QUYỂN XV PHỐ LÔMÁCMÊ Chương I Bấm để xem Con người là một cái vực còn sâu hơn cái vực nhân dân nhiều, nên bên cạnh một tâm hồn đang loạn thì một thành phố đang vật vã, quằn quại có nghĩa lý gì? Tâm hồn Giăng VanGiăng hôm ấy, cũng có một cuộc vùng lên rất đáng sợ. Mọi thứ vực sâu hố thẳm đều như mở rộng toang hoác trong lòng ông. Cũng như Pari, ông run sợ trước một cuộc cách mạng ngấm ngầm và dữ dội. Chỉ có mấy giờ đồng hồ mà cớ sự đã như thế đấy. Vận mệnh và lương tâm ông bỗng dưng phủ đầy bóng tối. Người ta có thể nói về ông cũng như nói về Pari: Trong lòng hiện đang có hai lực lượng đối địch nhau. Ma quỷ và thần thánh sắp tóm lấy nhau mà vật trên cái cầu bắc qua vực thẳm. Bên nào sẽ ẩy bên nào xuống đây? Bên nào sẽ thắng? Cũng trước cái ngày 5 tháng sáu đó, Giăng Vangiăng đưa Côdét và bà Tútxanh sang ở phố Lomácmê. Ở đấy một sự kiện đang chờ đợi ông. Côdét không phải không có ý cưỡng lại việc rời bỏ ngôi nhà phố Pơluymê. Từ ngày bố con ở chung với nhau, đó là lần đầu tiên hai bố con có ý kiến riêng biệt, không đến nỗi xung đột nhau nhưng rõ ràng là trái ngược nhau. Con có phản đối nhưng bố thì cương quyết. Lời khuyên của người lạ mặt: Dọn nhà đi đến với ông một cách đột ngột làm ông hoảng hốt trở thành độc đoán. Ông tưởng như tung tích đã bị lộ và ông đang bị săn đuổi vậy. Cho nên Côdét đành phải nhượng bộ. Từ phố Pơluymê đến phố Lômácmê, cả hai đều bận theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, chẳng ai hở môi nói với ai nửa lời. Ông thì trong lòng lo âu đến nỗi không thấy Côdté đang rầu rầu, còn Côdét rầu rầu đến nỗi không thấy ông đang lo âu. Khác với những lần vắng trước, lần này ông có đem theo bà Tútxanh. Ông thấy trước là không còn trở lại phố Pơluymê nữa, cho nên ông không thể nào bỏ bà ấy ở lại một mình, càng không thể nói cho bà ấy biết việc riêng của ông được. Vả ông thấy bà ta là một người trung thành, có thể tin cậy được. Kẻ ăn người ở trong nhà mà phản chủ thường bắt đầu bằng tính toán tò mò. Bà Tútxanh thì dường như trời đã định sẵng để làm người ở cho Giănng VanGiăng, bà ấy không bao giờ tò mò. Bà có tật nói lắp, nói bằng cái giọng người đàn bà nhà quê xứ Bácnơvin: Tôi là vậy là vậy, tôi làm cái tôi làm, cái còn lại không phải cái tôi làm (tôi là như vậy, tôi làm công việc của tôi, ngoài ra, tôi không cần biết). Lần này rời khỏi phố Pơluymê ra đi vội vã gần như đi trốn, Giăng Vangiăng chỉ đem theo có mỗi cái va ly ướp hương mà Côdéta gọi là người bạn không rời. Mang theo hòm xiểng nặng thì phải có phu vác, mà có phu vác là có người hay biết chuyện mình. Cho nên ông chỉ gọi một chiếc xe ngựa đến cổng phía phố Babylôn và ra đi ngay. Bà Tútxanh vất vả lắm mới được phép gói thêm nột ít quần áo và ít vật dụng trang điểm. Phần Côdéta, nàng chỉ mang theo có giấy má và xấp giấy thấm. Để lúc ra đi được vắng vẻ và thầm lặng, Giăng VanGiăng đã xếp đặt sao cho bước ra khỏi nhà đúng vào lúc hoàng hôn. Nhờ thế mà Côdét có thì giờ viết thư cho Mariuytx. Lúc dọn đến phố Lomácmê thì trời đã tối mịt. Cả nhà đều lặng lẽ đi nghỉ. Nhà mới ở phố Lomácmê qua một sân trong mới thuộc tầng gác thứ hai. Nhà có hai phòng ngủ, một phòng ăn và một nhà bếp thông với nhau, ở đó có một cái gác nhỡ đặt chiếc giường thô. Chiếc giường này là phần của bà Tútxanh. Phòng ăn đồng thời là phòng đợi và nằm vào giữa hai phòng ngủ. Trong nhà có đồ dùng đầy đủ. Bản chất con người cũng lạ! An tâm cũng dễ như hoang mang, chẳng vì duyên cớ gì xác đáng cả. Vừa dọn được đến phố Lomácmê Giăng VanGiăng đã thấy bớt băn khoăn và dần trở lại bình tĩnh. Những nơi yên tĩnh dường như có một tác dụng hoàn toàn máy móc đến trí não thật. Giăng VanGiăng quả nhiên thấy mình lây cái yên tĩnh của phố này. Phố tối, người lạnh. Đường hẹp đến nỗi phải gác ngang cây gỗ trên hai đầu trụ để cấm xe cộ qua lại. Cả phố như câm như điếc giữa cảnh thị thành huyên náo. Lại ban ngày mà mờ mờ như hoàng hôn và hầu như không cái gì làm xáo động được nữa với hai dãy nhà hai bên cũ kỹ lặng thinh như những ông cụ già. Ở đấy tưởng chừng như có sự nguôi quên đang ngưng đọng lại. Và Giăng VanGiăng thấy sống được. Ai còn có cách tìm ra ông ấy ở đây chứ? Việc trước tiên là ông đem người bạn không rời đặt cẩn thận bên mình. Hôm ấy ông ngủ được một giấc ngon. Giấc ngủ khuyên nhủ, có thể thêm, giấc ngủ làm yên lòng. Sáng hôm sau, thức dậy, ông thấy người vui vẻ. Phòng ăn xấu xí có một cái bàn tròn đã cũ, một cái tủ thấp trên đặt trên chiếc gương soi, một cái ghế bành mọt và mấy chiếc ghế dựa ngổn ngang các gói đồ đạc của bà Tútxanh. Trong một gói ấy, qua chỗ hở thấy lòi lộ ra bộ quân phục quốc dân quân của Giăng VanGiăng. Gian phòng xấu xí thế mà ông lại nhìn thấy đẹp. Phần Côdét nàng ở lì trong phòng riêng, bảo bà Tútxanh mang cháo vào tận đấy, còn nàng thì mãi đến tối mới ló mặt ra. Vào khoảng năm giờ, bà Tútxanh đang còn lăng xăng, rối rít về việc dọn nhà, đem đặt lên bàn ăn một con gà luộc sẵn. Côdét giữ lễ với bố, đành ngồi lại, nhìn nhưng không ăn. Nàng lấy cớ đau đầu mãi không hết, chào bố về phòng riêng. Giăng VanGiăng xé một cánh gà ăn ngon lành, rồi tỳ tay lên bàn, thấy trí óc dần dần trở lại quang đãng và có cảm giác chắc chắn là mình đang sống an toàn không còn gì đáng sợ nữa. Hai ba lần trong bữa ăn thanh đạm ấy, ông có thấy nghe bà Tútxanh là cà lập cập mách với ông: - "Thưa ông, ờ ngoài ồn ào chộn rộn lắm, đánh nhau ở Pari ông ạ". Nhưng trí óc đang tính toán, suy nghĩ miên man, ông không hề để ý tới lời nói ấy. Nói cho đúng thì ông chẳng nghe thấy bà ấy nói gì cả. Trong lòng mỗi chốc thêm bình thản, ông đứng dậy đi lại, đi từ của sổ tới cửa lớn rồi từ cửa lớn quay lại của sổ. Trí óc trở lại bình tĩnh ông lại nghĩ đến Côdét, mối lo lắng duy nhất của ông. Không phải ông lo lắng cho bệnh đau đầu của nàng đâu. Bệnh hoạn gì, đó chẳng qua là chuyện thần kinh rối loạn chốc lát, chuyện đàn bà con gái làm nũng, cái thứ đám mây thoáng qua vòm trời ấy mà, ngày một ngày hai là biến mất thôi. Điều làm ông lo lắng là tương lai, và như thường lệ, khi nghĩ đến tương lai lòng ông lại tràn đầy âu yếm. Nói cho cùng thì ông không thấy gì ngăn trở cuộc đời hạnh phúc của ông trôi chảy bình thường như trước. Nhưng có lúc ông thấy mọi sự đều dễ dàng. Như lúc nãy chẳng hạn. Những phút lạc quan như thế thường đến sau những phút bi quan, cũng như hết ngày lại đến đêm. Đó là luật tiếp nối và đối lập của bản chất tạo hóa mà những bộ óc hời hợt thường gọi là hiện tượng tương phản. Đến ẩn náu ở cái phố bình yên này, Giăng VanGiăng như trút được mọi thứ làm ông mất bình tĩnh lâu nay. Ông đã từng trông thấy nhiều bóng tối quá, chính vì thế mà đến đây ông lại bắt đầu nhìn được một ít trời xanh. Rời bỏ phố Pơluymê mà không có gì lôi thôi, không việc gì xảy ra, như thế là được một bước tốt. Nhưng giá đi luôn ra nước ngoài, dù chỉ một vài tháng, và đi sang Luân Đôn thì có thận trọng hơn không? Thôi được, đi vậy. Ở Pháp hay ở Anh điều ấy có hề gì, miễn là có Côdét bên cạnh. Côdét là quốc gia của ông. Có Côdét là đủ làm cho ông sống hạnh phúc, còn phần ông có đủ làm cho Côdét hạnh phúc hay không, ý nghĩ ấy ngày xưa thường làm ông phải nôn nao, thao thức, thì hôm nay lại không hề hiện đến trong trí ông. Bao nhiêu đau thương xưa cũ đều như tiêu tan nhanh chóng và con người ông hôm nay thật lạc quan. Có Côdét ở một bên, ông có cảm tưởng như nàng là của ông, như thế âu cũng là một ảo tưởng thường xảy ra trong thiên hạ. Cho nên, ông chẳng thấy chút khó khăn nào khi nhẩm tính trong trí việc dẫn Côdét sang Anh. Hơn nữa, ông lại mơ màng thấy hạnh phúc của mình đang được xây dựng lại, bất kỳ ở đâu. Ông đang thong thả bước một đi lại trong phòng, bỗng nhìn thấy một vật kỳ lạ. Trong cái gương treo nghiêng trên đầu tủ phía trước mặt, ông nhìn thấy rõ bốn dòng chữ: "Anh yêu mến của em! Hỡi ôi! Bố bảo phải đi ngay anh ạ. Tối nay bố con em sẽ ở số 7 phố Lomácmê. Tám hôm nữa thì ở đất Anh rồi. Côdét. Ngày 4 tháng 6". Giăng VanGiăng dừng lại sửng sốt. Hôm dọn đến nhà mới, Côdét để sấp giấy thấm trên đầu tủ trước cái gương. Gan ruột đang như bào như xé, nàng bỏ quên luôn đấy, có chú ý gì đến xấp giấy thấm bị mở toang ra đâu! Xấp giấy lại mở đúng trang nàng đã viết hôm trước đã nhờ anh thợ trẻ đi qua phố Pơluymê đưa đi.. Các dòng chữ ấy đã in rõ vào trang giấy thấm. Và tấm gương soi đã phản chiếu lại rõ ràng. Hiện tượng mà hình học gọi là đối xứng đã diễn ra. Chữ in trên giấy thấm trên giấy thấm thì trái, nhưng chữ lại phản chiếu lại vào gương thì trở lại chiều bình thường, tự nhiên như người ta viết. Vì thế trước mắt ông Giăng VanGiăng mới hiện rành rành bức thư Côdét viết cho Mariuytx hôm vừa rồi. Thật là giản đơn nhưng chẳng khác gì sét đánh. Giăng VanGiăng bước đến trước gương. Ông đọc lại bốn dòng chữ nhưng vẫn không tin. Có thể là những dòng chữ.. thoáng hiện trong những ánh chớp. Ảo giác thôi. Chứ không thể nào như thế được. Nhất định không có như thế đâu. Dần dần mắt ông nhìn rõ hơn. Tấm giấy thấm của Côdéta làm ông trở lại với thực tế. Ông cầm giấy xấp và nói: Nó ở đây đây. Ông hồi hộp nhìn vào mấy dòng chữ ngòng ngoèo chẳng ra chữ nghĩa gì cả. Ông nghĩ bụng: Có nghĩa lý quái gì cái này, có chữ nghĩa gì viết lên đây đâu. Và ông thở phào khoan khoái. Ông mà không có những cái vui vô thức như thế trong những giờ phút ghê rợn? Thật là tâm hồn con người ta không bao giờ chịu đầu hàng sự thất vọng mà không tìm cách sử dụng hết mọi thứ ảo tưởng. Ông cầm xấp giấy thấm trên tay, ngắm nghía, sung sướng một cách ngây ngô, gần như muốn phá lên cười. Ông cho mình đã bị lừa vì cái ảo giác ban nãy. Bỗng mắt ông quay vào tấm gương và nhìn thấy lại hình ảnh vừa rồi. Bốn dòng chữ vẫn rành rành ở đấy, rõ rừng nét một. Lần này thì không còn là trông nhầm được nữa. Một hình ảnh mà mắt trông thấy đến lần thứ hai thì chỉ có thể là hỉnh ảnh thật. Thôi, sờ sờ ra rồi, đó là các chữ trên giấy thấm phản chiếu vào gương. Giăng VanGiăng chợt hiểu. Ông lão đảo buông rời xấp giấy thấm, quỵ xuống chiếc ghế bành bên cạnh tủ, đầu gục xuống rũ rượi, mắt đục lờ, ngơ ngác. Ông tự bảo: Thôi, sự đã quả nhiên rồi, ánh sáng trên đời này đã tắt vĩnh viễn, Côdét nó đi viết thư cho thằng nào đây này. Tâm hồn bỗng dưng trở nên dữ tợn và ông nghe nó ầm vang trong bóng tối. Sư tử đấy, chớ có mà đến cướp mồi của nó ở trong chuồng! Điều kỳ dị và đáng buồn là trong lúc ấy, Mariuytx chưa tiếp được thư của Côdét. Cái tình cờ phản phúc đã mang bức thư đến cho Giăng Vangiăng trước khi nó đến tay Mariuytx. Từ trước đến giờ, chưa có thử thách nào, làm cho Giăng VanGiăng khuất phục. Ống đã nếm đủ mọi thứ mùi cay đắng, ông đã chịu đựng đủ mọi nỗi gian nan. Cái số kiếp tàn bạo với mọi thứ hình phạt, mọi thứ lầm lẫn trong xã hội, cứ nhè ông mà làm tội. Mặc dù thế, ông không hề lùi bước, không hề nản lòng. Khi cần ông xin rước lấy tất cả các thứ cay đắng. Ông đã hy sinh sự tự do của mình, liều với cả cái chết. Ông đã mất cả, đã chịu đựng mọi sự đau khổ đến nỗi có lúc người ta tưởng ông quên cả hình hài như một người tử vì đạo. Lương tâm ông dạn dày với bao cơn phong trần lao khổ, hầu thành một pháo đài kiên cố không ai chiếm đoạt nổi. Thế mà, ai chứng kiến được tâm trạng ông lúc này nhất định phải xác nhận rằng cái pháo đài ấy đang núng thế. Bởi và trong hết thảy mọi cực hình ông đã trải qua suốt cuộc khảo tra dằng dặc của số mệnh, lần này là đáng sợ nhất. Chưa bao giờ ông thấy bị kìm kẹp như thế này. Tất cả các khả năng cảm xúc tiềm tàng đều như bị lay động một cách thầm lặng. Cả những thớ thịt sâu kín nhất, không hề biết đến nữa, cũng thấy như bị mũi kìm kẹp lại. Ôi thôi thôi, cuộc thử thách găng nhất, nói cho đúng, cuộc thử thách duy nhất đối với ông là việc mất người yêu. Ông già Giăng VanGiăng yêu mến Côdét cố nhiên là không ngoài tình cha con. Nhưng, chúng ta đã lưu ý mọi người trên kia, cuộc đời cô đơn cua ông đã đem vào thứ tình cha con ấy đủ thứ tình yêu khác. Ông yêu Côdét như con, ông yêu nàng như mẹ, và ông cũng yêu nàng như em gái. Và vì cuộc đời ông chưa hề biết đến nhân tình, biết vợ là gì, vì tạo vật là chủ nợ không chịu cho ai vỡ nợ bao giờ, cho nên cả thứ tình cảm ấy, thứ tình cảm mà không ai mà không có ấy, nó cũng xen lẫn vào các loại tình cảm khác ở trong người ông, mặc dù nó cứ mơ hồ, thầm lặng, trong trắng, mặc dù nó cứ có vẻ cao siêu, tinh khiết, thần thánh. Nó như một bản năng hơn là một tình cảm, một hấp lực hơn là một bản năng, và nó vô hình, không trông thấy mà cũng không nhận ra được, nhưng nó quả có thật. Nó là thứ chân chính, ẩn vào trong mối tình thương yêu không bờ bến của ông đối với Côdét, chẳng khác gì cái mạch vàng ẩn trong quả núi, u ẩn và nguyên vẹn. Bạn đọc hãy nhớ cái quan hệ tình cảm giữa hai con người ấy như chúng tôi kể. Trong tình hình như thế, không thể có một cuộc hôn nhân nào giữa hai người được, kể cả hôn phối của hai tâm hồn. Thế mà trong khi đó thì chắc chắn một điều là vận mệnh hai người lại đã kết hôn với nhau. Trừ Côdét, nghĩa là trừ một hình ảnh trẻ con ra, trong suốt đời ông, tất cả những cái gì đáng yêu, Giăng VanGiăng chưa hề được biết, chưa hề có những say mê, thương yêu nối tiếp tạo nên trong lòng ông những màu xanh hòa hợp, xanh non trên nền xanh thẫm như người ta thường nhận thấy trên những vòm cây mùa đông cũng như trên những người đã qua tuổi năm mươi. Tóm lại, như chúng ta đã nhấn mạnh nhiều lần, tất cả cái hỗn hợp bên trong ấy, tất cả cái tâm trạng tổng hợp ấy đã đưa Giăng VanGiăng đến chỗ thành một người cha của Côdét. Một ông cha hơi kỳ dị một chút, vì bao gồm cả vai ông, vai con, vai anh chồng và vai cha, vai nào cũng có trong người Giăng VanGiăng. Một ông cha trong đó có cả vai mẹ. Một ông cha ấy thương Côdét và yêu Côdét, coi nàng như ánh sáng, như nhà ở, như gia đình, như tổ quốc, như thiên đường của mình. Bởi vậy, ông đau đớn biết chừng nào khi ông thấy Côdét không còn là của ông nữa! Thôi thế nhất định là hết! Ông không còn giữ được nàng nữa, nàng đã tuột khỏi tay ông, nàng đã lẫn tránh ông, nàng là mây bay, là nước chảy rồi! Sự thật hiển nhiên như quả núi đè người, hiện ra trước mắt ông: "Trong lòng Côdét đã có một người khác rồi, người ấy là mục đích của đời nó, là ước mơ của đời nó. Côdét đã có người yêu quí rồi, còn ta chỉ là bố nó, ta cũng như không thôi". Khi ông đã chắc chắn rồi, khi ông tự nhủ: "Nó đã bỏ lòng ta đi rồi", thì nỗi đau của ông thật không còn bờ bến nào nữa. Làm tất cả mọi thứ như ông đã làm để rồi kết quả như thế đó ư? Thế nào? Lại không là gì hết ư? Nghĩ đến đó, cả người ông từ đầu đến chân đều run lên bất bình. Ông cảm thấy ở từng chân tóc sự nổi dậy rộng lớn của lòng ích kỷ và cái tôi của người ông đang gào thét trong vực sâu của tâm hồn. Có những sự sụp đổ bên trong. Khi một khẳng định tuyệt vọng thấm vào lòng một con người, nó tách ra và làm vỡ một số yếu tố sâu sắc đôi khi chính là chất cấu thành của người đó. Khi niềm đau thương đến độ ấy thì nó trở thành một cuộc bại tẩu tán loạn của các lực lượng tinh thần. Đó là những cuộc khủng hoảng tai hại mà ít ai ra khỏi lại lành mạnh như trước. Khi đau thương vượt giới hạn, thì đạo đức kiên trinh bao nhiêu cũng nao núng. Giăng VanGiăng lại cầm tấm giấy thấm và xác định tai hại của mình lần nữa. Đầu ông cứ cúi trên bốn dòng chữ khó chối cãi, người trơ như đá, mắt trừng trừng một đám mây mù dày đặc xâm chiếm tâm hồn, tưởng như nó đang đổ vỡ. Giăng VanGiăng xem xét điều phát hiện đó qua ống kính phóng đại của sự nghĩ ngợi vớ vẩn, với vẻ bình tĩnh bên ngoài dễ sợ, bởi vì khi con người bình tĩnh đến lạnh lùng như một pho tượng thì đó là một điều ghê gớm. Ông suy nghĩ đến cái bước đáng sợ mà vận mệnh ông đã đi một cách bất ngờ. Ông nhớ lại những nỗi lo sợ mùa hè năm trước mà ông đã dại dột xau tan rất nhanh. Ông nhận thấy lại vực sâu, vẫn là cái vực sâu cũ, có điều ông không còn đứng ở trên bờ nữa, mà đã rơi xuống tận đáy. Điều không ngờ và đau đớn cho ông là ông bị rơi vào đấy mà không hay biết gì cả. Ông luôn luôn tưởng thấy mặt trời, thế mà đời ông đã tối đen! Bản năng chẳng để ông ngập ngừng nữa. Ông đem khớp vào với nhau một số trường hợp, một số ngày tháng, ông nhớ lại những lần mặt mày Côdét bỗng dưng đỏ ửng hoặc tái xanh, rồi ông tự bảo: Đúng là thằng ấy. Lúc thất vọng người ta đâm ra đoán già đoán non nhưng lại như chiếc nỏ thần, đã buông tên là trúng đích. Thoạt tiên ông đã đoán trúng ngay Mariuytx. Ông không biết tên nhưng ông tìm ngay ra con người. Từ trong đáy sâu của dĩ vãng gợi lên trong trí nhớ một cách rành rọt, ông nhìn thấy rõ cái tên hay rình mò bố con ông ở vườn Luytxămbua, cái thằng bướm ong khốn kiếp ấy, cái thằng hèn nhát ấy, vì rõ là đồ hèn nhát mới dám đến liếc mắt đưa tình, ve vãn con gái ngay cạnh bố, nhất là khi người con gái ấy được bố rất yêu. Khi nhận xét kỹ tình hình ông thấy rõ sau mọi việc vừa xảy ra đều có hình ảnh của người thanh niên ấy, và tất cả đều do người ấy mà ra. Giăng VanGiăng, con người đã cải tạo, đã cố gắng xây dựng tâm hồn mình, đã dày công biến đổi tất cả cuộc đời, tất cả gian nan khốn khổ ra tình yêu, con người ấy ngày nay tự nhìn lại mình thì chỉ thấy có một bóng ma: Hằn Thù. Những đau thương lớn chứa đựng sự tê liệt. Con người lúc đó chán nản vì trót tồn tại. Đau thương vào thì có cái gì đó rút đi. Ở tuổi thanh niên, đau thương đến thì ảm đạm, sau này nó là tai họa. Than ôi! Khi dòng máu còn nóng, tóc còn xanh, đầu còn đứng thẳng trên thân thể như ngọn lửa trên cây đuốc, khi những trang đời còn dày cộm như chưa giở, khi quả tim hăng hái yêu đương còn những nhịp đập dễ dàng khôi phục, khi ta còn thì giờ thì để đền bù, hàn gắn, khi tất cả phụ nữ còn ở trước mặt, với tất cả nụ cười, tất cả tương lai, tất cả chân trời, khi sinh lực còn đầy đủ, mà thất vọng vẫn cứ là một điều ghê gớm, thì nó sẽ như thế nào đối với tuổi già, khi năm tháng nhạt mờ dồn dập rơi rụng vào cái buổi hoàng hôn mà con người bắt đầu nhìn thấy các vì sao trên trần mộ! Ông còn suy nghĩ miên man thì bà Tútxanh bước vào. Ông đứng lên hỏi: - Ở về phía nào bà có biết không? Bà ta ngơ ngác, chẳng biết trả lời thế nào. - Thưa ông hỏi gì ạ? Giăng Vangiăng nhắc lại: - Chứ không phải là hồi nãy bà bảo tôi là người ta đang đánh nhau ạ? - À, phải, thưa ông, ở đằng phía Xanh Meri đấy. Từ sự suy nghĩ âm thầm, sâu sắc nhất, có khi xảy ra những hành động vô ý thức mà ta không sao biết trước được. Chắc vì có một sự xúc giục như thế mà năm phút sau Giăng Vangiăng đã ở ngoài đường. Ông không đội mũ. Ông đến ngồi trên trụ vôi ngoài cổng, vẻ nghe ngóng. Đêm đã xuống.
