Những Người Khốn Khổ - Victor Hugo

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Nguyên Vĩ Thu Thu, 31 Tháng bảy 2021.

  1. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN VI -CHÚ BÉ GAVRỐT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ năm 1823 trở đi, cửa hàng cơm Tênacđiê ở Môngphecmây suy dần, chìm ngập dần. Không phải chìm ngập trong vự thẳm một cuộc phá sản, mà chìm dần mòn trong cái vũng đọng của những món nợ vặt ỷ eo. Trong lúc ấy, vợ chồng Tênacđiê sinh thêm hai đứa con, đều là trai. Tổng số bây giờ là năm, hai gái, ba trai. Như thế cũng khá gọi là đông.

    Hai đứa trẻ sinh sau, mụ Tênacđiê đã rẩy đi với một sự may mắn hiếm có, từ lúc chúng còn rất bé.

    Đũng là rẩy đi. Vì người đàn bà ấy chỉ có một phần thiên tính: Mụ chỉ làm mẹ đối với con gái thôi. Có hơn một ví dụ về hiện tượng đó. Cũng như bà thống chế Đơ La Môtơ Huđăngcua, mụ chỉ làm mẹ đối với mấy đứa con gái thôi. Mẫu tính của mụ giới hạn ở chỗ đó. Và lòng thù ghét nhân loại ở mụ cũng bắt đầu từ hai đứa con trai. Đối với chúng, sự nanh ác của mụ dóc như một vực thẳm và quả tim mụ bị chặn lại bởi một ghềnh đá ở chỗ này. Bạn đóc đã thấy mụ ghét thằng lớn thế nào, với hai đứa nhỏ, lại càng hơn thế, mụ thù ghê thù tởm chúng. Vì sao? Vì.. cái lý do ghê gớm đệ nhất và cũng khó cãi đệ nhất. Vì tôi không cần cả một xâu con như vậy.

    Chúng ta hãy xem mụ Tênacđiê làm thế nào để khử bỏ ba đứa con, hơn nữa khử bỏ mà còn được lợi.

    Trước đây, tác giả cũng đã nói đến một mụ Manhông tức là con mụ đã bắt lão Gilơnormăng chu cấp cho hai đứa con. Mụ ấy ở bờ sông Xalétxtanh, chỗ gặp nhau với đường phố Pơti Muytxcơ, cái đường phố đã dùng cái tên thơm để che tiếng xấu (xạ hương). Ngày nay người ta cẫn còn nhớ cái trận dịch hầu phong lớn đã tàn sát trẻ con trên cái khu phố bờ sông Xen cách đây ba mươi lăm năm. Khoa học đã lợi dụng trận dịch ấy để thể nghiệm đại quy mô hiểu quả của việc thổi phèn chua vào cơ thể, một phương pháp chữa bệnh đã được thay thế bằng cồn iốt bôi ngoài. Qua vụ dịch, mụ Manhông bỏ mất luôn cả hai đứa con, một đứa buổi sớm, một đứa buổi chiều, đương rất bé. Thật là một tai họa. Hai đứa bé ấy quí lắm: Mỗi tháng chúng kiếm ra tám mươi phơrăng. Số tiền ấy, tháng tháng mụ lĩnh đều đặn ở nhà ông Bácgiơ là mõ tòa hưu trí, quản lý lợi tức cho lão Gilơnormăng ở phố Vua Xixin. Hai đứa bé chết thì món cấp phí của mụ Manhông cũng đi đời nhà ma. Mụ Manhông nghĩ kế: Mụ vốn có chân trong đảng kín của những đứa bất lương. Trong đảng ấy người ta biết rất rõ cả mọi việc của nhau nhưng người ta giữ bí mật cho nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Mụ Manhông cần hai đứa trẻ, thì chính mụ Tênacđiê lại có hai đứa. Cùng là trai, cùng một lứa tuổi. Quả là được việc cho mụ này và có lợi cho mụ Manhông. Mụ Manhông rời khỏi phố bờ sông để vào ở phố Cơlốtsơpéc. Ở Paris rời phố này đi chỗ khác, thì lý lịch cũ cũng tự dưng mất.

    Sổ hộ tịch không được báo cáo gì về hai đứa bé chết cho nên không đòi hỏi gì cả, và việc đánh tráo thế là xuôi. Duy tên Tênacđiê đòi mỗi tháng mười phơrăng về khoản cho mượn con ấy. Mụ Manhông đồng ý và trả đúng hẹn. Tất nhiên về phần lão Gilơnormăng lão vẫn trả tiền đều đặn. Cứ sáu tháng, lão đến thăm hai đứa một lần. Lão không thấy sự đổi chác. Mụ Manhông nói với lão: Ông ơi, ông xem, chúng nó giồng ông như đúc.

    Tên Tênacđiê vốn thạo việc đổi trắng thay đen cho nên cũng lợi dụng cơ hội ấy để đổi tên ra Giôngđơrét. Hai đứa con gái của hắn và Gavrốt cũng chỉ vừa nhận thấy qua là mình có hai đứa em trai. Nghèo khổ đến một mức nào đó thì người ta hóa ra vô tình; khi ấy người ta nhìn đồng loại cũng như nhìn con sâu cái kiến. Cả đến những người thân nhất cũng chỉ là những cái bóng nhạt trên nền nhờ nhờ của cuộc sống, dễ dàng lẩn biến vào thế giới vô hình.

    Tối hôm mụ Tênacđiê giao món hàng con cho mụ Manhông, với quyết tâm từ bỏ dứt khoát, mụ có một điều băn khoăn không biết vờ hay thật. Mụ bảo Tênacđiê: Làm thế chả hóa ra chúng mình bỏ con! Thằng chồng lấy giọng thông thái và thản nhiên đáp: Ngày xưa Rútxô còn làm hơn thế! Câu nói ấy thanh toán ngay niềm băn khoăn của mụ vợ. Nhưng từ băn khoăn, mụ chuyển sang lo ngại. Mụ nói: Ngộ cảnh sát họ làm rắc rối thì thế nào? Ông ơi, cái viêc chúng ta làm đó, chúng ta có được phép làm không?

    - Được phép tuốt, cái gì lại không được phép. Ai người ta biết trời đất gì tỏng ấy. Vả với cái đồ trẻ con xơ rơ xác rác ấy, ai ích gì mà dí mũi vào?

    Mụ Manhông thuộc loại "tội phạm thanh nhã". Mụ phục sức lịch sử. Đồ đạc trong nhà mụ tồi tàn mà cầu kỳ. Mụ cho một ả người Anh quốc tịch Pháp ở chung nhà. Ả người Anh thành người Paris đó có những bạn bè giàu có và dính dáng mật thiết với vụ mề đay của thư viện và kim cương của cô Mácxơ. Sau này, ả nổi tiếng trong các hồ sơ tư pháp. Người ta gọi ả là Mitxơ (Nguyên văn Mamselle Miss. Mamselle tiếng bình dân có ý khinh bỉ, do tiếng mademoiselle: Cô hoặc tiểu thư, gái chưa chồng; Miss tiếng Anh cũng có nghĩa là cô gái chưa chồng. Danh từ Mamselle Miss cấu tạo như danh từ bà đầm, phiên âm tiếng pháp từ dame của ta, gồm một từ quốc ngữ ghép với một từ ngoại ngữ đồng nghĩa). Hai đứa bé về ở với mụ Manhông cũng không đến nỗi nào. Số tiền tám mươi phơrăng hàng tháng khiến mụ cũng có phần nương nhẹ chúng, như người ta nương tất cả những vật dùng để sinh lợi. Mặc cũng lành, ăn cũng ngon, được săn sóc gần như những "cậu ấm", hai đứa bé ở với bà mẹ giả này hóa ra sướng hơn ở với mẹ ruột. Mụ Manhông lại cố đóng vai bà thượng lưu không nói tục nói lóng trước mặt chúng.

    Vài ba năm trôi qua như vậy. Tênacđiê đoán rồi sẽ còn khá hơn. Một lần Manhông đem đưa số tiền tháng mười phơrăng cho hắn, hắn đã nói:

    - Rồi đây "ông bố" chúng cũng phải nghĩ đến việc giáo dục chúng mới được. Rủi mà may, hai đứa bé tội nghiệp ấy thế mà được ấm thân. Bỗng đâu một buổi kia chúng lại bị vứt ra giữa cảnh đời để tự mình bắt đầu cuộc sống.

    Một vụ bắt bớ hàng loạt nhứng đứa bất lương như vụ bắt ổ bợm Giôngđơrét, có kèm theo nhiều vụ soát nhà và giam cứu, là một tai họa cho xã hội huyền bí kinh tởm ấy, nó sống ẩn ở dưới cái xã hội công khai. Một biến cố như thế gây ra đủ mọi thứ đổ vỡ. Tai họa của Giôngđơrét gây ra tai họa cho mụ Manhông.

    Không mấy bữa sau khi mụ Manhông đưa cho Êpônin mảnh giấy về phố Pơluyme, thì một hôm, cảnh sát ập đến con đường Cơlốtsơpéc. Mụ Manhông sa lưới, cùng với "cô Mítxơ" và tất cả dân cư ở cái nhà ấy, vì hành tung của họ khả nghi. Trong khi ấy, hai đứa bé đang chơi ở sân sau không hay biết gì hết. Khi chúng về thì chúng thấy cửa đóng nhà không. Người thợ giầy bên kia đường gọi chúng lại, đưa cho một mẩu giấy "mẹ" chúng gửi. Trên giấy có địa chỉ: Ông Bácgiơ, quản lý lợi tức phố Vua Xixin số 8.

    Người thợ giầy bảo:

    - Các cháu đừng ở đây nữa. Tìm đến chỗ đó. Gần lắm. Phố đầu tiên mà các cháu bắt gặp về phía tay trái. Đưa miếng giấy này ra mà hỏi thăm đường thì người ta sẽ bảo cho.

    Chúng ra đi, thằng lớn một tay dắt em, một tay cầm mẩu giấy. Nó rét quá, ngón tay cóng lạnh kẹp mẩu giấy không được chặt. Đến đầu phố Cơlốtsơpéc, một luồng gió mạnh cuốn tờ giấy đi, mà đêm đã xuống, nó tìm mãi không thấy.

    Đứa bé đành đi lang thang thất thểu hết phố này sang phố khác.
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  2. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN VII Chương I

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Igritia (Cần có một bản dịch trọn vẹn nên không thể bỏ qua các chương về tiếng lóng - Tuy nhiên cũng không thể tìm đủ tiếng lóng, tiếng nghề nghiệp trong ngôn ngữ Việt Nam, cho nên chúng tôi để nguyên các từ tiếng lóng đó và nghĩ nên để chính tả của nguyên bản thì có ích cho người tìm hiểu ngôn ngữ và văn học hơn là phiên âm) là một từ ghê gớm. Nó sinh ra cả một thế giới La Pègre, hãy hiểu: Việc trộm cắp và cả một địa ngục La Pègrenne, hãy hiểu: Sự đói khát.

    Như vậy lười biếng là mẹ đẻ.

    Nó có một con trai là trộm cắp và một con gái là đói khát.

    Hiện chúng ta đang ở địa hạt nào? Tiếng lóng.

    Tiếng lóng là gì? Nó là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là một đánh cắp dưới hai hình thức, nhân dân và ngôn ngữ.

    Cách đây ba mươi tư năm, khi thuật giả câu chuyện nghiêm trang và thảm đạm bày đưa vào một quyển sách, viết cũng một mục đích với quyển sách này (Quyển "Ngày cuối cùng của một người tử tù" Lederrnier jour d'un condamné), một tên ăn cắp nói tiếng lóng, thì người ta sửng sốt và la ó.

    - Thế nào? Sao? Tiếng lóng à! Nhưng tiếng lóng thì thật là ghê tởm! Đó là ngôn ngữ của những tên khổ sai, những nhà ngục, của tất cả những gì khả ố nhất trong xã hội..

    Chúng tôi chưa bao giờ hiểu được cái lối bôi bác đó.

    Từ khi ấy, hai nhà tiểu thuyết lớn, một là người quan sát sâu sắt lòng người, còn một là bạn dũng cảm của nhân dân, Bandắc và Ơgien Xuy, để cho bọn kẻ cướp nói cái ngôn ngữ tự nhiên của họ, cũng như năm 1828 tác giả cuốn "Ngày cuối cùng của một người tử tù" đã làm và đã bị công kích. Người ta đã nhắc lại: "Các nhà văn muốn gì với cái khổ âm ngỗ ngược ấy? Tiếng lóng khả ố! Tiếng lóng làm cho người ta ớn run!"

    Ai chối cãi cái đó? Chắc là không ai.

    Nhưng trong việc thăm dò một vết thương, một vực thẳm hay một xã hội, thì đi sâu vào đi, đi đến tận đây, phải đâu là tội lỗi? Chúng tôi bao giờ cũng nghĩ rằng đó là một hành vi đôi khi dũng cảm, hay ít nhất là một hành động đơn giản, tự nhiên và có ích, xứng đáng được quan tâm, thông cảm đối với một nhiệm vụ tự nguyện đã hoàn thành. Tại sao không khám phá cho hất, không nghiên cứu cho hết, tại sao dừng lại ở nửa đường? Cái sào thăm dò có thể dừng lại, người thăm dò thì không.

    Tìm tòi tận đáy xã hội, nơi đất hết và bùn bắt đầu, đào mò trong những đợt sóng to gió lớn ấy để truy bắt, nắm lấy và ném lên đường, tung ra ánh sáng cái thổ âm hèn hạ, nhầy nhụa bùn nhơ, cái ngữ vựng nung mủ, mà mỗi từ là một đốt ô uế của một con quái vậttrong bùn đen và bóng tối, thì rõ ràng không phải là một công việc quyến rũ, cũng như không phải là một công việc dễ dàng. Không còn cái gì thảm đạm hơn là ngắm nghía, sau khi đã lột trần ra như thế, dưới ánh sáng của tư duy, cái đám nhung nhúc gớm ghê của tiếng lóng. Quả vậy hình như đó là một con vật kinh khủng tạo ra để cho bóng đêm, một con vật mà ta vừa rứt ra khỏi vũng thối. Người ta tưởng như nhìn thấy một cái búi kinh tởm, sinh động và lởm chởm, nó run rẩy, nó cử động, nó giãy giụa, nó đòi lại bóng tối, nó đe dọa và nó giương mắt nhìn. Từ này giống như một vuốt nhọn, từ kia như một con mắt đã tắt và ngấn máu; câu nọ như đang ngọ nguậy tựa một càng cua. Tất cả những thứ đó sống, cái sinh lực ghê tởm của những con vật đã được tổ chức trong tan rã của tổ chức. Bây giờ ta thử hỏi có lúc nào ta bọ cấm chỉ nghiên cứu cái ghê tởm?

    Từ bao giờ bệnh tật xua đuổi thầy thuốc? Ngừoi ta có thể hình dung được một nhà vạn vật học mà lại đi từ chối không nghiên cứu con rắn độc, con dơim con bọ cạp, con rết, con nhện độc, vứt lại chúng vào bóng tối của chúng và nói: Ô! Xấu xí quá! Nhà tư tưởng mà quay mặt đi trước một ung nhọt, một mụn cóc. Đó sẽ là một nhà ngôn ngữ học do dự, khảo sát một thực tại của ngôn ngữ, một nhà triết học do dự dò xét một sự kiện của nhân loại: Bởi vì tiếng lóng vừa là một hiện tượng của văn học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn ngữ của khốn cùng.

    Tới đây, người ta bắt ta dừng lại. Người ta có thể khái quát hóa một sự kiện, đôi khi đó là cách giảm nhẹ nó đi; người ta có thể bảo chúng ta rằng, mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Người bán hàng khi nói: Montpelier sẵn sàng; Masesille phẩm chất tốt; nhân viên hối đoái khi nói: Đem qua, hoa hồng, cuối tới; người đánh bạc khi nói: Tiers et tout, refait de pique; người thừa phát lại các đảo xứ Normăngđi nói: L'afftiffeur s'arr ant a son fonds ne peut cjamer les fruits de ce fonds pendant la saisie héréditale dé immeubles du renonciateur; nhà soạn hài kịch nói: Người ta đã làm vui con gấu (vở kịch đã bị huýt còi), người diễn viên khi nói: Tôi làm phòng tối (Tôi đã diễn hỏng, mất khách) ; nhà triết học khi nói: Tam đồng hiện tượng; người ta săn bắn khi nói: Voileci allais, voleci fuyant; nhà não tướng học khi nói: Ái lực tình, chiến đấu tính, tiết niệu tính; người lính bộ nói: Cái kèn của tôi; người kỵ sĩ nói: Con gà Ấn của tôi; khi thầy dạy iếm nói: Tierce, quarte, rompez; khi người thợ in nói: Parlons bollo, thì, tất cả, thợ in, người đi săn, triết gia, diễn viên, kịch sĩ, thừa phát lại, tay cờ bạc, hối đoái viên, nhà buôn, đều đã nói lóng. Người họa sĩ khi nói: Mon rapin, người chưởng khế khi nói: Mon sau teruisseau, người làm tóc giả khi nói: Mon commic, người chữa dép khi nói: Mon gniaf (những từ này đều có nghĩa: Người học trò của tôi), đều đã nói lóng. Nói cho cùng, và nếu người ta tuyệt đối muốn như vậy, thì tất cả những cách khác nhau để trỏ bên trái, bên phải của người lính thủy: Bâbord và tribord, của người điều khiển máy: Phía sân phía vườn, của người phụ việc trong nhà thờ: Phía Thi huấn, phía Phúc âm là những cách nói lóng.

