nói là lương tâm.. nào là bổn phận.. chẳng chính trị thì là gì đấy? Tôi không thích. Ai lại mới sáng hôm sau mà đã nói chuyện chính trị. Không đúng. - Em tưởng lầm đấy – Mariuytx trả lời – Chúng tôi bàn chuyện làm ăn; bàn chuyện cái số tiền sán trăm nghìn phơrăng kia gửi đâu cho lợi nhất.. Côdét cắt ngang: - Không phải những cái đó đâu! Tôi vào nhé. Có bằng lòng không? Nàng cương quyết bước qua ngưỡng cửa, vào trong phòng khách. Nàng mặc một cái áo khoác trắng rất nhiều nếp, ống tay khá rộng, dài từ cổ xuống tận chân. Ở phần trên tô vàng của những bức tranh Trung thế kỷ vẫn có những cái bọc đựng thiên thần như vậy Nàng tự ngắm mình từ đầu đến chân trong một tấm gương lớn, rồi ngây ngất say sưa nói: - Ngày xưa có một ông vua và một bà hoàng hậu. Trời! Vui quá! Xong nàng trịnh trọng chào Mariuytx và Giăng Vangiăng rồi nói tiếp: - Thế này nhé, em ở đây với các ngài, em ngồi vào ghế này, nửa giờ nữa thì ăn cơm sáng, các ngài muốn nói chuyện gì thì nói. Em biết đàn ông thì phải nói chuyện, em sẽ ngoan ngoãn nghe. Mariuytx cầm tay nàng và nói rất âu yếm: - Chúng tôi nói chuyện làm ăn mà. - À mà ban nãy – Côdét đáp – em vừa mở cửa sổ. Vô số chim sê ở đâu mới bay đến vườn. Chim thật chứ không phải là người trá hình. Hôm nay là thứ tư ngày lễ Tro, nhưng không phải là lễ của bầy chim. - Anh bảo em là chúng tôi nói chuyện làm ăn, em hãy đi đi, em biết Côdét của anh, để chúng tôi nói chuyện một lát, toàn những con số cả, em nghe chán ngay. - Anh Mariuytx, sáng nay anh thắt ca-vát xinh quá. Đức ông làm dáng lắm thưa đức ông ạ! Không! Em không chán đâu. - Anh bảo là em sẽ chán mà, em nghe anh đi. - Không, ngồi với cha, với anh thì chán thế nào được! Em không hiểu nhưng em vẫn nghe được – nghe những giọng thân yêu thì có cần gì hiểu. Cùng ngồi với nhau, thế là em thích rồi. Em cứ ở đây nào - Em là em Côdét yêu quý của anh. Nhưng không thể được. - Phải thể được! - Phải. - Được rồi – Côdét đáp. Em mang theo bao nhiêu là tin tức, nếu em ở lại thì em nói cho mà nghe. Ông còn ngủ này, dì anh đi lễ này, lò sưởi phòng của cha Phôsơlơvăng un khói này. Nicôlét đã gọi thợ thông lò sưởi này. Tútxanh và Nicôlét đã có chuyện cãi cọ với nhau rồi này, Nicôlét thì chê Tútxanh nói lắp này. Thế thì các ông sẽ không được biết gì cả! A! Không thể được à? Em, đến lượt em, em cũng sẽ nói không thể được, cho ngài xem. Để coi ai được ai nào? Thôi, em xin anh, anh Mariuytx bé bỏng của em ơi, để em ở đây với cha và anh. - Anh cam đoan với em là chỉ có thể hai chúng tôi ở đây với nhau được thôi. - Hừ, thế em cũng kể là một người à? Giăng VanGiăng không nói một lời nào. Côdét quay lại phía ông: - Còn cha, cha này, trước hết con muốn cha