Chương III &I V Bấm để xem Giăng VanGiăng trở vào nhà với bức thư của Mariuytx. Như con cú đang giữ chặt miếng mồi, ông lấy làm vừa ý với bóng tối trong nhà. Ông sờ soạng bước lên thang gác, se sẽ mở cửa ra và đóng cửa lại, rồi đứng im lắng nghe. Khi chắc chắn là Côdét và bà Tútxanh đang ngủ say, ông lấy diêm bật lửa nhưng hai tay run lẩy bẩy, phải đánh luôn ba bốn que mới đỏ. Vì có cái gì như là một sự trộm cắp trong hành động vừa rồi. Cuối cùng thì ông đã thắp được đèn lên, ngồi lại trên bàn, mở tờ giấy ra đọc. Những khi xúc động mãnh liệt, người ta không còn đọc được nữa, mà có thể nói người ta vật ngửa tờ giấy trong tay ra, người ta bám riết lấy nó như bám lấy một miếng mồi, người ta giày vò, người ta chọc sáu móng tay giận dữ hoặc vui mừng vào mình nó, người ta chạy vụt đến đoạn cuối, người ta nhảy xô trở về đoạn đầu. Trí óc khi chú ý lắm cũng lên cơn sốt, nó chỉ hiểu đại khái, hiểu lờ mờ, hiểu cái chính, nắm được một điểm, còn tất cả đều như biến mất. Trong bức thư Mariuytx viết cho Côdét, Giăng Vangiăng chỉ thấy có mấy chữ: "Anh chết đây.. khi em đọc các dòng này thì hồn thiêng anh sẽ về với em". Nhìn hai dòng chữ ấy, mắt ông như bị chói lòa một ánh sáng ghê tởm. Cảm xúc thay đổi đột ngột quá làm ông choáng váng. Ông nhìn bức thư của Mariuytx, trong lòng vừa kinh ngạc vùa say sưa: Trước mắt ông là một sự thật rạng rỡ, cái chết của người mà ông đang thù ghét. Thâm tâm vui mừng, ông thét lên một tiếng thét xấu xa: - Thôi thế là hết nhé. Câu chuyện kết thúc sao mà nhanh quá chỗ người ta có thể mong ước thế! Con người làm trở ngại cuộc đời ông như thế là đã biến đi rồi. Nó tự ý biến đi, tự nguyện, chẳng ai thúc đẩy cả. Giăng VanGiăng chẳng làm gì, chẳng có tội gì trong việc ấy cả, thế mà "con người ấy" lại sắp chết! Mà có lẽ hắn chết rồi cũng nên. Đến đây ông tính toán: - Không. Hắn chưa chết. Rõ ràng là bức thư định viết cho Côdét đọc sáng ngày mai, sau hai loạt súng nổ trong khoảng từ mười một giờ đến mười hai giờ khuya cho đến giờ, không nghe thấy gì thêm nữa, cho đến sáng sớm chiến lũy mới bị tấn công ra trò, nhưng có hề gì, khi mà đã bị cuốn vào trong cuộc chiến đấu này, nhấy định là nó nguy rồi, guồng máy sẽ lôi nó đi thôi. – Giăng VanGiăng cảm thấy như mình được giải thoát. Rồi đây sẽ chỉ còn có ông với Côdét. Sự cạnh tranh thế là chấm dứt, tương lai lại trở về. Mảnh giấy này ông cứ bỏ túi. Chẳng bao giờ Côdét đươc biết "con người ấy" đã ra thế nào. "Ta cứ để yên cho mọi việc xảy ra. Con người ấy không có cách nào thoát được. Nếu nó chưa chết thì chắc chắn rồi nó sẽ chết. May cho ta biết dường nào!". Nghĩ xong bấy nhiêu điều, ông thấy trong lòng tối sầm lại. Ông bước xuống thang gác đánh thức nguời gác cổng dậy. Khoảng một giờ sau, Giăng VanGiăng bước ra, mình mặc đồng phục quốc dân quân, tay cầm súng. Người gác cổng đã chạy sang bên hàng xóm mượn thêm mấy thứ để ông trang bị được đầy đủ. Ông vác một cây súng đã lắp đạn sẵn và đeo một bao đầy đạn. Ông đi về phía chợ. IV GAVRỐT TÍCH CỰC QUÁ MỨC (Les excès de jèle de Gavroche) Một việc lôi thôi vừa xảy đến với Gavrốt. Sau khi cố tình ném vỡ cây đèn ở phố Đuysôm, Gavrốt rẽ sang phố Hôrđiét. Phố vắng tanh không một bóng người. Hắn thấy dịp tốt đã đến hát trọn bài hát mà hắn biết hát. Miệng hát nhưng chân cứ đi, không chậm lại mà nhanh thêm lên. Các dãy nhà hắn qua đều đóng cửa im ỉm vì ngủ yên hay là hoảng sợ, và nó ném ra hai bên phố điệu hát nảy lửa này: Con chim nó mách trên cành Rằng Atala đã theo tình xa Bạn tình là một chàng Nga Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Pi-i ơi, than thở chi Lẳng lơ quen tính, chắc gì Mila? Gõ tường ả đến gọi ta Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Các con nỡm ấy xinh sao! Bùa mê nó bỏ, say nhào là ta Dù ai cũng cứ say mà Đi đâu hỡi các Tố nga? Dôta! Tôi thích yêu nhau, thích giận nhau Lidơ, Anhet cô nào tôi cũng mơ Đốt ta họ cũng bỏng mà! Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Đẹp thay cái chiếc áo choàng Của cô Xuydét và nàng Dêyla Áo người đã quấn hồn ta Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Tình ơi, trong tối sáng ngời Hoa hồng đem kết vào đời Lôla Yêu nàng ta xả thân ta Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Thấy Gian trang điểm trước gương Tim anh phút đã lạc đường bay xa Phải nàng bắt được tim ta? Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Vũ về, vào lúc nửa đêm Chỉ em, anh nói với ngàn sao xa: Sao nào! Hãy ngắm Xtenla Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Gavrốt vừa hát vừa làm điệu bộ tha hồ, không dè xẻn. Điệu bộ là điểm tựa của khúc điệp. Mặt nó là một kho chứa mặt nạ, nó làm đủ điệu nhăn nhó giật gân và kỳ dị như các lỗ thủng của một cái khăn treo trước gió. Buồn thay, vì chỉ có mình nó trong đêm tối, cho nên không ai xem và cũng không thể trông thấy. Có những tài hoa hoài phí như thế đấy. Thình lình nó ngừng bặt. - Thôi, dẹp bài ca ân tình lại đã. Cặp mắt mèo của hắn vừa nhìn thấy có vật gì trong một xó cổng. Nhà hội họa thì cho đó là một kết cấu, nghĩa là một con người và một đồ vật, đồ vật là một cái xe ba gác, còn con người là một anh chàng người vùng Ôvécnhơ đang ngủ trong xe. Càng xe thả xuống mặt đường, còn đầu người kia lại gác lên ván xe, chân chấm xuống đất, thân nằm trên một chiếc xe chúc ngược. Có kinh nghiệm về việc đời, Gavrốtư biết ngay là một anh chàng say rượu. Đích là một anh chàng chở thuê ở xó này, ních rượu đẫy vào rồi ngủ cũng đẫy. Gavrốt nghĩ bụng: Đêm mùa hè cũng được việc đấy chứ! Đánh một giấc ngay trong xe! Thôi, ta "mượn" chiếc xe này cho chính phủ cộng hòa, còn ta để anh chàng này lại cho chế độ quân chủ. Trong trí Gavrốt vừa có một ánh sáng lóe lên: - Anh ba gác này mà thượng lên trên chiến lũy thì phải biết là hay! Anh chàng phu xe đang ngáy khò khò. Gavrốt se sẽ đẩy lui cái xe đồng thời nắm chân anh chàng kéo ngược lại. Chỉ một phút là xong đâu đấy: Anh chàng phu xe đã nằm dài trên mặt đường, không nao núng. Còn chiếc xe thì đã rời ra. Có thói quen phải đối phó luôn luôn với mọi hoàn cảnh bất ngờ, nên cái gì Gavrốt cũng có trong mình. Nó lục túi móc ra một mảnh giấy và một khẩu bút chì đỏ củm được của một anh chàng thợ mộc nào đó, nó viết mấy chữ: "Chính phủ Cộng hòa Pháp " Biên nhận chiếc xe ba gác của anh " Rồi ký tên:" Gavrốt" Viết xong, hắn nhét mảnh giấy vào túi chiếc gi-lê nhung của anh phu xe vẫn đang ngáy như sấm, rồi cầm càng xe lên đi về phía chợ, vừa đi vừa đẩy chiếc xe chạy nước đại trước mặt. Chiếc xe chạy ầm ầm và nó lấy làm khoái chí. Trong ấy nguy hiểm. Ở nhà in hoàng gia có một bốt gác mà Gavrốt quên không để ý tới. Quốc dân quân ngoại ô đóng giữ ở đó. Tiểu đội canh gác đã bắt đầu để ý và mấy người nằm ở trên phản đã ngẩng đầu dậy. Hai cái đèn bị đập vỡ liền liền, một bài hát oang oang giữa đêm khuya, như thế đã là quá nhiều đối với những phố nhát gan này, những phố hễ mới vừa bắt đầu tắt mặt trời đã muốn đi ngủ, mới chập tối là chẳng còn đèn đóm gì. Suốt một giờ qua, Gavrốt đã làm ồn ào giữa khu phố yên tĩnh này như con nhặng rơi vào trong chai vo ve không ngớt. Người đội cảnh binh ngoại ô lắng tai nghe ngóng. Y là một người thận trọng, y chờ xem. Tiếng ầm ầm của chiếc xe ba gác làm cho y không còn chờ đợi gì nữa, y quyết định đi quan sát tình hình. - Chúng nó chắc có cả lũ, phải hết sức rón rén mới được. Rõ ràng là quân phiến loạn như con bạch tuộc đã thoát ra khỏi vòng vây và đang trăm tay chân làm náo loạn cả khu phố. Viên đội cảnh binh đánh liều ra khỏi bốt canh, bước đi từng bước rón rén. Gavrốt đang đẩy chiếc xe, sắp rẽ từ phố Hôđơriét sang thì đột nhiên chạm trán với một bộ quân phục, một mũ sắt có giắt lông, một cây súng. Lần thứ hai, nó dừng hắn. - À, lại có rồi. Gvrốt nói. Chào ông trật tự công cộng. Sự ngạc nhiên của Gavrốt ngắn ngủi và tan nhanh. Người cảnh binh hét lớn: - Thằng ranh kia, đi đâu? Gavrốt đáp: - Ông công dân kia, tôi chưa gọi ông là tư sản, sao ông lại mắng tôi thế? - Thằng ranh con đi đâu? - Thưa ông, hôm qua đây chắc ông còn là một người thông minh, nhưng sáng nay thì ông đã bị hạ bệ rồi. - Đồ chó chết, tao hỏi mày đi đâu? - Ông ăn nói nhã nhặn đấáy. Người ta thật không dám nói ông là người có tuổi đâu nhé. Ông nên đem bán tóc của ông đi, mỗi sợi một trăm phơrăng. Chắc được năm trăm phơrăng đấy. - Đồ ăn cướp mày đi đâu? Đi đâu? Đi đâu? Gavrốt tiếp: - Ăn nói gì thô bỉ thế? Mẹ ông từ rày có cho ông bú thì nhờ bà ấy lau hộ mồm cho ông kỹ kỹ hơn một chút. Viên đội cảnh binh chĩa súng vào người Gavrốt. - Đồ khốn nạn, mày có nói là mày định đi đâu không thì bảo? - Bẩm đại tướng, con đi mời thầy thuốc cho vợ con nó trở dạ. Viên đội kêu to: - Có địch! Dùng cái đã làm nguy mình để cứu nguy cho mình, kẻ tài tình mới làm được nghệ thuật ấy. Nháy mắt Gavrốt đã bao quát được tình thế; cái xe ba gác đã làm hại mình thì chính nó phải cứu mình mới đựoc. Vừa lúc viên đội cảnh binh sắp xông đến thì Gavrốt giang thẳng cánh tay vào bụng y như một quả đạn, làm y nhào ngửa trên đường và phát đạn nổ đoàng trên không. Nghe tiếng viên đội kêu, lính trong bốt canh đều ùa ra ngoài. Thấy có súng nổ họ cũng nổ bừa theo một loạt, rồi lắp đạn bắn tiếp; những loạt súng bắn mò kiểu bịt mắt bắt dê ấy kéo dài đến những mười lăm phút và hạ sát đến mấy miếng kính cửa. Trong lúc ấy thì Gavrốt đã bán sống bán chết tháo lui. Cách năm sáu phố. Gavrốt mới ngồi xuống một trụ đá ở góc đường, thở hổn hển. Hắn lắng tai nghe ngóng. Ngồi thở được một chốc, hắn quay mình về phía có tiếng súng đang nổ giòn, nâng bàn tay trái lên mũi rồi đưa ra trước ba lần, vừa đưa vừa lấy tay phải vỗ vỗ phía đằng sau gáy. Cử chỉ ngạo nghễ ấy của bọn trẻ ranh Pari là kết tinh của tinh thần châm biếm của người Pháp. Cố nhiên là nó rất hiệu nghiệm, chả thế mà nó đã kéo dài hàng nửa thế kỷ nay! Phút tươi vui ấy lại bị một ý nghĩ chua chát làm vẩn đục ngay. Gavrốt càu nhàu: - Ừ, cười cho lắm, cười lăn cười bò ra, mà lại lạc đường mất rồi, giờ thì phải đi quanh rồi. Thôi, sao miễn về chiến lũy kịp lúc là được! Nói đoạn hắn lại cắm đầu chạy. Vừa chạy vừa nói: - À ta hát đến đâu rồi nhỉ? Hắn lại cấy tiếng hát ban nãy. Bóng hắn chìm nhanh vào trong các ngõ phố và tiếng hát cũng xa dần, nhỏ dần vào trong đêm: Đời còn nhiều ngục Bátxti (Bastilles) Nền chuyên chế ấy ta thì bửa ra Bất bằng há dễ bỏ qua? Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Có ai chơi ta thì chơi Cho lăn cho lóc, cho rời vỡ ra Vỡ rời xã hội thối tha! Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Dân ta ơi, cầm gậy lên Kéo nhau ta đập tan đền nhà vua Diệt nền quân chủ xa hoa Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Đạp song ta đã xông vào Sáclơ Mười không dám đương đầu với ta! Kinh hoàng vua đã trốn ra.. Đi đâu hỡi các Tố nga? Dô ta! Hò dô ta. Cuộc nổ súng ở bốt canh không phải là không có kết quả. Người ta chiếm lĩnh chiếc xe ba gác và bắt được anh phu xe say rượu làm tù binh. Chiếc xe thì đem tống vào nhà chứa bị tịch thu, còn anh chàng say rượu thì về sau có bị truy tố chút ít trước tòa án binh như kẻ tòng phạm. Để bảo vệ xã hội, trong trường hợp này, viên công tố đã tỏ ra mẫn cán, không biết mệt mỏi. Câu chuyện Gavrốt đến nay vẫn còn là truyền thuyết ở khu phố Tăngplơ và là một kỷ niệm rùng rợn nhất đối với các bà thị dân già phố Mare. Trong ký ức họ, câu chuyện ấy được mệnh danh là: Cuộc tấn công ban đêm vào bốt gác Nhà in Quốc vương.
PHẦN THỨ NĂM - Jean Valjean- QUYỂN I CHIẾN TRANH GIỮA BỐN BỨC TƯỜNG Chương 1, X, XI Bấm để xem Hai chiến lũy đáng ghi nhớ nhất mà nhà quan sát các bệnh trạng xã hội có thể nêu ra không thuộc về thời kỳ câu chuyện kể trong sách này xảy ra. Cả hai chiến lũy đều tượng trưng cho một tình hình ghê gớm ở hai phương diện khác nhau, cả hai đều từ dưới đất mọc lên trong cuộc bạo khởi nghĩa tất yếu tháng sáu năm 1848, cuộc chiến tranh đường phố lớn nhất mà lịch sử đã chứng kiến. Một đôi khi bất chấp những nguyên lý, bất chấp tự do bình đẳng và bác ái, bất chấp phổ thông đầu phiếu, bất chấp quyền chấp chính của toàn thể đối với toàn thể, từ những khắc khoải, những nản lòng, những xơ xác, những bức sốt, những hãi hùng, những uất khí, những dốt nát, những tăm tối của mình, đám ngu dân tuyệt vọng nổi lên phản kháng và đánh lại nhân dân. Cùng dân tấn công pháp luật phổ thông, cùng dân tự tạo cho mình cái quyền đứng lên chống lại dân quyền. Những ngày đó là những ngày ảm đạm, bởi vì bao giờ cũng có một lượng chính nghĩa nhất định trong sự cuồng loạn đó, và cuộc chiến đấu đó hàm cái tính chất tự sát. Những tiếng: Ngu dân, cùng dân, loạn dân, dan ô hợp, được coi như là những tiếng để mạt sát, tiếc thay lại nói lên cái lỗi của người cầm quyền, hơn là cái lỗi của người bị trị, kẻ bất hạnh. Riêng chúng tôi, không bao giờ chúng tôi nói những tiếng ấy mà không cảm thấy xót xa và kính cẩn, bởi vì khi triết lý đi sâu vào những sự kiện mà những từ ấy diễn đạt, thì triết lý tìm thấy trong đó rất nhiều cái lớn lao bên cạnh điều tồi tệ. Thành quốc Aten là kết quả của chính quyền quần chúng; cùng dân đã làm nên nước Hà Lan, dân ô hợp đã mấy lần cứu thoát La Mã, và ngu dân đã đi theo Chúa Giêsu. Không có nhà tư tưởng nào mà không có lần chiêm ngưỡng những huy hoàng của tầng lớp đáy. Khi thánh Giêrôm nói cái lời bí ẩn: Fex urbis, lex orbis[1], chắc ngài đã nghĩ tới đám ngu dân, đến tất cả những người nghèo khổ, những kẻ lang thang, những kẻ cùng khốn đến từ đó mà xuất hiện thánh tông đồ và các bậc tử vì đạo. Những phẫn nộ của đám đông đau khổ vì rỏ máu, những bạo hành chống các lẽ sống của chính họ, những hành hung chống công lý, là những cuộc đảo chính của quần chúng và phải được trấn áp. Người trung thực tận tâm làm cái việc trấn áp ấy, và chống đánh đám đông chính vì yêu thương đám đông. Tuy nhiên, đương đầu với nó mà thấy nó đáng tha thứ bao nhiêu! Mà tôn kính nó bao nhiêu! Trong những giờ phút thiêng liêng hiếm có ấy, họ vừa làm cái việc phải làm, vừa cảm thấy có một cái gì khiến họ cụt hứng và hầu như ngăn họ đi xa hơn; họ vẫn tiếp tục vì cần phải vậy; nhưng lương tâm thỏa mãn lại rầu rĩ, và làm xong bổn phận, họ lại thấy xót xa. Cần phải nói ngay rằng cuộc khởi nghĩa tháng sáu năm 1848 là một sự kiện riêng biệt và hầu như không thể xếp loại trong khoa học lịch sử. Những tiếng chúng tôi vừa nói không nên đem dùng để nói về cuộc bạo khởi kỳ lạ, qua đó chúng ta cảm thấy nhân dân lo ngại đứng lên đòi quyền lao động thiêng liêng của mình. Phải chống đánh nó, và đó là bổn phận, bởi vì nó tấn công nền Cộng hòa. Nhưng suy cho cùng, nó là gì? Là một cuộc khởi nghĩa của nhân dân tự đánh vào mình. Chúng tôi không nói phiếm xa đề tài vì chúng tôi xin phép lưu ý bạn đọc về hai cái chiến lũy duy nhất mà chúng tôi vừa nói đến, hai chiến lũy tiêu biểu cho cuộc khởi nghĩa này. Một cái ngáng lối vào ô Xanh Ăngtoan, một cái bảo vệ cửa ô Tăngplơ. Những ai đã thấy dựng lên sừng sững trước mặt mình, dưới trời tháng sáu rực rỡ màu xanh, hai kiệt tác ghê gớm của cuộc nội chiến đó, đều không quên nó. Chiến lũy Xanh Ăngtoan là một công trình khổng lồ, ba tầng cao, hai trăm ba mươi thước rộng. Từ góc này qua góc nọ, nó chặn hẳn cái cửa ô rộng lớn bao gồm ba đường phố, được sẻ rãnh cắt miếng, cắt hình răng cưa, băm thành một khe hở lớn, được chống đỡ bằng những mô, tự chúng là những pháo đài, có những mũi nhô đây đó, tựa lưng vững chắc vào hai mõm dãy nhà ngoại ô, cái chiến lũy lù lù như một thành trì của thiên tướng ở cuối cái quảng trường ghê gớm đã chứng kiến vụ 14 tháng Bảy. Dọc theo chiều sâu các đường phố, ở đằng sau cái chiến lũy mẹ ấy, có cái chiến lũy khác cách quãng nhau. Chỉ nhìn thấy cái chiến lũy lớn không thôi cũng đủ thấy ở khu ngoại ô này, nỗi đau khổ mênh mông đã đến giờ hấp hối, đã đến phút chót, phút mà một sự khủng hoảng muốn trở thành một tai ương. Chiến lũy ấy làm bằng gì? Bằng ba tòa nhà sáu tầng xô đổ, có người bảo là do người ta cố ý. Có những kẻ khác bảo là sự công phẫn công cộng đã có phép mầu phá những ngôi nhà ấy. Chiến lũy mang hình dáng thảm hại của những công trình xây dựng bằng thù hằn: Sự đổ nát. Có thể nói: Ai đã dựng cái chiến lũy đó? Cũng có thể hỏi: Ai đã làm cái đổ nát đó? Đó là sáng tạo đột khởi của sôi sục. Ái chà! Cái cửa này! Cái cánh cổng song sắt này! Cái mái con này! Cái viền cửa này! Cái bếp vỡ này! Cái nồi rạn này! Cho tuốt! Ném tuốt vào! Đẩy đi, lăn đi, cuốn đi, dỡ đi, lật đảo đi! Xô đổ tất cả đi! Đó là sự hợp tác của đá, gạch, của xà ngang, của dầm sắt, của giẻ rách, của gạch hoa cạy lấy, của ghế thủng, của lõi bắp cải, của tả lót, của áo rách, của nguyền rủa. Vừa lớn lao, vừa ti tiện. Của hỗn mang cố bắt chước đáy vực. Đại khối bên cạnh phân tử, mảng tường xô ngã cùng với cái đĩa vỡ. Một cảnh đoàn kết đầy đe dọa của những mảnh vỡ. Xidiphơ đã ném quả núi của mình vào đó cũng như Job vứt mảnh sành vào. Tóm lại, một cái gì ghê gớm. Cao đài của kẻ khố rách. Nhiều xe ba gác lật ngược làm cho bờ lũy gồ ghề: Một xe bò lớn lật ngang, trục ngửa lên trời, trông như một vết sẹo lớn trên cái mặt xù xì. Người ta vui vẻ hò reo đẩy một xe chở khách lên đỉnh lũy, tuồng như những nhà kiến trúc của cái công trình man rợ đó muốn chen cái vui nhộn trẻ ranh vào sự hãi hùng, chiếc xe ngỏng gọng lên trời, như chờ thắng những con ngựa của không trung. Cái đống phù sa khổng lồ của bạo khởi đó khiến người ta hình dung cảnh núi Ốtxa chồng lên núi Pêliông[2] của tất cả những cuộc cách mạng: 93 trên 89, ngày 9 tháng nắng trên ngày 10 tháng Tám, ngày 18 tháng sa mù trên ngày 21 tháng Giêng, tháng hái nho trên tháng tưới cỏ, 1848 trên 1830. Địa điểm xứng đáng với công sức người ta và cái chiến lũy này xuất hiện không hổ thẹn ở chính cái nơi mà nhà ngục Batxti bị phá hủy. Nếu đại dương đắp đê thì nó đắp như thế đấy. Cuồng lực của thủy triều đã in dấu trên đống ngổn ngang vô hình đó. Thủy triều nào vậy? Thưa, quần chúng. Người ta tưởng thấy náo động đã hóa đá. Người ta tưởng nghe vù vù trên chiến lũy đó những con ong đen tối của tiến hóa cuồng bạo như trên tổ của mình. Đây là một bụi gai góc chăng? Hay là một đám cuồng cũ? Hoặc một pháo đài? Hình như quay cuồng long óc đã quạt cánh xây dựng nên chiến lũy đó. Có uế khí ao tù trong công sự ấy lại có thiên hương trong cảnh lộn xộn kia. Trong cái bề bộn của tuyệt vọng, ta thấy cái rui mái nhà, mảnh ván buồng còn phất giấy màu, khung cửa sổ y nguyên với kính vứt vào đây để đợi đạn đại bác, những ống khói bị gỡ ra, những tủ, bàn, ghế, cả một cảnh hỗn độn ầm ĩ và muôn nghìn những vật tồi tàn mà kẻ ăn mày cũng ghê, những vật vừa chứa đựng hư không vừa chứa đựng cuồng nhiệt. Người ta có thể nói đây là mớ tã