    Có tiếng lóng của những phụ nữ õng ẹo cũng như có tiếng lóng của những bà kiểu cách. Lâu đài Răngbuiê cũng gần kề với lều hành khất. Có tiếng lóng của những bà công tước, bằng chứng là câu này, ở trong một bức thư tình của một bà lớn rất đẹp thời Phục hưng: "Ông sẽ thấy trong những chuyện ngồi lê đôi mách của cả một mớ những lý do để tôi phóng túng". Những mật mã ngoại giao là tiếng lóng; ở phòng Chưởng ấn Giáo Hoàng, khi nói 26 để chỉ La Mã, grkztntgzyal để nói gửi đi và abfxustgrnogrkzutuxi để thay quận công xứ Môdenơ, đã nói lóng. Những thầy lang thời trung cổ, muốn nói cà rốt, củ cải, củ nave đã gọi là: Opoponach, perfroschinum, reptitalmus, dracatholicum angelorum, postmegorum, cũng là nói lóng. Nhà sản xuất đường khi nói: Vergeoise, têle, clairce, tape, lumps, melis, bâtarde, commun, brulé, ploque, con người lương thiện đó cũng đã nói lóng. Một trường phái phê bình, cách đây hai mươi năm khi nói: Một nửa Sếchxpia là chơi chữ và chơi đồng âm dị nghĩa, đã nói lóng. Thi sĩ và nghệ sĩ, với một ý thức sâu sắc, sẽ gọi ông Đờ Môngmôrăngxi là một "tư sản" nếu ông không phải người am hiểu về thơ và tượng, đã nói lóng. Một viện sĩ hàn lâm cổ điển gọi hoa là Flore, quả là Pômônơ, biển là Néptuyn, gọi tình yêu là lửa nhiệt, sắc đẹp là mối quyến rũ, con ngựa là "tuấn mã", cái mão chương trắng hoặc tam tài là "đóa hồng của Benlon", cái mũ có ba sừng là tam giác của Chiến thần, thì viện sĩ cổ điển ấy đã nói lóng.

    Đại số, y học, thực vật học đều có tiếng lóng của nó. Ngôn ngữ mà người ta dùng trên tàu thủy, cái ngôn ngữ đáng thán phục của biển cả, rất đầy đủ và rất tạo hình mà Giăng Ba, Đuy Ken, Xuyphren và Đuyperê đã nói, nó lẫn với tiếng neo, xích, với tiếng loa, với tiếng búa đụng nhau, tiếng tàu chòng chành, tiếng gió bão, đại bác, là cả một thứ tiếng lóng oai hùng và rầm rộ, nó đối với tiếng lóng hoang sơ của kẻ cắp, như sư tử đối với chó rừng.

    Đành vậy, nhưng dù biện hộ thế nào đi nữa, thì cái kiểu hiểu từ nói lóng như thế là một kiểu hiểu theo nghĩa mở rộng mà không phải tất cả mọi người đều sẽ thừa nhận. Về phần chúng tôi, chúng tôi giữ cho từ ấy cái nghĩa cũ, chính xác, có phạm vi và được chỉ định, và chúng tôi giới hạn tiếng lóng trong tiếng lóng. Tiếng lóng thực sự, tiếng lóng cao độ - nếu hai từ đó có thể phối hợp tiếng lóng từ muôn đời, đã là một vương quốc, chúng tôi nhắc lại, chính là cái ngôn ngữ xấu xí, lo âu, thâm hiểm, phản bội, có nọc, ác độc, ám muội, đề hèn, sâu sắc, bất hạnh của khốn cùng. Ở cùng cực của mọi sự suy sụp và của mọi bất hạnh, có một cái khốn cùng tận đáy nổi dậy và quyết định đấu tranh chống toàn bộ những thực tại tốt số và những quyền lợi hiện hành: Một cuộc đấu tranh khủng khiếp, hi gian trá, khi tàn bạo, vừa bệnh hoạn, vừa hung dữ, qua đó khốn cùng tấn công vào trật tự xã hội bằng những nhát chùy của tội ác. Để phục vụ cuộc đấu tranh này, khốn cùng đã phát sinh ra một ngôn ngữ chiến đấu, đó là tiếng lóng.

    Làm cho nổi lên rồi lại nâng đỡ lên trên trên quên lãng, lên trên vự thẳm, một mảnh nhỏ của một ngôn ngữ nào mà con người đã sử dụng – cái ngôn ngữ luôn luôn mất mát đó – nghĩa là duy trì được một yếu tố, tốt hoặc xấu của nền văn minh, là phát triển những luận cứ của quan sát xã hội, là phục vụ nền văn minh. Nhiệm vụ ấy Plôtơ đã làm, dù muốn hoặc không muốn, khi để hai người lín thành Cáctagiơ nói tiếng xứ Phênixi, Môlie đã làm khi để cho nhiều nhân vật của mình nói tiếng Đông phương và đủ các thứ thổ âm. Ở đây, tiếng phản đối lại nổi dậy; tiếng Phênixiêng à, tốt lắm chứ, tiếng Đông phương à, hay quá! Ngay tiếng thổ âm cũng được, đó từng là những ngôn ngữ của một nước, một tỉnh. Còn tiếng lóng? Ích gì mà giữ tiếng lóng? "Làm cho tiếng lóng nổi lên" thì lợi gì?

    Với cái đó, chúng tôi chỉ trả lời một câu: Đúng vậy, nếu ngôn ngữ mà một nước, một tỉnh đã nói đáng quan tâm, thì có một thứ còn đáng quan tâm hơn và đáng nghiên cứu hơn, đó là ngôn ngữ của khốn cùng.

    Đó là ngôn ngữ của khốn cùng ở Pháp bốn thế kỷ nay, không phải chỉ một khốn cùng, mà tất cả khốn cùng của loài người.

    Chúng tôi còn nhấn mạnh điểm này: Nghiên cứu những dạng xấu, những tàn tật xã hội và nêu chúng lên để sửa chữa không phải là một công việc trong đó người ta được phép kén chọn. Nhiệm vụ nhà nghiên cứu lịch sử phong tục và tư tưởng cũng nghiêm khắc không kém nhiệm vụ nhà nghiên cứu những sự kiện: Sử gia sau nhìn bề mặt của văn mình, những cuộc đấu tranh của vua chúa, sự sản sinh các hoàng tử, những hôn lễ của các nhà vua, những chiến trận, những hội nghị, những vĩ nhân công chúng thừa nhận, những cuộc cách mạng giữa thanh thiên bạch nhật, tất cả bề ngoài. Sử gia kia nhằm cái bên trong, cái ở dưới, nhằm vào nhân dân lao động, đau khổ và chờ đợi, nhằm người phụ nữ bị điêu đứng, đứa trẻ hấp hối, những chiến cuộc âm thầm giữa con người và con người, những hung dữ ngấm ngầm, những thành kiến, những bất công được thừa nhận, những phản ứng ngấm ngầm đối với luật pháp, những diễn tiến bí mật của tâm hồn, những rung động khó phân của đám đông, những người chết đói, những người đi chân đất, những người để cánh tay trần, những người bất hạnh, những trẻ mồ côi, những người khổ sở và điếm nhục, tất cả những sâu bọ lê lết trong bóng tối. Nhà sử gia đã phải rất nhân ái đồng thời phải rất nghiêm khắc, như một người anh và một thẩm phán, đi xuống tận những căn buồng khó vào nhất trong đó bò lổm ngổm và lẫn lộn những kẻ đánh người và những kẻ đổ máu, những kẻ khóc và những kẻ nguyền rủa, những kẻ nhịn đói và những người nhai ngấu nghiến, những kẻ chịu đựng cái ác và những kẻ ác. Các sử gia của những tấm lòng và của những tâm hồn há lại kém phận sự hơn các sử gia của những thực tại bên ngoài ư? Người ta có nghĩ rằng Alighieri có ít chuyện để nói hơn Makiaven không? Cái bên dưới của nền văn minh có vì sâu hơn và tối hơn mà kém quan trọng không? Người ta có hiểu được núi khi không biết hang hay không?

    Vả chăng cũng nên nói qua một lần từ mấy câu trên đây, người ta có thể suy diễn là giữa hai hạng sử gia có một ngăn cách dứt khoát. Chúng tôi không hề nghĩ có cái ranh giới kiểu đó. Không ai là một sử gia tốt về cuộc sống hiển nhiên, rõ rệt và công khai của các dân tộc, nếu không là sử gia của cuộc sống sâu xa và thầm kín của bọn họ trong chừng mực nào. Và không ai là sử gia tốt của cái bên trong, nếu người đó không biết ghi chép lịch sử của cái bên ngoài khi cần phải thế. Lịch sử những phong tục và tư tưởng, thấm vào lịch sử những biến cố và ngược lại. Đó là hai loại thực tại khác nhau và cũng có khi cái nọ làm nẩy ra cái kia. Tất cả những nét mà trời đã vạch lên bề mặt của một quốc gia đều có những nét song song âm thầm ở bên dưới, nhưng khác biệt và tất cả những biến động dưới đáy đều làm phát sinh những chấn động trên mặt. Khoa sử học chân chính chui vào khắp nơi, nhà sử học chân chính cũng xông vào khắp chốn.

    Con người không phải là một hình tròn có tâm điểm duy nhất, đó là một hình bầu dục, có hai tiêu điểm. Những sự kiện là một tiêu điểm, những ý tưởng là tiêu điểm kia.

    Tiếng lóng không khác gì một phòng treo áo trong đó ngôn ngữ đến để ngụy trang khi phải làm một việc xấu. Ở đó nó khoác những từ mặt nạ và những ẩn dụ tã rách.

    Vì vậy nó trở thành kinh tởm. Người ta khó mà nhận ra nó. Có phải đấy là tiếng Pháp, ngôn ngữ lớn của nhân loại? Kìa nó sẵn sàng lên sân khấu, để đáp ứng tội ác và thíc ứng với mọi vai của tội ác. Nó không đi ngay nữa, nó lê lết, nó què quặt trên chiếc nạng của bọn hành khất, một chiếc nạng có thể thay hình thành cái chùy: Nó lấy tên là phường ăn mày nói; tất cả những yêu mà, tức là những kẻ lo về trang phục đã tô vẽ cho nó; nó bò lê và chồm dậy theo hai dáng đi của loài rắn rết; bây giờ nó có khả năng đóng mọi vai, người chuyên làm đồ giả đã cho nó cái ám muội, người đầu độc cho nó cái sắc của gỉ đồng, kẻ đốt nhà đã quét đen bồ hóng cho nó và kẻ sát nhân đã bôi đỏ cho nó.

    Về phía những người lương thiện, họ đứng trong cánh cửa xã hội mà nghe và họ bắt chước được những câu đối thoại của những người bên ngoài. Người ta phân biệt được những câu hỏi và những lời đáp. Người ta tri giác được tuy không hiểu nó, một tiếng rì rầm, gớm ghiếc, vang lên hầu như giọng người, nhưng gần với tiếng rú hơn là tiếng nói. Đó là tiếng lóng. Những từ ngữ này dị hợm và đượm một nét gì cầm thú quái đản. Người ta tưởng như nghe những con mãng xà tinh chuyện trò.

    Đó là cái không hiểu được trong cái tối tăm. Cái đó rít lên và thì thầm, bổ sung cái nhá nhem bằng cái bí ẩn. Cảnh hoạn nạn tối lắm, những tội ác còn tối hơn nữa. Hai cái đen tối ấy hỗn hợp tạo nên tiếng lóng. Tối mò trong không khí, tối mò trong hành vi, tối mò trong tiếng nói. Kinh khủng là cái ngôn ngữ cóc nhảy, nó đi, nó lại, nó nhảy, nó bò, nó sùi bọt mép và nó vận động quái đản giữa đám sương mù vô biên, xám xịt, tỏng có mưa, có đêm tối, có đói khát, có tật xấu, có dối trá, bất công, trần trụi nghẹt thở và lạnh lẽo đông tiết, đúng cảnh giữa trưa của những người khốn khổ.

    Chúng ta hãy thương những người bị trừng phạt. Than ôi! Chính bản thân chúng ta là ai? Tôi là ai, đang nói với anh? Anh là ai, đang nghe ai? Chúng ta từ đâu tới? Và có thật chúng ta đã chẳng làm gì, trước khi ra đời? Trái đất không phải không giống với một nhà tù. Biết đâu con người không là một cựu phạm trước tòa án Chúa?

    Hãy nhìn gần hơn vào cuộc sống. Nó được cấu tạo để đâu đâu người ta cũng cảm thấy như bị trừng phạt.

    Anh có phải là một người mà ta gọi là người sung sướng không? Thế mà, ngày nào anh cũng buồn bã. Mỗi ngày có cái buồn lớn và cái âu lo nhỏ của nó. Hôm qua, anh đã run sợ cho sức khỏe của một người anh yêu quí; hôm nay, anh sợ cho sức khỏe của chính anh; ngày mai, sẽ là một lo ngại về tiền bạc, ngày kia, lời công kích của một tên vu cáo; ngày kìa, tai nạn của một người bạn; rồi chuyện thời tiết xấu; rồi cái gì đổ vỡ hay mất mát; rồi một cuộc vui mà lương tâm và cuộc sống sẽ trách móc anh; một lần khác, diễn biến quốc sự không tốt. Không kể những vết thương lòng. Và cứ tiếp tục như thế. Một bóng mây tan, một bóng mây khác lại tụ. Trong một trăm ngày, chưa có lấy một ngày vui trọn vẹn và nắng suốt! Thế mà anh ở trong thiểu số những người có hạnh phúc đấy! Còn những người khác, đêm tối ngưng đọng trên năm tháng của họ.

    Những trí óc chịu suy nghĩ ít dùng cái từ ngữ: Những người sung sướng và những người khổ sở. Trong thế giới này, tiền đình tất nhiên của một thế giới khác, không có ai là sung sướng.

    Nhân quần chỉ có thể phân loại như thế này: Những người sáng tỏ và những người ngu tối.

    Giảm số những người ngu tối, tăng số những người sáng tỏ, đó là mục đích. Vì thế, chúng tôi hét to: Giáo dục! Khoa học! Học để đọc sách, là đốt lửa, mỗi âm tiết đánh vần lên là một tia sáng.

    Vả lại, nói ánh sáng, không nhất thiết là nói vui vẻ. Người ta cũng có thể đau khổ trong ánh sáng, cái gì quá mức cũng đốt cháy. Ngọn lửa thiêu mất cái cánh. Bốc lửa mà vẫn bay, đó là kỳ tích của thiên tài.

    Khi anh biết và khi anh yêu, anh vẫn còn đau khổ. Ánh sáng xuất hiện trong nước mắt. Những người sáng tỏ khóc, ít nhất là khóc thương kẻ u tối.
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  3. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN VIII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bạn đọc chắc đã hiểu Êpônin, theo lời mụ Manhông đã đến Pơluymê, nhìn qua hàng rào sắt và nhận ra con gái ở đó là ai rồi. Trước hết nó phải tìm cách cản trở không cho bọn lâu la đến đường Pơluymê, rồi mới dẫn Mariuytx đến. Mariuytx ta ngây ngất trước cái hàng rào kia suốt mấy ngày. Rồi như nam châm hút sắt, chàng si ta cũng bị đá xây nhà của người yêu nó hút, hút đến nỗi bước tuột vào vườn, chẳng khác gì Rômêô xưa kia đã bước vào vườn Juyliet. Thực ra, việc làm của Mariuytx còn dễ hơn việc làm của Rômêô xưa kia. Rômêô còn phải trèo qua môt bức tường, còn Mariuytx chỉ cần khẽ đẩy một chấn song của cái hàng rào cũ kỹ, đang lung lay như răng bà lão là vào được. Mariuytx lại mảnh người nên lách qua như bỡn.

    Đường vốn không có ai qua lại. Mariuytx lại cứ đến tối mới lẻn vào nên chàng chẳng còn sợ ai nom thấy.

    Từ cái giờ phút thiêng liêng và quí báu của cái hôn đầu tên, từ khi cái hôn ấy đã gắn bó tâm hồn đôi lứa, tối nào Mariuytx cũng lại. Giá lúc ấy Côdét vớ phải một thằng đàng điếm vô sỉ thì một dời con gái của nàng cũang bỏ đi rồi, vì Côdét vốn thuộc hạng hào hiệp tự hiến mình. Cả nể là một đức tính cao quí của đàn bà. Và tình yêu một khi đã lên đến dộ tuyệt đối thì không hiểu sao, nó như đui như mù, quên cả thẹn thùng.