phải đến hôn con. Cha sao không bênh con lại ngồi ì ra đấy? Cha của con mà thế à? Cha xem đấy, con lấy chồng rất khổ, chồng con đánh con đấy. Nào, cha hôn con đi nào. Giăng VanGiăng lại gần. Côdét quay lại phía Mariuytx: - Còn anh thì em chẳng thèm. Rồi nàng giơ trán cho Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng tiến thêm một bước lại gần nàng. Côdét bỗng nhiên lùi lại: - Cha! Sao cha xanh thế! Hay là cánh tay cha đau quá! - Không, tay khỏi rồi, Giăng VanGiăng trả lời. - Hay là cha mất ngủ? - Không phải. - Hay là cha có điều gì buồn? - Không. - Hôn con đi. Cha mạnh khỏe, cha ngủ được, cha vui lòng thì con không rầy rà cha nữa. Nói rồi nàng lại giơ trán cho Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng đặt một chiếc hôn trên cái vầng trán phảng phất ánh sáng thiên đường. - Cha cười đi. Giăng VanGiăng cười. Nụ cười của một bóng ma. - Bây giờ cha bênh con đi, cha bỏ chồng con đi. - Côdét! – Mariuytx kêu. - Cha ơi! Cha cứ gắt lên đi. Cha bảo chồng con là con phải ở đây. Nói chuyện có con thì có làm sao! Các người cho tôi là ngu lắm à? Chuyện các người nói kỳ lạ thế kia à? Chuyện làm ăn gửi tiền ngân hàng, việc lớn nhỉ? Đàn ông chả có gì mà họ cũng làm ra vẻ bí mật. Em muốn ngồi ở đây. Sáng nay em xinh lắm, nhìn em này, anh Mariuytx! Nàng nhìn Mariuytx, nhún vai một cách rất đáng yêu và làm bộ hờn dỗi trông rất xinh. Một tia điện như lóe lên giữa hai con người ấy. Có ai ngồi đấy họ cũng tưởng như không. - Anh yêu em! – Mariuytx nói. - Em quí anh! – Côdét nói. Rồi hai người không cưỡng được, ôm chầm lấy nhau. Côdét vừa nắn lại một nếp trên chiếc áo khoác của nàng, vừa bĩu môi một cách đắc thắng và nói: - Bây giờ em cứ ngồi đây. Mariuytx trả lời bằng giọng năn nỉ: - Cái ấy thì không được. Chúng tôi cần nói nốt với nhau một điều. - Lại không à? Mariuytx nói một cách nghiêm nghị: - Côdét, anh cam đoan với em là không thể được. - À! Lên giọng ông chồng đấy, thưa ông. Được rồi! Tôi đi đây. Cha, cha không bênh vực con. Ông chồng tôi, ông cha tôi, các ông thật là chuyên chế. Tôi sẽ mách ông ngoại. Các ngài đừng tưởng tôi thèm trở lại và năn nỉ các ngài đâu, các ngài lầm đấy. Tôi tự trọng lắm. Tôi sẽ đợi các ngài. Để rồi các ngài xem vắng tôi các ngài có chán không? Tôi đi đây. Được lắm. Rồi nàng đi ra. Hai giây sau, cửa lại mở, cái mặt hồng tươi của nàng lại hiện ra giữa hai cánh cửa, nàng thét to: - Tôi giận lắm đấy. Cửa lại đóng và bóng tối trở lại. Côdét chẳng khác gì một tia sáng mặt trời lạc hướng, vừa xuyên qua đêm tối mà không hay. Mariuytx xem lại cửa thật đóng chưa và lẩm bẩm: - Tôi nghiệp Côdét, khi nàng biết chuyện.. Giăng VanGiăng nghe câu ấy bủn rủn chân tay. Ông nhìn