Những Người Khốn Khổ - Victor Hugo

Discussion in 'Văn Học' started by Nguyên Vĩ Thu Thu, Jul 31, 2021.

  1. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    QUYỂN V - NGHÈO KHỔ LẠI HÓA HAY

    Chương I & II


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc đời hóa nên khắc nghiệt đối với Mariuyt. Gặm quần áo và cái đồng hồ chưa thấm vào đâu, Mariuyt còn phải nuốt bao nhiêu những thức cay đắng của đời anh. Thật là ghê rợn: Ngày không có cái ăn, đêm không nhắm mắt, tối không đèn, lò không lửa, hàng tuần không có việc làm, tương lai không hy vọng, áo rách khuỷu, cái mũ nát làm bọn con gái chê cười; buổi chiều về nhà thì cửa đóng vì thiếu tiền nhà, người gác cổng láo xược, anh chủ quán vô lễ, láng giềng khinh rẻ, mọi thứ nhục nhã, phẩm giá tiêu ma, bất cứ việc gì cũng phải nhận làm, chán ngán, chua cay, ê chề. Mariuyt hiểu ngậm đắng nuốt cay là thế nào, mà ngoài những cái cay đắng ấy thì nhiều khi cũng chẳng có cơm cháo gì mà nuốt nữa. Giữa cái tuổi mà người thanh niên cần tự trọng, vì cần được yêu, Mariuyt thấy mình bị chế giễu vì rách rưới, thấy mình bị khinh rẻ vì nghèo túng. Giữa tuổi thanh niên đầy kiêu hãnh nhiều khi anh cúi mặt nhìn đôi giầy thủng và anh phải chịu những hổ thẹn, bất công, những tủi nhục thấm thía của nghèo khổ. Thật là những thử thách tốt và đáng sợ qua đó người hèn yếu trở thành xấu xa, nhưng người cương nghị trở nên cao cả. Số mệnh ném con người vào cái lò đun ấy mỗi khi muốn có một thằng đểu cáng hay muốn tạo nên một bậc vĩ nhân.

    Trong những cuộc vật lộn nhỏ bé thường nảy ra những hành động lớn lao. Có những thứ dũng cảm bền bỉ và âm thầm bảo vệ từng tấc đất trong bóng tối chống với sự đe dọa khắc nghiệt của túng thiếu và tai họa. Thắng lợi cao cả và huyền bí, không ai hay, không tên tuổi, không kèn trống. Cuộc sống, đau khổ, cô đơn, lạc lõng, nghèo đói là những chiến trường sản sinh ra anh hùng, những anh hùng vô danh có khi vĩ đại hơn những anh hùng lừng lẫy.

    Những con người cương nghị và cao quí đã được đào tạo như vậy. Cảnh bần cùng thường như mẹ ghẻ, nhưng đôi khi cũng là mẹ thật. Tâm trí con người trở nên dũng mãnh trong túng thiếu, cảnh bi đát làm người ta kiêu hãnh, đau khổ như dòng sữa mạnh nuôi dưỡng những tâm hồn lớn lao.

    Trong cuộc đời của Mariuyt, có một lúc anh phải tự quét lấy cửa phòng, phải mua một xu pho mát Bơri của cô hàng hoa quả, đợi sẩm tối lẩn vào hàng bánh mua một chiếc bánh mì, lén lét mang về cái gác xép như một thằng ăn cắp. Đôi khi ta thấy một anh thanh niên vụng về, rụt rè, bực tức cắp mấy quyển sách lách vào cửa hàng thịt ở góc phố, giữa đám chị bếp giễu cợt chen lấn; anh bước vào cửa hàng, nhấc mũ để lộ cái trán đẫm mồ hôi, kính cẩn chào các chị hàng thịt ngơ ngác, chào anh pha thịt, hỏi mua một miếng sườn cừu sáu bảy xu, lấy giấy bọc và cắp vào nách giữa hai quyển sách rồi bước ra. Chính anh thanh niên ấy là Mariuyt.

    Anh mang miếng sườn cừu ấy về tự nấu và ăn được ba ngày: Ngày đầu ăn thịt, ngày thứ hai ăn mỡ, ngày thứ ba gặm xương.

    Bà dì Gilơnormăng mấy bận mò gửi đến cho anh món tiền sáu chục đồng pistôn, lần nào anh cũng gửi trả lại và bảo rằng anh không thiếu gì.