nát của dân chúng, gỗ nát, sắt nát, đá nát mà ô Xanh Ăngtoan đã quét ra cửa bằng một cái chổi khổng lồ, đem cái nghèo khổ của mình dựng thành một chiến lũy. Những khối giống như đòn kê của đao phủ, những dây xiềng đứt, những đòn chống chữ đinh hình giá treo cổ, những bánh xe nằm ngang nhô ra giữa các thứ đổ nát, đã vào cảnh hỗn loạn ấy cái vẻ thảm đạm của các cực hình mà dân chúng ngày xưa phải chịu. Cái gì chiến lũy Xanh Ăngtoan cũng đem làm vũ khí được, cái gì mà nội chiến có thể vứt lên trên đầu xã hội đều từ đó mà ra. Không phải là chiến lũy đấu nữa mà là cuồng chiến. Nhưng súng bảo vệ chiến lũy đó, trong số có mấy khẩu nòng loe, đã bắn đi những mảnh sứ, mảnh xương, hạt cúc, đến cả những bánh xe bàn đêm, một loạt đạn nguy hiểm vì là bằng đồng. Cái chiến lũy ấy đánh một cách say máu, nó thét lên những tiếng dữ dội khó nói; đôi lúc, thách đố quân đội, nó ùn ùn những bóng người và bão táp; nó đội một vành đầu người bốc lửa; nó chứa chật một đám đông đúc lúc nhúc; đỉnh nó lởm chởm những súng, những gươm, những gậy, những búa, những lê, những giáo, một lá cờ đỏ to rộng phần phật trước gió. Người ta nghe thấy lẫn lộn những mệnh lệnh chỉ huy, những bài ca xung kích, những hồi trống trận, những tiếng khóc của phụ nữ và những tiếng cười vang thảm hại của những kẻ đói cơm. Cái chiến lũy ấy bao la và đầy sức sống; tiếng khổ của sấm sét từ đó tung ra như từ lưng của một con thú điên. Tư tưởng cách mạng bao phủ cái đỉnh đó, cái đỉnh ầm ầm tiếng thét của nhân dân nghe như tiếng của Chúa. Cái thùng khổng lồ những đồ vụn bỏ đi ấy lại mang một oai phong kỳ lạ. Đó là một đống rác rưởi nhưng lại là quả núi tiếp nhận ý trời[3] . Chúng tôi đã nói nó nhân danh Cách mạng mà tấn công. Tấn công gì? – Cách mạng. Nó, là cái chiến lũy ấy, cái ngẫu nhiên, cái hỗn độn, cái hoảng loạn, cái hiểu lầm, cái vô tri ấy, đối diện với việc lập hiến, với chủ quyền nhân dân, với phổ thông đầu phiếu, với dân tộc, với nền Cộng hòa, đó là khúc Cacmanhôn thách thức khúc Mácxâyde. Một cuộc thách thức điên rồ những anh dũng, vì chưng khu ngoại ô đó là một anh hùng. Khu ngoại ô và cái chiến lũy của mình giúp đỡ nhau. Ngoại ô tì vai vào chiến lũy, chiến lũy tựa lưng vào ngoại ô. Chiến lũy rộng lớn trải dài ra như một ghềnh đá làm vỡ tan các chiến lược của những tướng lĩnh từng chiến thắng ở Chân Phi. Những hang hốc, những ung bướu, những mụn cóc của nó tuồng như nhăn nhở và cười cợt với khói lửa. Đạn ghém vào đó thì tiêu tan trong vô hình, đạn phá thụt trong đó, chìm trong đó, rơi sâu trong đó, đạn tròn chỉ chọc thủng những lỗ sẵn có. Bắn phá hỗn độn thì được gì chứ? Và các trung đoàn quen nhìn những cảnh chiến đấu dữ dội nhất phải lo ngại khi trông thấy các pháo đài ác thú này, cái pháo đài lởm chởm nhu gáy lợn rừng và đồ sộ như quả núi. Ở cách một phần tư dặm, chỗ phố Yăngplơ đỗ ra đại lộ, gần Lầu nước, nếu ai mạnh dạn thò đầu ra ngoài tiền diện cửa hàng của Đanlơmanhơ thì sẽ thấy ở đằng xa, khỏi con sông đào, một bức thành lạ lùng. Bức thành ấy nằm trên đường phố đi lên theo của cái dốc. Bức thành cao ngang tầng hai của các tòa nhà, làm thành một thứ vạch nối các nhà bên phải với các nhà bên trái, như thể là đường phố đã quay bức tường cao nhất của mình ra để tự đóng lối lại. Bứa thành ấy xây bằng đá. Nó thẳng thớm, đúng cách, lạnh lùng, dựng đứng, san bằng theo thước thợ, nhắm thẳng bằng dây mực, cân đứng bằng dây chì. Có thiếu xi măng đấy, nhưng cũng như ở một số tường thành La mã, cái đó không lệch nét kiến trúc mẫu mực của nó. Trông chiền cao có thể đoán được chiều dày. Đường đỉnh song song với đường móng. Từng chặng trên mặt xám của nó, có những lỗ châu mai rất khó nhận thấy, giống như những đoạn chỉ đan. Khoảng cách giữa các lỗ châu mai ấy không đồng đều. Đường phố xa tăm tắp vắng lặng. Tất cả cửa sổ, cửa ra đều đóng kín. Ở cuối phố có cái đập chắn làm cho đường phố biến thành một ngõ cụt. Một bức thành im lìm và yên tĩnh: Không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì ở đó; không một tiếng kêu, không một tiếng động, không một hơi thở. Một nhà mồ. Mặt trời tháng sáu chói chang dội ánh sáng lên cái vật khủng khiếp đó. Đó là cái chiến lũy của ngoại ô Tăngplơ. Đặt chân đến khu vực đó, thoạt nhìn thấy nó thì kẻ bạo gan nhất cũng không khỏi tư lự trước hiện cảnh bí ẩn này. Một cái gì thật thẳng, thật đúng, thật khớp nhau, lồng nhau, cân đối nhau và thật ảm đạm. Ở đấy, vừa có khoa học vừa có hắc khí. Người ta cảm thấy người chỉ huy chiến lũy vừa là một nhà hình học vừa là một ma quái. Người ta nhìn vào đó và hạ thấp giọng. Thỉnh thoảng nếu có một người, lính, sĩ quan, hoặc dân biểu, mạo hiểm, vượt qua nền đường vắng vẻ, thì người ta nghe một tiếng rít khẽ và kẻ qua đường ngã xuống bị thương hay chết, và nếu hắn không việc gì thì người ta thấy găm vào một cánh cửa đóng, một kẽ đá hay một búc tường nào đó, một viên đạn. Đôi khi một mảnh đạn ghém. Những người giữ chiến lũy chiến đấu đã lấy hai ống gang dãn khí đốt, nhét kín một khẩu đại bác nhỏ. Thuốc súng không hề tiêu phí cái xác chết và những vũng máu trên nền đá. Tôi còn nhớ có con bướm trắng bay đi bay lại trong đường phố: Mùa hè đâu chịu lép vế. Ở quanh đó, dưới các cổng lớn cho xe cộ ra vào, thương binh dồn đống. Ở đấy, người ta cảm thấy mình bị một kẻ vô hình ngắm bắn và ngươi ta hiểu rằng suốt chiều dài đường phố đang bị những mũi súng chĩa vào. Các cầu cuốn bắc ngang qua sông đào làm thành một thứ lưng lừa ở cửa ô Tăngplơ, binh lính tấn công tập hợp ở sau cầu ấy. Nghiêm trang, kính cẩn, họ quan sát cái pháo đài đầy sát khí đó, cái vật không hề lay chuyển đó, cái vật reo rắc cái chết chóc đó. Một đôi tên bò sát lên đến khoảng cao nhất của chiếc cầu, cẩn thận cố giữ cho mũ không nhô lên. Đại tá Môngtêna gan dạ đứng nhìn khâm phục cái chiến lũy đó và rùng mình. Ông nói với một dân biểu: - Họ xây dựng giỏi thật! Không có một viên đá nào thòi ra. Như là bằng sành vậy. - Lúc đó, một viên đạn bay tới làm vỡ tấm huân chương trên ngực và ông ngã xuống. - Lũ hèn nhát! Họ nói. Chúng cứ thò mặt ra thử xem! Cứ ra đây! Chúng không dám! Chúng trốn biệt. Chiến lũy Tăngplơ do tám mươi người bảo vệ, bị mười nghìn dân tấn công, đã đứng vững ba ngày đêm. Ngày thứ tư, bọn tấn công làm như ở Datsa và Côngxtănglin, họ đục tường nhà, họ leo lên mái ngói đánh xuống và hạ được chiến lũy. Trong tám mươi kẻ hèn nhát đó, không một ai nghĩ đến việc chạy trốn. Tất cả đều bị giết, trừ người chỉ huy, mà lát nữa chúng tôi sẽ nói đến. Chiến lũy Xanh Ăngtoan là sấm sét, náo động, chiến lũy Tăngplơ là im lặng. Giữa hai pháo đài đó có cái khác nhau dữ dội và nham hiểm. Cái này là một miệng hùm, cái kia là một mặt nạ. Nếu công nhận là cuộc khởi nghĩa tháng sáu khổng lồ và tăm tối gồm có một nỗi giận dữ và một câu đó, thì người ta thấy trong chiến lũy thứ nhất có một con rồng và sau chiến lũy thứ hai có một con xphanh. Cuốcnê là một người cao lớn, vai rộng, mặt hồng hào, quả đấm to nặng, gan dạ, trung trực, mắt nhìn thật thà và dữ dội. Quả cảm, cương nghị, dễ giận, mau tự ái, một con người dễ gần gũi nhất, một chiến sĩ đáng gờm nhất. Chiến tranh, xung sát làm cho ông dễ thở và vui tính. Ông từng là sĩ quan hải quân và nghe ông nói, thấy ông cử động, người ta đoán được ông ở đại dương mà ra và từ bão táp mà đến, ông tiếp tục làm bão tố trong chiến đấu. Trừ cái thiên tài thì trong Cuốcnê có cái gì đó của Đăngtông cũng như ở Đăngtông có cái gì của Hécquyn trừ tính cách thần linh. Báctêlơmi gầy còm, xanh xao, trầm mặc, vốn là loại bé con xấu số, lúc mười bảy tuổi bị một viên cảnh sát tát tai, đã rình mò hắn, chờ hắn và giết hắn và bị kết án khổ sai. Ra tù, anh ta dựng nên cái chiến lũy ấy. Về sau, thật là bất hạnh, ở Luân- Đôn hai con người lưu vong ấy gặp nhau trong một cuộc đấu tay đôi thảm hại và Báctêlơmi đã giết Cuốcnê. Ít lâu sau, bị cuốn vào một thảm kịch yêu đương bí ẩn- một tai họa trong đó luật pháp ở Pháp nhìn thấy những trường hợp giảm khinh còn luật pháp ở Anh thì chỉ thấy tử tội- Báctêlơmi bị treo cổ. Cơ cấu xã hội u ám như thế đấy: Nó làm cho cái con người có trí thông minh rõ ràng là vững chãi, có thể là lớn lao nữa mà vì thiếu thốn về vật chất, tối tăm vì đạo lý đã bắt đầu cuộc đời trong lao tù ở Pháp và kết liễu trên giá treo cổ Anh. Trong những dịp ra mặt, Báctêlơmi chỉ mang một lá cờ: Lá cờ đen. [1] nguyên văn Latinh: Bọn cặn bã của thành phố là pháp luật của thế giới, thành phố chỉ La mã [2] theo thần thoại Hy Lạp, khi bọn khổng lồ Titan khởi loạn chống trời, họ khiêng núi Pêliông chất chồng lên núi Ốtxa thấp hơn để leo lên đánh trời. Ở đây tác giả nói ngược lại để diễn tả đúng cảnh [3] nguyên văn: Sinai, tên đỉnh núi trên đó Chúa Trời ban Mười điều răn của người cho nhà tiên tri Moisơ – theo đạo Thiên Chúa Chương X & XI Chương X & XI Docsach24.com Ào lúc đó, Côdét tỉnh giấc. Buồng nàng chật hẹp nhưng sạch sẽ, kín đáo, có một cửa sổ dài về hướng đông, trông ra sân sau. Côdét không biết gì về những việc xảy ra tại Pari. Tối hôm qua không có nàng, lúc bà Tútxanh mách: "Hình như có lộn xộn!" thì nàng đã trở về buồng rồi. Côdét chỉ ngủ được có mấy tiếng thôi, nhưng ngủ ngon. Nàng đã có những giấc mơ đẹp, có lẽ có phần nào vì cái giường nhỏ nhắn của nàng trắng tinh. Một chàng Mariuytx hiện ra trong ánh hào quang. Nàng thức dậy, mặt trời rọi vào mắt, khiến lúc đầu nàng còn tưởng hãy còn mơ. Tỉnh mộng, ý nghĩa đầu tiên của nàng vui vẻ. Nàng thấy rất yên tâm. Cũng như Giăng VanGiăng mấy giờ trước đây, nàng đang trải qua cơn phản ứng của một tâm hồn không chấp nhận tai họa. Nàng thấy chứa chan hy vọng mà không hiểu tại sao. Rồi tim quặn đau. – Đã ba hôm rồi nàng không gặp Mariuytx. Nhưng nàng tự nhủ chắc chắn chàng đã nhận được thư, chàng đã biết nàng ở đâu, chàng thông minh lắm, chắc sẽ tìm cách đến với nàng- chắc chắn hôm nay thôi, có lẽ ngay trong buổi sáng cũng nên. Đã sáng trắng rồi, nhưng vì tia nắng nằm ngang cho nên nàng tưởng hãy còn sớm lắm, tuy vậy cũng phải dậy mà tiếp Mariuytx chứ! Nàng cảm thấy nàng không thể sống không có Mariuytx, và đã cảm thấy như thế thì tất được như thế, và Mariuytx nhất định phải đến. Không có lý lẽ gì bác bỏ mà có thể thừa nhận được. Tất cả những cái ấy đều chắc rồi. Thương nhớ đau khổ ba ngày là quá quắt rồi. Mà có thể vắng mặt ba hôm là điều Chúa thấy ghê tởm. Nàng đã vượt qua cuộc thử thách mà ở trên đã bày ra để trêu nàng một cách đau đớn. Mariuytx sắp đến và mang đến một tin mừng. Tuổi trẻ như thế đó; họ chùi nước mắt nhanh lắm, họ cho đau khổ là vô ích là không chấp nhận. Tuổi trẻ là nụ cười của tương lai trước một con người không quen biết nhưng lại chính là bản thân mình. Nàng thấy hạnh phúc là điều tự nhiên. Tuồng như hơi thở của nàng làm bằng hy vọng. Vả chăng Côdét không làm thế nào nhớ lại được Mariuytx đã nói với mình và giải thích như thế nào và sự vắng mặt mà đáng lẽ chỉ trong một hôm đó. Ai cũng từng nhận thấy một hào bạc đánh rơi rồi chạy trốn tài tình như thế nào về cái nghệ thuật chơi ú tim của nó. Trong trí nhớ của chúng ta cũng có những sự việc trêu ta như vậy, nó nấp vào một xó nào đó trong trí óc chúng ta, thế là chịu thôi, nó biến mất. Trí nhớ không tài nào chụp bắt lại nó. Côdét cũng có phần nào bực bội về sự cố gắng vô hiệu quả của ký ức. Nàng tự bảo quên bẵng những lời lẽ của Mariuytx như thế thật là bậy, thật là tội lỗi. Nàng rời khỏi giường để làm hai cái việc đó là gội rửa phần hồn và phần xác, tức là cầu nguyện và rửa mặt. Khi cần thiết lắm, người viết sách có thể đưa bạn đọc vào một loan phòng, nhưng không thể nào đưa họ vào phòng của một trinh nữ. Thơ còn dám rón rén, văn xuôi thì không thể. Buồng trinh nữ là bên trong của một đóa hoa đương nụ, là tuyết trắng trong đêm, là ngăn sâu kín của một bông huệ hãy còn phong nhụy, vầng dương chưa soi đến thì mắt người cũng chưa nên nhìn vào. Người phụ nữ là thiêng liêng. Cái giường trong trắng đang vén mơ, cảnh bán khỏa thân yêu kiều đang như e ngại chính mình, cái bàn chân trắng đang trốn trong chiếc giày vải, lồng ngực phủ sơ trước gương, làm như gương là mắt, chiếc áo lót kéo lên vội vàng và che kín đôi vú vì có tiếng bàn ghế cót két hay tiếng xe cộ chạy qua, những dải hồng thắt chặt, những khuy móc cái lồng, những đường dây buộc kỹ, những phút giật mình, những giây ớn lạnh thẹn thùng, vẻ hoảng hốt ý vị trong mọi cử động, dáng lo âu của cánh chim trời ở nơi không có gì đáng ngại, cảnh áo xiêm lần lượt kín hở, mơ hồn như mây mỏng bình minh, tất cả những cái ấy không nên thuật lại, chỉ nhắc đến thôi cũng thấy nhiều rồi. Một ngôi sao mọc lên, người ta nhìn kín cẩn, với một người con gái thức dậy, càng phải kính cẩn hơn. Khả năng của tôi ở đây được chuyển thành sự tăng phần kính trọng. Lớp tuyết phủ trên quả đào, làn phấn trên quả mận, tinh thể của băng, lượt nhung ở cánh bướm là những thô kệch so với vẻ trinh khiết kia, vẻ trinh khiết không tự biết là trinh khiết. Người thiếu nữ chỉ là một ánh mơ và chưa là một pho tượng. Buồng của nó khuất trong khu vực mập mờ của lý tưởng. Con mắt sổ sàng dòm vào khu vực tranh tối tranh sáng đó tức là cưỡng bức, hành hung. Ở đây trông nhìn nghĩa là xâm phạm cái thiêng liêng. Bởi vậy chúng tôi không diễn tả gì trong cái cảnh xôn xao thức giấc của Côdét cả. Một huyền thoại phương Đông kể rằng Chúa sáng tạo ra hoa hồng màu trắng, nhưng vì Adam nhìn nó lúc hé nở cho nên nó thẹn thùng đỏ mặt. Chúng tôi thuộc những người ngẩn ngơ câm lặng trước hoa và thiếu nữ, vì thấy đáng kính quá. Côdét mặc áo rất nhanh, rồi chải đầu, vấn tóc. Những việc ấy, thời bấy giờ giản đơn lắm bởi vì phụ nữ không dùng lò dùng ống để độn tóc và khăn, cũng không thêm lọn trong tóc mình. Thế rồi nàng mở cửa sổ, đưa mắt quanh mong nhìn thấy một góc đường, một cụm đá, một chút ít quảng trường để có thể rình thấy Mariuytx đến từ đó. Nhưng không thấy gì ở phía ngoài cả. Cái sân sau có những bức tường khá cao bao bọc và chỉ có đôi chỗ mở vào những cái vườn. Côdét bảo những cái vườn đó xấu xí, lần đầu tiên trong đời nàng cho hoa là xấu. Một đoạn đường rất ngắn đi qua ngã tư hợp ý nàng hơn bao nhiêu. Nàng quyết định nhìn lên trời, làm như Mariuytx cũng có thể từ trên ấy bay xuống. Thình lình nàng òa khóc. Không phải vì tâm hồn mau thay đổi, nhưng cứ hy vọng xong lại rã rời là trạng thái của nàng. Nàng lờ mờ cảm thấy có một cái gì ghê rợn. Cũng đúng như sự việc vẫn đi qua trên không trung. Nàng tự nhủ không có gì chắc chắn cả, mất hút nhau tức là mất nhau, cái ý nghĩ Mariuytx có thể đi từ trên trời đi đến với nàng bây giờ nàng không thấy lý thú nữa mà bi thảm. Rồi nàng lại thấy bình tĩnh, - cái thể mây mù là như vậy đó - và hy vọng cũng trở lại với một niềm vui vô ý thức nhưng đầy tin tưởng ở trời. Mọi người trong nhà hãy còn ngủ. Cảnh yên tĩnh giống như ở tỉnh nhỏ. Không có cánh cửa nào mở. Buồng người gác cổng cũng đóng kín. Bà Tútxanh cũng chưa dậy, tự nhiên Côdét cũng cho là bố cô hãy còn ngủ. Chắc là nàng đã đau khổ lắm và đang còn đau khổ lắm cho nên mới nghĩ là bố ác. Nhưng nàng tin ở Mariuytx. Một ánh sáng như thế mà bị che lấp là việc không thể nào xảy ra. Nàng cầu nguyện. Thỉnh thoảng nàng nghe xa xa có tiếng rung chuyển trầm trầm và nàng nói: Sớm như thế này mà mở, đóng cổng xe thì lạ thật. Nhưng đó là những phát đạn đại bác bắn vào chiến lũy. Ở dưới cửa sổ của Côdét, cách vài thước, có một cái tổ én lót vào đầu tường. Một phần tổ thòi ra ngoài đầu tường cho nên từ trên trông xuống, có thể nhìn thấy bên trong cái thiên đường ấy. Con chim mẹ đang ở trong tổ, xòe cánh như một cái quạt che cho con. Con chim bố vỗ cánh chập chờn, bay đi rồi lại bay về, mỏ ngậm mồi và mang theo cả những cái hôn. Mặt trời lên nhuốm vàng cái cảnh sung sướng ấy. Luật "sinh sôi" ngự trị ở đây, oai phong và độ lượng, và điều huyền bí dễ ưa này nở cánh trong rực rỡ của ban mai. Tóc đẫm nắng, tâm hồn đẫm mộng mơ, tình yêu chiếu sáng bên trong, bình minh chiếu sáng bên ngoài, Côdét tự nhiên cúi xuốn nhìn hầu như không dám tự thú với mình là đồng thời nàng cũng nghĩ tới Mariuytx, nàng nhìn cái gia đình chim ấy, con chim trống và con chim mái, con chim mẹ và mấy con chim con ấy, tâm hồn xao xuyến niềm vui xao xuyến của một cô trinh nữ trước một tổ chim. XI BẮN ĐÂU TRÚNG ĐÓ NHƯNG KHÔNG GIẾT CHẾT MỘT AI Quân tấn công tiếp tục bắn. Súng trường xen lẫn với những loạt đạn ghém của khẩu đại bác, nhưng thực ra không gây thiệt hại là bao. Chỉ riêng có phía trên mặt trước quán Côranh chịu đựng một mình. Các cửa sổ trên gác một và trên mái bị đạn lớn và đạn nhỏ làm cho loang lỗ, dần dần chẳng còn ra hình thù gì nữa. Mấy chiến sỹ núp ở đấy đều tránh đi nơi khác. Vả chăng, đấy cũng là một chiến thuật trong cách tấn công các chiến lũy; họ cứ bắn mãi để làm cho nghĩa quân hết đạn nếu họ phạm lầm bắn trả lại. Đến khi thấy hỏa lực của họ thưa thớt đi, vì chẳng còn thuốc đạn gì nữa, bấy giờ người ta mới xung phong. Nhưng Ănggiônrátx không bị sa vào cạm bẫy ấy; chiến lũy không hề bắn trả lại. Cứ sau mỗi loạt súng trường của quân địch, chú bé Gavrốt lại phùng má ra vẻ khinh bỉ cực độ. Chú nói: - Tốt lắm, cứ xé vải đi. Chúng tớ đang cần băng mà. Cuốcphêrắc kêu hỏi đạn ghém sao ít công hiệu thế và nói với khẩu đại bác: - Bố ơi! Bố chệch choạc rồi bố ơi! Trong chiến đấu, người ta cũng băn khoăn thắc mắt như trong khiêu vũ. Chắc chắn là sự im lặng của chiến lũy bắt đầu làm cho quân lính bao vây sinh nghi ngại và lo sợ một biến cố bất ngờ. Cho nên họ cảm thấy cần phải nhìn rõ qua cái đống đá ấy để biết tình hình sau bức tường lạnh kia như thế nào mà bắn vào bao nhiêu cũng chẳng thấy trả lời. Nghĩa quân bỗng dưng nhìn thấy một cái mũ lấp lánh ánh nắn trên một nóc nhà gần chiến lũy. Một tên lính cứu hỏa tựa lưng vào cái ống khói cao ngất, ra vẻ đang đứng gác. Từ chỗ ấy y ngó thẳng đứng xuống chiến lũy. Ănggiônrátx nói: - Cái thằng kia nó giám sát chúng mình mới rầy chứ! Giăng VanGiăng đả trả khẩu cacbin cho Ănggiônrátx, nhưng trong tay vẫn giữ khẩu súng trường. Không nói không rằng ông giương súng ngắm tên lính và trong nháy mắt, cái mũ bị viên đạn đập phải rơi độp xuống mặt đường. Tên lính hoảng hốt vội vã biến mất. Một tên thứ hai lên thay để quan sát. Tên này là một sỹ quan. Giăng VanGiăng đã đáp lại đạn xung phong, giương súng trở lên và cho luôn cái mũ của hắn bay theo cái mũ của tên lính. Tên sĩ quan không lôi thôi nữa, cút đi tức khắc. Cách cảnh báo ấy, lần này thì bọn quân lính đã nghe thủng. Chẳng còn ma nào dám ló mặt ra trên nóc nhà nữa. Việc do thám tình hình chiến lũy thế là từ bỏ. Bốtxuyê hỏi Giăng VanGiăng: - Tại sao ông không bắn chết người? Giăng VanGiăng không đáp.