Mariuytx, mắt đờ đẫn và nói: - Côdét, à phải. Ông sẽ nói lại với Côdét. Đúng lắm. Ừ, mà tôi quên không nghĩ đến chuyện ấy. Có sức làm việc này mà không có sức làm việc khác. Thưa ông, tôi xin ông, tôi van ông, xin ông lấy điều thiêng liêng nhất hứa với tôi là không nói lại với Côdét. Ông biết thôi, riêng ông, cũng đủ rồi chứ! Tôi đã nói tất cả, tự tôi nói ra, không ai bắt buộc, tôi có thể nói với cả vũ trụ này, cả mọi người, cũng thế thôi, nhưng nó, nó không hiểu được điều đó, nó sẽ khiếp sợ. Một người tù khổ sai? Là cái gì, người ta sẽ phải giải nghĩa cho nó, phải bảo nó: Khổ sai nghĩa là đi là khổ dịch ở chiến thuyền. Nó đã trông thấy một lần một dây tù khổ sai.. Trời ơi! Trời! Ông ngồi phịch xuống chiếc ghế, hai tay ôm mặt không nghe thấy gì, những nhìn vai nhô lên, hạ xuống, thì ông biết ông đang khóc. Nước mắt âm thầm, nước mắt ghê gớm. Tiếng thổn thức nghẹn ngào làm cho người ta nghẹt thở. Ông như bị co giật, phải ngã người ra đằng sau, trên lưng ghế như để thở, buông thõng hai cánh tay. Mariuytx nhìn rõ mặt ông chan hòa nước mắt. Chàng nghe thấy ông nói rất sẽ như từ một nơi sâu thẳm: Ôi! Tôi muốn chết cho rồi. - Ông yên lòng. Mariuytx nói. Tôi sẽ giữ bí mật của ông cho riêng tôi. Mariuytx có cảm xúc một phần nào nhưng chưa đúng mức, vì từ một tiếng đồng hồ rồi bắt buộc phải làm quen với một số sự bất ngờ ghê gớm; nhìn thấy một tên tù khổ sai xuất hiện trước mắt mình, chồng lên trên con người ông Phôsơlơvăng, bị cái thực tế thảm hại ấy dần lấn át, Mariuytx cảm thấy tự nhiên giữa chàng và con người ấy có một sự ngăn cách do hoàn cảnh đó gây ra. Chàng nói thêm: - Tôi cần phải nói đến số tiền người ta gửi ông mà ông đã giữ và trả lại một cách trung thành, rất lương thiện đó. Đó là một hành động ngay thẳng. Ông đáng hưởng một phần thưởng vì chỗ đó. Ông muốn bao nhiêu, ông cứ định lấy số, tôi sẽ đưa ông. Đừng sợ lấy nhiều. Giăng VanGiăng dịu dàng trả lời: - Xin cảm ơn ông. Ông yên lặng một lát vẻ suy nghĩ, vô tình lấy đầu ngón tay trỏ đưa đi đưa lại trên móng cái, rồi cất cao giọng: - Thế là đã hầu hết. Tôi chỉ còn một điều nữa.. - Điều gì? Giăng VanGiăng ngập ngừng, ngập ngừng một lần cuối cùng, mà gần như hết hơi, ông lắp bắp nói không ra tiếng: - Bây giờ ông đã biết cả rồi, ông là người quyết định, ông xét xem tôi có nên không gặp Côdét nữa không? - Tôi tưởng như thế là hơn. Mariuytx lạnh lùng trả lời. Giăng VanGiăng nói lẩm bẩm trong mồm: - Tôi sẽ không gặp Côdét nữa. Nói rồi, Giăng VanGiăng đi ra phía cửa. Ông đặt tay lên quả nắm, cái chốt quay, cửa hé mở vừa đủ để bước ra, nhưng ông đứng im một phút rồi khép cửa lại và quay về phía Mariuytx. Mặt ông từ xanh xao, đã biến thành nhợt nhạt, không