    Anh hãy còn để tang cha anh khi sự chuyển biến cách mạng mà chúng ta vừa kể xảy ra trong tư tưởng anh. Từ lúc ấy anh không rời bộ quần áo đen. Nhưng quần áo lại bỏ anh mà đi. Đến lúc, anh không có áo ngoài. Cái quần còn mặc tạm được. Làm thế nào? Có lần anh cũng giúp được Cuốcphêrắc đôi việc. Cuốcphêrắc cho anh một cái áo ngoài cũ. Mariuyt nhờ người gác cổng lộn lại, mất ba mươi xu, thế là được một cái áo mới. Nhưng áo lại màu xanh, từ đấy Mariuyt đợi trời tối mới ra phố cho áo thành ra đen. Muốn để tang mãi, anh dùng đêm tối làm màu tang.

    Trong lúc ấy, anh được nhận làm luật sư. Anh lấy địa chỉ ở phòng Cuốcphêrắc cho ra vẻ. Cuốcphêrắc có một cái tủ sách đựng một số sách luật; tủ sách có vẻ đầy đủ vì được bổ sung với một số cuốn tiểu thuyết đã nát. Quy chế của nghề luật sư bắt buộc phải có một tủ sách. Thư từ của anh đều gửi đến chỗ Cuốcphêrắc.

    Khi anh làm luật sư, anh gửi một bức thư lạnh lùng nhưng kính cẩn cho ông. Lão Gilơnormăng tay run run cầm thư mở đọc rồi xé làm tư, vứt vào sọt. Hai ba hôm sau bà dì Gilơnormăng nghe thấy ông bố nói một mình ở trong phòng, lão thỉnh thoảng cũng nói một mình như vậy khi có việc gì xúc động. Bà Gilơnormăng lắng tai, nghe thấy lão đang nói:

    - Nếu mày không là một thằng ngốc thì mày phải biết là một nam tước không thể đồng thời là một luật sư.

    II

    MARIUYTX NGHÈO

    Nghèo túng cũng như mọi cái khác, lâu dần rồi cũng chịu được và cũng quen. Cuối cùng rồi cảnh nghèo túng cũng ổn định. Sống lay lắt, nghĩa là heo hắt, cằn cỗi nhưng vẫn là sống. Cuộc sống của Mariuyt đã được xếp đặt như thế này: Mariuyt đã qua được một chút. Cần cù, can đảm, nhẫn nại, cương quyết, anh đã kiếm được vào khoảng bảy trăm phơrăng một năm. Anh đã học được tiếng Anh và tiếng Đức. Nhờ Cuốcphêrắc giới thiệu với người bán sách, Mariuyt có vai trò khiêm tốn là người hữu ích trong ngành văn học – thư – quán ấy. Việc làm cũng tạp nham: Viết quảng cáo, dịch báo, chú thích những tác phẩm xuất bản, sưu tầm tiểu sử.. Khi hơn khi kém đổ đồng bảy trăm phơrăng một năm. Sống tạm đủ. Như thế nào?

    Chúng tôi xin nói: Mariuyt ở trong cái nhà nát Gorbô, một gian buồng tồi tàn, không lò sưởi, chỉ có một vài thứ đồ gỗ cần thiết mệnh danh là phòng luật sư, một năm thuê ba mươi phơrăng. Những đồ gỗ ấy là của anh. Anh thuê ba mươi phơrăng mụ trông nhà để mụ quét dọn buồng và sáng sáng cho anh một ít nước nóng, một quả trứng tươi và một xu bánh. Trứng với bánh ấy là bữa sáng của anh. Mỗi bữa mất từ hai đến bốn xu tùy trứng đắt hay rẻ. Sáu giờ chiều anh xuống phố Xanh Giắc ăn cơm chiều ở hàng cơm Rutxô, đối diện cửa hàng bán tranh Bátxê phố Matuyranh. Anh không ăn xúp. Anh lấy một đĩa thịt sáu xu, nửa đĩa rau ba xu và một món tráng miệng ba xu. Thêm ba xu nữa thì có bánh ăn tùy thích. Nước lọc thay rượu. Khi trả tiền ở quầy của bà Rutxô, hồi đó bà ta vẫn béo tốt và còn có vẻ tươi tắn, anh cho người hầu bàn một xu, bà Rutxô bệ vệ đằng sau quầy cho anh một nụ cười. Mất mười sáu xu anh được một nụ cười và một bữa ăn.

    Ở cái hàng ăn Rutxô ấy người ta dốc nhiều nước mà ít rượu, cái hàng ấy làm cho đỡ dạ hơn là no lòng. Ngày nay, cái hàng cơm ấy không còn nữa. Chủ hàng lúc bấy giờ được tặng một cái danh hiệu khá đẹp: Lão Rutxô ở nước.