    Nhưng các bạn gái tâm hồn cao quí! Các bạn biết chăng chính các bạn đang lâm vào bao cảnh hiểm nghèo! Thường các bạn hiến trái tim thì người ta lại chỉ lấy xác thịt. Quả tim bạn vẫn còn với bạn, nhưng bạn nhìn nó trong bóng tối mà rùng mình! Tình yêu xưa nay không hề biết cái lẽ trung dung: Hoặc nó giết ta chết, hoặc nó cứ sống. Cả cái số kiếp con người đều nằm trong cái thế song quan đó. Hơn nữa, không ở đâu vấn đề sống chết, rủi may lại nghiệt ngã và tàn nhẫn cho bằng trong tình yêu. Tình yêu là sự sống nếu nó không là cái chết. Nôi đấy, nhưng cũng là áo quan. Một tình cảm vừa nói có vừa nói không trong quả tim người. Trong tất cả mọi sự vật Thượng đế đã tạo nên thì trái tim người là vật tỏa ra nhiều ánh sáng nhất. Nhưng than ôi! Nó cũng tỏa ra nhiều bóng tối cao cả.

    Trời đất dun dủi cho Côdét gặp thứ tình yêu cứu sống người ta.

    Suốt tháng 5 năm 1832, đêm nào trong cái vườn hoang kia, dưới bụi cây ngày càng thơm và càng rậm, cũng có đôi bạn thật là trinh bạch, thật là ngây thơ, lòng tràn ngập những nỗi vui sướng thần tiên chẳng khác những thiên thần, trong sạch, chân thành, say sưa, rạng rỡ như chiếu sáng cho nhau trong bóng tối. Trong cặp mắt Côdét thì Mariuytx rực rỡ như một ông hoàng và Mariuytx nhìn lại thì thấy Côdét là một nàng tiên đầu tỏa hòa quang. Hai người chạm nhau, nhìn nhau, cầm tay nhau, người sát vào người. Nhưng vẫn có một khoảng cách mà không bao giờ họ vượt qua. Không phải họ không dám, chính là họ không biết. Mariuytx cảm thấy có cái hàng rào ngăn cách, đó là lòng trinh bạch của Côdét và Côdét cảm thấy có một chỗ dựa, đó là lòng chân thành của Mariuytx. Cái hôn đầu tiên cũng là cái hôn cuối cùng. Từ hôm ấy, chàng vẫn không dám đi xa hơn, mà chỉ dám cầm tay, cầm khăn quàng cổ, hay nâng mấy sợi tóc để lên môi. Đối với chàng, Côdét là một thứ hương thơm, không phải là một người đàn bà. Chàng chỉ ngửi cái hương thơm kia thôi. Nàng không từ chối gì, chàng cũng không đòi hỏi gì. Côdét vui sướng mà Mariuytx thì thỏa mãn. Họ sống trong tình trạng hoan lạc này, có thể gọi là tình trạng của hai tâm hồn ngây ngất vì nhau. Thực là hai tâm hồn trinh bạch lần đầu ôm nhau trong cõi bồng lai, hai con thiên nga gặp nhau trên đỉnh núi tuyết.

    Trong giờ phút yêu nhau này, dục tình đã hoàn toàn bị sự say sưa chiêm ngưỡng đè bẹp. Mariuytx trong trắng và cao quí như thiên thần, có lẽ chàng có đủ can đảm đến nhà một gái điếm mà không có gan kéo gấu áo Côdét lên quá gót chân. Một lần dưới ánh trawg trong, Côdét cúi xuống đất để lượm một vật gì, ngực áo của nàng để lộ chỗ chân vú một chút thì Mariuytx ngoảnh mặt đi.

    Cái gì đã xảy ra giữa hai người? Khoogn có gì cả! Họ sùng bái nhau đấy thôi!

    Đêm đêm, khi hai người ở đây, cái vườn như một nơi sống động, thiêng liêng. Trăm hoa đua nở trong vườn sực nức hương thơm. Họ cũng cởi mở tâm hồn hòa lẫn với ngàn hoa. Cỏ cây lả lơi, mơn mởn, rung rinh đầy nhựa sống và say sưa chung quanh đôi bạn thơ ngây và họ nói với nhau những lời ân ái làm cây cỏ say mê rung động.

    Những lời gì vậy? Những hơi thở chứ có gì dâu? Những hơi thở này cũng vừa đủ làm cho cả thiên nhiên kia xúc cảm và rung động. Nó có ma lực gì thực là khó hiểu, nếu ta chỉ đọc trong sách những lời kia vốn là những lời để gió đưa đi và đánh ta ra như làn khói dưới đám cây. Giá ta gạt bỏ đi cái điệu nhạc của tâm hồn như tiếng đàn đệm trong lời thầm thì của đôi nhân tình, thì tất cả chỉ còn là một cái bóng. Bạn sẽ hỏi: Thế nào? Có thế thôi ư? Vâng, chỉ có tiếng tỏ thẻ, nói đi, lặp lại những cái cười vô cớ, những câu có gì cao qusi hơn, sâu sắc hơn. Đó là những lời duy nhất đáng nói và đáng nghe thôi vậy.

    Những lời ngớ ngẩn kia, vô vị kia, ai chưa từng bao giờ nghe, ai chưa từng bao giờ nói, là một người đần độn, tồi tệ.

    Côdét nói với Mariuytx:

    - Anh biết không?

    (Không hiểu sao, trong khi vẫn giữ thái độ đoan chính tuyệt vời như thế mà rồi cũng đến gọi nhau bằng anh em).

    - Anh biết không? Em tên là Ơphơradi.

    - Ơphơradi? Không phải! Tên em là Côdét.

    - Ôi! Côdét là cái tên xấu xí người ta gọi em lúc em còn nhỏ. Tên em chính là Ơphơradi. Anh không thích tên Ơphơradi sao?

    - Thích chứ. Nhưng gọi Côdét nghe cũng hay.

    - Anh thích tên Côdét hơn tên Ơphơradi sao?

    - À.. ừ, vâng.

    - Vậy thì em cũng thích nó hơn. Thật nhỉ, nghe nó hay nhỉ! Thôi thì gọi em là Côdét vậy.

    Rồi nàng nở một nụ cười khiến cho câu chuyện biến thành bài tình ca trong một khu rừng nơi tiên giới.

    Lại một lần, nàng nhìn chàng đăm đăm mà nói:

    - Ông ạ, ông thì đẹp trai, xinh xắn, ông ăn nói tài hoa, ông không ngốc chút nào ông thông thái hơn em nhiều, nhưng ở cái chữ này thì em dám thách ông, chữ: Em yêu anh!

    Mariuytx, bay bổng lên mây xanh, tưởng như nghe khúc ca của một ngôi sao nào vậy!

    Có lúc nàng thấy chàng ho thì tát yêu vào má mà nói:

    - Thưa ông, ông không được ho! Ông muốn ho trong nhà tôi thì phải xin phép mới được. Ho để cho em lo ngại là xấu lắm đấy. Em muốn anh khỏe mạnh, bởi vì nếu anh không khỏe mạnh thì em khổ ghê lắm. Anh bảo em làm gì cho anh khỏi ho bây giờ?

    Một lần nữa Mariuytx nói với Côdét:

    - Em có biết không, có một độ anh tưởng em là Uyếcxuyn.

    Cái ấy làm cả hai cười suốt buổi tối.

    Một lần đang nói chuyện gì, Mariuytx nói:

    - Chà! Có một hôm ở vườn Luychxămbua, anh muốn đánh chết một người thương binh.

    Nhưng Mariuytx im bặt và không nói nữa. Nói nữa thì phải nói cho Côdét nghe chuyện cái nịt bít tất của nàng, mà làm thế thì không được. Bởi vì nói đến cái nịt bít tất là vô tình chạm vào xác thịt, mà hễ động đến chuyện xác thịt tất cái tấm tình mênh mông, trong trắng ấy phải hãi hùng, kính cẩn lùi lại, không dám tiến lên.

    Mariuytx nghĩ rằng, đời chỉ là thế này thôi: Tối nào cũng đến phố Pơluymê, đẩy cái chấn song cũ kỹ ra, rồi lách vào ngồi tự tình trên ghế đá kia, nhìn ngàn sao lấp lánh quá đám cây lúc đêm vừa đến, để cái nếp quần ở đầu gối mình tì vào vạt áo rộng của Côdét, sẽ xoa vuốt ngón tay cái của nàng, gọi nàng là em, cùng nhau ngửi một đóa hoa, ngửi mãi không biết chán. Trong lúc ấy mây bay trên đầu. Mỗi khi gió thổi, gió cuốn đi những mơ ước của người còn nhiều hơn là những đám mây trên bầu trời nữa.

    Tình yêu trong trắng hầu như hoang dã kia phải đâu không chút lẳng lơ. "Tán tụng người yêu" là cách vuốt ve mơn trớn đầu tiên, là sự đánh bạo nửa vời muốn tập dượt. Lời tán tỉnh chẳng khác gì chiếc hôn cách bức qua cái khăn che mặt. Dục tình khẽ can thiệp, nhưng vẫn không lộ liễu. Trước dục tình, con tim ngại ngùng lùi bước để càng yêu mến mặn nồng thêm.

    Lời tán tụng của Mariuytx vẫn có đôi chút gắn bó với cuộc sống, với nhân tình, với tất cả cái gì thiết thực mà Mariuytx có thể nói ra. Đó là những lời nói với nhau trong hang đá, là đoạn giáo đầu cho những câu chuyện đêm động phòng. Nó là bài thơ của cõi lòng cởi mở, nó là trường ca lẫn với thơ niêm luật, là lời tán dương đang yêu, êm như tiếng gù của bồ câu. Nó là tất cả mọi thứ tế nhị của sự thờ phụng kết lại thành cụm, thành bó và tỏa ra như một thứ hương thơm thanh lịch, thần tiên. Thật là tiếng ríu rít say sưa, lòng nói với lòng. Mariuytx nỉ non:

    - Ôi! Em đẹp làm sao! Anh không dám nhìn em. Anh chỉ dám chiêm ngưỡng. Em là một nàng tiên. Anh chẳng còn hiểu sao nữa: Chỉ nhìn gấu áo, khi mũi hài của em ló ra anh cũng đủ ngất ngây lảo đảo. Khi trí tuệ của em hé mở anh được thấy hào quang tỏa ra. Em lý luận, thì hay lạ lùng. Đôi khi anh tưởng chừng em là một giấc mơ. Em nói đi để anh nghe và anh ngắm. Côdét ơi, thật là lạ lùng và thú vị! Anh hóa điên mất! Cô thật đáng tôn thờ, tiểu thư ạ! Anh phải lấy kính hiển vi nghiên cứu bàn chân em và lấy viễn vọng kính chiêm ngưỡng tâm hồn em.

    Côdét trả lời:

    - Từ sáng đến giờ có bao nhiêu thời giờ thì em yêu anh thêm bấy nhiêu.

    Câu đi câu lại không ngớt. Lời nói chuyện thật là tâm đầu ý hợp về khoản tình yêu.

    Tất cả con người Côdét ở đâu cũng thơ ngây, thành thực, trong ngọc, trắng ngà, hiền hậu, rực rỡ. Nhìn thấy nàng người ta có cảm giác như nhìn tiết xuân tháng tư, nhìn trời rạng sáng. Trong khóe mắt như có hạt sương, Côdét là ánh sáng bình minh tinh kết thành hình thiếu nữ.

    Mariuytx yêu dấu nàng, thì say sưa nhìn nàng là dĩ nhiên vậy. Thực ra, cô con gái kia vừa ở tu viện ra, nói chuyện lắm câu thâm thúy. Nhiều khi nàng nói những điều thật là đúng, thật là tế nhị. Nàng ríu rít như trẻ con, nhưng chuyện lại có ý nghĩa. Nàng không lầm lẫn về việc gì và nhận xét gì cũng đúng đắn. Đàn bà cảm và nói theo bản năng yêu đương của con tim nên chẳng bao giờ sai lầm. Không ai biết nói những lời dịu dàng và sâu sắc cho bằng phụ nữ. Dịu dàng và sâu sắc đó là tất cả người đàn bà, đó là tất cả bầu trời vậy.

    Trong cái cảnh hoan lạc vô song kia, chốc chốc khóe mắt lại long lanh giọt lệ. Một con sâu bị chân xéo nát, một lông chim từ tổ rơi xuống, một cành tầm xuân bị gãy cũng làm cho họ rủ lòng thương và sự ngây ngất kia đượm thêm vẻ ủ dột mơ màng, càng dễ làm người ta phát khóc. Biểu hiện tuyệt đích của tình yêu là một sự cảm kích nhiều khi hầu như không thể chịu nổi.

    Và đồng thời, - tình yêu chớp nhoáng gây ra mọi thứ trái ngược, - họ lại cười lăn cười lóc, thật là tự do thú vị, thật là thân mật cởi mở, có khi tưởng là một cặp bạn trai. Tuy vậy, ngay trong khi hai con tim say sưa trong tình yêu trong sạch, thì bản chất gái trai bất diệt vẫn không đi vắng. Nó vẫn hiện diện và theo đuổi cái mục tiêu vừa cao quí vừa phũ phàng. Vì vậy khi một cặp trai gái thỏ thẻ cùng nhau thì dù họ có ngây thơ đến đâu, câu chuyện đó có trong sạch đến mấy, nó vẫn có một cái ý vị riêng, đáng yêu và bí ẩn khác hẳn chuyện của một cặp bạn hữu.

    Họ sùng bái nhau như thần tượng.

    Cái bất biến, cái trường tồn vẫn cứ nguyên vẹn. Yêu nhau, nhìn nhau mà nhoẻn miệng, mà cười, đôi môi khẽ chúm lại làm nũng, ngón tay cài vào nhau, gọi nhau anh anh, em em, cái đó vẫn không cản trở gì lẽ vĩnh viễn của tạo hóa. Đôi lứa náu mình trong đêm tối, trong ánh chiều tà, trong nơi kín đáo, với chim chóc, hoa hồng. Họ làm cho nhau ngây ngất vì cả trái tim hiện lên trong khóe mắt và thì thầm và to nhỏ với nhau, trong lúc ấy những vì sao vẫn rung rinh trong khoảng không gian vô hạn.
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  4. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN IX

    Chương I -HỌ ĐI ĐÂU


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cũng hôm ấy, vào khoảng bốn giờ chiều, Giăng VanGiăng ngồi một mình trên cái bờ đất vắng nhất trong thao trường Săng đơ Mácxcơ. Có lẽ vì bản tính cẩn thận, có lẽ vì muốn suy nghĩ một mình hay chỉ vì trong đời người ta, tập quán cũng dần dần thay đổi, độ này ít khi ông cùng Côdét ra phố. Ông mặc áo công nhân, quần vải xám, đầu đội mũ có lưỡi trai dài che kín cả mặt. Nay ông đã yên tâm và toại nguyện về phần Côdét rồi. Những điều khiến ông băn khoăn và sợ hãi cũng đều biến mất. Nhưng trong vòng hai tuần lễ nay lại có những mối lo ngại khác xảy ra. Một hôm đi chơi ngoài phố, ông chợt thấy Tênácđiê. Cũng may, ông mặc trá hình nên hắn không nhận được. Nhưng từ hôm ấy ông lại thấy hắn mấy lần và không biết chắc chắn hắn lảng vảng trong xóm mình. Riêng điều này cũng khiến ông có một giải pháp kiên quyết. Có hắn đấy là có đủ mọi điều nguy hiểm.

    Hơn nữa, Pari không được yên. Những sự lộn sộn về chính trị rất bất lợi cho người muốn sống lẩn lút. Bởi vì, nếu cảnh sát đã thành đa nghi, lo ngại thì nhiều khi muốn bắt một thằng cha loại Pêpanh hay Morê, họ lại phát hiện được một thằng như Giăng VanGiăng.

    Ông rất lo ngại về tất cả những quan điểm này.

    Cuối cùng, lại xảy ra một việc nóng hổi, rất khó hiểu cũng làm ông thêm cảnh giác. Vừa sáng hôm ấy, ông dậy trước cả nhà, đi thơ thẩn ngoài vườn trước khi Côdét mở cửa sổ buồng ngủ. Đột nhiên, ông thấy một hàng chữ khắc trên tường, hình như có ai lấy đanh vạch vào đây:

    16 phố Verơri (Rue de la Vererie)

    Việc này vừa mới xảy ra thôi. Nét khắc trên tường vôi đen vẫn còn trắng, cây gai mọc bên tường vẫn còn lấm tấm bụi vôi. Chắc đêm qua có ai viết. Cái gì đây? Phải chăng là một địa chỉ? Hay một dấu hiệu cho kẻ khác? Hay một lời cảnh cáo ta? Thế nào đi nữa cũng đã có kẻ đã lẻn vào vườn, có những người lạ mặt đã vào đây. Ông sực nhớ đến những việc kỳ lạ đã xảy ra trước đây làm cả nhà lo sợ. Ông suy nghĩ miên man. Nhưng ông không nói cho Côdét biết hàng chữ viết bằng đanh ở trên tường, sợ nàng kinh hãi.