Chương XII & XIII Bấm để xem Xốtxuyê nói thầm vào tai Côngbơphe: - Hắn không trả lời tôi. - Đó là một con người làm việc thiện bằng súng, Côngbơphe đáp. Ai còn giữ kỷ niệm về cái thời đã xa xôi ấy đều biết bọn quốc dân quân ở ngoại ô đã đánh lại các cuộc bạo khởi một cách can đảm. Nó đặc biệt hung hăng và gan dạ trong những ngày tháng sáu 1832. Bạo khởi đã khiến cho "doanh nghiệp" của hắn ta đóng cửa, thì cái lão chủ quán hiền đã trở thành dữ như hùm khi thấy phòng nhảy của mình trống không và quyết tử chiến đấu để bảo vệ cho trật tự xã hội, tượng trưng ở cái quán rượu. Ở cái thời vừa tầm thường vừa oanh liệt đó, đối diện với những hiệp sĩ của tư tưởng là những tráng sĩ của quyền lợi. Động cơ tuy tầm thường nhưng hành động vẫn là dũng cảm. Chồng bạc bớt chiều cao làm cho các chủ ngân hàng hát khúc Mácxâyde. Người ta đổ máu một cách tình tứ cho cái quầy đếm bạc, và người ta bảo vệ với một hào khí cổ đại của tổ quốc thu nhỏ ở cái hiệu buôn kia. Phải nói rằng suy cho cùng thì tất cả những cái ấy đều có lý do nghiêm túc. Đó là sự xung đột của các nhân tố xã hội trong khi chờ đợi đạt thế cân bằng. Một dấu hiệu khác của thời đại là tình trạng vô chính phủ trong phái chính phủ ( "phái chính phủ" là cái tên dã man của đảng nghiêm chỉnh). Người ta ủng hộ trật tự một cách vô kỷ luật. Theo lệnh của một đại tá quốc dân quân nào đó, trống tập đánh liên hồi, tùy sở thích, đại úy này xông vào vòng lửa đạn tùy hứng, quốc dân quân nọ chiến đấu vì lý tưởng và vì quyền lợi của riêng mình. Trong những giờ phút khủng hoảng, trong những "ngày" dâng hiến, người ta tuân theo bản năng hơn là mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Trong đạo quân bảo vệ trật tự, có những dân quân du kích thực sự, du kích bằng lưỡi gươm như Phannicô, hoặc du kích bằng ngòi bút như Hăngri Phôngphređơ. Văn minh – hại thay văn minh vào thời ấy là một kết hợp những quyền lợi chứ không phải là một kết hợp những nguyên lý – văn minh đang lâm nguy hay tưởng là lâm nguy. Nó kêu báo động; ai cũng trở thành một trung tâm và lo bảo vệ nó, bảo vệ nó, che chở nó theo cách của mình. Người nào cũng tự nhận có nhiệm vụ cứu vãn xã hội. Một đôi khi vì tích cực mà họ gây ra thảm họa tàn sát. Một toán quốc dân quân nào đó đã tự ban cái quyền lập tòa án binh và trong năm phút đã xét xử và hành quyết trong trường hợp họ nảy ra một sáng kiến tương tự như vậy. Đó là cái luật Lynsơ[1] dữ tợn mà không một phái nào có quyền trách cứ các phái khác bởi vì nếu phái cộng hòa áp dụng nó ở Mỹ thì phái dân chủ áp dụng nó ở Chân Âu. Luật Luynsơ đã vậy lại còn thêm tai họa do những lầm lẫn nữa. Trong một ngày bạo khởi, nhà thơ trẻ Pôn Emê Gácniê bị người ta vác lưỡi lê đuổi bắt tại quảng trường Rôian, may nhờ trốn vào cái cổng xe nhà số 6 mà thoát nạn. Những người săn đuổi thét: - Hắn cũng là một thằng Xanh Ximông nữa! Và muốn giết anh. Chỉ vì anh ta cắp nách một cuốn hồi ký của công tước Xanh Ximông[2] . Một quốc dân quân đã đọc thấy cái tên Xanh Ximông trên bìa sách và hắn thế là hắn kêu: Sát! Sát! Ngày 6 tháng sáu năm 1832, một đại đội quốc dân quân ngoại ô do đại uý Phannicô – người mà chúng tôi đã nói ở trên – chỉ huy, đã vì cao hứng mà tự nguyện nhường quân ở phố Săngvrơri: Chuyện này tuy kỳ lạ, nhưng đã được xác nhận bởi cuộc điều tra tư pháp sau vụ khởi nghĩa năm 1832. Đại úy Phannicô là một anh tư sản nóng nảy và táo bạo, một thứ lính đánh thuê của một nền trật tự xã hội, trong loại mà chúng tôi vừa nêu ra, một anh thuộc phái chính phủ, cuồng tín và vô kỷ luật. Phannicô lấy làm thích thú được nổ súng trước giờ và có tham vọng, chỉ một mình, nghĩa là đối với đại đội của y, hạ chiến lũy. Tức tối vì thấy lá cờ đỏ là cái áo dạ cũ, mà anh cho là một lá cờ đen, thay nhau xuất hiện, anh chỉ trích công khai các tướng lĩnh và tư lệnh binh đoàn. Vì những vị này hội ý với nhau thấy chưa phải lúc tiến công nên để cho "cuộc khởi nghĩa rệu rã", theo cách nói của một người được truyền tụng trong bọn họ. Riêng đại úy thì nghĩ cái chiến lũy đã chín muồi rồi, cái gì cũng phải rụng, cho nên y chọc thử. Những người y chỉ huy cũng là những người cùng quả quyết như y, những người "hăng máu", như một dân chúng đã gọi. Chính đại đội của y đã bắn Giăng Pruve. Đó là đại đội I của cái tiểu đoàn dân quân ở góc phố. Lúc bất ngờ nhất, đại úy xua quân lên đánh vào chiến lũy. Cuộc hành quân nhiều thành ý nhưng mà thiếu chiến lược này đã gây tổn thất lớn cho đại đội. Tiến chưa được hai phần ba đường phố, nó đã được một loạt súng từ chiến lũy chặn đón. Bốn tên lính, trong số gan dạ nhất, chạy hàng đầu, bị đạn tầm gần ngã quay quay dưới chân chiến lũy. Đám quốc dân quân can đảm mà ô hợp, gồm những người bạo gan nhưng không kiên gan như quân nhân, sau mấy phút do dự, đã tháo lui, bỏ lại trên mặt đường mười lăm xác chết. Những phút do dự đó đã đủ cho nghĩa quân nạp lại đạn vào súng. Thế là một loạt đạn thứ hai vô cùng lợi hại đã vãi vào đại đội trước khi nó trở về trước góc phố và là nơi ẩn nấp. Trong một lúc, đại đội đã bị kẹt giữa hai luồng đạn vì cỗ súng đại bác không nhận được lệnh, vẫn không ngừng bắn và đạn ghém của nó xả vào đại đội. Anh chàng Phannicô táo tợn và dại dột là một trong những người chết vì đạn ghém. Khẩu đại bác, tức là trật tự, đã giết anh ta. Cuộc xung kích điên cuồng vô cùng hiệu lực ấy làm cho Ănggiônrátx bực tức. Anh nói: - cái lũ ngu! Chúng hy sinh người của chúng và làm tổn hại đạn dược của ta mà chẳng ích lợi gì! Ănggiônrátx nói năng giống như một tướng chỉ huy bạo động. Quân khởi nghĩa và quân đàn áp khí giới không đồng đều. Nghĩa quân chỉ có một số đạn nhất định để bắn và một số chiến sĩ nhất định để hy sinh, do đó chóng bị hao hụt. Một túi đạn trút sạch, một con người ngã xuống đều không thay thế được. Cánh trấn áp thì không cần tính số người vì có cả quân đội, không cần tính số đạn vì có kho đạn Vanhxen. Nghĩa quân có bao nhiêu chiến sĩ thì quân trấn áp có bấy nhiêu trung đoàn, nghĩa quân có bao nhiêu đạn thì quân trấn áp có bấy nhiêu kho thuốc đạn. Cho nên những cuộc chiến đấu một chống trăm này luôn luôn kết thúc bằng sự hủy diệt của các chiến lũy, trừ khi cách mạng đột nhiên đứng dậy ném vào cán cân lực lượng cây gươm thần rực lửa của mình. Điều đó từng xảy ra. Lúc đó tất cả đều đứng lên, đá đường sôi sục, chiến lũy nhân dân mọc lên tua tủa. Pari rung động oai hùng, lửa thiêng[3] xuất hiện, một ngày 10 tháng tám bàng bạc trong không khí. Một ánh sáng thần kỳ tỏa ra, cái mõm há hốc của vũ lực lùi lại, và con sư tử quân đội nhìn thấy, ở trước đầu mình, nhà tiên tri, bình tĩnh và vững chãi, nước Pháp. XIII ÁNH SÁNG LƯỚT QUA Gì cũng có trong mớ tình cảm và nhiệt tình hỗn độn của mớ bảo vệ một chiến lũy: Dũng cảm, trẻ trung, danh dự, hưng phấn lý tưởng, tình trạng say máu của người đánh bạc, nhất là những cơn hy vọng. Vào lúc không ai chờ đợi thì một cơn hy vọng, một luồng tin tưởng rung động như vậy đã đến bất thình lình với chiến lũy Săngvrơri. Ănggiônrátx luôn luôn nghe ngóng bỗng dưng kêu lên: - Hãy lắng tai nghe, hình như Pari đã tỉnh dậy. Quả là trong buổi sớm ngày 6 tháng sáu, cuộc khởi nghĩa có tăng mức độ chút ít. Chuông đổ liên hồi trong nhà thờ Xanh Meri có thổi nóng lên một số mong muốn mơ hồ. Một số chiến lũy bắt đầu nhóm lên ở phố Poariê và phố Graviliê. Trước cửa đài Xanh Máctanh một chàng thanh niên với chỉ một cây súng, đã tấn công vào cả một tiểu đoàn kỵ binh. Trống trải giữa đại lộ, anh ta quì gối, nâng súng lên vai bắn chết viên tiểu đoàn trưởng và quay lại nói: Thế là chết thêm một thằng không thể giết hại chúng ta. Anh bị bắn chết. Ở phố Xanh Đơni, một phụ nữ sập cửa chớp, nép ở sau để bắn vào một đội cảnh vệ thành phố. Cứ mỗi phát súng bắn ra là thấy các lá chớp rung động. Một chú bé mười bốn bị bắt ở phố Cốtxnônơri với các túi áo đầy đạn súng trường. Nhiều bót gác bị tấn công. Một trung đoàn giáp kỵ, có tướng Cavenhắc đơ Baranhơ[4] đi đầu, vừa đến đầu phố Becstanh- Poarê thì bị một loạt súng dữ dội và bất ngờ bắn đón. Phố Plăngsơ Mibrê, từ các mái nhà người ta vất mảnh sành và nồi chảo xuống đầu binh lính. Điềm xấu rồi! Khi người ta báo cáo sự việc này cho thống chế Xun[5] người tướng già của Napôlêông đâm ra nghĩ ngợi vì nhớ câu nói của Xuysê[6]: Khi bọn bà già đổ bô nước tiểu của họ xuống đầu ta thì ta không còn cách gì thắng nữa! Những triệu chứng chung hiện ra trong lúc người ta nghĩ rằng cuộc bạo động đã bị giới hạn, cơn sốt giận dữ đã trở lại thắng thế, những tàn đốm bay đây đó trên những đống nhiên liệu sâu dày là những khu ngoại ô, tất cả những cái đó khiến cho các tướng lĩnh lo ngại. Họ phải vội vã giập tắt những đám cháy bắt đầu kia. Họ hoãn cuộc tấn công vào các chiến lũy ở Môbuyê, Săngvrơri và Xanh Meri lại, cho đến khi diệt câm các đám nổ nhỏ kia xong, để rồi lúc ấy chỉ còn đối phó với các chiến lũy kia mà thôi, và có thể đập tan cả trong một trận. Họ tung nhiều đoàn quân vào các đường phố đang lên men, quét các phố lớn, sục sạo các phố nhỏ, xông trái, tạt phải, khi thì từ từ và thận trọng, khi thì xung phong. Bộ binh phá cửa các nhà đã bắn ra, trong lúc đó kỵ binh hành quân giải tán các đám đông trên đại lộ. Các trấn áp dĩ nhiên là ồn ào và không tránh khỏi tiến huyên náo đổ vỡ đặc biệt khi có xung đột giữa nhân dân và quân đội. Đó là tiếng Ănggiônrátx đã nghe thấy giữa các loạt súng trường và súng đại bác cách quãng. Ngoài ra, anh có thấy những cáng tải thương đi qua ở cuối phố và anh nói với Cuốcphêrắc: - Những thương binh đó không do ta bắn. Hy vọng không được lâu; ánh sáng tắt nhanh chóng. Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, ánh rạng trên không trung biến mất, như một ánh chớp không có sét đánh. Và nghĩa quân cảm thấy tấm áo chì lại đè xuống người họ. Tấm áo chì làm bằng sự hờ hững của nhân dân đối với những kẻ cố thủ bị bỏ rơi. Cuộc vùng dậy rộng lớn hiện ra lờ mờ rồi tắt non mất, và bây giờ tâm trí bộ trưởng bộ chiến tranh cũng như chiến lược các tướng lĩnh tập trung vào ba hay bốn cái chiến lũy còn đứng vững. Mặt trời đã lên cao. Một nghĩa quân gọi Ănggiônrátx. - Đói lắm. Như thế này thì chúng ta sẽ chết mà không được ăn hay sao? Ănggiônrátx vẫn chồm trên quãng xẻ ở đầu tường, mắt không rời đầu kia đường phố, gật đầu đáp lại. [1] một điều luật tố tụng ở Hoa Kỳ, cho phép công chúng bắt, xét xử và hành quyết ngay người phạm tội [2] Công tước Xanh Ximông, sống vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nhà văn, nhà triết học, là một trong những người khởi xướng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp [3] nguyên văn La tinh: Quid divinum: Cái gì thần linh [4] trong những ngày tháng 6 năm 1848 sau này, được chính phủ đệ nhị Cộng hòa giao trấn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Pari, nổ ra sau cuộc thải hồi 12 vạn thợ; đã cải biến cuộc "chiến tranh đường phố" và áp dụng phổ biến lối dùng đại bác bắn thia lia đạn ghém vào các chiến lũy, tàn sát nghĩa quân và dân phố. Hắn bị nhân dân oán ghét và Mác lên án trong cuốn "Ngày 18 tháng sa mù của Luy Bôngpác" [5] tướng của Napôlêông trước cầm quân xâm lược Tây Ban Nha, lúc này đang làm bộ trưởng Bộ chiến tranh [6] tướng của Napôlêông ừng chiến đấu ở Tây Ban Nha) ở Xaxagốtxơ (thành phố ở Tây Ban Nha, đã chống cự oanh liệt quân của Napôlêông
Chương XIV & XV Bấm để xem Xốtxuyê nói thầm vào tai Côngbơphe: - Hắn không trả lời tôi. - Đó là một con người làm việc thiện bằng súng, Côngbơphe đáp. Ai còn giữ kỷ niệm về cái thời đã xa xôi ấy đều biết bọn quốc dân quân ở ngoại ô đã đánh lại các cuộc bạo khởi một cách can đảm. Nó đặc biệt hung hăng và gan dạ trong những ngày tháng sáu 1832. Bạo khởi đã khiến cho "doanh nghiệp" của hắn ta đóng cửa, thì cái lão chủ quán hiền đã trở thành dữ như hùm khi thấy phòng nhảy của mình trống không và quyết tử chiến đấu để bảo vệ cho trật tự xã hội, tượng trưng ở cái quán rượu. Ở cái thời vừa tầm thường vừa oanh liệt đó, đối diện với những hiệp sĩ của tư tưởng là những tráng sĩ của quyền lợi. Động cơ tuy tầm thường nhưng hành động vẫn là dũng cảm. Chồng bạc bớt chiều cao làm cho các chủ ngân hàng hát khúc Mácxâyde. Người ta đổ máu một cách tình tứ cho cái quầy đếm bạc, và người ta bảo vệ với một hào khí cổ đại của tổ quốc thu nhỏ ở cái hiệu buôn kia. Phải nói rằng suy cho cùng thì tất cả những cái ấy đều có lý do nghiêm túc. Đó là sự xung đột của các nhân tố xã hội trong khi chờ đợi đạt thế cân bằng. Một dấu hiệu khác của thời đại là tình trạng vô chính phủ trong phái chính phủ ( "phái chính phủ" là cái tên dã man của đảng nghiêm chỉnh). Người ta ủng hộ trật tự một cách vô kỷ luật. Theo lệnh của một đại tá quốc dân quân nào đó, trống tập đánh liên hồi, tùy sở thích, đại úy này xông vào vòng lửa đạn tùy hứng, quốc dân quân nọ chiến đấu vì lý tưởng và vì quyền lợi của riêng mình. Trong những giờ phút khủng hoảng, trong những "ngày" dâng hiến, người ta tuân theo bản năng hơn là mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Trong đạo quân bảo vệ trật tự, có những dân quân du kích thực sự, du kích bằng lưỡi gươm như Phannicô, hoặc du kích bằng ngòi bút như Hăngri Phôngphređơ. Văn minh – hại thay văn minh vào thời ấy là một kết hợp những quyền lợi chứ không phải là một kết hợp những nguyên lý – văn minh đang lâm nguy hay tưởng là lâm nguy. Nó kêu báo động; ai cũng trở thành một trung tâm và lo bảo vệ nó, bảo vệ nó, che chở nó theo cách của mình. Người nào cũng tự nhận có nhiệm vụ cứu vãn xã hội. Một đôi khi vì tích cực mà họ gây ra thảm họa tàn sát. Một toán quốc dân quân nào đó đã tự ban cái quyền lập tòa án binh và trong năm phút đã xét xử và hành quyết trong trường hợp họ nảy ra một sáng kiến tương tự như vậy. Đó là cái luật Lynsơ[1] dữ tợn mà không một phái nào có quyền trách cứ các phái khác bởi vì nếu phái cộng hòa áp dụng nó ở Mỹ thì phái dân chủ áp dụng nó ở Chân Âu. Luật Luynsơ đã vậy lại còn thêm tai họa do những lầm lẫn nữa. Trong một ngày bạo khởi, nhà thơ trẻ Pôn Emê Gácniê bị người ta vác lưỡi lê đuổi bắt tại quảng trường Rôian, may nhờ trốn vào cái cổng xe nhà số 6 mà thoát nạn. Những người săn đuổi thét: - Hắn cũng là một thằng Xanh Ximông nữa! Và muốn giết anh. Chỉ vì anh ta cắp nách một cuốn hồi ký của công tước Xanh Ximông[2] . Một quốc dân quân đã đọc thấy cái tên Xanh Ximông trên bìa sách và hắn thế là hắn kêu: Sát! Sát! Ngày 6 tháng sáu năm 1832, một đại đội quốc dân quân ngoại ô do đại uý Phannicô – người mà chúng tôi đã nói ở trên – chỉ huy, đã vì cao hứng mà tự nguyện nhường quân ở phố Săngvrơri: Chuyện này tuy kỳ lạ, nhưng đã được xác nhận bởi cuộc điều tra tư pháp sau vụ khởi nghĩa năm 1832. Đại úy Phannicô là một anh tư sản nóng nảy và táo bạo, một thứ lính đánh thuê của một nền trật tự xã hội, trong loại mà chúng tôi vừa nêu ra, một anh thuộc phái chính phủ, cuồng tín và vô kỷ luật. Phannicô lấy làm thích thú được nổ súng trước giờ và có tham vọng, chỉ một mình, nghĩa là đối với đại đội của y, hạ chiến lũy. Tức tối vì thấy lá cờ đỏ là cái áo dạ cũ, mà anh cho là một lá cờ đen, thay nhau xuất hiện, anh chỉ trích công khai các tướng lĩnh và tư lệnh binh đoàn. Vì những vị này hội ý với nhau thấy chưa phải lúc tiến công nên để cho "cuộc khởi nghĩa rệu rã", theo cách nói của một người được truyền tụng trong bọn họ. Riêng đại úy thì nghĩ cái chiến lũy đã chín muồi rồi, cái gì cũng phải rụng, cho nên y chọc thử. Những người y chỉ huy cũng là những người cùng quả quyết như y, những người "hăng máu", như một dân chúng đã gọi. Chính đại đội của y đã bắn Giăng Pruve. Đó là đại đội I của cái tiểu đoàn dân quân ở góc phố. Lúc bất ngờ nhất, đại úy xua quân lên đánh vào chiến lũy. Cuộc hành quân nhiều thành ý nhưng mà thiếu chiến lược này đã gây tổn thất lớn cho đại đội. Tiến chưa được hai phần ba đường phố, nó đã được một loạt súng từ chiến lũy chặn đón. Bốn tên lính, trong số gan dạ nhất, chạy hàng đầu, bị đạn tầm gần ngã quay quay dưới chân chiến lũy. Đám quốc dân quân can đảm mà ô hợp, gồm những người bạo gan nhưng không kiên gan như quân nhân, sau mấy phút do dự, đã tháo lui, bỏ lại trên mặt đường mười lăm xác chết. Những phút do dự đó đã đủ cho nghĩa quân nạp lại đạn vào súng. Thế là một loạt đạn thứ hai vô cùng lợi hại đã vãi vào đại đội trước khi nó trở về trước góc phố và là nơi ẩn nấp. Trong một lúc, đại đội đã bị kẹt giữa hai luồng đạn vì cỗ súng đại bác không nhận được lệnh, vẫn không ngừng bắn và đạn ghém của nó xả vào đại đội. Anh chàng Phannicô táo tợn và dại dột là một trong những người chết vì đạn ghém. Khẩu đại bác, tức là trật tự, đã giết anh ta. Cuộc xung kích điên cuồng vô cùng hiệu lực ấy làm cho Ănggiônrátx bực tức. Anh nói: - cái lũ ngu! Chúng hy sinh người của chúng và làm tổn hại đạn dược của ta mà chẳng ích lợi gì! Ănggiônrátx nói năng giống như một tướng chỉ huy bạo động. Quân khởi nghĩa và quân đàn áp khí giới không đồng đều. Nghĩa quân chỉ có một số đạn nhất định để bắn và một số chiến sĩ nhất định để hy sinh, do đó chóng bị hao hụt. Một túi đạn trút sạch, một con người ngã xuống đều không thay thế được. Cánh trấn áp thì không cần tính số người vì có cả quân đội, không cần tính số đạn vì có kho đạn Vanhxen. Nghĩa quân có bao nhiêu chiến sĩ thì quân trấn áp có bấy nhiêu trung đoàn, nghĩa quân có bao nhiêu đạn thì quân trấn áp có bấy nhiêu kho thuốc đạn. Cho nên những cuộc chiến đấu một chống trăm này luôn luôn kết thúc bằng sự hủy diệt của các chiến lũy, trừ khi cách mạng đột nhiên đứng dậy ném vào cán cân lực lượng cây gươm thần rực lửa của mình. Điều đó từng xảy ra. Lúc đó tất cả đều đứng lên, đá đường sôi sục, chiến lũy nhân dân mọc lên tua tủa. Pari rung động oai hùng, lửa thiêng[3] xuất hiện, một ngày 10 tháng tám bàng bạc trong không khí. Một ánh sáng thần kỳ tỏa ra, cái mõm há hốc của vũ lực lùi lại, và con sư tử quân đội nhìn thấy, ở trước đầu mình, nhà tiên tri, bình tĩnh và vững chãi, nước Pháp. XV GAVRỐT RA NGOÀI Chợt Cuôcphêrắc trông thấy có ai dưới chiến lũy ở phía ngoài, trên đường phố, trong buồng đạn của quân địch. Đó là Gavrốt. Gavrốt đã xách một chiếc giỏ đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Cuốcphêrắc kêu hỏi: - Chú làm gì đấy? Gavrốt ngẩng đầu lên đáp: - Tôi hốt cho đây giỏ đồng chí ạ. - Chú không thấy đạn vãi ra đó ư? - Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao? Cuốcphêrắc thét: - Đi vào. - Lát nữa đã. Gavrốt buông gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Ai cũng nhớ rằng trước đây, đại đội Phanicô trong khi rút lui đã bỏ lại dọc đường một dây xác chết. Khoảng hai mươi người nằm rải rác đây đó suốt chiều dài đường phố. Nghĩa là hai mươi cái bị cho Gavrốt trút. Và một số đạn để tiếp tế cho nghĩa quân. Khói súng lẩn vẩn trong thành phố như một đám sa mù, bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao, trông nó lại càng dày đặc, giống như một đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa rất hay chừng ấy, do đó không gian càng ngày mờ mịt mặc dầu giữa ban ngày trời cũng hóa tối sầm. Con đường rút ngắn, nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ hai bên ở đầu phố cuối phố khó mà trông thấy nhau. Có lẽ những người chỉ huy những cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao, nó cũng rất có lợi cho