còn giọt lệ nào trong mắt, mà là một ngọn lửa bi hùng. Giọng nói ông trở lại bình thản một cách lạ lùng. Ông nói: - Này thưa ông, nếu ông bằng lòng, tôi sẽ đến với Côdét. Tôi xin nói thật với ông là tôi muốn gặp Côdét lắm. Nếu tôi không muốn gặp Côdét thì tôi đã không nói thật tất cả với ông, tôi đã đi xa rồi, nhưng vì tôi muốn sống ở nơi Côdét sống, và lại muốn được gặp Côdét cho nên tôi đã thành thật nói hết với ông. Ông hiểu ý nghĩ của tôi chứ, điều đó cũng dễ hiểu thôi. Ông xem đã chín năm rồi, Côdét sống bên cạnh tôi. Chúng tôi đã ở cái nhà nát ngoài đại lộ, rồi trong cái nhà tu kín, rồi gần vườn Luýchxămbua. Ông đã gặp Côdét, lần đầu tiên ở vườn ấy. Ông còn nhớ cái mũ nhung xanh của nó chứ? Sau chúng tôi lại đến ở khu Anhvalít, phố Pơluymê, nhà có cái vườn và cái hàng rào sắt. Tôi ở trong cái sân đằng sau, ngày ngày nghe Côdét chơi dương cầm. Đấy là tất cả cuộc đời của tôi. Chúng tôi không bao giờ rời nhau. Cuộc đời ấy đã kéo dài chín năm và bao tháng nữa. Tôi như cha nó, nó như là con tôi. Không biết ông có hiểu cho tôi không, thưa ông Pôngmécxi, nhưng ra đi bây giờ không nhìn thấy nó nữa, không nói với nó nữa, không còn gì nữa, thật là khó khăn. Nếu ông không cho là bất tiện, tôi sẽ thỉnh thoảng đến thăm Côdét. Tôi không đến luôn đâu, tôi không ở lâu đâu. Ông sẽ bảo người ta tiếp tôi ở cái phòng nhỏ bên dưới. Ở tầng dưới đất. Tôi có thể ra vào lối cửa sau, cửa dành cho người ở, nhưng e họ nghi ngờ. Có lẽ tôi cứ ra vào cửa chính dành cho mọi người ra vào thì hơn. Thưa ông, thật vậy tôi rất muốn gặp Côdét, gặp một chút, họa hoằn thôi, tùy ý ông. Ông hãy tự đặt mình vào địa vị tôi. Đời tôi chỉ còn có thế thôi. Vả lại cũng nên cẩn thận. Nếu không bao giờ trở lại nữa thì kết quả cũng không tốt, người ta sẽ lấy làm lạ. Thế này chẳng hạn, tôi sẽ đến buổi chiều, khi trời bắt đầu tối. - Tối nào ông cũng đến, Mariuytx đáp. Côdét sẽ đợi ông. - Ông tốt quá, thưa ông. Giăng VanGiăng nói. Mariuytx chào Giăng VanGiăng, hạnh phúc đưa chân tuyệt vọng ra cửa, hai người chia tay nhau. [1] Là hai nhà thám hiểm người Anh thế kỷ XVIII
QUYỂN VIII- BÓNG NGẢ HOÀNG HÔN I Chương I Bấm để xem Ngày hôm sau, lúc trời bắt đầu tối, Giăng VanGiăng đến gõ cái cổng nhà lão Gilơnormăng. Bátscơ ra đón ông. Lúc ấy Bátscơ đang ở trong sân, hình như được lệnh đợi sẵn. Có khi người ta dặn người ở: Anh chờ ông ấy, đợi ông ấy đến nhé. Bátscơ không để Giăng VanGiăng đến hỏi, hắn tiến về phía ông nói: - Ngài nam tước dặn tôi hỏi ông muốn lên gác hay ở dưới nhà. - Ở dưới nhà - Giăng VanGiăng trả lời. Bátscơ vẫn rất lễ phép, mở cửa buồng dưới và nói: - Tôi lên báo với bà tôi. Cái buồng Giăng VanGiăng vào ở tầng dưới, xây tò vò, ẩm