    Giăng VanGiăng suy đi tính lại, rồi quyết định rời khỏi Pari, rời bỏ cả nước Pháp để sang Anh. Ông đã báo trước cho Côdét biết. Ông muốn nội trong bảy tám ngày nữa là ra đi. Ông ngồi trong bờ đất trong thao trường nghĩ vẩn nghĩ vơ: Nào thằng Tênácđiê, nào lính cảnh sát, nào hàng chữ kỳ lạ trên tường, nào cuộc viễn du, những khó khăn trong việc lấy hộ chiếu.

    Đang nghĩ ngợi, băn khoăn như thế, ông chợt thấy có bóng ai in trên cỏ, người ấy vừa đến đứng trên bờ đất ngay sau lưng mình. Ông quay lại thì một tờ giấy gấp làm tư rơi trên đầu gối hình như có bàn tay ai ném giấy qua đầu mình. Ông cầm tờ giấy mở ra xem thấy mấy chữ lớn viết bằng bút chì:

    Dọn nhà đi!

    Giăng VanGiăng đứng phắt dậy. Trên bờ đất không có ai. Nhìn quanh chỉ thấy một người, gọi là con nít thì lớn quá, gọi là người lớn thì bé quá, mặc áo khoác xám và quần nhung vải màu đất, đang bước qua bờ thành rồi tụt xuống hào của thao trường.

    Giăng VanGiăng liền về nhà, trong lòng suy nghĩ miên man.
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  5. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN X

    Chương I - NGÀY 5 THÁNG 6 NĂM 1832


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tạo khởi bao gồm những gì? Chẳng gì và tất cả. Một luồng điện tỏa dần dần, một ngọn lửa đột nhiên nảy ra, một sức mạnh đang lang thang, một luồng gió bay qua. Luồng gió đó đã gặp những tâm hồn đau khổ, những dục vọng bốc cháy, những cùng khổ đang rú lên, và thổi cuốn những cái đó đi.

    Đi đâu?

    Những nơi vô định. Đi qua Nhà nước, qua những luật pháp, qua cái thịnh vượng và cái xấc láo của kẻ khác.

    Những tin tưởng tức bực, những hăng hái chán chường, những bất bình xúc động, những bản năng hung hăn bị nén ép, những tuổi trẻ kiên cường bị kích thích, những độ lượng mù quáng, tính hiếu kỳ, tính ưa thay đổi, sự khao khát cái bất ngờ, cái thích thú được xem diễn một trò mới và nghe tiếng còi của người quản trò, những hằn thù vớ vẩn, những oán hận, những thất ý, mọi kiêu hãnh của người đổ lỗi cho số kiếp, những khó chịu, những mộng rỗng, những tham vọng gặp khó khăn, những kẻ hy vọng tìm lối thoát trong cảnh sụp đổ, cuối cùng, ở bậc thấp nhất, cái thứ than bùn bắt lửa, đó là các yếu tố của bạo khởi.

    Ở đó có cái gì vĩ đại nhất cũng như cái gì nhỏ nhoi nhất. Những sinh linh lò dò ở bên ngoài tất thảy, rình chờ một cơ hội, bọn lang thang, bọn vô lại, bọn ma cà bông các ngã tư phố, những kẻ màn trời chiếu đất, những người kiếm bánh ăn hú họa chứ không ở công việc lao động, những kẻ không tên tuổi trong cùng khổ và hư vô, những tay trần chân trụi đều thuộc về bạo khởi.

    Ai mang trong lòng một niềm chống đối thầm kín về một sự kiện nào của Nhà nước, của cuộc sống hoặc với số phận là người tiếp giáp với bạo khởi; khi bạo khởi xuất hiện thì họ bắt đầu rung động và cảm thấy như bốc lên bởi cơn bão lốc.

    Bạo khởi là một cơn gió hút trong không khí xã hội tạo nên đột ngột trong những điều kiện thời tiết nào đó, trong quay cuồng nó bốc lên, chạy, thét, vứt bỏ, san bằng, đè bẹp, đạp đổ, nhổ trốc gốc, cuốn theo nó những bản chất lớn lao cũng như nhỏ yếu, con người kiên cường cũng như con người nhu nhược, cái thân cây cũng như cọng rơm rạ.

    Bất hạnh thay những ai bị nó cuốn đi, cũng như những ai bị nó va phải! Nó đem kẻ nọ dập vào người kia cho tan vỡ.

    Nó truyền cho những người nó tóm được một mãnh lực phi thường. Ai tầm thường bao nhiêu gặp nó cũng trở nên tràn đầy sức sống của thời cuộc, thứ gì nó cũng biến thành tên đạn để phóng đi. Nó đem hòn đá cuội làm nên viên đạn đại bác, anh phu khuân vác làm nên vị tướng chỉ huy.

    Một đôi câu sấm truyền trong các học thuyết chính trị giảo quyệt thì đứng về quan điểm uy quyền, phải cần cho chút ít bạo khởi. Giáo lý; bạo khởi củng cố cái chính quyền mà nó không lật đổ được. Bạo khởi thử thách quân đội, tập trung giai tần tư sản, làm giãn gân cốt cho cảnh sát, xác nghiệm sự chắc chắn của giàn giá xã hội. Đó là một môn thể dục, hầu như là một phép dưỡng sinh. Chính quyền sẽ mạnh mẽ hơn sau một vụ bạo khởi, cũng như con người sau khi xoa bóp.

    Ba mươi năm về trước, bạo khởi lại còn được xem xét trên một quan điểm khác nữa.

    Về việc gì cũng có một lý thuyết tự xưng là "lưong tri"; Philanhtơ chống Anxextơ; trọng tài hòa giải giữa chân và giả; giải thích, cảnh cáo, giảm khinh có chút kiêu kỳ mà tự cho là khôn ngoan, bởi vì có pha lẫn khiển trách và tha thứ, nhưng thực ra chỉ là sính tri thức. Cả một trường phái chính trị mệnh danh là trung dung đã xuất phát từ đó. Giữa nước lạnh và nước nóng, đó là phe nước ấm ấm. Với cái sâu sắc giả kỳ thật là nông nổi, trường phái đó mổ xẻ hậu quả mà không truy đến nguyên nhân và đứng trên diễn đàn bán thông thái của mình mà mạt sát những náo loạn ở nơi công cộng. Hãy nghe trường phái đó nói: "Những bạo khởi làm rắc rối sự kiện 1830 đã làm mất tính cách thuần nhất của biến cố lớn lao đó. Khởi nghĩa tháng Bảy là một luồng gió bình dân mạnh mẽ sau đó bỗng hiện trời xanh. Các bạo khởi khiến cho thanh thiên tái hiện. Nó làm cho cuộc cách mạng đang nhất tề là thế biến chất thành xung đột. Trong Cách mạng tháng Bảy cũng như trong mọi bước tiến bộ nhảy cóc, có những rạn nứt, chính bạo khởi làm cho những rạn nứt đó dễ thấy. Người ta có thể nói:" À! Cái này đã vỡ ". Sau Cách mạng tháng Bảy, người ta chỉ cảm thấy sự giải thoát, sau các bạo khởi, người ta cảm thấy tai họa.

    " Mọi bạo khởi làm cho các hiệu buôn đóng cửa, vốn sụt, sở giao dịch chứng khoán kinh hoàng, thương mại đình trệ, kinh doanh trở ngại, phá sản dồn gấp; hết tiền; gia sản tư nhân lo âu, công quỹ rung động, công nghiệp ngập ngừng, tư bản lùi bước, lao động hạ giá, đâu đâu cũng có hiện tượng sợ hãi, nội phản xảy ra ở khắp các thành phố. Do đó những vực thẳm mở ra. Người ta tính ngày đầu bạo khởi đã làm nước Pháp tổn thất hai mươi triệu, ngày thứ hai bốn mươi, ngày thứ ba sáu mươi. Một cuộc bạo khởi ba ngày làm tốn một trăm hai mươi triệu: Nếu chỉ xét về hậu quả tài chính thì tổn thất đó ngang với một tai họa đắm tàu hay thất trận làm hủy hoại một hạm đội gồm sáu mươi tàu chiến đấu.

    "Đành rằng về phương diện lịch sử thì bạo khởi cũng có cái đẹp của nó. Giặc trên đường phố hùng tráng, cảm động không kém giặc trong lùm cây. Ở đó có linh hồn của rừng rú, ở đó là trái tim của thị thành. Ở đó có Giăng Suăng, ở đây có Giannơ. Bạo khởi soi rọi bằng đèn đỏ, nhưng rực rỡ, các khía cạnh độc đáo trong tính cách con người Pari, lòng quản đại, sự tận tình, cái vui tính náo nhiệt, sự chứng thực dũng cảm là bộ phận của thông minh qua các sinh viên, quốc dân quân không lay chuyển, lều hành quân của các anh chủ hiệu, pháo đài của lũ nhóc con, sự khinh thường chết chóc của khách qua đường. Trường học và binh đoàn chiến đấu với nhau. Chung qui giữa các đối thủ chỉ có sự khác biệt về tuổi tác. Cùng một chủng tộc, cùng một loài người dũng cảm đó thôi, những kẻ tuổi hai mươi chết vì lý tưởng; những kẻ bốn mươi chết vì gia đình. Luôn luôn buồn bã trong các cuộc nội chiến, quân đội lấy thận trọng địch với táo bạo. Trong khi phô bày cảnh dũng cảm của dân chúng, bạo khởi rèn luyện lòng can đảm cho tư sản.

    " Tốt lắm. Nhưng tất cả những cái đó ngang bằng với bao nhiêu máu đổ hay không? Rồi cộng với máu đổ, còn có tương lai tối mờ, tiến hóa bị tổn thương, lo âu xâm chiếm những người tốt, những người phái tự do trung thực bị thất vọng, các chế độ độc đoán nước ngoài đắc ý vì những vết thương cách mạng tự gây cho mình, những người bại trận năm 1830 đắc chí nói: "Chúng ta đã báo trước mà!". Phải thêm vào điều này: Pari lớn thêm có lẽ, nhưng nước Pháp bé đi, chắc rồi. Thêm nữa, vì cần phải nói cho hết, những cuộc tàn sát, những cuộc tàn sát thường hay làm ô nhục chiến thắng của trật tự - đã trở thành hung tợn - đối với tự do đã hóa điên rồ. Chung qui bạo khởi là tai hại!".

    Đó là lời lẽ của cái gần như là sự khôn ngoan, mà cái gần như dân chúng, tức là giai tần vô sản, vui lòng chấp nhận.

    Về phần chúng tôi, chúng tôi bác các danh từ quá rộng nghĩa, do đó qua tiện lợi là: Những cuộc bạo khởi. Giữa một phong trào dân chúng này nà một phong trào dân chúng khác, chúng tôi có phân biệt. Chúng tôi không tự hỏi một cuộc bạo khởi có tốn bằng một trận đánh hay không. Mà tại sao lại so với một trận đánh? Ở đây vấn đề chiến tranh lai đặt ra. Chiến tranh có phải là một đại họa ít nặng nề hơn bạo khởi hay không? Vả lại, có phải tất cả các cuộc bạo khởi đều là đại họa không? Và mười bốn tháng Bảy làm tốn một trăm hai mươi triệu bao giờ? Chỉ có việc đặt Philít V lên ngai vàng Tây Ban Nha là đã làm tốn cho Pháp hai tỉ. Dù có tốn ngang nhau đi nữa, chúng tôi cũng chọn 14 tháng 7. Vả lại chúng tôi cũng bác bỏ những con số có vẻ lý lẽ mà thật ra chỉ là danh từ đó. Đối với một cuộc bạo khởi nhất định, chúng tôi nhận xét nó tự trong bản thân nó. Những sự bác khước có tính lý thuyết trình bày ở trên, chỉ nêu hậu quả, chúng tôi thì tìm nguyên nhân.

    Chúng tôi nói cụ thể hơn.
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  6. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN XI - HẠT BỤI KẾT THÂN VỚI BÁO TÁP

    Chương I & IIche en mảche

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc khởi nghĩa nổ ra từ sự va nhau giữa công chúng với quân đội. Ở trước xưởng Quân khí. Sự va chạm đó làm nẩy ra một cuộc vận động từ trước ra sau của đám đông theo xe tang, đám đông đó kéo dài suốt đại lộ vốn là một sức đùn mạnh mẽ đối với đoạn đầu đoàn tang lễ. Dân chúng ùn ùn mất cả hàng ngũ, ai cũng đi, ai cũng chạy, cũng thoát ra, tràn qua trái, qua phải thành những con suối trên hai trăm đường phố một lúc, chảy xiết như mở cống sông đào. Lúc ấy, một chú bé rách rưới từ phố Mêninmôngtăng đi lại, tay cầm một cành thị mun trổ hoa mà chú vừa hái trên vùng đồi Benlơvin. Chú thấy trong quầy của mụ hàng xén có một khẩu súng ngắn kỵ binh. Chú vứt cành hoa rơi xuống đất kêu:

    - Bà gì ơi, tôi mượn cái súng của bà đó. Rồi chú tóm khẩu súng và biến đi.

    Vài phút sau, một đoàn tư sản sợ sệt chạy trốn qua phố Amơlô và phố Bátxơ gặp chú bé đang vung súng hát:

    Đêm tối tò mò

    Ngày thì sáng tỏ

    Bởi sách đáng ngờ

    Thằng giàu rối tó

    Đạo đức, phải lo

    Bo bo,

    Mũ nhọn chờ đó.

    Đó là bé Gavrốt ra trận.

    Đến đại lộ, nó nhận thấy súng không có cò.

    Ai đã đặt khúc hát để cho nó hát nhịp bước hành quân và nói chung cho tất cả các bài hát mà nó thích hát khi có dịp? Chúng tôi không rõ. Biết đâu không phải là chính nó? Cũng phải nhận rằng Gavrốt rất am hiểu các bài hát bình dân lưu hành, và nó cũng thường thêm thắt điệu ngân nga của nó. Lêu lổng và tinh nghịch, nó đem âm thanh của tạo vật và âm thanh của Pari làm thành một hợp ca hỗ lốn. Nó hòa hợp xưởng chim với xưởng thợ. Nó có quen biết một số trẻ học vẽ và loại tiếp cận với loại nó. Hình như nó cũng đã từng học nghề in ba tháng. Một hôm nó đi giúp việc cho ông Bana Lormiăng, một số tứ thập[1] Gavrốt là một chú "văn đồng"

    Thực ra trong cái đêm mưa mà Gavrốt đã cho hai chú bé tạm trú với mình trong bụng voi, chú đâu có biết chú đã là cứu tinh đối với chính em ruột chú. Cứu em lúc chập tối, cứu cha lúc sắp sáng, cái đêm của chú là thế đấy. Tang tảng sáng, từ phố Banlê trở về chỗ con voi, chú đã moi hai đứa bé một cách nghệ thuật từ bụng voi ra, chú đã chia với chúng cái bữa ăn sáng chú tạo ra, xong chú gửi chúng lại cho đường phố, bà mẹ hiền hầu như đã nuôi dưỡng chú. Rồi chú đi, không quên hẹn chúng đến tối lại cùng nhau trở về chỗ đó. Chú đọc bài diễn văn tạm biệt này: Tao bẻ gậy đây, tức là tao cút hoặc nói như bọn quan tòa; tao đi thẳng. Lũ nhóc, nếu chúng bay không tìm thấy bố mẹ thì tối nay lại cứ đến đây. Tao sẽ kiếm cho mà ăn tối và tao cho ngủ.

    Có thể cảnh sát đã lượm hai đứa bé và lưu giữ để chờ cha mẹ nhận. Hoặc là một tên xiếc nào đó đã bắt chúng, hoặc chúng chỉ đi lạc trong cái bàn cờ[2] Pari mà thôi. Dù sao thì chúng cũng không trở lại. Ở dưới đáy xã hội hiện tại, sự mất hút như thế là thường. Gavrốt không gặp lại hai đứa bé. Mươi mười hai tuần lễ đã trôi qua từ đêm ấy. Đã nhiều lần nó gãi đầu tự hỏi: Quái! Không biết hai đứa con ta đi vào đâu nhỉ?

    Vừa đi vừa vung súng, nó đã đến phố Pôngtôsu. Nó đã để ý phố đó chỉ còn một hiệu cửa mở, và điều đáng suy nghĩ, đó là một hiệu bánh ngọt. Trước khi dấn thân vào vô định, được ăn một cái bánh quai vạc nhân táo là một phúc lớn trời cho. Gavrốt dừng lại sờ mông, lục bao, lộn túi áo; không có lấy một đồng xu, không có gì cả! Nó bèn kêu: Cứu tôi với! Cứu với!

    Không được ăn bánh ngọt một lần cuối cùng, rõ là cay đắng.

    Tuy nhiên, Gavrốt vẫn tiếp tục đi lên.

    Chỉ vài phút sau, nó đã đến phố Xanh Lui. Đi qua phố Pắc Rôian, thấy cần phải bù đắp nỗi thiệt thòi không được ăn bánh quai vạc nhân táo không thể có, nó bèn tự thưởng cho mình cái thú xé toang các tờ quảng cáo sân khấu giữa ban ngày ban mặt.