Gavrốt. Hình thù đã nhỏ bé, lại lẩn trong làn khói, nhờ vậy Gavrốt tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy tám cái bị đầu một cách yên ổn. Chú nằm bẹp xuống lết, chú chống hai tay hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ trong mồm để lướt tới, chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như con rắn, chú bò từ xác này sang xác khác, chú mở cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào. Chú đi cũng chưa xa chiến lũy là mấy, nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý nhìn thấy chú. Chú tìm thấy một bì thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ. - Cái này để dành lúc khát. Chú vừa nói thế, vừa tước bì thuốc bỏ túi. Vì tiến lên quá xa, chú đã đến cái quãng mà khói súng bắt đầu thưa sáng. Lúc bấy giờ bọn lính chính quy xếp hàng sau chồng đá và bọn pháo thủ ngoại ô dồn ở góc phố đột nhiên chỉ trỏ cho nhau xem một vật gì động đậy trong khói. Khi Gavrốt dốc bị của một tên trung sĩ nằm trên trụ đá thì một viên đạn bắn trúng xác tên đó. Gavrốt nói: - Ái chà! Chúng giết cả những xác chết! Một viên đạn thứ hai làm cho tảng đá bên cạnh chú tóe lửa. Lại viên nữa lật đổ chiếc giỏ. Gavrốt nhìn lên và thấy bạn đi từ phía quân ngoại ô. Chú đứng thẳng người lên, tóc bay trước gió, hai tay chống nạnh, mắt đăm đăm nhìn bọn quốc dân quân đang bắn, và chú hát: Bởi cụ Vônte Nên bọn Năngte Mặt mày xấu xí Sự quá vô lý Là tụi Paledô, Chúng ngu như bò Vì bác Giăng Giắc. Rồi Gavrốt xách giỏ lên, nhặt những viên đạn rơi ra ngoài phố vào giỏ, không sót viên nào, và chú tiến về phía súng bắn để moi lấy đạn ở bị khác. Lúc này một viên đạn thứ tư bay đến, nhưng vẫn không trúng chú. Chú lại hát: Ta là chim non Không làm thừa lại, Lỗi này bởi tại Ông cụ Vônte Áo ta rách xơ Ta làm chim non Ta ca véo von Vì bác Giăng Giắc. Viên đạn thứ năm chỉ đem lại kết quả là làm cho Gavrốt hát một khúc thứ ba nữa: Tính ta vui vẻ Sự ấy có lẽ Bởi cụ Vônte Áo ta rách xơ Quần áo rách xác Sự này tại bác Giăng Giắc Rútxô Tình thế ấy cứ tiếp diễn một thời gian. Cảnh tượng trông thật là ghê rợn mà cũng thật là hấp dẫn. Gavrốt làm bia cho súng đạn, mà lại đùa với súng đạn. Chú có vẻ thích thú lắm. Đó là một con chim sẻ quẹt mỏ mổ người đi săn. Cứ nghe một tiến súng, chú trả lời bằng một khúc hát. Họ luôn luôn ngắm chú mà bắn, và họ luôn luôn bắn trượt. Quốc dân quân và quân chính quy vừa cười vừa ngắm bắn chú. Chú nằm xuống, chú đứng lên, chú lẩn sau hốc cửa rồi quay trở lại, chú xỉa tay lên mũi nhạo những tên bắn chú và trong lúc ấy chú không ngừng lục lấy đạn bỏ đầy giỏ. Nghĩa quân trông theo chú hồi hộp, cả chiến lũy run sợ, mà chú thì nhởn nhơ ca hát. Chú không phải là trẻ con; chú không phải là người lớn. Chú là một trẻ ranh thần tiên. Trông chú người ta nghĩ đến thằng lùn không thể xâm phạm trong cuộc ẩu chiến. Đạn chạy theo chú nhưng chú nhanh hơn đạn. Chú đương chơi một trò ú tim khủng khiếp với thần chết. Mỗi khi viên đạn thần tẹt mũi ấy đến gần, thì chú bé lại búng hắn một cái. Nhưng cuối cùng, một phát đạn ngắm đúng hơn, hoặc giảo hoạt hơn đã tin phải chú bé ma trơi. Chú lảo đảo rồi ngã quỵ xuống. Toàn thể chiến lũy thét lên một tiếng. Nhưng chú lùn ấy lại có cái đặc tín của Ăngte[1] . Chú bé lang thang của Pari khi da thịt chạm mặt đường thì cũng như người khổng lồ Ăngte chạm mặt đất. Chú ngã xuống chỉ để mà chồm lên. Chú ngồi thẳng người, một dòng máu đỏ chảy dọc mặt chú. Chú đưa hai tay lên trời, nhìn về phía bọn bắn súng, cất tiếng hát: Ta ngã trên hè Tại cụ Vônte Mũi ta chảy nước Vì bác.. Chú hát không hết. Một viên đạn thứ hai cũng của tên lính ấy đã làm cho chú câm bặt. Lần này chú ngã xấp mặt xuống đường, không động đậy nữa. Linh hồn bé bỏng vĩ đại ấy đã bay về trời. [1] theo thần thoại Hy-La là một thần khổng lồ có đặc tính khi ngã xuống đất lại phục hồi sức lực, vùng lên mạnh mẽ hơn
Chương XIX & XX Bấm để xem Còn lại một mình với Giave, Giăng VanGiăng cởi cái dây buộc ngang thân hình tên tù binh vào dưới bàn. Xong ông ra hiệu cho hắn đứng dậy. Giave làm theo, trên môi hắn vẫn giữ cái nụ cười khó tả, nụ cười kiêu hãnh của uy quyền bị trói buộc. Giăng VanGiăng nắm cái dây đai buộc Giave lôi đi như người ta nắm đai cổ một con ngựa kéo. Hai người đi ra khỏi quán, đi rất chậm, vì Giave còn bị buộc ở chân, phải nhích từng bước ngắn. Tay Giăng VanGiăng vẫn lăm lăm khẩu súng ngắn. Hai người cứ thế vượt khoảnh đất hình thang nằm giữa hai chiến lũy. Nghĩa quân chuyên chú đề phòng cuộc tấn công sắp nổ nên quay lưng về phía họ. Duy một mình Mariuytx đứng nghiêng ở mút trái chiến lũy là trông thấy họ. Hình ảnh kẻ tội nhân và người đao phủ thoáng qua mắt chàng dưới ánh sáng của cái chết đang chiếm cứ tâm hồn chàng. Giăng VanGiăng phải khó nhọc mới đưa được Giave qua khỏi chiến lũy nhỏ, vì Giave bị trói. Lúc nào ông cũng giữu rịt tên tù. Leo khỏi chiến lũy nhỏ thì đầu ngỏ Môngđêtua, ở đấy tuyệt đối không còn ai ngoài hai người. Không ai trông thấy họ được nữa. Họ đứng khuất góc phố, nghĩa quân không nhìn thấy. Cách vài bước, những xác người từ trong chiến lũy từ trong mang ra chất thành một đống rùng rợn. Trong đám xác chết có một gương mặt tái nhợt, một mớ tóc sổ sung, một bàn tay thủng và một bộ ngực phụ nữ nửa che nửa lộ. Đó là Êpônin. Giave nhìn nghiêng người chết rồi lầm bầm, rất bình thản: - Ta biết con điếm này thì phải. Hắn quay lại phía Giăng VanGiăng. Giăng VanGiăng cắp súng vào nách nhìn chằm chặp Giave. Không cần lời, cái nhìn ấy vẫn nói rõ: - Ta đây! Giave, đã biết chưa? Giave đáp: - Mày trả thù đi. Giăng VanGiăng thò tay vào túi quần lấy một con dao, mở ra. Giave buột miệng: - Dao à!.. Phải rồi. Dao mới hù hợp với mày. VanGiăng cắt cái dây đai buộc cổ Giave, cắt luôn sợi dây buộc cổ tay, xong ông cúi xuống cắt nốt cái dây trói chân. Rồi ông đứng lên bảo hắn: - Anh được tự do. Giave không phải là người dễ ngạc nhiên. Tuy vậy hắn không thể nén xúc động mặc dù hắn rất tự chủ. Hắn há hốc mồm đứng nguyên một chỗ. Giăng VanGiăng nói tiếp: - Tôi không tin rằng tôi thoát khỏi chốn này. Nhưng nếu vạn nhất tôi sống sót thì tôi ở phố Lomácmê, số bảy, với cái tên giả là ông Phôsơlơvăng. Giave nhăn mặt nhếch mép như một con cọp dữ và nói lầm bầm: - Liệu hồn! - Anh đi đi, - VanGiăng bảo. Giave hỏi gặng lại: - Mày nói phố Phôsơlơvăng, phố Lomácmê? - Số bảy. Giave lẩm bẩm lặp lại: - Số bảy. Hắn cài cúc áo, rướn vai lấy lại cái dáng cứng cáp của nhà binh, quay nửa vòng, khoanh tay trước ngực, đưa một bàn tay nâng cằm, và đi về hướng khu Chợ. Giăng VanGiăng nhìn theo. Đi được mấy bước Giave ngoái lại bảo VanGiăng: - Này, anh làm phiền tôi lắm. Giết tôi đi thì hơn. Giave đã bỏ lối xưng hô mày tao với VanGiăng, nhưng chính hắn cũng không nhận thấy. VanGiăng nói: - Đi ngay đi. Giave bước chầm chậm đi xa dần. Một lát sau hắn sẽ qua phố Pơrêsơ. Khi Giave đã đi khuất, VanGiăng nâng súng nâng súng bắn một phát lên trời. Rồi ông trở vào chiến lũy và nói: - Xong rồi. Trong lúc VanGiăng làm những công việc ấy thì trong chiến lũy xảy ra việc như sau: Trước đấy Mariuytx chú ý tình hình động tĩnh ở bên ngoài hơn là công việc bên trong, nên không nhìn kỹ tên gián điệp bị trói ở trong góc phố phòng mờ tối. Khi hắn ra giữa ánh sáng leo qua chiến lũy nhỏ để đi thọ hình, thì Mariuytx mới kịp nhận ra mặt hắn. Chàng vụt nhớ lại chuyện cũ. Chàng nhớ ra viên thanh tra phố Pôngtoa và hai khẩu súng ngắn ấy đã trao cho chàng, hai khẩu súng chàng vẫn dùng trong chiến lũy này. Không những chàng nhận ra mặt, chàng còn nhớ tên nữa. Nhưng kỷ niệm này cũng tù mù hỗn loạn như tất cả ý nghĩ của chàng. Chàng không nói chắc được, chàng chỉ tự hỏi: - Người này phải chăng là viên thanh tra cảnh sát đã xưng tên là Giave với mình? Can thiệp cho anh ta có lẽ cũng còn kịp. Nhưng trước hết phải biết chắc có phải là Giave không đã. Ănggiônrátx vừa lên đứng ở đằng kia chiến lũy. Mariuytx gọi: - Ănggiônrátx! - Gì? - Người ấy tên là gì? - Người nào? - Tên cảnh sát ấy mà. Cậu có biết tên nó không? - Hắn chứ. Nó có khai tên. - Thế tên gì? - Giave. Mariuytx ngẩng lên. Vừa lúc ấy, người ta nghe tiếng súng ngắn. Rồi Giăng Vangiăng vào chiến lũy và kêu to: Xong rồi. Mariuytx nghe nhoi nhói một niềm chán chường ngao ngán trong tim. XX NGƯỜI CHẾT ĐÚNG MÀ NGƯỜI SỐNG CŨNG KHÔNG SAI Chiến lũy sắp bước vào giờ phút hấp hối. Tất cả cái gì chung quanh cũng châu vào để làm tăng vẻ tôn nghiêm bi đát của giờ phút tối hậu ấy. Hàng nghìn âm vang huyền bí trong không gian, hơi thở của các binh đoàn đông đặc hành quân trên các nẻo phố không nhìn thấy, tiếng vó ngựa đều đều của kỵ binh, tiếng chuyển động nặng nề của các cỗ đại bác, từng tràng súng, từng loạt đại bác đan chéo nhau trong thành phố quanh co khuất khúc, khói súng các trận giao phong ửng vàng trên mái nhà, những tiếng kêu thét ở đâu xa xôi khủng khiếp, những tia chớp khắp nơi như đe dọa, tiếng chuông báo động ở nhà thơ Xanh Meri thê lương như tiếng nấc, ngày đẹp, mùa xuân êm ái, cảnh trời rực rỡ ánh nắng và những dãy nhà lặng ngắt đáng sợ. Từ tối hôm qua, hai dãy nhà phố Săngvrơri hóa ra hai bức tường thành ghê lạnh. Cửa lớn, cửa sổ, cửa con đều đóng im ỉm. Thủa ấy khác với ngày nay[1] . Thủa ấy khi đã đến lúc dân chúng muốn chấm dứt một tình trạng quá kéo dài, muốn bãi một chính phủ đương vị, một hiến pháp từ trên ban xuống, khi sự căm phẫn đã hòa tan trong không khí, khi đường phố tán thành cho vỉa hè vùng lên, khi khẩu hiện khởi nghĩa rỉ vào tai thị dân làm cho họ mỉm cười đắc ý, lúc ấy người dân phố cơ hồ như thấm nhuần bạo động và hóa ra những kẻ trợ tá đắc lực của các chiến sĩ, và nhà cửa sẽ yểm hộ cho các pháo đài mới cất tựa lưng vào phố. Nhưng khi điều kiện chưa chín muồi, khi nhân dân không đồng tình khởi nghĩa, khi họ không thừa nhận cuộc bạo động, thì các chiến sĩ cũng xong đời. Chung quanh cuộc khởi nghĩa, thành phố sẽ biến làm sa mạc, nhân dân trở thành biển băng, nhà cửa hóa ra vách đá và đường phố hiện thành những hẻm núi để giúp quân đội chính phủ đánh chiếm các chiến khu. Người ta không thể đột ngột bắt ép một dân tộc tiến lên nhanh hơn họ muốn. Ai lôi tay nhân dân tất mang họa vào mình. Một dân tộc không để cho ai dắt đi đâu thì dắt. Khi bị cưỡng bức thì họ bỏ mặc cuộc bạo động ra sao thì ra. Lúc ấy họ coi những bạo động như những kẻ mắc dịch hạch. Nhà trở thành vật chướng ngại, cửa là sự từ chối, mặt trước nhà hóa ra tường đá. Tường ấy nghe hết, thấy hết nhưng không muốn. Nó có thể mở ra để cứu anh, nhưng không, tường ấy là một quan tòa: Nó nhìn anh và kết án anh. Không gì tăm tối cho bằng những tòa nhà im ỉm ấy! Nó có vẻ chết rồi, nhưng thực thì nó vẫn sống. Cuộc sống ở đấy có ngưng lại nhưng vẫn là cuộc sống. Trong hai mươi bốn tiếng động hồ, không ai ra khỏi nhà, nhưng không một ai thiếu mặt ở trong ấy. Phía sau tường đá, người ta đi lại, người ta nằm, ngồi, người ta sống cảnh gia đình: Người ta ăn, người ta uống; người ta sợ hãi, điều này mới ghê gớm! Sợ hãi là lý do của sự vô tình ghê gớm đó; vì sợ nên hoảng, cái đó đáng xét một cách khoan hồng. Một đôi khi, điều này đã xảy ra, sợ hãi đến độ cuồng loạn. Kinh hoàng có thể biến ra cuồng nộ cũng như cẩn thận có thể trở thành điên dại. Do đó mà danh từ sâu sắc: Những người ôn hòa điên dại. Có những lúc kinh hoàng cháy bùng lên tột độ và đẻ ra giận dữ, cũng như lửa đẻ ra khói. "Cái lũ ấy muốn gì? Không bao giờ chúng vừa lòng. Chúng làm liên lụy đến những người hiền lành. Chúng làm như chừng ấy cuộc cách mạng chưa đủ! Ai bảo chúng đến đây? Đến đây thì bây giờ tháo đi. Trối thây chúng! Lỗi ở chúng chứ ai! Bụng làm thì dạ chịu. Chuyện này có gì dính dáng đến chúng ta. Coi cái phố tội nghiệp của ta bị đạn bắn loang lổ ra kia! Thật là một lũ vô lại. Nhất định đừng có mở cửa đấy!". Thế là cái nhà trở thành ngôi mộ lạnh toát. Trước hiên người nghĩa quân thoi thóp; anh thấy đạn rào rào và gươm trần tiến đến; nếu anh kêu thì người ta nghe, nhưng người ta không chạy ra. Ở đây có những bức vách có thể che chở anh, có những con người có thể cứu vớt anh. Vách thì có tai mà lòng người lại lạnh như đá. Lỗi tại ai? Không tại ai hết, và tại tất cả mọi người. Tại thời đại của chúng ta chưa hoàn chỉnh. Khi mơ ước không tưởng biến thành cách mạng, khi sự phản kháng lý thuyết biến thành sự phản kháng vũ trang thì nó phải tự gánh lấy mọi điều nguy hiểm. Một ước mơ không tưởng không kiên trì, hấp tấp bạo động thì ai cũng biết kết quả sẽ thế nào! Thường thường thì nó đến sớm quá. Lúc đó nó cam chịu tai họa thay cho vinh quang một cách anh hùng. Nó phục vụ những người không thừa nhận nó, phục vụ không phàn nàn, không trách móc. Nó quảng đại ở chỗ cam chịu người ta bỏ rơi. Nó không chịu khuất một trở lực nào nhưng lại dịu dàng đối với kẻ vô ơn. Nhưng hãy xem có phải là vô ơn không? Đúng là vô ơn, nếu xét trên quan điểm nhân loại. Không phải là vô ơn, nếu xét trên quan điểm cá nhân. Tiến bộ là một biểu hiện của loại người. Cuộc sinh tồn chung của nhân loại có tên là Tiến bộ, bước đi lên trước của tập thể gọi là Tiến bộ. Tiến bộ đi lên, đó là cuộc hành trình của con người trên quả đất để tiến lên cõi trên, lên thế giới thần tiên. Có lúc nó dừng lại để tập họp đoàn người chậm chạp; có lúc nó lưu lại để suy tưởng ở một đất thánh rực rỡ vừa đột ngột hiện ra; có đêm nó nằm xuống để nghỉ ngơi; đó là lúc nhà tư tưởng đau đớn nhìn thấy bóng tối tỏa lên tâm hồn con người, và sờ thấy Tiến bộ ngủ quên trong đêm dày mà không biết làm sao đánh thức nó dậy. Giêra đơ Nécvan một hôm nói với chúng tôi: Có lẽ Chúa đã chết rồi. Đó là do anh lẫn lộn tiến hóa với Chúa nên nhận lầm thượng đế đã chết khi thấy tiến hóa tạm ngưng. Tuy nhiên thất vọng là không đúng. Chắc chắn có lúc Tiến bộ sẽ tỉnh giấc nồng và lúc ấy người ta sẽ nhận thấy Tiến bộ vẫn đi trong khi ngủ, bởi vì nó lớn hơn xưa. Nhìn thấy nó đứng dậy càng thấy nó cao hơn trước. Tiến bộ cũng như dòng sông, không phải tự mình muốn luôn luôn chảy êm đềm mà được. Đừng có dựng đập chắn nước, đừng có vứt núi đá vào lòng sông. Vật chướng ngại sẽ làm cho nước cuồn cuộn lên, làm cho nhân loại sôi sục. Do đó nảy ra những cuộc biến động. Nhưng sau biến động, người ta nhận thấy có một đỗi đường đã vượt qua. Cho đến khi nào trật tự được thiết lập – trật tự đây tức là cảnh thiên hạ thái hòa, - cho đến khi nào quả đất có sự nhịp nhàng và nhất quán, thì con đường đi của tiến bộ có từng trạm: Các trạm ấy là những cuộc cách mạng. Vậy Tiến bộ là cái gì? Chúng ta vừa nói đó là cuộc sinh tồn thường xuyên của các dân tộc. Thế nhưng đôi lúc cuộc sống nhất thời của cá nhân làm trở ngại cho cuộc sống vĩnh cửu của nhân loại. Hãy bình tĩnh mà nhận rằng cá nhân có quyền lợi riêng biệt và họ bảo vệ quyền lợi ấy là hợp tình hợp lý. Cuộc sống hiện đại có thể ích kỷ một chừng nào, ta không nên chấp nhất, cuộc sống nhất thời vẫn là cuộc sống, không nên bắt nó cứ phải luôn luôn hy sinh cho tương lai. Cái thế hệ hiện nay đến phiên mình góp mặt với đời không bắt buộc phải rút ngắn phiên và các thế hệ mai sau, các thế hệ ấy xét cho cùng cũng chỉ ngang nó mà thôi. Tiếng nói của cá nhân trong tất cả mọi người thủ thỉ: - Tôi đương sống trên đời. Tôi đương tuổi trẻ, tôi yêu, tôi già rồi, tôi muốn nghỉ, tôi là chủ gia đình, tôi có công ăn việc làm, tôi làm ăn phát đạt, tôi đương phất, tôi có nhà cho thuê, tôi có tiền gửi quỹ nhà nước, tôi sống hạnh phúc, tôi có vợ có con, tôi quí tất cả những thứ ấy, tôi muốn sống, các anh hãy để cho tôi yên. Cho nên đôi lúc dân chúng tỏ ra lạnh như băng đối với đội quân tiên phong hào hiệp của nhân loại. Vả chăng khi lý tưởng nhảy vào vòng chiến, thì lý tưởng cũng mất tính chất quang đãng của mình. Lý tưởng là chân lý ngày mai. Thế mà lý tưởng phải dùng chiến tranh làm thủ đoạn của dối trá hôm qua. Là tương lai mà nó hành động như quá khứ. Là lý tưởng thuần túy mà lại bạo hành. Nó cài vào anh dũng một sự hung bạo và phải chịu trách nhiệm về sự hung bạo đó là đáng. Hung bạo để đối phó, hung bạo tùy cơ, trái với nguyên tắc và không thể không bị trừng phạt. Lý tưởng trong chiến đấu đã dùng quân pháp cũ: Nó bắn gián điệp, nó xử tử đứa bội phản, nó kết liễu sinh mệnh người ta, nó vứt người ta vào đêm tối vô danh vô tích. Nó dùng cái chết làm phương tiện, đó là một điều nghiêm trọng. Nó phải dùng những thủ đoạn ấy nghĩa là lý tưởng hình như không tin ở sức truyền bá của mình nữa, tuy sức truyền bá của lý tưởng là một sức mạnh vô địch và toàn diện. Lý tưởng khi bạo động phải đánh bằng gươm. Nhưng không có cây gươm nào là đơn giản. Gươm nào cũng có hai lưỡi: Chém người ta bằng lưỡi này thì đứt da thịt mình bằng lưỡi kia. Khi đã nghiêm khắc nêu lỗi lầm ấy xong, thì không thể không khâm phục những con người quang vinh, những chiến sĩ của tương lai, những giáo sĩ của lý tưởng ấy, mặc dù họ thành công hay thất bại. Khi họ thua non, họ cũng đáng sùng kính, và có lẽ trong thất bại họ càng lẫm liệt. Đi thuận với quy luật của tiến hóa mà thành công thì đáng được nhân dân hoan nghênh, thất bại anh dũng thì đáng được thương mến. Chiến thắng thì rực rỡ, nhưng thất bại lại kiêu hùng. Với chúng tôi là người quý chuộng hy sinh hơn đắc thắng, Gion Brao[2] vĩ đại hơn Oasinhtơn, và Pixacan vĩ đại hơn Garibandi[3] . Phải có kẻ bênh vực cho kẻ chiến bại. Người ta thường bất công với những trang hiệp sĩ muốn đem tương lai về, khi họ thất bại. Người ta buộc tội những người cách mạng đã gieo rắc kinh hoàng. Mỗi chiến lũy đều bị coi như là một vụ mưu sát. Người ta chỉ trích lý thuyết của họ, nghi ngờ mục đích của họ, đề phòng ẩn ý của họ, lên án lương tâm họ. Người ta đã trách họ đã chồng chất, đã dựng đứng một đống đau khổ, bất công, tuyệt vọng và qui trách nhiệm cho nề nếp xã hội hiền lành; đã móc từ dưới cặn đáy lên từng mảng đen tối để nấp vào, tựa vào mà chiến đấu. Người ta mắng họ: Các anh giở địa ngục lên! Họ có thể trả lời: Chính vì vậy mà chiến lũy của chúng tôi là một chiến lũy của những ý định tốt. Đành rằng giải pháp hòa bình là giải pháp tốt nhất. Nói chung, phải nhận rằng khi người ta thấy hòn đá thì nghĩ đến con gấu[4] và xã hội lấy làm lo ngại về cái thiện ý kia. Chỉ có xã hội mới cứu được nó thôi, chúng tôi kêu gọi thiện ý của chính nó. Không cần phương thuốc kịch liệt nào. Phải hòa nhã nghiên cứu bệnh tình, chẩn đoán rồi điều trị. Chúng tôi mời xã hội làm cái việc đó. Dẫu sao, dù là ngã quị, họ là những người cao quí, những người ấy, những người ở khắp thế giới đăm chiêu nhìn về nước Pháp mà chiến đấu cho sự nghiệp lớn với cái logic cứng rắn của lý tưởng: Họ cống hiến đời họ cho tiến hóa một cách thuần túy vô tư; họ thực hiện ý muốn của Thượng đế; hành động của họ là một hành động sùng đạo. Đến giờ qui định, cũng hoàn toàn không tính toán như người diễn viên đến lượt mình đối đáp, họ cứ tuân theo kịch bản nhà Trời mà chui vào mồ. Và cuộc chiến đấu không hy vọng, sự hy sinh anh hùng đó, họ gánh lấy để đưa cuộc vận động nhân bản vô địch bắt đầu ngày 14 tháng bảy năm 1789 đến những hậu quả rực rỡ và cao vời của họ. Những chiến sĩ đó là những giáo sĩ. Cách mạng Pháp là một hành vi của Chúa Trời. Tuy nhiên – và chúng tôi thấy cần sự phân biệt này vào mấy phân biệt đã nói ở một chương khác - có những cuộc khởi nghĩa được thừa nhận, gọi là cách mạng và những công cuộc cách mạng