thấp, khi cần thì để chứa rượu, buồng trông ra phố, lát gạch đỏ, chỉ có một cái cửa sổ có chấn song sắt để lọt ánh sáng lờ mờ. Cả gian buồng, trên trần, trên tường cũng như dưới sàn gạch không hề được lau quét bao giờ. Nhện không lo ai vào đây tiêu diệt chúng, một cái mạng nhện giăng rộng, đen ngòm, lốm đốm xác ruồi chết, phơi bày trên một mảnh kính cửa sổ. Gian buồng hẹp và thấp đầy những vỏ chai chất đống ở một góc tường. Tường quét màu vàng lở từng mảnh. Cái buồng có một cái lò sưởi gỗ sơn đen với một cái mặt nạ bệ hẹp. Lò sưởi có đốt lửa, điều ấy chứng tỏ là chủ nhân cũng đã đoán trước câu trả lời của Giăng VanGiăng: Ở dưới nhà. Hai chiếc ghế tựa sẵn hai bên lò sưởi. Giữa hai chiếc ghế một mảnh tải để chân giường đã nát, giơ cả sợi thừng đặt đấy thay thảm. Cả gian buồng chỉ có cánh cửa lò sưởi và bóng hoàng hôn ngoài cửa sổ chiếu vào. Giăng VanGiăng dáng mệt mỏi. Đã mấy hôm nay ông mất ăn, mất ngủ. Ông ngồi vật mình xuống một chiếc ghế. Bátscơ trở vào, đặt lên lò sưởi một cây nến đang cháy rồi trở lại. Giăng VanGiăng đầu gục xuống, cằm ngả xuống ngực, không nhìn thấy Bátscơ, cũng không nhìn thấy ánh nến sáng. Bỗng nhiên ông giật nảy mình đứng dậy. Côdét đứng phía sau lưng. Giăng VanGiăng không trông thấy Côdét vào, nhưng ông có cảm giác nàng đã vào. Ông ngoảnh lại nhìn nàng chăm chú. Nàng đẹp và rất dễ thương. Nhưng con mắt sâu thẳm của ông không ngắm vẻ đẹp mà ngắm tâm hồn nàng. Côdét kêu to: - À ra thế! Thật là kỳ quặc, cha này, con biết tính cha vẫn lạ lùng như vậy, nhưng chẳng bao giờ con lại ngờ có chuyện thế này, Mariuytx bảo con là chính cha muốn con tiếp cha ở đây. - Phải rồi, chính ý tôi đấy. - Con thừa biết cha trả lời thế rồi, nhưng coi chừng đấy, con báo trước là con sẽ làm cho cha một trận. Nhưng hãy cứ chuyện nào đi chuyện ấy. Cha hôn con đi. Nàng giơ má ra. Giăng VanGiăng vẫn đứng im. - Cha đứng ì ra đấy à? Được rồi, con xác nhận rồi: Đứng im là nhận tội. Nhưng không sao, con tha lỗi cho cha. Chúa Giêsu đã nói: Đưa má kia ra, thì đây này. Nàng đưa má kia cho Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng vẫn không cử động, hình như hai chân ông đóng đanh xuống sàn. Côdét nói: - Thế này thì thành nghiêm trọng rồi. Con đã làm gì cha? Con giận cha rồi đấy. Cha phải làm lành với con đi, cha ăn tối với chúng con. - Tôi ăn rồi. - Không phải, con sẽ bảo ông Gilơnormăng gắt cha cho mà xem, các bậc ông, trời sinh ra để gắt các bậc cha. Nào! Lên phòng khách với con. Lên ngay bây giờ. - Không thể được. Côdét chùn bước! Nàng không ra lệnh cho Giăng VanGiăng nữa mà chuyển sang hỏi từng câu. - Làm sao không thể được? Sao cha lại chọn cái buồng xấu xí nhất nhà này để gặp con? Ở đây kinh