    Đi một đỗi nữa, nó thấy có một nhóm người hồng hào đi qua, có vẻ như là người nghiệp chủ. Nó nhún vai và khạc ra một tràng triết lý sau:

    - À, ngữ có lợi tức này, chúng nó béo làm sao? Chúng nhồi nhét đầy bụng. Chúng lội bì bõm trong cao lương mĩ vị. Thử hỏi chúng dùng tiền làm gì, chúng cóc biết. Chúng dùng để ăn chứ làm gì nữa? Bụng mang được chừng nào thì mang mà!

    Chú thích:

    [1] tức là một viện Hàn lâm Pháp – viện ấy có con số nhất định 40 viện sĩ

    [2] nguyên văn: Casse – têtechinois: Một trò chơi rắc rối gồm có một cái bàn trên xếp các mẩu gỗ theo nhiều hình và biến dạng

    II

    GAVRỐT HÀNH QUÂN

    (Gavroche en marche)

    Chỉ cái việc cứ đi giữa cái đường cái, tay hoa một khẩu súng ngắn mất còi cũng đã là một chức vụ quan trọng ghê gớm nên Gavrốt ta càng đi càng phởn, nói năng huyên thuyên. Nó vừa hát từng mẩu của bài Mácxâyde, vừa kêu to:

    - Tốt lắm! Chân trái ông đau, xương cứ nhức nhối vì cái anh thấp khớp hành hạ nhưng ông đang khoái đây, quốc dân ạ! Bọn tư sản chúng mày liệu hồn, ông phết cho vài câu hát biếm bây giờ! Mật thám là cái thá gì? Là chó. Hừ, chó đểu! Thôi cũng đừng làm mất danh giá chó làm gì. Chính ông cũng muốn có một con[1] cho cái khẩu súng này cái. Anh em ơi, ta ở đại lộ về đây. Nóng ra phết, đang sôi âm ỉ, đang sủi bọt. Phải vớt bọt đi thôi. Nào anh em tiến lên! Khá lấy máu bọn hôi tanh tưới ngập luống cày[2] . Tớ hiến đời tớ cho Tổ quốc, tớ không còn thấy lại con nhân tình, Hết mẹ nó rồi! Nhưng đếch cần, thế mà khoái tỉ đấy, vui vẻ muôn năm! Đánh nhau đi! Ông ngấy chuyên chế rồi!

    Vừa lúc ấy, có một con ngựa của một quốc dân đi qua ngã quỵ xuống. Gavrốt đặt súng xuống đất, đỡ anh ta lên rồi lại giúp anh ta nâng con ngựa dậy. Rồi chú lại nhặt khẩu súng bước đi.

    Phố Tôrinhi thật là yên tĩnh, tĩnh mịch. Trái ngược với cảnh huyên náo xung quanh, cái vẻ lầm lì ấy thật đúng với đặc tính của xóm Mare. Bốn mụ già đứng nói chuyện trước cửa.

    Xứ Êcốtxơ có những bộ ba nữ phù thủy, thành Pari có những bộ bốn gái rỗi mồm. Cái câu tiên tri: "Anh sẽ làm vua" được ném rùng rợn lên đầu Bônapác ở ngã tư Bôđôiê cũng như lên đầu Macbét trên đồng còi Acmuya. Cũng một tiếng quạ kêu như vậy.

    Thứ đàn bà lắm mồm phố Tơrinhi chỉ lo nghĩ đến công việc của họ thôi. Đó là ba mụ gác cổng và một mụ đi nhặt giẻ rách, lưng đang đeo sọt, tay cầm móc.

    Cả bốn người hình như tiêu biểu cho bốn đặc tính của tuổi già: Lụ khụ, khặc khừ, tàn tạ và buồn nản.

    Mụ nhặt giẻ nhún nhường. Trong cái thế giới lộng gió này mụ nhặt giẻ chào hỏi, mụ gác cổng che chở. Cái đó tùy thuộc cái đống rác to hay nhỏ, theo ý kẻ vun rác. Cái chổi cũng có thể có lòng nhân đức.

    Mụ nhặt giẻ này là một người nhớ ơn nghĩa. Mụ cười niềm nở với ba mụ gác cổng. Họ nói với nhau đại khái:

    - À này, con mèo của bà dạo này vẫn ác đấy chứ?

    - Chao ôi! Mèo thì bà biết đấy, là kẻ thù tự nhiên của chó. Chính lũ chó kêu rên đấy chứ.

    - Người ta cũng kêu.

    - Nhưng mà bọ mèo có bám theo người đâu.

    - Cái đó không quuan trọng. Chó mới là nguy hiểm. Tôi nhớ có một năm nào đó, chó sinh ra nhiều quá đến nỗi người ta phải đăng báo. Đó là ở trong cái thời mà điện Tuylơri có những con cừu to lớn kéo cái xe con của vua Rômơ. Các bà còn nhớ vua Rômơ chứ?

    - Tôi thì tôi thích công tước Borđơ.

    - Tôi à, tôi có biết Lui XVIII. Tôi ưa Lui XVIII hơn.

    - Thịt đắt quá, bà Batagông ạ!

    - Chao ôi! Đừng có nói chuyện với tôi. Hàng thịt là một điều ghê tởm. Một điều ghê tởm. Chỉ mua được xương xẩu thôi.

    Mụ nhặt giẻ xen vào:

    - Các bà ạ, việc buôn bán chẳng ra sao. Rác rưởi cũng bị phá hoại. Người ta có vất gì đâu, người ta ăn tuốt.

    - Cũng có kẻ nghèo hơn bà đó bà ạ, như mụ Vácgulen.

    - À ừ, đúng đấy, mụ nhặt giẻ đáp kính cẩn. Tôi còn có nghề sinh sống.

    Họ nghĩ một lát. Rồi tuân theo cái nhu cầu trưng bày cố hữu của loài người, mụ kể thêm:

    - Buổi sáng về nhà, tôi lọc giẻ, tôi làm cái việc chọc lọn (chắc mụ muốn nói chọn lọc). Đổ từng đống trong buồng. Tôi bỏ giẻ trong thúng, lõi củ trong thùng, quần áo trên ngăn tường, len dạ trong tủ, giấy báo trên xó cửa sổ, cái gì ăn được vào chậu, chai, kính trên bệ sưởi, giày dép sau cánh cửa ra vào, và xương xẩu vào dưới giường.

    Gavrốt dừng lại đằng sau họ, lắng nghe rồi nói:

    - Này các cố, các cố nói chuyện chính trị đấy à?

    Cả bốn mụ hùa nhau mắng xả vào mặt nó:

    - Lại một thằng vô lại!

    - Xem tay nó cầm cái gì kia? Một khẩu súng ngắn!

    - Tôi xin các bà, cái thứ nhãi ranh ấy!

    - Quân này chưa lật được chính phủ thì chưa chịu ngồi yên đâu!

    Gavrốt khinh bỉ, chỉ trả thù bằng cách lấy ngón tay cái hếch cái mũi lên và xòe bàn tay ra. Mụ nhặt giẻ kêu:

    - Đồ khố dây!

    Mụ tên là Patagông vỗ hai tay vào nhau, tru tréo:

    - Chuyến này thì nguy đến nơi! Cái thằng ranh con bên hàng xóm mới để râu ấy mà. Sáng nào tôi cũng thấy nó cắp nách một con bé mũ hồng, thế mà sáng nay tôi thấy nó cắp một khẩu súng. Bà Masơ nói đâu tuần trước có cách mạng ở, ở.. mẹ nó! Ở đâu rồi, à ở Pông toa, Các bà cứ nhìn cái thằng trời đánh kia, oắt con thế mà đã cầm súng. Nghe đâu tu viện Xêlecxtanh đầy cả đại bác. Các bà tính, chính phủ làm thế nào cho yên với những đồ du thủ, du thực nay đặt chuyện này mai bày chuyện khác để quấy nhiễu người ta. Khổ bỏ mẹ người ta rồi mới yên được một dạo rồi nay chúng lại giở quẻ. Lạy Chúa tôi! Tội nghiệp cho bà hoàng hậu! Tôi thấy bà trong chiếc xe bò chở ra pháp trường. Cứ lôi thôi thế này chỉ tổ thuốc là đắt. Quả là một sự điếm nhục! Thế nào cũng có ngày tao được trông thấy mày bị chém cổ.

    - Này mụ kia, Gavrrốt nói, đừng khịt mũi nữa. Lấy khăn xỉ mũi đi thôi!

    Rồi nó bỏ đi.

    Đến đường Pavê, sực nhớ tới mụ giặt giẻ, nó nói một mình:

    - Cố Góc xó à, cố mắng những người cách mạng là sai. Khẩu súng này là vì cố đấy. Để cho sau này trong cái sọt của cố có nhiều cái ăn được.

    Thình lình, nó nghe sau lưng mình có tiếng động. Thì ra mụ gác cổng Patagông vẫn đuổi theo nó và từ đằng xa giơ quả đấm ra dọa:

    - Đồ con hoang!

    - Cái đó ông đếch cần!

    Lát sau, nó đi qua khách sạng Lamanhông. Ở đây nó hô:

    - Tiến ra trận nào!

    Nhưng rồi nó ỉu xìu ngay. Nó nhìn khẩu súng có vẻ oán thán như muốn làm cho khẩu súng cảm động.

    - Tao thì ra trận, còn mày thì không chịu ra cho.

    Một con chó gầy rạc đi qua. Con chó làm quen cái cò súng. Nó thương hại kêu:

    - Tội nghiệp con tu hú! Mày nuốt chửng cái thùng rượu sao mà đai thùng lòi ra hết hai bên như thế?

    Rồi nó đi về phố Xanh Giécve.

    Chú thích:

    [1] một con: Một con chó. Nguyên văn chien vừa có nghĩa là chó vừa có nghĩa là cò súng

    [2] Gavrốt nhại một câu trong bài Mácxâyde, quốc ca Pháp
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  7. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    Chương III & IV & V

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lúc này anh thợ cạo đang bận cạo râu cho một bác lính già đã chiến đấu dưới cờ của hoàng đế. Đó là người thợ cạo đã xua đuổi hai đứa bé mà sau đó Gavrốt mở bụng mẹ voi đón vào. Họ nói chuyện với nhau. Dĩ nhiên anh thợ cạo nói với các cựu binh về chuyện bạo khởi, chuyện tướng Lamác, rồi từ tướng Lamác bắt sang hoàng đế. Từ đó nảy ra một cuộc nói chuyện giữa thợ cạo và lính mà nếu Ruyđom nghe được chắn sẽ thêm hoa hòe hoa sói vào và tra cho cái nhan đề: Cuộc đối thoại của dao cạo và gươm.

    - Thưa ông, anh thợ cạo nói, hoàng đế cưỡi ngựa thế nào ạ!

    - Kém! Ngài không biết ngã đâu. Cho nên chẳng bao giờ ngài cưỡi ngã ngựa.

    - Ngài có ngựa đẹp không? Chắc là ngài phải có ngựa đẹp chứ?

    - Ngày ngài đeo huân chương cho tôi, tôi có để ý con ngựa của ngài. Đó là một con ngựa cái đua, trắng tuyền, tai xiêu, lưng trũng, đầu thon có đốm, đen, cổ rất dài, khớp rất chắc, sườn nở, vai chếch, mông khỏe. Cao quá thước năm.

    - Ngựa đẹp nhỉ, anh thợ cạo kêu.

    - Đó là ngựa riêng của hoàng thượng.

    Anh thợ cạo cảm thấy cần phải im lặng một chút khi nghe tiếng đó thì mới đúng lễ. Anh làm thế, sau đó mới nói:

    - Hoàng đế chỉ bị thương có một lần thôi, phải không ông?

    Người lính già trả lời với giọng lớn lối và bình tĩnh của người tai nghe mắt thấy:

    - Ở gót chân, tại Ratixbon. Tôi chưa hề thấy ngài ăn mặc đẹp đẽ như hôm ấy. Sạch bong như một đồng xu.

    - Còn ông, thưa ông cựu chiến binh, chắc là ông bị thương nhiều lần?

    - Tôi ấy à! Ái chà! Cũng chả lấy làm gì ghêm gớm! Ở trận Marăngô tôi bị hai nhát chém vào gáy, ở Auxtéclít một viên đạn vào cánh tay phải, lại một viên đạn khác ở đùi trái tại Iêna, tại Fríetlăng một nhát lê vào.. đây nè, ở sông Moxkôva bảy, tám phát giáo vào bất kể nơi nào, rồi ở Oatéclô một mảnh đạn ghém vào vế. Chỉ có thế.

    Anh thợ cạo lấy giọng cầu kỳ hùng tráng kêu:

    - Ôi! Đẹp biết bao được chết ở chiến trường! Tôi viện danh dự thề rằng tôi không đành chết trên giường vì bệnh hoạn, chết dần chết mòn một ngày một ít, chết vì thuốc than, thuốc bó, ống tiêm, thầy thuốc, tôi thích chết vì một viên đạn đại bác bắn trúng bụng hơn!

    - Ông cũng dễ tính đấy nhỉ, người lính nói!

    Vừa dứt lời thì hiệu cạo rung lên vì một tiếng động kinh khủng. Một tấm kính ở quầy hàng bị vỡ đột ngột.

    Anh thợ cạo tái mặt.

    - Ối trời ôi! Anh kêu lên. Đúng là nó!

    - Gì kia?

    - Đạn đại bác.

    - Nó đây

    Người lính nói vậy rồi ngồi xuống nhặt một vật gì dưới đất. Đó là một hòn cuội

    Anh thợ cạo chạy ra chỗ cửa vỡ và trông thấy Gavrốt ba chân bốn cẳng chạy về phía chợ Xanh Giăng. Số là đi qua cử hiệu thợ cạo. Gavrốt vẫn nặng lòng vì chyện hai đứa bé, không thể cưỡng lại được cái ý thích chào hỏi lão, bèn ném một hòn đá vào cửa kính lão ta.

    - Bàng quan thiên hạ có thấy không chứ! Anh thợ cạo hét tướng lên, mặt từ xanh nhợt đã chuyển lên xanh tím. Cái ngữ này hại người vì tính ác. Cái thằng ranh ấy, ai làm gì nó mà thế chứ?

    IV

    CHÚ BÉ NGẠC NHIÊN VÌ CỤ GIÀ

    L' Enfant s' étonne du Vieillard)

    Gavrốt giờ đã đến chợ Xang Giăng. Bốt ở đấy giờ đã bị tước hết khí giới. Nó "liên lạc" được với đoàn do Ăngiônrát, Cuốcphêrắc, Côngbơphe và Phơdi chỉ huy. Họ được võ trang tạm đủ. Bahôren và Giăng Pơruve đã gặp họ và cùng nhập bọn.

    Ăngiônrát có một khẩu súng săn hai nòng, Côngbơphe cầm khẩu súng trường của quốc dân quân vẫn còn cả số hiệu của trung đoàn, áo khoác ngoài không cài cúc để lộ hai khẩu súng ngắn giắt ở thắt lưng. Giăng Pơruve có một khẩu súng ngắn kỵ binh. Bahôren cầm một khẩu súng ngắn, Cuốcphêrắc múa một cây gậy tra gươm đã tuốt trần. Phơiđi, mã tấu trong tay, đi đầu, vừa đi vừa hô: "Ba-lan muôn năm[1] !"

    Họ từ bến Morlăng lại, cổ không cà vạt, đầu không mũ, thở hổn hển, ướt như chuột lột, những mắt nẩy lửa. Gavrốt gặp họ, thản nhiên hỏi:

    - Ta đi đâu bây giờ?

    - Cứ đi với chúng tao, Cuốcphêrắc nói.

    Đằng sau Phơiđi là Bahôren. Chàng bước đi, hay nói đúng hơn là đang nhảy chồm chồm lên, chàng gặp bạo động như cá gặp nước. Chàng mặc áo gi-lê đỏ thẫm, miệng toàn nói chuyện dữ dội. Áo gi-lê của chàng làm một khách qua đường khiếp vía, hét lên:

    - Bọn đỏ đây rồi!

    - Màu đỏ! Bọn đỏ! Ồ tư sản! Sợ gì mà kỳ khôi thế! Ông đây thấy hoa mào gà đỏ ối ông cũng cóc run, thấy con bé quàng khăn đỏ ông cũng cóc sợ. Anh tư sản kia! Anh cứ nhìn tôi, hãy để cho lũ thú có sừng sợ màu đỏ.

    Chàng nhìn vào góc tường ở đấy dán một tờ giấy lời lẽ hòa bình nhất thế giới, đó là tờ thông báo của ông tổng thống giám mục Pari cho phép "con chiên" ăn trứng trong ngày kiêng thịt. Chàng kêu to:

    - "Con chiên" con cừu đó chỉ là một cách lịch sự để nói "con tườu[2]" mà thôi!

    Và chàng xé toạc tờ giấy. Cử chỉ này làm cho Gavrốt phục lăn. Từ phút này, Gavrốt bắt đầu học tập Bahôren. Ăngiôrát trách:

    - Cậu làm thế là sai. Cứ để yên tờ thông báo đấy, chúng ta có liên quan gì với nhau đâu. Cậu giận bừa giận bãi không có ít gì. Phải để dành lòng uất hận. Không ai bắn lung tung, giận dữ hay bắn súng cũng phải có đích chứ.