bị bác bỏ, gọi là bạo khởi. Một cuộc khởi nghĩa nổ ra tức là một chính kiến dự thi trước hội đồng giám khảo nhân dân. Nếu nhân dân cho điểm xấu, thì chính kiến đó là kết quả khô, cuộc khởi nghĩa là giặc cỏ. Nhân dân không muốn hễ có thách thức là phải gánh, cũng không muốn hễ có lý tưởng muốn là mình phải lao vào chiến tranh. Không phải dân tộc nào cũng có và lúc nào cũng có máu anh hùng, có gan tử vì đạo. Họ thực tế lắm. Thoạt tiên họ gườm bạo động: Lẽ thứ nhất vì nó thường kết thúc bằng một thảm họa, lẽ thứ hai vì xuất phát điểm của nó trừu tượng. Bởi vì, và điều này thật đẹp! Ai xả thân đều luôn luôn xả thân vì lý tưởng. Khởi nghĩa là do hào khí. Hào khí có thể phẫn nộ, do đó mà có bạo động vũ trang. Nhưng mỗi cuộc khởi nghĩa nhằm lật một chính phủ hay một chế độ thật ra đều nhằm một cái gì cao hơn. Chẳng hạn, phải nói rõ điểm này, những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa năm 1832 đặc biệt là những chàng trai hào hùng ở phố Săngvrơri không hẳng đánh vào Luy Philíp. Số đông trong bọn họ, khi nói chuyện cởi mở, vẫn thừa nhận những tính tốt của vị vua ở giáp ranh cách mạng và quân chủ đó; không ai thù ghét ông. Nhưng họ đánh vào quyền truyền tử lưu tôn, nói là do Chúa ban, ở chi thứ mà đại biểu là Luy Philíp, cũng như trước đó họ đánh chi trưởng mà đại biểu là Sáclơ X[5] . Và cái mà họ muốn đánh đổ trong khi đánh đổ quân quyền ở nước Pháp, chúng tôi đã giải thích, chính là sự tiếm vị của con người đối với con người, và của đặc quyền đối với quyền lợi trên khắp thế giới. Pari không vua sẽ dội nên cảnh thiên hạ hết bạo chúa. Họ lý luận như vậy. Mục đích của họ xa vời hẳn rồi, mơ hồ có lẽ là lui về sau trước sự cố gắng, nhưng mà lớn lao. Như thế đấy. Và họ hy sinh cho những ảo ảnh đó, những ảo ảnh luôn luôn là ảo tưởng đối với kẻ hy sinh nhưng lại mang cả lòng tin của con người. Người nghĩa quân thi vị hóa và mỹ hóa khởi nghĩa. Họ lao vào thảm kịch say sưa với những việc họ sắp làm. Biết đâu đấy? Có thể họ thành công. Họ là số ít: Cả quân đội chống họ; nhưng họ bảo vệ chính nghĩa, luật thiên nhiên, chủ quyền của mỗi người, một chủ quyền không thể phế bỏ, bảo vệ công bằng, chân lý và nếu cần thì họ hy sinh như ba trăm chiến sĩ thành Xpáctơ thủa xưa. Họ không tự liên hệ với Đông Kisốt mà với Lêôniđát. Họ cứ đi tới và khi đã tham chiến thì họ không lùi nữa, họ cúi đầu lao tới trước, đặt hy vọng ở một chiến thắng phi thường rồi cách mạng sẽ hoàn tất, tiến hóa được giải phóng, nhân loại mở rộng, tất cả đều được cởi bỏ xiềng gông. Còn không thì như ở hẻm núi Técmôpilơ là cùng. Những cuộc chiến vì tiến hóa đó thường thất bại, chúng tôi đã nói vì sao. Quần chúng không ưa những cuộc tập dượt của các hiệp sĩ. Những khối nặng là các đám đông, chính vì nặng nề mà thành dễ vỡ, những khối đó sợ phiêu lưu, mà trong lý tưởng thì luôn có phiêu lưu. Vả chăng phải nên nhớ rằng còn có quyền lợi, Mà quyền lợi thì ít chịu kết thân với lý tưởng và tính chất. Một đôi khi dạ dày làm cho quả tim bại liệt. Nước Pháp lớn lao và đẹp đẽ ở chỗ ít béo bụng hơn các dân tộc khác; nó dễ dàng thắt lưng buộc bụng. Nó dậy trước thiên hạ, ngủ sau thiên hạ. Nó luôn tiến lên phía trước. Nó tìm tòi. Là vì nó nghệ sĩ. Lý tưởng chỉ là điểm cao nhất của luân lý, cũng như cái đẹp là đỉnh của cái chân. Những dân tộc nghệ sĩ cũng là những dân tộc nhất quán. Yêu cái đẹp là mong ánh sáng. Bởi thế cho nên ngọn đuốc châu Âu, tức là đuốc văn minh thoạt đầu do Hy Lạp cầm, rồi Hy- lạp chuyển cho Ý và Ý chuyển cho Pháp. Ôi! Những dân tộc hưởng đạo thần tiên! Vilae lampada tradunt[6] . Điều rất đẹp, chất thơ của một dân tộc là nhân tố của sự tiến bộ của nó. Lượng tưởng tượng đong được bao nhiêu thì lượng văn minh đo được bấy nhiêu. Duy một dân tộc đi khai hóa cho người vẫn là một dân tộc cứng cỏi. Nghệ sĩ như Côranhtơ[7] thì nên, ủy mị như Xybarít[8] thì không được. Ai phụ nhân hóa thì cũng thoái hóa. Không nên là tài tử, cũng không nên là tài hoa, nhưng nên là nghệ sĩ. Nói về văn minh thì không nên gạn lọc, phải nên tinh lọc. Với điều kiện ấy, người ta biến cho nhân loại cái hình mẫu của lý tưởng. Lý tưởng hiện đại có điển hình của mình trong nghệ thuật và phương tiện của mình trong khoa học. Người ta sẽ thực thi cái ảo ảnh cao quí của các thi nhân, tức là cái đẹp xã hội, bằng khoa học. Người ta sẽ làm lại cái cảnh Êđen[9] từ những bước bắt đầu. Văn minh ngày nay đã đến độ mà chính xác là một yếu tố cần thiết cho huy hoàng và thẩm mỹ quan phải được cơ quan khoa học phục vụ, hơn nữa, hoàn thiện; mơ mộng cũng phải biết tính toán. Nghệ thuật là kẻ chinh phục phải tựa vào khoa học là người vững gối bước lên. Vật để cưỡi vững vàng chắc chắn là điều quan trọng. Tinh thần của thời đại ta làm bằng thiên tài Hy-Lạp chở trên thiên tài Ấn Độ: Alécxăng trên lưng voi. Những chủng tộc cứng đờ trong tín điều hoặc tha hóa vì vụ lợi không có khả năng hướng dẫn văn minh. Quì gối để bước đi và cái ý chí để tiến tới teo lại. Sự chuyên tâm vào lễ bái hoặc lợi nhuận làm yếu sức tỏa sáng của dân tộc, hạ thấp trình độ của nó do đó cũng thu hẹp tầm nhìn và tước mất cái ý thức này khiến cho dân tộc trở thành giáo sĩ. Babilon không có lý tưởng, Cáctagiơ[10] không có lý tưởng. Aten và Rôma[11] không có lý tưởng vẫn giữ hào quang của văn minh qua trường kỳ lịch sử. Phẩm chất của Pháp ngang hàng với phẩm chất của Hy-Lạp và La-Mã. Nó đẹp như Aten và vĩ đại như Rôm. Ngoài ra, nó tốt bụng. Nó tự hiến mình. Nó cũng thường hay có những lúc hứng tận tụy hy sinh hơn các dân tộc khác. Duy những cơn hứng đó có khi đến thì cũng có khi đi. Và đó là mối họa lớn cho những ai muốn chạy đi trong khi nó chỉ muốn đi và những ai muốn đi trong khi nó dừng lại. Nước Pháp cũng có những cơn tái phát của bệnh vật chất; những lúc nào đó, những tư tưởng vướng mắc trong đầu óc cao quí kia chẳng có gì khiến nhớ đến nước Pháp vĩ đại nữa, và chỉ có kích thước của một bang Mýtxuri hay một bang Nam Carôlin. Biết làm sao được? Ông khổng lồ đóng vai chú lùn mà! Nước Pháp mênh mông có những lúc cao hứng thích làm trẻ nhỏ. Chỉ thế thôi. Đã thế thì còn biết nói thế nào. Dân tộc cũng như tinh tú, có quyền ẩn bóng. Vẫn là tốt, miễn là ánh sáng trở lại, sự ẩn thực không biến thành đêm tối trường kỳ. Bình minh và hồi sinh đồng nghĩa. Sự tái xuất của ánh sáng đồng nhất với sự tồn tại của bản ngã. Chúng ta hãy bình tĩnh mà ghi nhận những sự việc đó. Chết trên chiến lũy hay chết trong cảnh lưu vong là trường hợp hy sinh thừa nhận được. Cái tên thật của hy sinh là chí công vô tư. Ai bị bỏ rơi thì cam chịu bị bỏ rơi, ai bị đày ải thì cam chịu bị đày ải, còn chúng ta thì chỉ nên van các dân tộc vĩ đại đừng nên lùi quá xa khi lùi. Không nên lấy cớ là cần phải chăng mà để cho tụt sâu xuống quá. Có vật chất, có giờ phút hiện tại, có quyền lợi, có cái bụng; nhưng không nên chỉ có thứ triết lý của cái bụng. Cuộc sống chốc lát có quyền, chúng tôi thừa nhận, nhưng cuộc sống lâu dài cũng có quyền của nó. Đã lên rồi, chao ôi! Không phải là không thể xuống. Chúng ta thấy hiện tượng này xảy ra trong lịch sử nhiều hơn là chúng ta mong muốn. Một dân tộc đã rực rỡ; dân tộc ấy đã nếm lý tưởng, nhưng sau đó đó ngậm bùn và cho là ngon; nếu ai hỏi nó vì sao nó bỏ Xôcrát mà theo Phanxtap, nó nói: Vì tôi thích những chính khách. Hãy nói một điều nữa trước khi trở về cuộc nội chiến. Một trận chiến đấu như chúng tôi diễn tả ra đây rõ ràng là một sự vùng vẫy để trườn lên lý tưởng. Tiến bộ bị cản chân thường hay sinh bệnh, cho nên thỉnh thoảng nó lên những cơn động kinh bi đát như thế. Nội chiến là bệnh của tiến bộ, chúng ta đã từng gặp bệnh ấy trên đường đời. Nội chiến vừa là một màn vừa là khoảng nghỉ cách màn trong tấn bi hùng kịch mà trục là tội nhân xã hội và nhan đề thực sự là Tiến Bộ. Tiến bộ! Tiếng reo ấy choáng tất cả đầu óc chúng tôi. Tư tưởng của bộ truyện bi hùng mà chúng tôi viết đây, đến đoạn này còn phải qua nhiều cuộc thử thách nữa mới lộ rõ. Nhưng chúng tôi mạn phép, không phải cuốn cả lên, mà mở hé bức màn để cho ánh sáng lọt ra ngoài rõ rệt. Quyển sách dưới mắt bạn đọc đây mặc dù có những chỗ gián đoạn, những ngoại lệ, những nhược điểm, quyển sách ấy từ đầu chí cuối, từ đại thể đến chi tiết thể hiện cuộc hành trình từ ác đến thiện, từ bất công đến công bằng, từ giả đến chân, từ bóng tối đến ánh sáng, từ dục vọng đến lương tri, từ thối rửa đến sống còn, từ thú tính đến nhân tính, từ địa ngục đến thiên đường, từ hư không đến Chúa. Khởi điểm là vật chất, đích tới là linh hồn. Xà tính lúc ban đầu, thiên thần lúc cuối. [1] Huygo viết bộ truyện này trong thời kỳ độc tài chuyên chính của Napôlêông III [2] nhà chính trị Mỹ thế kỷ 19, chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ. Ông bị xử treo cổ vì đã kêu gọi nô lệ da đen khởi nghĩa [3] nhà yêu nước người Ý thế kỷ 19, đã chiến đấu vì nền độc lập và thống nhất của Ý [4] tác giả liên hệ một truyện ngụ ngôn của Êdốp mà Laphôngten đã viết lại, đại khái: Một con gấu kết bạn với một ông già. Một hôm con gấu ngồi đuổi ruồi cho ông già ngủ, thấy có con ruồi lì lợm đuổi mãi không bay, bèn bê hòn đá ném nó, làm giập đầu ông già [5] Hai chi đều có ông tổ chung là Luy XIII, dòng họ Buốc bông. Chi trưởng gồm có kế tiếp các vua Luy XIV, XV, XVI (bị cách mạng xử tử), sau nền cộng hòa I và đế chế Napôlêông, thì Luy XVIII, Sáclơ IX, Sáclơ X bị cách mạng 1830 đánh đuổi và tôn Luy Philíp ở chi thứ lên lầm vua. Ông tổ chi thứ này là em ruột Luy XIV [6] tiếng Latinh: Họ trao lại những ngọn đuốc của cuộc sống [7] một thành phố Hy Lạp mà nhân dân rất nghệ sĩ [8] một thành phố Hy Lạp mà nhân dân ủy mị, biếng lười [9] theo đạo Gia tô, là khu vườn xinh đẹp và đầy đủ mà Chú đã để cho người đàn ông Ađam và người đàn bà đầu tiên Êva ở. Cũng được gọi là "thiên đường trên mặt đất" [10] những thành phố trù phú thời cổ đại, đều ở quanh Địa Trung Hải [11] thủ đô cũ của Hy Lạp và La mã cổ
Chương XXI Bấm để xem Bỗng nhiên tiếng trống xung trận vang lên. Cuộc tấn công diễn ra như một trận cuồng phong. Đêm qua, trong bóng tối, quân địch như con trăng lặng lẽ nhích đến gần chiến lũy. Bây giờ giữa ban ngày, trên đường phố rộng mở, không thể lén lút đánh bất ngờ được. Vả lại đại bác đã bắt đầu gầm thét, lực lượng vũ trang hùng hậu của họ đã phơi trần. Cuồng bạo là chiến thuật. Cả một binh đoàn bộ binh mạnh mẽ, xen từng đoạn quốc dân quân và cảnh vệ thành phố và dựa vào sức yểm hộ của những đội quân đông đảo mà chúng ta nghe tiếng động chứ không trông thấy! Trống vang, kèn giục, lưỡi lê chĩa ra đằng trước, binh đoàn ấy chạy rầm rập xông vào đường phố, đội công binh dẫn đầu. Đạn trong chiến lũy bắn ra không làm cho họ chùn bước, họ lao vào chiến lũy như một dầm thép nện vào một bức tường. Tuy vậy tường không núng. Nghĩa quân bắn như bão táp. Quân tấn công leo lên chiến lũy, nghĩa quân bắn chặn họ, nóc chiến lũy như một cái bờm tia chớp. Cuộc xung phong cuồng mạnh quá đến nỗi trong giây phút, chiến lũy tràn ngập cả lính xung phong, nhưng chiến lũy rảy chúng ra, hất chúng xuống như một con sư tử vung rảy đàn chó bắm vào mình. Và chiến lũy phủ kín xung kích như ghềnh đá phủ đầy mình bọt nước ở bờ biển, phủ kín một lúc để rồi lát sau lại nhô ra sừng sững, đen sì, dữ dội. Binh đoàn bắt buộc phải thối lui, nhưng vẫn tập trung trong phố: Trống trãi mà dữ tợn, họ bắn trả chiến lũy những loạt súng kinh hồn. Ai đã xem bắn pháo hoa đều nhớ những bó tia sáng làm bằng những loạt pháo bắn châu vào nhau, và nổ trên không, gọi là những "chùm hoa pháo". Bấy giờ xin các vị hãy tưởng tượng những bó chớp ấy không phải từ trên trời sa xuống, mà lại bay tạt ngang, mỗi tia mang ở mũi một viên đạn ghém hay một viên đạn chiến và nổ như từng loạt sấm, gieo rắc chết chóc khắp nơi. Chiến lũy phố Săngvrơri, ở dưới những bó sấm chớp ấy. Cả hai bên đều kiên quyết không kém nhau. Ở đấy lòng dũng cảm gần như dã man, và pha thêm tính chất hung tợn oanh liệt bắt đầu bằng sự xả thân. Thời này quốc dân quân chiến đấu như những người lính Dúap[1] . Quân đội muốn kết liễu cuộc bạo động, nghĩa quân muốn chống cự. Đương trong tuổi xuân tràng đầy sức sống mà đành lòng hy sinh, thì dũng cảm phải thể hiện thành cuồng chiến. Giữa cảnh xô xát, mỗi người lớn lên với cái sức lớn của giờ tối hậu. Đường phố chồng chất xác người. Ănggiônrátx và Mariuytx trấn giữ ở hai đầu chiến lũy. Ănggiônrátx còn thì chiến lũy còn, nên chàng ẩn nấp giữ mình. Dưới đầu tường chàng đứng, ba tên lính địch đã ngã quay mà không hề trông thấy chàng. Mariuytx thì chiến đấu một cách trống trải. Chàng đem mình làm cái đích cho đối phương. Quá nửa thân hình chàng nhô lên khỏi chiến lũy. Không ai phung phí bằng anh keo bẩn bị kích mà nổi cáu, không ai dữ dội khi chịu hoạt động bằng người mơ màng. Mariuytx dũng mảnh và tư lự. Chàng chiến đấu như trong một giấc mơ. Có thể nói đó là một bóng ma đương bắn súng. Đạn của nghĩa quân hết dần mà lời trêu cợt của họ không cạn. Trong cơn bão táp của nghĩa địa ấy, họ vẫn cười giòn. Thấy Cuốcphêrắc đầu trần, Bôtxuyê hỏi: - Cậu vứt cái mũ cậu xó nào? - Chúng đã dùng trọng pháo thổi veo rồi. Hoặc là họ nói những lời cao đạo. Phơidi chua chát kêu: - Hiểu sao được tâm địa bọn ấy! – (Phơidi kể tên nhiều người, nhiều người có tên tuổi, có tiếng tăm nữa, một vài người là cựu quân nhân thời cách mạng và đế chế). - Bọn chúng đã hứa sẽ nhập với chúng ta, đã thề sẽ giúp đỡ chúng ta, đã đem danh dự mà giao ước, bọn chúng là tướng lĩnh của chúng ta, thế mà bây giờ bỏ ta! Côngbơphe nghiêm nghị mỉm cười và chỉ nói một câu: - Có những người họ coi luật danh dự như người ta coi sao trên trời, kính nhi viễn chi. Bên trong chiến lũy, vỏ đạn rơi vãi nhiều như là có mưa tuyết. Quân tấn công có số đông, quân phòng thủ có thế. Quân tấn công vướng chân vào những cái xác chết, những người bị thương, lúng túng trên sườn lũy dốc ngược lên bị nghĩa quân trên chóp chiến lũy bắn ngã quay. Cái chiến lũy đã được xây dựng theo kiểu ấy, lại còn có những chỗ dựa rất tốt, cho nên đã tạo ra một địa thế thuận lợi, làm cho một nắm người có thể đánh lui một binh đoàn. Tuy nhiên hàng ngũ tấn công luôn luôn được bổ sung quân số, càng lâu càng đông mặc dù bị bắn như mưa xối. Họ nhích lên không cách gì cản nổi, nhích dần từng bước nhưng chắc chắn và xoắn vào chiến lũy như chiếc trục ốc ấn xuống bàn ép. Các đợt tấn công kế tiếp diễn ra. Cuộc xung đột càng rùng rợn. Trên đống đá ở phố Săngvrơri đã diễn ra một cuộc chiến đấu oai hùng không kém cuộc chiến đấu ở thành Tơroa[2] . Những con người hốc hác, kiệt quệ, tơi tả, đã một ngày đêm không ăn không ngủ, những con người chỉ còn được bắn mấy phát, sờ túi không còn viên đạn nào, những con người hầu như đều mang thương tích, đầu và tay băng những miếng giẻ đen sì, hoen ố, những con người máu trào ra từ những lỗ thủng trên quần áo, những con người chỉ có gươm cùn và súng xấu, những con người ấy giờ phút này đã biến thành những người khổng lồ. Chiến lũy mười lần bị tấn công, bị xâm phạm bị vượt lên, chiến lũy vẫn không mất. Nếu có thể tưởng tượng được có một mớ dũng khí bị châm lửa và bùng cháy và chúng ta được xem cảnh cháy đó thì chúng ta cũng có một ý niệm về trận đánh. Không, không phải là một trận đánh. Đây là cảnh tượng trong lò lửa: Mồm thở ra lửa, mặt mũi phi thường, nhân dạng cũng mất, người chiến sĩ cháy rực lên và biến thành những con quái vật kỵ lửa đi lại ngang nhiên trong cảnh hỗn chiến. Cảnh tượng thật là hùng vĩ. Chúng tôi không thuật lại những biến thiên đồng thời hay kế tiếp diễn ra trong cuộc xung sát vĩ đại. Chỉ có hùng ca là có quyền dùng một vạn hai nghìn câu thơ để mô tả một trận chiến đấu. Người ta tưởng đây là địa ngục của Hồi giáo, cái ghê gớm nhất trong số mười bảy vực thẳm mà kinh Vêđa gọi là Rừng gươm. Nghĩa quân vật nhau với quân địch, họ quần địch từng bước, họ đánh bằng súng lục, bằng kiếm, bằng quả đấm, đánh gần, đánh xa, đánh từ trên xuống, đánh từ dưới lên, đánh từ mái nhà, từ cửa quán, từ lỗ thông hơi các nhà hầm, mà một vài người đã chui vào, đánh từ khắp mọi chỗ. Một địch với sáu mươi. Mặt trước quán Côranh hầu như đổ sụp trông rất dị hình. Cửa sổ lỗ chỗ vết đạn đã mất cả kính lẫn khung và biến thành một cái lỗ không hình dạng. Nghĩa quân đương ồn ào khuân đá lấp nó lại. Bôtxuyê bị giết; Phơidi bị giết; Cuốcphêrắc bị giết; kế đến Giôli bị giết. Côngbơphe đương đỡ một người lính chính phủ bị thương lên thì bị đâm ba nhát lưỡi lê xuyên qua ngực; chàng chỉ kịp nhìn lên trời mà tắt thở. Mariuytx vẫn chiến đấu. Người chàng mang vô số vết thương nhất là ở đầu, cho nên mặt mày đầm đìa những máu, trông như có một chiếc khăn đỏ phủ lên. Một mình Ănggiônrátx thân thể nguyên lành. Khi chàng không còn vũ khí thì chàng chìa tay qua bên phải, bên trái, tức thời một nghĩa quân đặt vào tay chàng một thứ khí giới nào đó. Chàng đã dùng đến chiếc gươm thứ tư mà bây giờ nó cũng chỉ còn một đoạn. Dùng bốn chiến gươm, thế là hơn Phrăngxoa đệ nhất[3] ở Marinbăng một chiếc. Hôme[4] nói: "Điômét cắt cổ Axin, con của Tơtranít quê ở đất Arítba hạnh phúc; Ơrian, con của Mêxitê, kết liễu Đrêdốt, và Ophêchiốt thì giết Êdếp cùng với Hôđaduýt là kết quả cuộc tình duyên giữa nữ thần Abácbarê và chàng Bucôliông ngay thẳng; Uylít lật ngã Piđi quê ở Péccôl Ăngtilôc hạ Ablel, Pôlibete hạ Axtyan; Poliđama hạ Ôtôxơ người xứ Xylen, và Toxe thì hạ Arêtaon. Mêgăngchiốt chết dưỡi mũi giáo của Ơripylơ. Agamemnông, vua của các dũng tướng, đánh ngã Êlatốt, sinh ở thành phố hiểm trở có con sông Xanôixơ róc rách". Trong các thiên hùng ca Trung thế kỷ của ta, tráng sĩ Explăngđiăng xử ngọn hỏa mâu hai mũi dồn đánh hầu tước Xuantibo khổng lồ, hầu tước nhổ đền, tháp lên ném lại. Tranh bích họa xưa vẽ hai công tước xứ Brơtan và xứ Buốcbông mang phù hiệu, biển tên, xách búa đánh nhau, cả hai đều đeo mặt nạ sắt, giày sắt, găng sắt, công tước Brotan ngựa phủ da cáo trắng, công tước Buốcbông khoác áo màu thiên thanh. Công tước Brơtan mang gia huy sư tử giữa hai cánh mũ, công tước Buốcbông đội một cái mũi có lưỡi trai rất lớn hình hoa huệ. Tuy nhiên, muốn lẫm liệt, không cần phải đội mũ công tước như Ivông, không cần phải xử cây hỏa mâu như Explăngđiăng, cũng không cần phải mang một bộ vũ khí tặng phẩm của vua Ơphetơ từ Êphin về, như Phylexơ bố của Pôlyđama. Chỉ cần hiến dâng đời mình cho một niềm tin, cho sự trung thực cũng đủ rực rỡ uy phong. Anh lính trẻ thật thà, hôm qua là nông dân xứ Bôxơ hay xứ Limudanh, cắp gươm la cà bên mấy chị em vú vườn Luýchxămbua, anh sinh viên trắng trẻo cúi cằm trên sách vở, trên mẫu giải phẫu, thường cắt râu bằng kéo mổ, hãy đem hai người ấy đến, thổi vào người họ một luồn ý thức nhiệm vụ, đặt họ đối diện nhau ở ngã tư Busơra hay ở ngách phố Mibơray, rồi bảo họ chiến đấu, một người vì lá cờ, một người vì lý tưởng, và cứ tưởng như đang chiến đấu cho tổ quốc; lúc ấy trận đấu sẽ là một trận chiến đấu của những người khổng lồ, và trên chiến trường hùng vĩ kia, bóng người binh nhì và người sinh viên y dược sẽ mênh mông như bóng của Mêgariông vua xứ Lixi đầy cọp dữ, vật nhau với tướng Agiắc cao như núi, tài sức địch thần linh. [1] những phiên âm bình dân của từ Zouave là tên những người Pháp gọi những người lính Pháp đi đánh ở châu Phi [2] thành phố cổ Hy Lạp ở bán đảo tiểu Á. Thiên hùng ca Ilíat đã thuật lại cuộc chiến đâu dữ dội ở thành Tơroa giữa quân Hy Lạp và quân Tơroa [3] vua nước Pháp thế kỷ XVI can đảm và thượng võ, đã chiến thắng quân Thụy Sĩ ở Marinhăng [4] một nhà thơ cổ Hy Lạp, đã soạn thiên hùng ca Ilíat