lắm. - Con biết.. Giăng VanGiăng ngừng và nói chữa lại: - Thưa bà, bà biết đấy, tính tôi vẫn kỳ khôi, tôi có những thói kỳ quặc riêng. Côdét vỗ hai bàn tay xinh xắn vào nhau: - Thưa bà, bà biết đấy! Lại chuyện ạ nữa!.. Thế nghĩa là gì? Giăng VanGiăng nhìn nàng, nở một nụ cười phiền muộn; lúc bí, một đôi khi ông cầu cứu nụ cười ấy. - Cô muốn làm bà, nay cô được làm bà rồi. - Không làm bà với cha. - Xin đừng gọi tôi là cha nữa. - Sao thế? - Bây giờ tôi là ông Giăng, hay Giăng không cũng được. - Cha không là cha nữa? Con không là Côdét nữa ư? Lại ông Giăng? Thế là nghĩa lý gì! Thế là cách mạng à? Chuyện ra làm sao chứ? Cha hãy nhìn thẳng vào mặt con xem nào. Cha lại không muốn ở đây với các con. Cha không muốn đến ở cái buồng con xếp đặt. Con đã làm gì cha? Con đã làm gì cha mới được chứ? Có chuyện gì thế cha? - Không có chuyện gì cả. - Thế thì sao lại thế. - Cũng như mọi ngày thôi. - Sao cha lại đổi tên. - Bà chẳng đổi tên là gì? Ông lại rầu rĩ như lúc nãy và nói thêm: - Bà là bà Pôngmécxi được thì tôi cũng là ông Giăng được chứ! - Con chẳng hiểu đâu vào đâu cả. Thật là ngớ ngẩn. Con sẽ hỏi chồng con xem có bằng lòng cho cha là ông Giăng không? Con chắc chồng con không bằng lòng đâu. Cha làm con phiền quá. Người ta có những cái kỳ quặc riêng, nhưng người ta không làm cho con Côdét của người ta phiền muộn. Không tốt đâu. Cha không có quyền độc ác thế, cha xưa nay vẫn tốt kia mà. Ông không đáp. Nàng giật lấy hai bàn tay ông và nắm chặt đưa lên mặt nàng, ép vào cổ nàng, dưới cằm nàng, đó là một cử chỉ hết sức âu yếm. Nàng nói: - Cha ơi! Cha tốt nhé! Rồi nàng lại tiếp: - Thôi là thế này, đến ở đây vớ con này, lại đi dạo chơi với con này, ở đây cũng có chim ca hát ríu rít như ở phố Pơluymê. Ở đây với chúng con, bỏ cái xó nhà ở phố Lomácmê đi, đừng có đặt câu đố để cho chúng con đoán nữa, làm như mọi người, ăn sáng với chúng con, ăn tối với chúng con, làm cha của con. Ông gỡ hai bàn tay ra: - Bà không cần có cha nữa. Bà đã có chồng rồi. Côdét nổi giận. - Con không cần cha nữa à? Chuyện thế này thì còn lý lẽ gì nữa? Chả còn hiểu ra sao cả. Như con người yếu thế muốn dựa vào thế ké khác, muốn bám lấy bất cứ cành cây nào, Giăng VanGiăng nói: - Nếu có bà Tútxanh ở đây thì bà ấy sẽ đồng ý ngay là tôi vẫn có những tật của tôi, chẳng có gì lạ cả, tôi vẫn ưa ở cái xó tối của tôi. - Chao ở đây lạnh quá. Tối mò mò ấy! Cứ muốn làm ông Giăng thì chẳng ưa được. Con không bằng lòng cha gọi con là bà đâu. Giăng VanGiăng trả lời: - Lúc nãy trên đường đi đến đây, tôi thấy ở phố Xanh Luy, trong một cửa hàng đồ gỗ có một cái bàn rất đẹp, tôi mà là một người đàn bà đẹp thì tôi sắm ngay cái bàn ấy, một cái bàn phấn kiểu