    - Mỗi người một tính, Bahôren cãi. Cái lối văn chương giám mục này làm tớ bực mình, tớ muốn ăn trứng chẳng cần xin phép ma nào hết. Cậu thuộc cái hạng lạnh như tiền mà đốt chết người ta. Tớ thích quấy. Với lại, tớ có phải làm việc vô ích đâu, tớ đang lấy đà, tớ xé tờ thông báo để cho nó ngon miệng sau này ăn nhiều cơm đấy. Mẹ tiên nhân nó!

    Chữ tiên nhân làm Gavrốt chú ý. Nó tìm mọi cơ hội để học hỏi và nó hâm mộ anh chàng xé tờ áp-phích kia. Nó hỏi:

    - Tiên nhân nghĩa là gì?

    - Thì cũng là tổ cha đấy thôi, có điều nói chữ là vậy.

    Đến đây, Bahôren nhận ra một thanh niên xanh xao, râu mọc đen sì đứng nhìn họ đi qua, ý chừng là hội viên hội ABC. Chàng gọi lớn:

    - Mau mau, đem đạn đến! Chuẩn bị chiến đấu! [3]

    Gavrốt lần này làm như hiểu chữ nghĩa lắm:

    - Ừ, ừ phải!..

    Đằng sau họ là một đoàn người nhốn nháo, sinh viên, nghệ sĩ, thanh niên vào hội Cuguốcdơ, công nhân, phu khuân vác, người cầm gậy, kẻ cầm lưỡi lê, có người như Côngbơphe giắt súng ngắn ở quần. Một cụ già rất già không có khí giới, bước vội để khỏi tụt lại mặc dầu cứ có vẻ tư lự. Gavrốt nhìn thấy, hỏi Cuốcphêrắc:

    - Talatenao?

    - Một cụ già.

    Người ấy là cụ Mabớp. (M. Mabeuf)

    Chú thích:

    [1] Hồi bấy giờ nhân dân Ba-lan đang nổi lên chống quân Áo, Phổ và Nga hoàng đã chia cắt và thống trị Ba-lan

    [2] nguyên văn chơi chữ giữa ouaille – cừu cái, nghĩa bóng là tín đồ hay con chiên và oie – ngỗng. Con tườu – con khỉ

    [3] nguyên văn Latinh: Para bellun

    V

    Ông Cụ Già

    (Le Vieillard)

    Ăngiônrát và các bạn của chàng đi trên đường Buốcđông (Bourdon) gần kho lương thực khi bọn lính đầu rồng tấn công. Ăngiônrát (Enjolras), Cuốcphêrắc (Courfeyrac) và Côngbơphe (Combeferre) cùng với nhiều người khác kéo nhau về đường Bátxompie (Bassompierre) vừa đi vừa hô: Hãy đến chiến lũy! Đến đường Lêđighie (Lesdiguières), họ gặp một cụ già đang đi.

    Cụ làm họ chú ý vì cụ đi chệnh choạng như người say. Ngoài ra, tuy cả buổi sáng trời mưa và ngay lúc bấy giờ mưa khá nặng hạt, cụ vẫn cầm mũ mà đi. Cuốcphêrắc nhận ra cụ Mabớp. Chàng nhận ra vì chàng đã nhiều lần đưa Mariuytx đến nhà ông cụ. Vốn biết tính cụ già ham sách mà xưa hay không hiếu sự lại rụt rè đến nhút nhát, chàng sửng sốt khi thấy ông cụ đứng giữa nơi hỗn loạn này, chỉ cách vài bước với toán kỵ binh đang xông ra, gần như ngay giữa đám bắn nhau, trời thì mưa, đầu vẫn không đội mũ mà dạo qua dưới dàn đạn. Chàng chạy lại. Chàng thanh niên hai mươi lăm tuổi đang bạo động và ông già tám mươi nói chuyện với nhau:

    - Cụ Mabớp, cụ về nhà đi!

    - Tại sao?

    - Sắp choảng nhau to.

    - Tốt.

    - Sắp đâm chém nhau, bắn nhau, cụ Mabớp ạ.

    - Tốt.

    - Có cả đại bác đấy!

    - Tốt. Các anh đi đâu?

    - Đi lật đổ chính phủ.

    - Tốt lắm.

    Và ông cụ đi theo họ. Từ lúc ấy, ông cụ không nói nửa lời.

    Bước chân cụ bỗng trở nên chững chạc. Mấy công nhân giơ tay dắt, cụ lắc đầu. Cụ tiến lên hàng đầu, cử chỉ là cử chỉ của người đang đi nhưng vẻ mặt lại là vẻ mặt của người đang ngủ. Bọn sinh viên thì thầm:

    - Ông cụ này hăng máu gớm!

    Trong đám đông người ta kháo nhau rằng xưa kia, cụ thuộc viện dân ước, đã bỏ phiếu xử tử vua.

    Cả bọn đi qua phố Verơri. Chú Gavrốt đi đầu vừa đi vừa hát lên như những anh lính kèn. Chú hát:

    Kìa trăng mới mọc

    Bao giờ ta vào rừng?

    Sáclô hỏi Sáclốt

    Tu tu tu

    Đi Satu

    Ta chỉ có một chúa, một vua,

    Một chiếc giầy và một đồng xu.

    Vì uống sương sớm qua

    Ở ngọn lá kê minh

    Đôi chim di say là

    Di di di

    Đi Pari

    Ta chỉ có một chúa, một vua,

    Một chiếc giầy và một đồng xu.

    Tội nghiệp hai con lang

    Say tít như sáo sáo

    Hổ bật cười trong hang

    Đông đông đông

    Đi Mơđông

    Ta chỉ có một chúa, một vua,

    Một chiếc giầy và một đồng xu.

    Người rủa, người văng tục,

    Bao giờ ta vào rừng?

    Sáclô hỏi Sáclốt

    Tanh tanh tanh

    Đi Păngtanh

    Ta chỉ có một chúa, một vua,

    Một chiếc giầy và một đồng xu.

    Họ kéo nhau về phố Xanh Meri. (Saint Merry)
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  8. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN XII

    CÔ RANH Chương I


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày nay những người Pari đi từ phía chợ đi vào phố Răngbuy tô thường để ý về bên phải, ở trước phố Môngđêtua, một hiệu làm đồ mây dùng làm bảng hiệu một cái giỏ mang hình dáng Napôlêông đại đế, với những chữ khắc: NAPÔLÊÔNG LÀM TOÀN BẰNG MÁY.

    Những người ấy không mảy may ngờ rằng tại đây đã diễn ra những cảnh tượng kinh hồn cách mới ba mươi năm thôi.

    Nơi đây ngày xưa là phố Săngvrơri mà giấy mực cũ viết là Săngverơri, có cái quán rượu nổi tiếng gọi là Côranh.

    Bạn đọc còn nhớ những điều đã nói trên nói về chiến lũy dựng lên ở đây, chiến lũy này vốn bị chiến lũy phố Xanh Mari át đi. Chúng tôi sẽ rọi một ít ánh sáng vào cái chiến lũy phố Săngvrơri lừng danh ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên đó.

    Bạn đọc hãy cho phép chúng tôi dưng lại cái phương pháp giản đơn đã dùng khi nói về trận Oatéclô, để cho câu chuyện càng sáng tỏ. Những ai muốn hình dung một cách khá đúng đắn những khối nhà thuở ấy ở gần mũi Xanh Ơxtasơ, góc đông bắc chợ Pari, nơi ngày nay là phố Răngbuytô, thì hãy tưởng tượng ra một chữ N. Chữ N đó đầu giáp phố Xanh Đơni, chân tựa khu chợ, hai nét đứng là hai phố Grăngđơ Tơruyăngđri và Săngvrơri, nét huyền là phố Pơtit Tơruyăngđri. Phố Môngđêtua cũ kỹ cắt ngang các phố kia bằng những góc khúc khuỷu nhất. Tất cả bốn đường phố chằng chịt rối rắm đó đủ để tạo nên bảy cụm nhà cửa cách biệt nhau như bảy hòn đảo nhỏ, trong một khoảnh đất không rộng quá bốn mẫu, giữa một bên là khu chợ và phố Xanh Đơni, một bên là phố Xinhơ và phố Prêsơ. Bảy cụm nhà đó lớn nhỏ khác nhau, hình thù kỳ dị, xếp đặt ngang ngửa như là ngẫu nhiên hình thành, và cách nhau chỉ bằng những kẽ hẹp y như các tảng đá trong một công trường.

    Chúng tôi nói những kẻ hẹp là để bạn đọc có một ý niệm chính xác về những đường phố tối tăm, chật hẹp, đầy góc cạnh, hai bên có những ngôi nhà ọp ẹp tám tầng. Những ngôi nhà ấy già nua mục nát đến nỗi các mặt tiền quay ra phố Săngvrơri và phố Pơti Tơruyăngđri từ nhà này sang nhà khác đều có những cây đòn dài chống đỡ. Đường phố hẹp mà lòng lại rộng cho nên người đi đường cứ phải luôn luôn giẫm lên tảng đá ẩm ướt, đi sát những hiệu hàng giống các buồng hầm, những trụ bọc niềng sắt, những đống rác quá cỡ, những cổng có cửa lớn to lớn và cũ kỹ.

    Cái tên Môngđêtua[1] nói được cái tài tình cái cảnh khúc khuỷu của các đường phố đó. Xa hơn một chút, người ta còn thấy cảnh ấy được diễn ra thần tình hơn nữa với cái tên phố Piruét[2], phố này đổ ra phố Môngđêtua.

    Người đi đường từ phố Xanh Đơni vào phố Săngvrơri thấy nó hẹp dần lại như đi vào một cái phểu sâu. Đường phố rất ngắn, đến cuối phố sẽ thấy một dãy nhà cao chắn lối về phía khu chợ. Người khách tưởng mình đã đi vào một ngõ cụt nếu không thấy hai bên, có hai lối đi tối như đường hầm. Đó là phố Môngđêtua, phía bên này thì dẫn đến phố Xinhơ và phố Pơtit Tơruyăngđri. Ở đây cái thứ ngõ cụt đó, nơi góc đường hầm rẽ phải, người ta để ý đến một ngôi nhà thấp hơn các cái khác và nhô ra đường.

    Cái nhà có hai tầng gác đó chính là nơi từ ba trăm năm nay chễm chệ một cái quán bất hủ. Cái quán ấy là một nốt nhạc vui ở chính cái nơi mà ông bạn Têôphin[3] đã chỉ ra trong hai câu thơ:

    Nơi đây đu đưa một bộ xương gớm ghiếc

    Của một chàng trai tội nghiệp treo cổ vì tình.

    Chỗ này thuận lợi, chủ quán cha truyền con nối dọn hàng ở đây.

    Thời Matuyranh Rênhiê[4], cái quán ấy lấy tên là Lọ-hoa-hồng[5] . Vì thời ấy có cái mốt lấy hình đoán chữ, cho nên bảng hiệu của nó là một cái cọc sơn hồng. Thế kỷ trước, họa sỹ Natoa, một bậc thầy về lối hiếu kỳ ngày nay bị trường phái cứng nhắc khinh thị, đã từng ngồi uống say khướt ở cái bàn xưa kia Rênhiê cũng đánh chén bí tỉ. Để tỏ lòng bết ơn, Natoa đã vẽ một chùm nho xứ Côranhtơ trên cái cọc hồng. Anh chủ quán thích thú thay bảng hiệu cũ bằng cái bảng hiệu mới đó và thuê người ta khắc và thiếp vàng mấy chữ: Quán nho Côranh ở dưới chùm nho. Do đó mà quán có tên Quán Côranh. Bọn say sưa lược bớt tiếng bớt chữ là thường. Phép lược từ làm câu trở nên ngoằn ngòeo. Côranh dần dà truất vị Lọ- hoa-hồng. Người đại diện sau cùng của dòng họ chủ quán đó, Bác Huysơlu, đã sơn lại các cọc bằng, màu xanh, bởi vì ông không biết lai lịch truyền thống của nó.

    Một phòng dưới có đặt quầy thu tiền, một phòng ở tầng một có đặt bàn bi-a, một cầu thang gỗ xoáy trôn ốc chọc trần, rượu vang trên các bàn, muội khói trên quán. Một cầu thang có nắp bên dưới dẫn xuống căn hầm. Chỗ ở của gia đình Huysơlu ở tầng hai. Họ leo lên tầng hai bằng một cầu thang, có vẻ một chiếc thang gỗ hơn là một chiếc cầu thang đi vào phải qua một cái cửa khuất ở phòng lớn tầng một. Áp mái có hai buồng làm ổ cho các chị ở gái. Ngoài hai tầng gác thì hai tầng nền làm chỗ đặt quầy thu tiền và nhà bếp.

    Bác Huysơlu chắc sinh ra là nhà hóa học: Thực tế bác là người nấu bếp. Ở quán bác, không chỉ có uống rượu, mà có cả cái ăn nữa. Huysơlu đã phát minh ra một món tuyệt ngon, chỉ có ở quán bác mới có: Đó là món cá chép nhồi mà bác gọi là chép rán béo. Người ta ăn món đó dưới ánh nến mỡ bò, hoặc một cây đèn nhỏ thời Lu-i XVI, trên những bàn phủ vải dầu đóng đanh vào mặt bàn, thay khăn bàn. Khách từ xa đến. Bác Huysơlu một sớm mai nọ bỗng nảy ra cái ý kiến hay ho là phải báo cho khách qua đường biết món "đặc sản" của mình. Ông ta nhúng cây bút lông vào một cái lọ hắc ín, và vì có một lối viết của mình, ông ta đã ứng tả trên tường quán những chữ đáng chú ý này:

    CARPES HOGRAS

    Một mùa đông nọ, mưa và tuyết trớ trêu đã xóa chữ S ở cuối đầu từ và chữ G đầu từ thứ ba, còn lại những chữ:

    CARPES HO RAS[6]

    Thời gian và mưa móc đã phụ giúp vào để biến một hàng chữ thực đơn khiêm tốn thành một lời đời sâu sắc như thế đó.

    Thế là bác Huysơlu dù không biét tiếng Pháp nhưng vẫn biết La tinh, bác đã đem triết học từ nhà bếp ra và chỉ muốn vượt Carêm[7] thôi, bác đã thực sự tỏ ra thiên tài như Horaxơ[8] .

    Tất cả những cái ấy ngày nay đều không còn gì. Cái khu bàn cờ Môngđêtua đã bị xẻ ra và mở toác từ năm 1847 và chắc là hôm nay đã mất hẳn. Đường phố Săngvrơri và đường phố Côranhtơ đã lấp dưới đất đá lát đường phố Răngbuytô.

    Chúng tôi đã nói, quán Côranh là nơi họp mặt, cũng là nơi liên lạc của Cuốcphêrắc và các bạn anh. Chính Grăngte đã phát hiện ra nơi đó vì châm ngôn "Tận hưởng" của Horaxơ và trở lại đó vì những con "cá chép rán béo". Ở đây, họ uống, họ ăn, họ la hét, họ trả ít tiền, họ trả không ra sao, họ chẳng trả gì cả, thế mà họ vẫn được tiếp đãi ân cần. Bác Huysơlu là một người tốt bụng.

    Huysơlu, chúng tôi vừa nói, con người tốt bụng, là một ông chủ quán có râu mép. Một loại chủ quán buồn cười. Bác luôn có vẻ cau có, trông như muốn dọa nạt khách, càu nhàu với họ, và trông như sẵn sàng kiếm chuyện gây gổ với họ hơn là dọn xúp cho họ ăn. Tuy nhiên, chúng tôi khẳng định, ai đến đó cũng được tiếp đãi ân cần. Cái điều kỳ khôi này làm cho bác đắt khách, nhiều thanh niên thấy vậy liền đổ đến, bụng bảo dạ: Đến xem bác Huysơlu "làm nghề tay trái". Bởi vì bác xưa kia là thầy giáo dạy kiếm thuật. Bỗng nhiên bác cười oang oang. Tiếng to là tốt tính. Ở ông bên trong là hài, bên ngoài là bì, ông không thích gì hơn là làm cho anh khiếp, giống như những hộp thuốc lá làm theo hình khẩu súng ngắn. Nó nổ thành tiếng hắt hơi.

    Bà vợ ông, bà Huysơlu là một bà có râu, xấu xí.

    Vào khoảng 1830, bác Huysơlu qua đời. Bác mất, bí quyết cá chép rán béo cũng mất. Bà vợ góa rầu rĩ vì chồng, vẫn tiếp tục mở quán. Nhưng món ăn mất phẩm chất trở nên đáng ghét, còn rượu vang từ trước vẫn kém, đến nay thì quá tệ. Tuy vậy Cuốcphêrắc và các bạn anh vẫn đến quán Côranh- vì thương hại, như Bôtxuyê nói.

    Bà góa Huysơlu hình thù dị hợm, luôn luôn thở dốc. Bà có những kỷ niệm về đồng quê. Kỷ niệm nhạt phèo, nhưng cách phát âm của bà khiến cho nó có đôi phần ý nhị. Khi nhắc những chuyện thôn dã trong tuổi xuân, bà có cách làm cho nó mặn mà. Bà nói ngày xưa, bà rất thích thú nghe "con chim đỏ ức hót trên nhánh chùm xuân".