Chương XXII & XXIII Bấm để xem Trong số chỉ huy, chỉ còn Ănggiônrátx và Mariuytx sống sót ở hai đầu chiến lũy. Khi trung tâm trước đây nhờ Cuốcphêrắc, Giôli, Bôtxuyê, Phơidi làm nòng cốt, bây giờ núng thế. Đại bác tuy không mở được đột phá khẩu song cũng làm sứt mẻ một khoảng khá rộng ở khu giữa. Chóp chiến lũy ở đấy bị đạn đại bác bắn sập các thứ vặt vụn đổ ra hai bên lần hồi vun thành đống làm nên hai cái bệ, một trong, một ngoài. Bệ ngoài thoai thoải, có thể do đó mà leo lên. Quân địch mở một đợt tấn công tối hậu vào đấy và đợt này có kết quả. Đoàn xung kích tua tủa lưỡi lê chạy xầm xập và lao tới không sức nào cản nổi. Hàng ngũ dày đặt của họ xuất hiện trên khoảng mẻ, giữa một đám khói mù. Lần này thì không cách gì cứu vãn. Nhóm nghĩa quân chống giữ chỗ ấy thối lui lộn xộn. Lúc ấy ở một vài người, bản năng sinh tồn nhoi dậy. Đứng trước cái rừng súng chĩa vào họ, họ đâm ra không muốn chết nữa. Giây phút ấy, con thú tái hiện dưới hình người và rú thét lên. Họ bị dồn đến trước ngôi nhà sáu tầng ở tận cùng khu chiến lũy. Ngôi nhà ấy có thể là con đường sống thoát. Cửa ngôi nhà ấy đã bị chắn từ trên chí dưới, trông như bít kín mít. Trước khi quân tấn công vào tới bên trong khu chiến lũy thì một cảnh cửa chợt mở ra rồi khép lại trong nháy mắt. Cánh cửa chợt mở ra rồi tức khắc đóng ấy là con đường sống cho những người tuyệt vọng kia. Bởi vì ở ngã sau ngôi nhà ấy, có đường phố, có nghĩa là có lối rút chạy, có không gian. Cho nên họ trở báng súng đập cửa, họ lấy chân đạp, họ kêu, họ gọi, họ chắp tay lại van xin. Chẳng ai mở cả. Chỉ có cái đầu lâu ở cửa thông hơi tầng gác thứ ba nhìn xuống họ mà thôi. Nhưng Ănggiônrátx và Mariuytx đã tập hợp được bảy tám nghĩa quân lao đến che chở cho họ. Ănggiônrátx thét bảo quân chính phủ đừng xông lên. Một sĩ quan không nghe, cứ xông tới, Ănggiônrátx giết ngay viên sĩ quan. Bây giờ anh đứng ở sân trong khu chiến lũy, tựa lưng vào quán rượu Côranh. Một tay cầm gươm, một tay cầm súng, anh giữ cho cảnh cửa mở rộng và ngăn đón bọn tấn công; anh kêu bảy người nghĩa quân tuyệt vọng: - Chỉ có một cái cửa mở, là cửa này. Cầm cự cả một tiểu đoàn, Ănggiônrátx đem thân mình che chở cho họ để cho họ lòn ra phía sau chàng. Họ lao vào cửa. Bây giờ chàng sử dụng cây cácbin như một cây gậy. Chàng vung cácbin sáng loáng theo thế "che hoa", như những người đánh gậy thường gọi, đánh gạt những ngọn lưỡi lê tua tủa trước mặt và hai bên, rồi lách vào ửa, sau khi tất cả mọi người đã vào trong quán. Giờ phút thật là rùng rợn. Lính thì muốn xông vào, nghĩa quân thì muốn đóng cửa lại. Cánh cửa đóng sầm, mạnh đến nỗi làm đứt lìa năm ngón tay của một anh lính cố bám lấy nó, những ngón tay bị tiện ấy dính vào khung cửa. Mariuytx không vào được. Một phát súng đã làm chàng gãy xương vai. Chàng biết mình đang ngất đi và ngã xuống. Mắt đã nhắm rồi, chàng cảm thấy như có một bàn tay vạm vỡ chạm vào da thịt chàng và nắm lấy chàng. Trước khi bất tỉnh chàng chỉ còn kịp nghĩ đến Côdét một lần cuối cùng, đồng thời tự nhủ: - Mình bị bắt làm tù binh, mình sẽ bị bắn. Ănggiônrátx không trông thấy Mariuytx trong số người vào quán cũng có ý nghĩ là Mariuytx đã bị bắt và sẽ bị bắn. Nhưng họ đã ở vào cái giờ phút mà mỗi người chỉ có thể nghĩ đến cái chết của mình. Ănggiônrátx cài then, đẩy chốt, khóa ổ khóa và bóp ống khóa, trong khi ở ngoài quân chính phủ đập phá ầm ầm: Bộ binh trở báng súng đập, công binh lấy búa bửa. Đoàn tấn công đã xô dồn đến trước cửa. Cuộc tấn công quán rượu bắt đầu. Phải nói rằng quân tấn công rất phẫn nộ. Cái chết của viên đội trung sĩ đã làm cho họ căm giận. Nhưng còn điều này ác hại hơn nữa là trước cuộc tấn công vài giờ, có tin truyền đi rằng quân khởi nghĩa chặt xẻ tù binh, và ở trong quán Côranh có một cái xác quân chính phủ không có đầu. Những tin đồn nguy hại xảy ra như thế trong các cuộc nội chiến là thường, và chính một tin phao đồn như thế đã gây ra tai họa phố Trăngxnônanh sau này. Khi cửa quán đã được chặn kỹ, Ănggiônrátx nói với anh em: - Bây giờ thì phải bắt chúng trả giá thật đắt cái chết của chúng ta. Anh đến bên cạnh bàn đặt thi hài cụ Mabớp và chú bé Gavrốt. Hai thân hình thẳng và cứng, một dài, một ngắn, cùng với hai khuôn mặt lờ đờ hiện dưới những nếp lạnh của tấm vải liệm. Một bàn tay chòi ra ngoài và buông thỏng xuống đất, bàn tay của ông cụ. Ănggiônrátx nghiêng mình hôn bàn tay đáng kính ấy, cũng như hôm qua anh đã hôn vừng trán. Hai cái hôn này là hai cái hôn duy nhất trong đời anh. Hãy rút ngắn câu chuyện. Chiến lũy đã chống cự như một cửa thành Tépbơ[1], giờ đây, quán rượu chiến đấu như một căn nhà thành Xaragốt[2] . Những cuộc kháng cự như thế tất phải cục cằn, không khoan thai. Không thể có điều đình. Miễn giết được nhiều là chết thỏa. Khi Xuysê bảo: - Đầu hàng đi. – Thì Palaphốp đáp "Hết đạn đại bác thì có dao!". Trong trận đánh chiếm quán rượu Huysơlu, có đủ cả những việc xảy ra trong một trận đánh thành. Có đá tảng từ mái nhà, từ cửa gác giáng như mưa xuống đầu quân tấn công các tảng đá ấy chẹt chết nhiều binh lính một cách thảm khốc làm cho bọn khác điên tiết; có đạn vèo ra từ cửa thông hơi trên gác, từ hầm nhà; có tấn công điên cuồng, có phòng ngự say máu. Có cả sự tàn sát như điên, như dại khi đã phá được cửa xông vào. Quân tấn công bị vướng chân trong các cánh cửa bị chọc thủng và xô đổ xuống đất, nên khi nhào được vào trong quán thì không tìm thấy bóng một nghĩa quân nào. Nghĩa quân cũng đã dùng búa chặt cái thang trôn ốc rơi xuống giữa phòng. Một vài người bị thương sắp chết nằm lại đấy, còn tất cả những người sống sót đều lên tầng gác. Từ miệng thang gác, hỏa lực giáng xuống kinh khủng. Đó là những viên đạn cuối cùng. Khi bắn hết, khi những người hấp hối khủng khiếp ấy không còn thuốc, không còn đạn, thì mỗi người cầm hai chai thứ nước mà Ănggiônrátx đã dự tữ. Họ dùng loại quả chùy mỏng manh một cách dễ sợ ấy để đối địch với lũ người đương leo lên. Đó là những chai a-xit. Cuộc tàn sát có những chuyện rùng rợn như thế nào, chúng tôi cứ thuật ra như thế ấy. Người bị vây, than ôi! Có cái gì cầm lấy cái ấy làm vũ khí, Ácsimét[3] bắn lửa chịu nước đốt tàu, tuy vậy không vì thế mà người ta bớt kính nể Ácsimét. Nhựa thông sôi cũng không làm giảm vinh quang của Baia[4] . Chiến tranh gồm toàn những sự khủng khiếp, đã chiến tranh thì còn lựa chọn cái gì? Mặc dù vướng víu và phải bắn từ dưới lên, những tràng súng của quân tấn công cũng rất ác liệt. Miệng thang không mấy chốc mà đã viền những đầu người chết, máu chảy xuống từng dòng nóng hổi và đỏ ngòm. Sự náo động tưởng không bút nào tả xiết. Khói nóng lùng bùng trong nhà làm cho không gian tối om. Sự rùng rợn thật đã lên tột độ không có chữ nghĩa nào mô tả được. Trong cuộc xung sát địa ngục này, không phải là con người đánh nhau. Cũng không còn là chuyện khổng lồ quần nhau với hộ pháp. Chuyện của Mintơn[5] và của Đăngtơ[6] hơn là chuyện Hôme. Đây là một cảnh chiến tranh giữa quỷ và ma. Thật là một sự anh dũng quỉ quái. XXIII ĐÔI BẠN KẺ ĐÓI NGƯỜI SAY[7] Cuối cùng người thì công kênh nhau, kẻ thì dùng cái sườn gãy, kẻ leo tường, kẻ đánh đu trên trần nhà, bọn tấn công đã lên được tầng gác. Hai mươi người gồm đủ thành phần: Quân chính qui, quốc dân quân, cảnh vệ quân, đã trườn lên hỗn độn họ chặt nốt những nghĩa quân còn chống cự ở ngay miệng thang gác, rồi ào ào vào trong phòng. Mặt mày họ sây sứt một cách dễ sợ vì bị trúng thương trong lúc cố leo lên gác; họ say máu, họ điên cuồng, họ đã trở nên man rợ. Trên gác chỉ còn độc một người chưa ngã. Đó là Ănggiônrátx. Không đạn, không gươm, anh chỉ còn trong tay cái nòng dây cácbin mà anh đã đập vỡ báng trên đầu bọn xông lên trước. Anh lánh ra sau bàn bi-a, dùng nó để ngăn cách bọn tấn công với anh. Anh lùi vào một góc phòng. Mắt kiêu hãnh, đầu ngẩng cao, trên tay chỉ còn một mẩu vũ khí, anh chỉ đủ uy dũng để làm cho bọn tấn công phải giãn ra. Có tiếng thét: - Thằng chỉ huy đấy. Chính tay nó đã giết anh bắn đại bác. Nó đã đứng đấy, tất chỗ ấy thích hợp với nó. Vậy cho nó ở đấy. Bắn nó ngay tại chỗ thôi. Ănggiônrátx bảo: - Phải, bắn tao đi! Rồi vứt mẩu súng, chàng khoanh tay ra sau, đưa ngực cho chúng. Thái độ dũng cảm trước cái chết bao giờ cũng làm cho người ta xúc động. Ănggiônrátx vừa khoanh tay chờ chết, thì sự huyên náo cũng chấm dứt, cảnh hỗn độn lắng xuống, gian phòng trở nên lặng lẽ một cách uy nghi. Tay không, đứng im không nhúc nhích, Ănggiônrátx có vẻ lẫm liệt đáng sợ, nó trấn áp sự xôn xao. Là người độc nhất không bị thương tích, mình đầy máu, uy nghi, đẹp đẽ, thản nhiên như người xương đồng da sắt, anh thanh niên ấy bắt buộc đám người bừng bừng sát khí kia phải giết anh một cách kính nể. Vẻ kiêu hãnh của anh lúc ấy càng làm cho anh đẹp trai. Anh đẹp lộng lẫy. Tuồng như không biết mệt mỏi là gì, như không thể bị đánh trúng, sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ ghê gớm như thế, mặt anh vẫn ửng hồng. Sau này, trước tòa án binh, một người chứng đã nói: "Trong bọn bạo động có một người mà tôi nghe người ta gọi là Apôlông[8] tái thế". Có lẽ nhân chứng ấy muốn nói đến Ănggiônrátx. Một quốc dân đương giơ súng ngắm anh chợt hạ xuống mà than: "Hình như tôi sắp bắn một đóa hoa". Ở góc tường đối diện Ănggiônrátx, mười hai binh sĩ xếp thành toán đương lặng lẽ chuẩn bị súng đạn. Rồi trung sĩ hô: - Ngắm đích! Một sĩ quan can thiệp: - Hãy thư thả. Rồi quay về phía Ănggiônrátx, viên sĩ quan hỏi: - Anh có muốn được bịt mắt không? - Không cần. - Có phải chính anh đã giết viên đội pháo binh không? - Hẳn. Gơrăngte đã thức dậy được một lát. Các bạn nhớ rằng từ đêm hôm trước ở phòng gác này, Gơrăngte ngồi yên trên ghế gục đầu trên bàn mà ngủ. Chàng đã thực hiện một cách đầy đủ thành ngữ: Say như chết. Thứ rượu khổ ngải ghê gớm đã ru anh trong một giấc mơ nặng nề. Cái bàn anh ngủ nhỏ quá mặc cho anh. Anh giữ nguyên kiểu ngồi lúc đầu, ngực áp lên bàn, đầu gối trên tay, chung quanh nào cốc, nào chai, nào lọ. Giấc ngủ của anh nặng như giấc ngủ của con gấu đông miên, hay con đỉa no máu. Tiếng súng trường, tiếng đại bác, tiếng đạn ghém lọt vào cửa phòng, tiếng ầm ầm trong giờ phút đánh nhau trong quán, không gì lay động anh nổi. Duy lâu lâu, anh ngáy một tiếng để trả lời đại bác. Tuồng như anh ngồi dậy chờ một viên đạn để đỡ phá mất công tỉnh dậy. Nhiều xác chết nằm sóng sượt quanh anh, thoạt trông ai cũng ngỡ anh ngủ giấc ngủ cuối cùng như họ. Tiếng ồn ào không thức tỉnh người say rượu, trái lại sự yên lặng lại làm cho họ tỉnh giấc. Thật là lạ nhưng người ta cũng đã nhiều lần nhận thấy như vậy. Những tan tành đổ vỡ quanh Gơrăngte càng là cho anh mê đặc: Tiếng sụp đổ của tất cả là một khúc ru êm ái. Khi tiếng huyên náo lắng xuống xung quanh Ănggiônrátx thì chính sự lặng lẽ ấy lại lay mạnh Gơrăngte, cũng như khi một cái xe đang phi nước đại dừng lại, thì hành khách ngủ gà ngủ gật trong xe choàng tỉnh. Gorăngte vụt ngồi dậy, duỗi tay, giụi mắt nhìn chung quanh, ngáp dài một cái và hiểu hết nguồn cơn. Tỉnh một cơn say rượu thì cũng như có một tấm màn ở trước mắt bị xé toạc, thoáng nhìn, đã thấy ngay toàn bộ sự vật khuất ở sau. Mọi việc bỗng dưng hiện lên ký ức, Gơrăngte vừa mở mắt đã lĩnh hội tình hình, mặc dù anh chẳng biết trời đất gì trong ngày đêm vừa qua. Trí não anh chợt trở nên minh mẫn; khói rượu như hơi nước làm mờ cân não bây giờ đã tan hẳn, và thực tế hiện ra một cách chính xác, rõ ràng. Gơrăngte ngồi trong xó, có bàn bi-a che khuất. Quân sĩ mãi châu mắt vào Ănggiônrátx không nhìn thấy anh. Viện đội sắp sửa lặp lại cái lệnh ngắm đích, chợt nghe có tiếng kêu lớn bên cạnh: - Chế độ cộng hòa muôn năm! Tao là người cộng hòa đây. Gơrăngte đứng lên. Chàng say mặt mày đã đổi khác, đôi mắt đã ngời cái ánh lửa hùng tráng của một cuộc chiến đấu mà chàng không tham gia. Anh lặp lại: - Chế độ cộng hòa muôn năm! Rồi bước lên mạnh mẽ, anh đứng bên cạnh Ănggiônrátx, trước họng súng quân thù. Anh bảo: - Bắn hai ta một lần. Dịu dàng quay mặt lại phía Ănggiônrátx, anh hỏi: - Ănggiônrátx cho phép chứ. Ănggiônrátx mỉm cười siết tay chàng. Nụ cười chưa dứt, súng đã nổ. Tám phát đạn xuyên qua người Ănggiônrátx. Anh vẫn đứng tựa vào tường như đạn đã đóng đanh người anh vào đấy. Duy đầu ngực anh gục xuống. Gơrăngte thì ngã quay dưới chân Ănggiônrátx, chết tức khắc. Lát sau, quân chính phủ săn đuổi những nghĩa quân cuối cùng còn nấp trong những ngách cao trong quán. Họ bắn vào nhà vựa, qua một cái sàn gỗ mắt võng. Họ đánh nhau trong các gác xép. Họ ném thân người qua cửa sổ, một vài người hãy còn sống. Hai khinh kỵ binh đương lom khom đỡ cỗ xe hàng lên thì bị hai phát cácbin bắn từ cửa thông hơi xuống chết ngay. Cũng từ cửa ấy người ta đâm lưỡi lê thủng bụng một người mặc bờ lu rồi xô xuống đường, người ấy nấc chết dưới đất. Một nghĩa quân và một binh sĩ vật nhau trên mái ngói; trượt theo chiều xuôi của mái nhà, họ vẫn không chịu buôn nhau ra, cả hai cùng rơi xuống đất, rơi mà vẫn siết nhau một cách dữ tợn. Trong hầm nhà, cuộc chiến đấu cũng diễn ra giống như thế. Tiếng kêu thét, tiếng súng, tiếng chân huỳnh huỵch. Rồi yên lặng. Chiến lũy thế là đã bị chiếm. Quân chính phủ bắt đầu sục sạo những ngôi nhà lân cận, và săn đuổi những người chạy trốn. [1] thành phố cổ Ai Cập có một trăm cổng, nổi tiếng trong một cuộc chiến đấu chống ngoại xâm [2] thành phố Tây Ban Nha, đã chống cự quân Napôlêông vây thành một cách rất anh dũng (1809) Suchet là một tướng đánh thành. Palafox là tướng giữ thành, mới 29 tuổi [3] nhà toán học bất hủ của thành Xiraquyso cổ vĩ đại, đã mang hết kiến thức ra chống, đánh quân xâm lược vây hãm thành ông. Tơng truyền ông đã chế ra một thứ lửa chịu nước bắn lên mặt nước đốt trọn đoàn tàu địch cả người lẫn vật [4] danh tướng nước Pháp thế kỷ XVI, dùng nhựa thông nấu sôi đánh quân vây thành [5] thi hào Anh thế kỷ XVII, tác giả "Thiên đường đã mất" [6] thi hào Ý thế kỷ XII, XIV, tác giả "Thần khúc" [7] nguyên văn: Oreste đói, Pylande say, là đôi bạn khăng khít trong huyền thoại Hy Lạp [8] một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, đẹp trai, dũng cảm, tài hoa
Chương XXIV Bấm để xem Quả thật Mariuytx đã bị bắt làm tù. Tù của Giăng VanGiăng. Cái bàn tay từ đằng sau đưa ra nắm giữ chàng mà lúc ngất đi chàng còn cảm thấy chạm vào da thịt, đó là bàn tay của Giăng VanGiăng. Giăng Vangiăng xông xáo trong chiến trường chỉ để nhận mọi sự nguy hiểm. Trong cảnh trận địa hấp hối không có ông thì chẳng có ai nghĩ đến những người bị thương; giữa cuộc tàn sát, ông có mặt ở mọi nơi, như một cứu tinh. Nhờ ông, những người ngã xuống được nâng dậy, mang vào gian phòng dưới và băng bó. Ngớt thì ông sửa chữa chiến lũy. Nhưng tay ông không hề làm một cử chỉ nào có thể gọi là bắn, là chém, là đánh, thậm chí chống đỡ tự vệ. Ông lặng lẽ cứu người. Vả chăng đạn không thèm thịt ông, ông chỉ bị vài vết trầy trợt nhẹ nhẹ. Nếu như lúc tìm đến chỗ mộ địa này, ông có ý định tự tử, thì điều mơ ước của ông chẳng được thực hiện. Nhưng chúng tôi tin rằng ông không định tự tử, vì tự tử là một hành vi không hợp đạo Chúa. Giăng VanGiăng có vẻ như không trông thấy Mariuytx trong cảnh khói bụi mù mịt. Nhưng sự thật mắt ông không hề rời chàng. Khi Mariuytx trúng đạn ngã xuống thì Giăng VanGiăng nhảy đến nhanh như con hổ, vồ lấy chàng như vồ con mồi và mang chàng đi. Cuộc tiến đánh như gió lốc xoắn vào Ănggiônrátx và cửa quán Côranh, nên không ai trông thấy Giăng VanGiăng mang Mariuytx bất tỉnh vượt qua chiến lũy tung tóe và lẩn vào sau góc quán. Góc quán ấy nhô ra ngoài đường phố, nhờ vậy có một vuông đất nho nhỏ không có đạn bay tới, và mắt người cũng không thể trông vào. Trong những đám cháy nhà, thỉnh thoảng có một căn buồng không bén lửa, cũng như trên mặt biển cuồng đây đó bên kia một mỏm núi nhô ra hay giữa một vũng có đá lởm chởm, vẫn có một khoảng phẳng lì. Vuông đất này cũng giống như thế. Đó là chỗ Êpônin tránh ra để thở hơi cuối cùng. Đến đó, Giăng VanGiăng đứng lại đặt Mariuytx xuống đất, tựa lưng vào tường và nhìn chung quanh. Tình hình thật là kinh khủng. Bây giờ đây, và có thể trong hai ba phút nữa, bức vách này là một chỗ nấp. Nhưng rồi làm sao thoát khỏi cuộc tàn sát nơi đây? VanGiăng hồi tưởng nỗi hoang mang của ông tám năm về trước ở phố Pôlôngxô và nhớ lại cách ông đã làm thế nào để trốn thoát. Lúc ấy quả là khó khăn, nhưng bây giờ mới thật là hết cách. Trước mặt ông là một ngôi nhà sáu tầng nghiệt ngã và câm bặt, hình như chỉ có một người là một ông già ngồi gục đầu chết trên bậu cửa sổ. Bên phải là chiến lũy phố Tơruyăngđơri không cao lắm, vượt qua không khó; nhưng ông thấy nhô lên khỏi ngọn chiến lũy một làng lưỡi lê lởm chởm. Đó là quân đội chính qui bố trí rình chờ. Rõ ràng là vượt qua chiến lũy nhỏ ấy tức là đi hứng một loạt súng, và ai nhô đầu lên khỏi chiến lũy tức khắc sẽ làm bia cho sáu mươi họng súng châu vào đấy. Bên trái là chiến trường. Đằng sau bức tường là cảnh chết. Làm thế nào? Chỉ có mọc cánh như chim mới có thể thoát khỏi nơi ấy. Ấy thế mà phải quyết định ngay, phải nghĩ ra phương kế ngay, không thì không kịp. Người ta đánh nhau cách ông mấy bước; cũng may là tất cả bọn chúng đều châu vào độc một điểm là cái cửa quán. Nhưng nếu có một người lính nào đó, chỉ một người thôi, có ý định đánh bọc hậu, hay đánh tạt ngang sườn, thì còn gì? Giăng VanGiăng nhìn ngôi nhà trước mặt, nhìn chiến lũy bên cạnh, rồi nhìn xuống đất. Với sự hoảng hốt của người cùng đường, con mắt ông như muốn khoét một cái lỗ dưới đất. Nhìn mãi với con mắt người hấp hối ông thấy có một cái gì lờ mờ hiện dưới chân, như tuồng con mắt mình cũng có mãnh lực làm nảy ra cái chúng ta đòi hỏi. Ở cách đấy mấy bước có một tấm vỉ sắt nằm dưới đất sát mặt đường, ở dưới chân cái chiến lũy nhỏ đương bị canh giữ nghiêm mật. Tấm vỉ sắt ấy rộng độ mấy tấc vuông và làm bằng những que sắt cứng. Trước kia vỉ gắn vào đá, nhưng khung đá bị nạy bật đi, thành thử lỗ hổng lờ mờ, tựa như một ống khói hay là một nòng giếng chứa. Giăng VanGiăng lao tới đó. Khoa vượt ngục ngày xưa của ông hiện trở về trong trí như một thứ ánh sáng. Hất đá sang một bên, giở tấm vỉ, vác Mariuytx lên vai như một xác chết, dùng đầu gối và khuỷu tay leo xuống cái giếng cũng may là không sâu mấy, với tay lên đậy tấm vỉ sắt nặng nề lại – đậy xong thì đá bị động chạm lại đổ xuống đè lên trên- đặt chân lên những phiến đá ở sâu cách mặt đường những ba thước, Giăng VanGiăng làm những công việc ấy như đương trong cơn mê sảng, với sức khỏe của một người khổng lồ và sự nhanh lẹ của con chim ưng. Công việc hoàn thành chỉ trong vòng mấy phút. Cùng với Mariuytx vẫn đang còn bất tỉnh, Giăng VanGiăng bây giờ đứng trong một cái hành lang dài khoét sâu trong lòng đất. Ở đấy hoàn toàn yên tĩnh, tuyệt đối lặng lẽ và tối om. Giăng Vangiăng lại thấy cái cảm giác ngày xưa khi đường phố rơi tõm vào tu viện. Duy ngày nay ông mang Mariuytx chứ không phải Côdét. Tiếng huyên náo dữ dội trong cuộc tấn công quán rượu trên kia bây giờ vọng vào tai ông chỉ như một tiếng rì rào không rõ.