mới nhất bằng thứ gỗ vẫn gọi là gỗ Xoan đào thì phải. Cái bàn lại khảm, có một tấm gương khá lớn với mấy ô kéo. Xinh lắm. - Ôi! Ông bố xấu của tôi ơi! – Côdét nói. Rồi mơn trớn, nũng nịu tuyệt vời, nghiến đôi hàm răng chìa đôi môi thổi phù vào Giăng VanGiăng. Đúng là một tiên nga giả làm con mèo. - Con giận lắm đấy – Nàng nói. Từ hôm qua đến nay các người làm tôi pát khùng, tôi cáu lắm tôi không hiểu gì cả. Cha chẳng bênh vực con đối với Mariuytx. Mariuytx cũng chẳng bênh con đối với cha. Cả hai người bỏ tôi một mình. Con đã thu xếp một gian buồng ngộ nghĩnh lắm. Giá con mời Trời xuống được, con cũng xếp vào ở đấy. Thế mà người ta chẳng thèm, người ta để cho con ôm lấy cái buồng, người khách trọ lừa gạt con. Con bảo Nicôlét làm bữa cơm ngon thân mật. Thưa bà, người ta không thèm ăn. Ông Phôsơlơvăng, cha tôi, lại bắt tôi gọi là ông Giăng và bắt tôi tiếp ông trong cái hầm cổ lỗ xỉ ghê tởm, mốc meo, tường mọc râu, mọc ria, đồ pha lê thì chỉ là vỏ chai vỏ lọ, rèm màu thì toàn là mạng nhện. Cha gàn tính gàn nết cũng được, đó là điệu của cha, nhưng chúng con vừa mới cưới xong, cũng phải tạm hoãn chiến cho người ta nhờ với chứ. Có đâu lại xoay trở lại cái trò gàn liền tay như thế? Cha lại về cái xó phố Lomácmê ghê tởm ấy thì sướng lắm đấy. Con ở đấy thật là chán mớ đời. Cha có thú gì con hở cha? Cha làm con khổ lắm cha ạ. Gớm! Rồi bỗng nhiên nàng nghiêm nét mặt, nhìn đăm đăm vào Giăng VanGiăng, nói thêm một câu: - Cha thấy con sung sướng cha không bằng lòng phải không? Lời nói vô tình có khi làm cho người ta xốn xang đến gan ruột. Câu hỏi đơn giản đối với Côdét lại rất thấm thía đối với Giăng VanGiăng. Côdét chỉ muốn nó cạnh một tý, không ngờ lời nàng lại xé ruột Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng tái mặt. Ông đứng lại một hồi không trả lời, rồi khe khẽ nói thầm, giọng buồn không tả được. - Hạnh phúc của nó là mục đích cả một đời ta. Bây giờ Chúa có thể cho ta về rồi đây. Côdét, con đã được sung sướng, đời cha thế là xong. Côdét hớn hở kêu: - À! Cha đã gọi con là con rồi. Nói xong nàng ôm choàng lấy cổ Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng ngây ngất, bàng hoàng ôm ghì Côdét vào ngực, hình như người đã mất nay lại lấy lại được. - Cảm ơn cha! – Côdét nói. Sự cám dỗ hầu như sắp trở thành xót xa đối với Giăng VanGiăng. Ông nhẹ nhàng luồn ra khỏi tay Côdét và cầm mũ. - Sao thế? – Côdét hỏi. Giăng VanGiăng trả lời: - Thưa bà, tôi xin về, người ta đợi bà. Ra đến ngưỡng cửa ông nói thêm: - Tôi đã gọi bà là con. Bà nói với ông rằng tôi sẽ không bao giờ làm thế nữa. Bà miễn tội cho tôi. Giăng VanGiăng ra về, để Côdét lại với nỗi kinh ngạc khôn cùng vì cách chào đi khó hiểu ấy.