    Phòng ở tầng gác một, nơi khách ăn, là một phòng rộng và dài ngổn ngang những ghế đẩu, ghế tựa, ghế dài, bàn và một cái bàn bi-a cũ khập khiểng. Người ta đến đó bằng cái cầu thang xoắn trôn ốc, nó đưa đến góc phòng qua một cái lỗ vuông giống cái cửa lên boong tàu.

    Cái phòng ấy chỉ có một cái cửa sổ hẹp, và một đèn con luôn luôn sắp soi sáng. Những bàn ghế có bốn chân đều ọp ẹp như chỉ có ba chân. Tường quét nước vôi trắng không được trang trí gì ngoài bài thơ tứ tuyệt đề tặng bà Huysơlu.

    Cách nàng mười bước ta kinh ngạc, cách hai ta kính sợ

    Một nốt ruồi ngự trị trên cái mũi phiêu lưu

    Lúc nào ta cũng run, chỉ sợ nàng khịt ra nó

    Và có ngày, mũi nọ nhằm mồm kia chui vào

    Bài thơ đó được viết bằng than lên tường.

    Bà Huysơlu khá giống người trong thơ, sớm chiều đi lại trước bài thơ tứ tuyệt kia một cách tuyệt đối ung dung. Hai ả tớ gái không có tên gì khác ngoài tên Matơlô và Gibơlốt, giúp bà Huysơlu đặt lên bàn những vò rượu xanh, và dọn cho khách đói lòng những món canh, xúp linh tinh đựng trong dĩa đất nung. Matơlô to, tròn, tóc hung, mồm xoen xoét, nguyên là ái phi của bác Huysơlu qua cố, là một người đàn bà xấu xí, xấu hơn bất cứ con quái vật huyền thoại nào. Tuy nhiên, vì theo lẽ thì người ở phải đứng sau chủ nhà, ả còn có phần đỡ hơn bà Huysơlu. Gibơlốt thì dài thườn thượt, mảnh khảnh, trắng trợt như người bị bệnh máu trắng, mắt có quầng, mí sập xuống, luôn luôn mệt mỏi kiệt sức như người có thể nói là người mắc chứng uể oải kinh niên, thức dậy trước mọi người và đi ngủ sau mọi người, ả phục vụ tất cả mọi người, kể cả người tớ gái kia, một cách dịu dàng, lặng lẽ, miệng có nụ cười mơ hồ của người mỏi mệt đang ngủ thiếp đi.

    Trên bàn thu tiền có một tấm gương.

    Trước khi bước vào phòng ăn, kháhc hàng đọc trên cánh cửa câu thơ Cuốcphêrắc viết bằng phấn như sau:

    Thết bạn đi nếu được, ăn đi nếu anh dám.

    Chú thích:

    [1] khúc quanh co, khúc ngoặt của tôi

    [2] con quay, một vòng xoay người

    [3] nhà thơ, nhà văn lãng mạn Pháp thế kỷ 19 sinh sau Victo Huygo độ mươi năm

    [4] nhà thơ trào phúng Pháp thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17

    [5] Pot aux roses – lọ cắm hoa hồng. Theo các âm tiết đó, có thể viết cách khác Poteau rose cọc hồng

    [6] Carpes au gras: Cá chép rán béo, Huysơlu viết sai thành carpes hogras, rồi vì mưa tuyết lại thành Carpe ho ras đọc như Carpe Horace và có thể hiểu châm ngôn"Tận hưởng carpe của Hônraxơ xem thêm chú thích về Horace. Những lối chơi chữ này không chuyển ra tiếng Việt được

    [7] một đầu bếp Pháp có tài, đã viết nhiều sách dạy nấu ăn thế kỷ 19

    [8] nhà thơ La Mã nổi tiếng, đã khuyên người ta sống hưởng thụ với châm ngôn Carpe diem: Hãy tận hưởng cái ngày hôm nay
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  9. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN XVII - MARIUYTX TRONG BÓNG TỐI

    Chương I & II

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cái tiếng gọi qua cảnh hoàng hôn, bảo Mariuytx đến chiến lũy phố Săngvrơri, Mariuytx tưởng như tiếng gọi của Định mệnh. Chàng muốn chết thì cơ hội đã đến chàng đương gõ cửa âm cung thì một bàn tay nào trong bóng tối đã đưa cho chàng chìa khóa âm cung. Sự mở cửa đón chào ảm đạm trong bóng tối như thế có ma lực hấp dẫn những con người thất vọng. Vì vậy, Mariuytx đẩy cái song sắt đã bao lần để cho chàng vào vườn, rồi chàng bước ra đường, nói: Nào thì đi!

    Mariuytx đau khổ như điên như dại, đầu óc chàng hoàn toàn rối loạn. Sau hai tháng say sưa ngây ngất với tình yêu, với tuổi trẻ, bây giờ chàng không thể chịu đựng một sự khe khắt nào của số mệnh cả. Tư tưởng miên mag trong niềm thất vọng, chàng chỉ còn một mơ ước là chết cho mau.

    Chàng rảo bước đi nhanh. Ngẫu nhiên mà chàng đã được vũ trang vì chàng vẫn giữ hai khẩu súng lục của Giave.

    Người thanh niên đến gọi chàng đã mất hút trong các ngã phố.

    Mariuytx đi đến phố Pơluymê, qua một con đường lớn, vượt quảng trường Expơlanát và cầu Anhvalít, theo con đường Săng Êlidê, lại vượt quảng trường Luy XIV rồi đến phố Rivôli. Ở đây các cửa hiệu vẫn mở bán, đèn khí vẫn thắp sáng trưng dưới các vòm cuốn, phụ nữ mua sắm lăng xăng trong tiệm, ở cửa hàng cà phê Lete người ta ăn kem, khách hàng vẫn ăn bánh ngọt trong cửa hàng bánh Ănglê. Chỉ có vài chiếc xe trạm từ khách sạn Lơ Pơranhxơ và khách sạn Mơrít ra đi nhanh như biến.

    Mariuytx đi qua ngõ Đơloóc để vào phố Xanh Ônôrê. Ở đây, hàng hiệu không bán, các chủ hiệu đứng nói chuyện với nhau bên ngoài cánh cửa mở hé, ngoài đường người ta còn đi lại, đèn phố vẫn sáng, trong nhà, từ tầng một, vẫn có ánh đèn ở cửa sổ như mọi ngày. Ở quảng trường Pale Rôian, có kỵ binh tập trung.

    Mariuytx đi dọc theo phố Xanh Ônêrê. Càng đi xa hoàng cung, càng ít thấy ánh đèn ở cửa sổ. Hàng hiệu đóng kín mít, trước hiên không ai nói chuyện vãn, đường phố tối dần mà người ta càng đông. Người qua đường ở đây dồn thành một đám đông. Trong đám đông ấy, không nghe ai nói cả, tuy vậy vẫn còn có một thứ ồn ào âm ỉ.

    Ngang giếng máy Acbrơxêc, có những đám người tập họp, những đám đông ấy lặng lẽ đứng yên một chỗ giữa những khách đi đường như hòn đá giữa dòng nước xuôi.

    Vào đến phố Pruve thì hoàn toàn không còn ai đi lại. Dòng người đã kết thành một khối chắc nịch, dày đặc, hầu như không thể chen vào được nữa. Những người ấy nói chuyện thì thầm. Hầu như không có cái áo đen, cái mũ tròn[1] nào. Chỉ có áo khoác vải, áo bờ-lu, mũ két, đầu trần, tóc lổm chổm, mặt sạm. Cái biển người ấy gợn gợn trong sương mù ban đêm. Tiếng lầm rầm của nó nghe gay gắt như một tiếng rít. Mặc dù không ai đi lại, người ta vẫn nghe bước chân giẫm trên bùn.

    Qua khỏi biển người dày đặc ấy, ở phố Rulơ, phố Pruve và quảng tiếp phố Xanh Ônêrê, tuyệt đối không còn ánh đèn cửa sổ. Chỉ còn mấy dãy đèn phố cô đơn và mờ nhạt dần trong khoảng xa. Thòi ấy, đèn phố tương tự như những chiếc sao đỏ to treo lơ lửng giữa không trung, chiếu xuống mặt đất một cái bóng đèn có hình thù một con nhện to tướng. Các phố này không phải là vắng ngắt. Người ta thấy lờ mờ những cây súng dựng chụm đầu lại, những mũi lưỡi lê động đậy, và nhiều toán quân cắm trại. Ở đấy, sự đi lại tắc hẳn. Ở đấy lĩnh vực của quần chúng nhân chấm dứt, lĩnh vực của quân đội nhà nước bắt đầu.

    Mariuytx có cái quyết tâm của người tuyệt vọng. Người ta gọi chàng thì chàng phải đi cho bằng được. Chàng làm thế nào thì không biết, nhưng đã chen qua biển người, đã vượt vùng đồn lính, đã trốn thoát các đội tuần tra, đã tránh khỏi những lính gác. Chàng tạt qua con đường Bêtidi và đi vào khu chợ. Đến cầu đường Buốcđônne thì không còn ngọn đèn phố nào nữa.

    Vượt khỏi vùng quần chúng tụ tập, vượt khỏi đội dồn binh, chàng rơi vào một nơi kinh khiếp. Không một bóng lính, không một bóng bộ hành, không ánh đèn, không ai cả. Chỉ có quạnh quẽ, im lìm trong bóng tối, và một cái gì như một luồng khí lạnh thấm buốt vào xương. Bước vào một đường phố ở đây cũng như bước vào hầm nhà lạnh lẽo.

    Mariuytx vẫn đi tới.

    Được mấy bước chàng thoáng thấy có người chạy qua bên cạnh chàng. Đàn ông hay đàn bà? Nhiều người hay chỉ có một? Chàng không biết. Người ta thoáng qua rồi biến mất.

    Quanh quẩn một hồi rồi Mariuytx đến một ngõ phố mà chàng mà chàng đoán là phố Đơtơri. Đi được nửa phố, chàng va phải một vật chướng ngại. Chàng đưa tay sờ: Đó là một cỗ xe bị lật ngược. Chân chàng giẫm phải những vũng nước, những vết lún, những tảng đá rời chất thành đống. Đó là một cái chiến lũy mới bắt đầu dựng rồi bỏ dở. Chàng trèo lên dãy đá, nhảy qua phía bên kia. Chàng đi sát mấy cây trụ vôi và men theo các tường gạch mà tiến lên. Quá cái chiến lũy bỏ dở một đoạn, chàng lờ mờ trông thấy cái gì trăng trắng. Đến gần thì vật ấy hiện rõ: Đó là hai con ngựa bạch. Hai con ngựa đó là hai con ngựa kéo xe hàng, do Bôtxuyê tháo ra lúc ban sáng. Chúng đi lang thang suốt ngày, cuối cùng dừng lại đây một cách nhẫn nại vì không hiểu nổi hành động của loài người, cũng như loài người không hiểu nổi hành động của tạo hóa..

    Mariuytx vượt qua chỗ hai con ngựa đứng. Khi chàng bước vào một con đường phố mà chàng cho là phố "khế ước" thì có một phát súng, không biết bắn vu vơ từ đâu đến, làm sáng khoảng đêm, viên đạn rít bên tai chàng và làm thủng cái đĩa đồng ở ngay trên đầu chàng, một cái đĩa để cạo râu mà người thợ cạo để treo trước cửa hiệu để quản cáo. Năm 1864, ở phố Khế ước, trong một cột chợ, vẫn còn cái đĩa thợ cạo thủng đó.

    Tiếng súng ấy hãy còn là cảnh sống. Từ lúc ấy trở đi, Mariuytx mới thật hoàn toàn ở trong cảnh vắng lặng không người.

    Hành trình vừa trải qua của Mariuytx không khác một hành trình đi xuống những bậc thang tối tăm của âm cảnh.

    Tuy vậy chàng cứ đi tới.

    II

    PARI DƯỚI CÁNH CÚ BAY

    (Paris à vol de hibou)

    Ai có cách gì bay lượn trên thành phố Pari lúc bấy giờ với đôi cánh dơi hay cánh cú ắt tìm thấy một cảnh ảm đạm.

    Cái khu chợ xưa cũ ấy giống như một thành phố ở trong một thành phố, đường phố Xanh Đơni và đường phố Xanh Máctanh chạy xuyên qua khu ấy và hàng nghìn phố nhỏ và ngõ phố đâm ngang dọc qua hai đường kia, cái khu chợ mà những người khởi nghĩa lấy làm căn cứ và đồn trú đó, người lượn trên cao sẽ nhìn thấy như một cái hố đen tối và khổng lồ đào giữa Pari. Con mắt như rơi vào vực thẳm.

    Vì đèn đường bị đập vỡ hết, cửa sổ đóng kín hết, nên ở đây không còn tia sáng nào, không còn dấu hiệu nào của sự sống, không còn tiếng động nào, sự cử động nào. Lực lượng cảnh sát vô hình của quân khởi nghĩa canh gác khắp nơi và duy trì trật tự, tức là đêm tối. Giấu số ít trong màn đêm rộng lớn, nhân chiến đấu của mỗi chiến sĩ lên bằng những khả năng tiềm tàng trong bóng tối, đó là chiến thuật cần thiết của khởi nghĩa. Khi đêm xuống, mỗi nguời thắp sáng nến lên đều bị một phát đạn: Ánh sáng tắt đôi khi người chết. Bởi vậy không còn gì động đậy ở đây nữa. Chỉ còn kinh hãi, tang tóc, hoảng hốt trong các ngôi nhà, ở ngoài đường thì một không khí ghê rợn thiêng liêng. Cả đến những hàng dài cửa sổ và tầng gác, những nhấp nhô của ống khói và mái nhà, những ánh phản chiếu lờ mờ trên nền đường lầy lội ẩm ướt. Mắt nhìn từ trên cao xuống cái vùng mờ tối ấy có lẽ sẽ nhìn thấy đây đó, cách từng quãng, có những ánh sáng lù mù làm hiện lên những đường gãy góc kỳ dị, nhưng dạng kiến thiết khác thường, một cái gì như những ánh ma trơi giữa một di tích đổ nát, đó là các chiến lũy. Ngoài ra là một cái hồ bóng tối đầy sa mù nặng nề, ảm đạm trên đó nổi lên sừng sững hình dáng im lìm và rùng rợn của tháp Xanh Giắc, nhà thờ Xanh Meri và hai hay ba tòa nhà đồ sộ khác, những công trình khổng lồ mà con người xây dựng đó đêm tối lại biến thành hình ma bóng quỉ.

    Chung quanh cái trận đồ bát quái vắng vẻ và dễ sợ đó, ở các khu phố giao thông chưa tắc nghẽn và còn vài chiếc đèn đường thưa thớt đang soi sáng, người quan sát trên không sẽ thấy lấp lánh mã tấu và lưỡi lê, sẽ nghe tiếng lăn thăng trầm của các tiểu đoàn im lặng đến nỗi mỗi phút càng đông. Một vành đai dữ dội từ từ thắt chặt và vây kín đám nghĩa quân.

    Khu vực bị bao vây chỉ còn một thứ hang quái đản, ở đấy cái gì cũng có vẻ như ngủ yên hoặc bất động và như ta đã thấy, mỗi đường phố đều chỉ bày cho ta thấy có bóng đêm.

    Bóng đêm hung dữ, đầy cạm bẫy, đầy những va chạm khó biết và đáng sợ, bóng đêm vào thì kinh sợ và ở đó thì ghê hồn, bóng đêm mà ai xông vào thì rùng mình trước kẻ chờ đợi, ai chờ đợi thì giật mình trước kẻ xông vào. Mỗi góc phố có những chiến sĩ vô hình trụ chốt, phải chăng đó là cạm bẫy của nhà mồ giấu trong đêm sâu? Thật hết rồi. Không mong còn ánh sáng nào ngoài chớp lóe của phát súng, còn hội ngộ nào ngoài hội ngộ đột ngột và may mắn với tử thần. Ở chỗ nào? Cách thế nào? Bao giờ? Không biết nhưng chắc chắn, không thể tránh. Ở đây, ở chỗ đã định làm chiến trường này, chính phủ và nghĩa quân, quốc dân quân và các tổ chức quần chúng, giai cấp tư sản và dân chúng bạo khởi sắp sáp trận trong mò mẫm. Cả hai bên đều chỉ có một nhu cầu: Chết hay là thắng, không có lối ra nào khác.

    Tình thế đã đến chỗ triệt để, bóng đêm đã đến mức dữ dội mà những kẻ rụt rè nhất đâm ra cương quyết, còn người bạo dạn nhất lại hóa ra hoảng hốt.

    Ngoài ra, ở hai phía đều cuồng phẫn, hung hãn quyết tâm ngang nhau. Đối với những kẻ này, tiến lên là chết, nhưng chẳng ai nghĩ đến thối lui, đối với những người kia ở lại là chết nhưng chẳng ai nghĩ đến bỏ chạy.