QUYỂN II- RUỘT GAN CON QUÁI KHỔNG LỒ Chương I & II Bấm để xem Mỗi năm thành phố Pari vứt xuống sông hai mươi lăm triệu. Đó là nghĩa đen chứ không phải là bóng gió ví von gì. Vứt như thế nào? Vứt ngày vứt đêm. Với mục đích gì? Chẳng có mục đích gì cả. Nghĩ thế nào mà vứt như thế? Chẳng nghĩ gì cả. Để làm gì? Chẳng làm gì cả. Vứt qua bộ phận nào? Qua ruột nó. Ruột nào là gì? Là hệ thống cống ngầm của nó. Hai mươi lăm triệu, đó là con số ước lượng thấp nhất của ngành khoa học chuyên trách. Sau khi đã mò mẫm rất lâu, khoa học ngày nay biết rằng thứ phân bón tốt nhất, có hiệu quả nhất là phân người. Người Trung Hoa biết điều đó trước chúng ta, chúng ta đành chịu xấu hổ mà thừa nhận việc ấy. Ếchcơbe nói rằng không có một người nông dân Trung Hoa nào đi tỉnh mà lúc về không gánh về ở hai đầu đòn gánh tre, một đôi thùng đầy cái thứ mà chúng ta cho là đồ dơ uế. Nhờ phân người, đất cát ở Trunh Hoa vẫn màu mỡ như ở thời nguyên thủy và gieo lúa mì thì cứ một giống ra một trăm hai mươi thóc. Không có thứ cứt chim nào sánh nổi với phân rác của một thủ đô. Một thành phố lớn là một mỏ phân sản lượng cao nhất. Dùng đô thị để bón phân cho nông thôn, chúng ta sẽ thu kết quả chắc chắn. Nếu vàng đáng coi như cứt thì ngược lại, cứt là vàng. Người ta đã sử dụng thứ vàng ấy như thế nào? Người ta quét nó xuống hố. Người ta tốn vô số tiền bạc từng đoàn tàu đi nam cực nhặt cứt chim hải âu, chim cánh cụt, thế mà cái nguồn kho vô tận ở bên mình, người ta lại đổ xuống biển. Loài người bỏ phí không biết bao nhiêu là phân người, phân thú; nếu không đem khối lượng phân ấy ném xuống nước, nếu mang nó trở về cho đất, thì nó đủ nuôi sống loài người. Những đống rác rưởi bên vệ đường, những xe bùn sền sệt đêm đêm lạch cạch lăn qua đường phố, những thùng chứa ghê tởm của sở vệ sinh, những dòng nước lầy hôi thối chảy khuất dưới mặt đường, các bạn có biết là gì không? Đó là đồng cỏ lên hoa, là cỏ non xanh mởn, là cỏ ống, cỏ voi, cỏ mật, đó là thú rừng, là thú nhà, đó là tiếng rống thoải mái của mấy con bò mộng về chiều, đó là cỏ khô thơm phức, đó là hạt lúa vàng tươi, đó là sức khỏe, là vui tươi, là sức sống. Luật sáng tạo huyền bí đã muốn rằng ở dưới đất thì có sự biến thể mà ở trên trời thì có sự biến hình. Hãy mang những thứ ấy trả lại cho lò tạo hóa, nó sẽ đem sung túc lại cho các anh ngay. Đất có cái ăn thì trở lại nuôi người. Các anh cứ việc vứt bỏ thứ quí ấy và hơn nữa, cư việc cười tôi là lố bịch. Nếu thế thì đó là kiệt tác của sự ngu dốt của các anh. Khoa học thống kê đã tính ra rằng riêng một mình nước Pháp mỗi năm đã do miệng sông ngòi mà tiến cống cho Đại Tây Dương nửa tỉ. Cần nhớ là với nửa tỉ ấy, có thể đài thọ một phần tư các khoản chi trong ngân sách quốc gia. Thế mà người ta thích vứt năm trăm triệu đó xuống nước hơn thì thực là khôn khéo! Cái mà cống rãnh nôn thảm hại từng giọt ra sông, mửa thành dòng cuồn cuộn ra biển, chính là chất máu thịt của nhân dân. Mỗi rảnh cống ựa một cái là mỗi lần chúng ta mất đi một nghìn quan. Kết quả là đất thì ngày càng nghèo đi mà nước thì nhiễm độc, đói khát chòi ra từ luống cây, bệnh hoạn xông lên từ sông biển. Chẳng hạn như lúc này, ai cũng biết rằng sông Tamidơ đương đầu độc thành phố Luân –đôn. Còn Pari thì những năm gần đây, chúng ta đã phải dời phần lớn các miệng cống xuống hạ lưu, phía trước cái cầu cuối cùng của thành phố. Một hệ thống ống máng kép có nắp van, có ngăn chắn nước, vừa hút vừa lùa, một bộ máy trổ nước sơ đẳng đơn giản như buồng phổi con người, bên Anh ở nhiều xã người ta đã làm như thế. Một hệ thống dẫn nước kiểu ấy rất thích hợp để đem nước làng ở đồng quê về thành phố, và gửi nước màu mỡ thành phố về đồng quê. Cách trao đổi giản đơn nhất thế giới như thế sẽ có khả năng giữ lại cho ta năm trăm triệu mỗi năm, không cho tuôn bừa ra biển. Thế mà người ta mưu nghĩ chuyện khác. Phương pháp hiện hành muốn làm lợi cho người ta lại hóa ra làm hại. Dụng ý thì tốt nhưng kết quả đáng buồn. Tưởng tẩy uế được cho thành phố lại hóa ra làm cho dân thành phố héo hon. Cống ngầm là một sự lầm lẫn. Bộ máy dẫn thủy hai công dụng, có lấy đi có trả lại, như đã tả ở trên, phải thay thế bộ máy cống ngầm chỉ biết đội quét của cải mà thôi. Công trình ấy đi đôi với những điều kiện mới của một nền kinh tế xã hội đổi mới, sẽ làm cho đất ruộng sản xuất mười lần bội hơn và nạn nghèo đói được giảm nhẹ lạ thường. Nếu lại giải quyết luôn được nạn ngồi không ăn bám thì nó sẽ được thanh toán hoàn toàn. Trong khi chờ đợi, tài sản công cộng cứ thế chảy ra sông, thật là lãng phí. Phải nói lãng phí mới đúng nghĩa. Châu Âu suy yếu vì hao mòn như thế. Về nước Pháp thì chúng ta đã tính nó mất mát bao nhiêu rồi. Pari chứa một phần hai mươi lăm triệu trong tổng số năm trăm triệu nước Pháp lãng phí hàng năm là ước lượng còn dưới sự thực. Đem hai mươi lăm triệu ấy tiêu dùng vào việc cứu tế xã hội và giải trí thì Pari còn hoa lệ gấp đôi. Thế mà Pari lại mang hai mươi lăm triệu ấy mà tiêu trong lỗ cống! Bởi vậy, người ta có thể nói rằng cái xa xỉ nhất của Pari, cái hội hè hoang phí, cái cuồng loạn say sưa, cái vung phí tiền ròng bạc chảy nhất của Pari là cống rãnh ấy. Quản lý kinh tế nhà nước mà đui mù, thì làm cho phúc lợi của mọi người trôi theo dòng nước và chìm xuống vực sâu như thế đấy! Phải có những lưới vớt đối với tài sản công cộng. Về phương diện kinh tế, có thể tóm tắt sự kiện này trong một danh từ: Pari, giỏ thủng đáy. Pari là một thành phố điển hình, là khuôn mẫu cho các dân tộc khác rập để xây dựng thủ đô, là tổ quốc của lý tưởng, của văn minh, của mọi khởi phát và thể nghiệm là trung tâm của tri thức, là thành quốc, là tổ ong của ngày xưa. Thế nhưng về phương diện chúng ta vừa trình bày, thì Pari sẽ làm cho một bác nông dân Phúc Kiến nhún vai khinh bỉ. Nếu anh bắt chước Pari thì anh cũng đến phá sản. Vả lại trong việc phung phí điên dại tự bao giờ đến bây giờ như thế này, Pari cũng chỉ bắt chước thôi. Những cái ngốc lạ ngốc lùng ấy không phải là chuyện mới đâu; cái ngu này không phải là cái ngu trẻ tuổi. Người đời xưa cũng làm như người đời nay. Liebi nói: "Cống rãnh thủ đô La mã đã thủ tiêu cảnh sống no đủ của nông dân La Mã." Khi nông thôn La Mã bị cống ngầm thành La Mã làm cho phá sản thì nước Ý cũng bị lụn bại theo; khi nước Ý đã chui vào cống thì đảo Xixin, rồi đảo Xácđenhơ, và cả Châu Phi cũng chui theo vào ống. Cống ngầm La Mã đã làm cho nhân loại chìm xuống vực. Nó nhận chìm thành phố, nhận chìm cả thế giới[1] . Urbi et orti[2] . Thành phố trường tồn, cống ngầm vô để. Về việc này ũng như nhiều việc khác, La Mã vẫn làm gương. Pari noi theo gương ấy với tất cả sự ngớ ngẩn của những đô thành văn vật. Để tháo chất bẩn ra sông, như chúng tôi đã giải thích, dưới thành phố Pari, có một thành phố Pari khác, thành phố cống rãnh. Thành phố cống rãnh cũng có phố phường, có ngã tư, có quảng trường, có ngõ hẻm, có đường sá, có giao lưu, giao lưu của thứ bùn nhơ, duy chỉ thiếu có người. Không nên tâng bốc cái gì cả, dù là tâng bốc một dân tộc lớn. Ở chỗ nào cũng được có đủ cả các thứ, thì cũng có đê hèn bên cạnh cao siêu. Trong Pari có Aten, thành phố ánh sáng, Tia, thành phố hùng cường, Spáctơ, thành phố khí tiết, Ninivơ, thành phố màu nhiệm, thì trong Pari cũng có Luytétxơ[3] thành phố bùn lầy. Vả chăng, dấu ấn hùng cường của Pari cũng là ở đấy, và cái tầng đáy không của Pari thể hiện trong phạm vi kiến trúc cái mẫu mực kỳ dị trong lĩnh vực nhân sinh, thể hiện ở một đôi người như Makiaven, Bêcơn và Mirabô: Cái hùng vĩ hạ tiện. Nếu mắt ta trông xuyên mặt đất thì chúng ta sẽ nhìn thấy cái thành phố cống rãnh kia giống như một khối san hô vĩ đại. Thật vậy, khối san hô cũng không có nhiều ngóc ngách, hành lang hơn cái u đất chu vi sáu dặm làm nền tảng cho thành phố ngày xưa. Chưa nói đến các mộ địa làm thành một hệ thống nhà hầm riêng, chưa nói đến những ống dẫn khí thắp chằng chịt, chưa nói đến hệ thống ống dẫn nước bao la đưa nước đến các giếng máy, chỉ riêng hệ thống cống rãnh cũng đã làm nên hai mặt lưới khổng lồ ở dưới đất hai bên bờ sông. Đường cống ở đây chi chít tối tăm như ở trong mê hồn trận, muốn ra chỉ có thể xuôi theo chiều dốc của nó mà ra. Ở đấy, qua sa mù ẩm ướt, xuất hiện con chuột cống, nó như là con đẻ của thành phố Paris II CỔ SỬ VỀ CỐNG RÃNH Hãy tưởng tượng Pari được lật lên như một cái nắp thì hệ thống cống ngầm, từ trên nhìn xuống, sẽ hiện ra ở hai bên bờ sông như một cành cây lớn ghép vào con sông. Ở hữu ngạn, đường cống cái là thân cành, những cống con là những chi nhánh và các ngõ là những que, chạc. Hình ảnh đó chỉ là đại khái và mới chỉ mới đứng nửa chừng bởi vì góc vuông là góc thông dụng nhất trong loại chi nhánh dưới đất đó lại hiếm có trong thực vật. Muốn hình dung cái bình diện hình học lạ lùng đó một cách gần gũi hơn thì nên giả thiết mình được nhìn trên một nền đen tối một loại cổ tự đông phương kỳ quặc, rối rắm, mà các chữ cái gắn vào nhau lôn xộn và như tình cờ, khi thì ở hai đầu. Hầm rác và cống ngầm có vai trò quan trọng ở thời trung cổ, ở Hậu kỳ Đế quốc và ở cái Đông phương cổ xưa ấy. Ôn dịch sinh ra từ đó, bạo chúa chết ở đó. Công chúng kinh sợ những khu vực thối tha, những ổ chết khổng lồ đó. Hố dòi bọ ở Bênarexơ làm cho người ta choáng váng không kém hầm sư tử ở Babylon. Sách thần học Do Thái nói vua Têgla Phalada viện cái hầm rác Ninivơ để nguyền rủa. Giăng đơ Leđơ cho cái mặt trăng giả của mình hiện lên từ cống Munxtơ và kẻ đồng đạo của ông ở phương Đông là Môkana – nhà tiên tri xứ Korátxan – thì lấy cái mặt trời giả của mình từ giếng phân Kếchsép. Lịch sử loài người phản chiếu trong lịch sử hố rác. Những thềm phơi xác tội nhân tử hình kể lịch sử La Mã. Cống Pari đã từng là một thực tế ghê gớm. Nó từng là hầm chôn, cũng đã là hố nấp. Tội ác, trí thông minh, sự phản kháng xã hội, tự do kính ngưỡng, tư tưởng trộm cắp, nghĩa là tất những gì mà luật pháp loài người săn bắt hay đã săn bắt, đều trốn vào hố đó; bọn giặc vồ thế kỷ mười bốn, bọn ăn cắp đêm thế kỷ mười lăm, tín đồ đại Cải cách thế kỷ mười sáu, bọn đồng bóng thế kỷ mười bảy, bọn đốt lò thế kỷ mười tám đều cố nấp ở đó. Một trăm năm trước, lưỡi dao găm ban đêm từ đó vung lên, thằng ăn cắp lâm nguy lánh mình xuống đó; rừng có hang, Pari có cống. Phường ăn mày nòi coi cống là một phân khu của Khu Phép mầu[4] và buổi tối, hung hãn và ngạo nghễ, họ rút xuống lối thoát Môbuyê như về một buồng ngủ. Những ai ban ngày hoạt động ở ngõ cụt Móc-hầu-bao hay ở phố Cắt-cổ thì tự nhiên dùng cái cầu một nhịp ở Đường xanh hay khu đứng gió Huyarơpoa làm chỗ trọ ban đêm. Do đó vô khối kỷ niệm còn lưu truyền. Đủ mọi thứ bóng ma hiện lên ở những hành lang dài vắng vẻ ấy. Thối mục và uế khí khắp cả. Đây đó một lỗ thông hơi mà Viôlông ở bên trong nói chuyện với Rabơle ở bên ngoài[5] . Thời xưa, cống ngầm của Pari là nơi hò hẹn của tất cả những khô kiệt và những thí nghiệm. Ở đó khoa kinh tế học nhìn thấy cặn bã. Cống ngầm là lương tâm của thành phố. Tất cả đều hội tụ ở đấy, đối diện ở đấy. Trong cảnh xám xịt ấy, có bóng tối, nhưng không còn bí mật. Mỗi sự vật mang hình thể thực của nó, hay ít nhất là hình thể hoàn bị. Đống rác rưởi có cái ưu điểm là không nói dối, nhưng người ta thấy bìa, thấy chỉ buộc, thấy bên trong lẫn bên ngoài và nó được tô bồi một lớp bùn trung thực. Cái mũi giả của Xcapanh ở cạnh nó. Tất cả những dơ bẩn của văn minh khi đã hết tác dụng, đều rơi vào cái hố ngay thật đó: Cái mới kết thúc cuộc trượt dốc xã hội rộng lớn; những chất dơ bẩn ấy tụt xuống hố, nhưng phơi trải ra trong đó. Cảnh hỗn độn, ấy là một cuộc xưng tội. Ở đây không có cái dáng bên ngoài giả dối, không có vỏ bọc thanh cao: Rác rưởi cởi áo trong; hiện ra hoàn toàn trần trụi; ảo tưởng, ảo hình tan biến; chỉ còn trơ cái thực tại với bộ mặt thảm hại của cảnh kết cục. Cuộc đời thực và sự hủy diệt phơi trần. Ở đây, một đít chai thú nhận tính nát rượu, một quai giỏ kể lại cảnh đi ở; ở đây cái lõi táo đã từng có những đề xướng kia nọ về văn học trở lại là cái lõi táo: Ở đây cái mặt vua trên đồng xu đôi gỉ xanh có một cách thực thà, bãi đờm của Cayphơ gặp gỡ chỗ nôn mửa của Phanxtắp, đồng tiền vàng ở sòng bạc ra chạm cái đanh mắc đoạn dây treo cổ, cái bào thai tím ngắt được bọc trong chiếc áo lấp lánh đã nhảy múa ở nhạc kịch viện đêm thứ ba béo vừa qua, cái áo quan tòa đã xử án khối người, lăn lóc bên cạnh một vật thối tha là cái váy của một gái điếm; cảnh này đã vượt tính hữu ái mà đi vào chung chạ thần tình. Cái gì dồi phấn tô son giờ đây nhem nhuốc loang lổ. Cái khăn mỏng cuối cùng đã vứt bỏ. Một cống ngầm là một gã trâng tráo. Cái gì nó cũng nói ra hết. Sự thành thật của rác rưởi dễ ưa và làm cho tâm hồn ta yên tĩnh. Khi suốt ngày trên mặt đất đã phải chịu đựng cái vẻ trịnh trọng kiêu kỳ của những lý do quốc gia, những cam kết, những viễn kiến chính trị, những công bằng xã hội, những trung thực cho nghiệp vụ, những khắc khổ của địa vị, những mặt quan tòa tuyệt đối liêm chính, thì chúng ta thấy nhẹ người khi được đi vào cống ngầm và thấy thứ bùn nhơ thích đáng của những cái ấy. Chúng tôi cũng học ở đấy được nhiều. Chúng tôi vừa nói lịch sử đi qua cống ngầm. Những đêm Xanh Bactêlêmy rỉ ra từng giọt qua kẽ đá. Những vụ ám sát công cộng nổi tiếng, những cuộc tàn sát chính trị và tôn giáo đi qua cái hầm ngầm của văn minh đó và đẩy xác chết vào đó. Trước con mắt của người nghĩ ngợi, tất cả những tay sát nhân lịch sử đều có mặt ở đây, trong ánh nhờ nhờ gớm ghiết, chân quỳ, mình mang chiếc tạp dề cắt trong vải liệm, tay đang lau chùi máu nạn nhân của chúng đổ xuống. Luy XI ở đấy với Tơrixtăng, Phrăngxoa I với Đuypra, Sắclơ IX với mẹ mình, Risơliơ với Luy XIII, có Lơtenliê, có Hêbe và Maia. Bọn họ đang cạo đá mong xóa nhòa dấu vết những hành động của họ. Dưới các vòm cuốn ấy, người ta nghe thấy tiếng chổi của những bóng ma kia. Người ta hít thở xú khí nặng nề của các tai họa xã hội. Người ta nhìn thấy trong các xó tối những gợn hồng lấp lánh. Những bàn tay đẫm máu đã rửa trong ngòi nước ghê gớm chảy ở đây. Người quan sát xã hội phải vào những vùng tối này. Các vùng đó là bộ phận của Viện khảo sát cứu của họ. Triết học là kính hiển vi của tư duy. Tất cả đều muốn trốn tránh nó, nhưng không gì thoát được. Quanh co là vô ích. Quanh co thì phơi bày khía cạnh nào của con người? Khía cạnh xấu hổ. Con mắt chính trực của triết học theo dõi cái ác và không cho nó lẩn vào hư vô. Nó nhận ra tất, trong cảnh xóa nhòa của những sự vật tan biến. Nó khôi phục hồng bào trên áo rách và người đàn bà trên mụn vải. Nó dựa trên hố xí mà tái tạo thành phố, trên bùn lầy mà tái tạo phong tục. Nhìn mảnh vỡ, nó kết luận là họ cổ hay cái vò. Từ một dấu móng tay trên giấy da bào, nó nhận ra sự khác biệt giữa Do Thái Giuyđăngatxơ và phái Do Thái Ghéttô. Trong những gì tồn lưu, nó tìm ra cái gì đã tồn tại, cái thiện, cái ác, cái giả, cái chân, dấu máu trong lâu đài, vết mực nơi hang hốc, giọt mỡ bò ở thanh lâu, những thử thách trải qua, những cám dỗ đã đến, những bãi nôn mửa qua say sưa chè chén, nếp nhăn của tính cách khi tụt xuống, dấu vết của bán mình ở những người vì thô bỉ mà sa đọa, và trên tấm áo của những phu khuân vác La Mã, dấu tích khuỷu tay rủ rê của hoàng hậu Métxalin. [1] đế quốc La mã được coi là thế giới văn minh thời cổ, gồm có thành phố La Mã (Rome) là thủ đô nước Ý rồi ác xứ thuộc địa như đảo Xixin, đảo Xácđenhơ, vùng Bắc Phi.. [2] Khẩu hiệu hạnh phúc của giáo hoàng, nghĩa: Cho thành phố và vũ trụ [3] tên làng chài lưới, ở trên hòn đảo bùn lầy thời cổ đại, sau này trở nên trung tâm thành phố Pari [4] Cour des Micracles là một khu phố thời Trung cổ tụ tập những hành khất nhà nghề. V. Huygo đã diễn tả nơi này trong bộ tiểu thuyết "Nhà thờ Đức bà" [5] Viôlông nhà thơ trữ tình lớn của nước Pháp thế kỷ XV, đã từng đi lang thang và phạm tội trộm cướp xuýt bị treo cổ. Rabơle nhà văn lớn của nước Pháp thế kỷ XVI, tư tưởng khoáng đạt. Tác giả giả thiết thế thôi vì Viôlông chết trước khi Rabơle ra đời