    Ngày mai cần phải xong cả, cần phải bên này hay bên kia thắng, cần phải thấy cuộc khởi nghĩa là một cuộc bạo động xoàng. Chính phủ cũng hiểu điều ấy giống như các đảng phái, anh tư sản tầm thường nhất cũng cảm thấy như thế. Do đó một tư tưởng khắc khoải phảng phất trong bóng tối dày đặc của khu phố mà mọi việc sẽ định đoạt, một cảm giác lo âu hồi hộp tăng lên chung quanh sự yên lặng từ đó tai họa sẽ xảy ra. Ở đấy chỉ nghe thấy có một thứ tiếng, một tiếng thảm như tiếng rên, đe dọa như tiếng nguyền rủa, tiếng chuông nhà thờ Xanh Mêri. Không gì rợn người cho bằng tiếng kêu thất thanh và thất vọng của cái chuông đó khi nó kể lể khóc than trong đêm tối.

    Cũng thường khi như thế, vạn vật cũng dường như đã thỏa thuận về công việc mà con người sắp làm. Không gì làm vướng bận cái vẻ hài hòa thảm đạm của nơi này cả. Sao đã biến hết, nhiều đám mây nặng nề dàn những nếp buồn rầu che kín chân trời. Trời đen sẫm che đen các đường phố chết tựa như một tấm khăn liệm mênh mông bọc phủ nấm mộ bao la này.

    Trong khi cuộc đấu tranh hãy còn hầu như là chính trị sắp diễn ra ở nơi đã chứng kiến biết bao biến cố cách mạng, trong khi thanh niên, các hội kín, các trường học vì nguyên tắc, và các tầng lớp trung lưu vì quyền lợi, mà tiến lại gần nhau để va nhau, ôm siết nhau và vật ngã nhau, trong khi mỗi người mong mỏi và thúc giục cho cái giờ chót, giờ quyết định cuộc khủng hoảng mau đến thì ở nơi xa, ở ngoài khu vực nguy hiểm này, ở tận đáy những hang cùng thăm thẳm của thành phố Pari nghèo khổ bị che lấp bởi thành phố Pari lộng lẫy, sung sướng và giàu sang, người ta nghe thấy tiếng rền rền tiếng thét trầm trần của dân chúng.

    Một tiếng dễ sợ, một tiếng thiêng liêng làm bằng tiếng gầm của con thú hòa với lời phán của Chúa trời, một thứ tiếng làm cho con người hiểu biết nghiệm ra lẽ đời nhu nhược hoảng hồn, một thứ tiếng từ dưới lên như tiếng gầm của sư tử, từ trên xuống như tiếng rên của sấm trời.

    [1] y phục tư sản
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
  10. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Bài viết:
    392
    QUYỂN XIV - NHỮNG NÉT VĨ ĐẠI CỦA THẤT VỌNG I

    Chương I

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vẫn chưa có gì xảy ra. Chuông nhà thờ Xanh Meri đã điểm mười giờ từ lâu. Ănggiônrátx và Côngbơphe, xách súng đến ngồi bên cạnh chỗ khe hở của chiến lũy chính. Hai người không nói gì với nhau, chỉ lắng tai nghe cả đến tiếng chân người dù dội nhẹ và xa nhất.

    Bất thình lình, giữa không khí yên tĩnh hãi hùng ấy, hình như từ phố Xanh Đơni, một giọng hát trẻ thơ, trong trẻo, vui vẻ, cất lên lanh lảnh. Giọng hát theo điệu Dưới ánh trăng, một điệu dân ca cổ, nhưng lời là một bài thơ mà câu cuối là một tiếng reo giống như tiếng gà gáy:

    Mũi ta nó khóc dầm

    Hỡi ông bạn Buygiô!

    Cho ta mượn mấy sen đầm

    Ta nói chuyện với chúng cho!

    Mình khoác áo tơi xanh,

    Đây đã đến ngoại thành!

    Ò ó o o.. o!

    Hai người xiết tay nhau, Ănggiônrátx bảo:

    - Tiếng Gavrốt.

    - Nó báo tin cho mình đấy- Cônbơphe tiếp.

    Có tiếng chân chạy hấp tấp qua đường phố vắng. Rồi một bóng người nhanh nhẹn hơn cả một anh hề rạp xiếc leo qua chiếc xe hàng. Và Gavrốt nhảy phóc vào bên trong chiến lũy, vừa thở hổn hển vừa nói:

    - Súng của em đâu? Chúng nó đến rồi kìa.

    Cả chiến lũy như bị điện giật. Nghe tiếng những bàn tay sờ soạng cầm súng lên. Ănggiônrátx hỏi:

    - Em muốn lấy khẩu súng cácbin của anh không?

    - Em ưng khẩu súng trường kia, Gavrốt đáp.

    Và nó cầm khẩu súng trường của Giave.

    Hai người cảnh giới cũng vừa rút lui và trở vào chiến lũy theo gót Gavrốt. Đó là hai người ở phía đường phố và ở phía Pơtit Tơruyăngđri. Người gác ở ngõ Pêrêsơ vẫn còn tại chỗ, như thế nghĩa là chưa có dấu hiệu tấn công từ phía cầu và phía chợ.

    Trên đường phố Săngvrơri chỉ thấy lấp loáng mấy miếng đá lát đường, nhờ ánh sáng lù mù chiếu lên lá cờ chiến lũy. Cả dãy phố mơ hồ như một cái cổng tò vò lớn tối om, mở ra trong bầu trời đầy khói.

    Ai nấy đều đến vị trí chiến đấu của mình.

    Nghĩa quân có bốn mươi ba người, trong đó Ănggiônrátx, Cuốcphêrác, Bôtxuyê, Giôli, Bahôren và Gavrốt. Mọi người đều quì xuống, đầu mấp mé với đỉnh chiến lũy lớn. Súng trường, súng ngắn đều chĩa nòng trên đá như từ những lỗ châu mai, tất cả đều chăm chú, im lặng, sẵng sàng nhả đạn. Sáu người khác dưới quyền của Phơidi đã đến nấp sẵn ở cửa sổ của hai tầng gác nhà quán Côranh, súng áp vai.

    Mấy phút trôi qua. Có tiếng chân người đều đặn, nặng nề, đông đảo nghe rõ mồn một từ phía Xanh Lơ. Ban đầu còn nhỏ, sau rõ dần, rồi nặng nề và âm vang. Bước chân từ từ tiếng gần, không nghỉ, không dừng, đều đặn, bình tĩnh và ghê gớm. Chỉ nghe có thế. Có cảm tưởng như vừa là sự yên lặng vừa là sự ồn ào của pho tượng kỵ sĩ thời xưa[1], nhưng bước chân rắn rỏi ở đây lại có cái gì to lớn, dồn dập, khiến người nghĩ đến phải nghĩ đến một đám đông người, đồng thời cũng nghĩ đến một bóng ma, hiện thân của những đội lê dương La-mã đáng sợ ngày xưa. Tiếng chân đến gần, đến gần nữa rồi dừng lại. Nghe như ở cuối phố có hơi thở của rất nhiều người. Bóng tối dày đặc. Không trông thấy gì, nhưng lại có thể đoán biết rất rõ. Một rừng dây thép, nhỏ như kim và gần như không nhận ra, đang cử động, giống hệt những tia sáng lân tinh chằng chịt mà ta thấy những lúc mắt đã nhắm nghiền và ta mơ màng sắp ngủ. Đó là lưỡi lê và nòng súng lờ mờ trong ánh sáng ngọn đuốc ở đầu này chiếu vọng đến.

    Một phút im lìm. Cả hai bên đường như đang chờ đợi. Bỗng, từ đáy bóng tối, một giọng người hô to: "Ai?".

    Nghe hô mà không thấy người, chẳng khác gì bản thân đêm tối tự thét lên, nên càng ghê rợn.

    Cùng lúc đó nghe có tiếng súng lách chách chực sẵng, sang sảng:

    - Cách mạng Pháp.

    - Bắn! Giọng người bên kia hô.

    Một làn chớp đỏ rực trước mắt các dãy phố như có cánh cửa lò vụt mở ra rồi đóng sập ngay lại.

    Một loạt phát súng nổ ầm ầm vào chiến lũy. Lá cờ đỏ rơi xuống. Loạt đạn bắn rát và dày đến nỗi làm gãy ngang cán cờ nghĩa là đầu mút cái càng của chiếc xe khách. Nhiều viên đạn từ bờ tường dội ra, lạc vào trong chiến lũy làm một số người bị thương.

    Loạt súng đầu ấy nghe thật lạnh mình. Cuộc tấn công thật dữ dội, đáng làm cho người can đảm nhất cũng phải suy nghĩ. Rõ ràng là nghĩa quân đang phải đương đầu với cả một trung đoàn là ít.

    - Các đồng chí, Cuốcphêrắc la to, đừng phí đạn. Chờ cho chúng nó tiến vào trong phố rồi hãy bắn trả.

    - Và trước hết, Ănggiônrátx nói, phải dựng ngọn cờ lên.

    Chàng nhặt lá cờ vừa rơi ngay chỗ chân chàng.

    Bên ngoài, có tiếng que thông nòng, quân đội chính phủ lại lắp đạn.

    Ănggiônrátx hỏi lại:

    - Ai là người can đảm? Ai dám ra dựng lại cay cờ lên chiến lũy?

    Không ai trả lời. Leo lên đỉnh chiến lũy trong lúc quân địch đang nhằm vào để nổ súng lần nữa chắc nhất định là chết. Kẻ gan dạ nhất cũng ngập ngừng không muốn dấn thân vào chỗ chết như thế. Bản thân Ănggiônrátx cũng rùng mình. Chàng nhắc lại:

    - Không có ai cả à?

    Chú thích:

    [1] Nhắc tới truyền thuyết Đông Giuyăng mà Môlie đã diễn tả lại trong vở kịch: Đông Giuyăng. Khi Đông Giuyăng nhận lời mời đưa tay cho tượng kỵ sĩ nắm thì trời nổi sấm sét, đất nứt và vùi Đông Giuyăng

    II

    LÁ CỜ-MÀN HAI

    (Le drapeau - Deuxième acte)

    Từ lúc đến Côranh và bắt đầu xây dựng chiến lũy, không ai để ý đến cụ Mabớp nữa. Trái lại, ông cụ không rời đoàn người phút nào. Cụ vào tầng dưới quán rượu và đến ngồi sau quầy kế toán. Có thể nói ở đó là nơi cụ đã hoàn toàn thu mình trong thâm tâm. Có vẻ như cụ không còn nhìn thấy gì và cũng không suy nghĩ gì nữa. Cuốcphêrắc và nhiều người khác đôi ba phen đã đề nghị cụ nên đi nơi khác, nhưng cụ ra vẻ như không nghe thấy gì. Không có ai nói gì khác với cụ thì môi cụ lại mấp máy như trả lời, nhưng hễ có ai hỏi chuyện, thì mồm cụ lại ngậm tăm và cặp mắt như đờ đẫn, hết thần. Vài giờ trước khi chiến lũy bị tấn công, cụ đã ngồi im như pho tượng, dáng điệu không hề thay đổi: Hai bàn tay nắm chặt lại đặt lên trên đầu gối, còn đầu thì nghiêng về phía trước như nhìn vào một hố sâu. Không có gì cho cụ ra khỏi dáng điệu ấy nổi, trí óc cụ tuồng như không còn ở trong chiến lũy nữa. Khi ai nấy đều về vị trí chiến đấu thì trong gian phòng thấp chỉ còn mình Giave bị trói vào cây cột, một nghĩa quân tay cầm thanh kiếm trần đang gác Giave và cụ. Lúc cuộc tấn công bắt đầu, súng nổ làm cụ giật mình và cũng hình như đánh thức cụ dậy. Tự nhiên cụ đứng lên, đi ngang qua gian phòng, và lúc Ănggiônrátx kêu gọi lần thứ hai: "Không có ai cả à?" thì cụ hiện ra trên ngưỡng cửa quán rượu.

    Sự có mặt của cụ làm cho các nhóm đang chiến đấu như bị điện giật. Có tiếng kêu:

    - Người bỏ phiếu xử vua đấy! Đại biểu viện Khế ước! Đại biểu nhân dân đấy kìa!

    Chắc là cụ chẳng nghe thấy gì.

    Cụ đi thẳng đến Ănggiônrátx. Nghĩa quân kinh hãi và kính cẩn. Cụ giật lá cờ trong tay Ănggiônrátx. Ănggiônrátx lùi lại sửng sốt, và trong lúc không ai dám ngăn cụ, hoặc giúp cụ một tay, ông già tám mươi ấy bắt đầu leo lên các phiến đá xếp thành bậc thang trong chiến lũy, đầu vẫn lắc lư, nhưng bước chân vững chắc. Cảnh tượng rất dữ dội vĩ đại làm cho mọi người chung quanh cụ buột miệng: Bỏ mũ xuống! Cứ mỗi bậc cụ tiến lên, cảnh tượng lại càng khủng khiếp. Đầu tóc bạc, nét mặt già nua, vừng tráng rộng, hói và nhăn nheo, cặp má lõm sâu, cái mồm ngẩn ngơ mở rộng, cánh tay gầy gò giương cao lá cờ đỏ, tất cả từ trong bóng tối bước ra và hiện to lên dần ánh đuốc màu máu. Mọi người đều có cảm giác đang nhìn bóng ma của năm 93[1] từ dưới đất hiện lên, trong tay cầm nắm lá cờ khủng bố.

    Khi ông cụ đã leo đến bậc đá cuối cùng, khi cái bóng ma run rẩy và đáng sợ ấy đứng thẳng người lên trên đống đồ đạc gãy nát đối diện với một nghìn hai trăm miệng súng vô hình ở đằng kia, và nhìn thẳng vào cái chết như coi nó chẳng ra gì, thì tất cả cái chiến lũy đang chìm trong bóng tối bỗng dưng có một vẻ gì phi thường, kỳ vĩ.

    Một phút im lặng long trọng như chỉ thấy ở những cảnh tượng lỳ diệu.

    Giữa cảnh im lặng ấy, cụ già phất cao lá cờ đỏ và thét lên:

    - Cách mạng muôn năm! Cộng hòa muôn năm! Bình đẳng, bác ái! Và chết!

    Bên kia nghe có tiếng thì thầm rất nhỏ và rất mau tựa hồ như tiếng một cha cầu kinh hấp tấp. Có lẽ là tiếng anh cẩm cảnh sát ở cuối phố kêu gọi giải tán. Giọng người oang oang ban nãy đã hô: Ai? Lại thét lớn:

    - Hãy đi đi!

    Cụ Mabớp mắt trắng nhợt, đờ đẫn, cặp mắt hoảng loạn sáng rực lên. Cụ giơ ngọn cờ lên khỏi đầu và lặp lại:

    - Cộng hòa muôn năm!

    - Bắn! Giọng người bên kia ra lệnh.

    Lần thứ hai một loạt súng nổ ầm ầm vào chiến lũy. Ông già khuỵu xuống, lại cố gượng đứng lên. Lá cờ trong tay cụ rơi ra. Cụ ngã ngửa ra đằng sau, rơi xuống mặt đường như tấm ván sóng sượt, hai tay thành chữ thập.

    Máu chảy lên láng. Gương mặt tái xanh, rầu rầu vẫn như còn nhìn lên trời cao.

    Mọi nguời xúc động mạnh đến nỗi quên cả đề phòng quân địch, ùa đến bên cạnh xác ông cụ, trong lòng vừa kính vừa sợ.

    Ănggiônrátx nói:

    - Thật là lạ lùng! Những con người dám bỏ phiếu giết vua.

    Cuốcphêrắc ghé vào tai Ănggiônrátx kêu gọi:

    - Các đồng chí! Đây là gương người già nêu cho bọn trẻ chúng ta. Chúng ta đang ngập ngừng thì cụ chạy đến, chúng ta lùi bước thì cụ đã tiến lên.. Rõ ràng đó là bài học mà những người run rẩy vì tuổi tác dạy cho những kẻ run rẩy vì sợ chết. Đối với Tổ Quốc, cụ đây là một con người cao cả. Cụ sống lâu dài và chết vinh quang! Bây giờ thì chúng ta hãy khiêng cụ vào trong nhà nằm, và mỗi chúng ta phải bảo vệ cụ già đã chết này như bảo vệ bố mẹ sống của chúng ta. Mong rằng sự có mặt của cụ trong bọn chúng ta sẽ làm cho chiến lũy không bao giờ rơi vào tay quân địch!

    Tiếp theo lời ấy có tiếng rì rào tán thành, vừa đau buồn vừa kiên quyết.

    Ănggiônrátx cúi xuống, nâng đầu ông cụ lên. Đôi mắt long lanh dữ tợn anh hôn vào trán ông cụ và cầm tay ông cụ đặt ra hai bên, nhẹ nhàng, âu yếm như sợ cụ đau, rồi cởi chiếc áo cụ ra, đưa lên cho mọi người trông rõ các vết đạn đẫm máu:

    - Từ giờ, đây là lá cờ của chúng ta.

    Chú thích:

    [1] 1793, thời kỳ quyết liệt nhất của Cách mạng dân quyền Pháp
     
    Hải Nguyệt Linh Thư thích bài này.
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...