    Sáng ăn bốn xu, chiều ăn mười sáu xu, mỗi ngày Mariuyt ăn mất hai mươi xu, một năm là ba trăm sáu mươi nhăm phơrăng. Cộng với ba mươi phơrăng tiền nhà, ba mươi phơrăng cho mụ già trương nhà và vài món đồ chi tiêu lặt vặt thành bốn trăm năm mươi phơrăng, thì Mariuyt có chỗ ở, ăn và người quét dọn. Quần áo ngoài mỗi năm may độ một trăm phơrăng, quần áo lót năm mươi phơrăng, tiền giặt năm mươi phơrăng, tất cả không quá sáu trăm năm mươi phơrăng. Còn thừa năm mươi phơrăng. Thế là Mariuyt giàu rồi. Khi bạn cần, anh có thể cho mượn mười phơrăng. Cuốcphêrắc, có lần vay được của anh sáu mươi phơrăng. Còn củi sưởi, vì buồng không có lò sưởi nên Mariuyt giảm được món tiêu ấy.

    Mariuyt có hai bộ quần áo: Một bộ cũ mặc thường ngày, một bộ mới tinh dành cho những buổi long trọng. Cả hai bộ đều đen. Anh chỉ có ba cái sơ mi: Một chiếc mặc, một chiếc để trong tủ, một chiếc ở nhà thợ giặt. Khi rách nát thì lại may. Sơ mi của anh thường rách, nên bao giờ anh cũng cài khuy áo ngoài lên đến tận cổ.

    Muốn sống tươi như vậy, Mariuyt đã phải trải qua những năm dài gay go, khó nhọc, có khi vất vả lắm mới vượt nổi. Nhưng không bao giờ anh chùn bước. Anh đã chịu đựng mọi thiếu thốn, khổ cực. Anh đã làm tất cả, trừ có vay nợ. Anh có thể tự hào là không bao giờ thiếu ai một xu. Anh cho rằng mang nợ là bắt đầu làm nô lệ, anh tự bảo là chủ nợ còn ghê hơn là chủ nô, chủ nô chỉ là chủ cái thân thể của mình, chủ nợ có trong tay cả cái phẩm giá con người của mình và có thể xúc phạm nó. Thà anh nhịn đói chứ không vay nợ. Anh đã nhiều ngày nhịn đói. Hiểu rằng cùng cực này liền với cùng cực khác, rằng nếu người ta không cẩn thận thì sự sa sút tiền tài sẽ đưa đến sự sa đọa về tâm hồn, nên Mariuyt hết sức giữ gìn phẩm giá của mình. Một lời nói, một cử chỉ lúc khác thì biểu lộ sự kính thì những lúc này anh cho là hèn hạ, anh hết sức tránh, anh ngẩng cao đầu lên. Anh không làm gì phiêu lưu vì không muốn lùi. Sắc mặt anh lúc nào cũng ửng một màu đỏ nghiêm lạnh. Anh rụt rè đến mức thành ra nghiêm khắc.

    Trong tất cả những thử thách ấy, anh thấy như có một lực lượng bí mật, thầm kín nào đó trong lòng anh, khuyến khích, nâng đỡ anh. Tâm hồn nâng đỡ xác thịt, có lúc như nhấc bổng nó lên. Chỉ có thứ chim ấy là nâng được cái lồng nhốt mình.

    Trong tâm khảm của Mariuyt, bên cạnh tên cha anh, có ghi tên một người nữa: Tênácđiê. Bản chất nồng nhiệt và nghiêm túc, Mariuyt coi cái tên Tênácđiê, tên người đội trưởng dũng cảm đã cứu sống đại tá cha anh giữa chiến trường Oateclô, trong khói đạn, như một cái tên rực rỡ hào quang. Anh không bao giờ quên tên người đó mỗi khi tưởng nhớ đến cha anh, anh kết hợp hai cái tên đó trong sự ngưỡng mộ của anh. Một tín ngưỡng, hai bàn thờ: Bàn thờ lớn cho đại tá Pôngmecxi, bàn thờ nhỏ cho Tênácđiê. Biết Tênácđiê đang lâm vào cảnh cùng khổ, lòng nhớ ơn của anh càng thấm thía. Mariuyt đến Môngphecmây đã biết người chủ hàng ăn sa sút, vỡ nợ như thế nào. Từ ngày ấy, anh lặn lội khắp nơi để tìm dấu vết của Tênácđiê, cố tìm đến chỗ cùng cực tối tăm mà hắn đang chìm đắm. Anh đã lùng khắp vùng ấy: Nào Senlơ, nào Bôngđê, nào Guốcnay, nào Nôgiăng, nào Lanhi. Ba năm ròng anh tìm kiếm mài miệt, dành dụm được ít tiền là tiêu vào việc đó hết. Chẳng ai cho anh biết được tung tích của Tênácđiê. Người ta ngờ hắn đã đi ra nước ngoài. Chủ nợ của hắn cũng lùng hắn chẳng kém gì Mariuyt tuy không thương mến bằng, nhưng cũng không nắm được hắn, Mariuyt cho là anh có lỗi và hầu như tự trách mình sao không thành công trong cuộc tìm kiếm đó. Cha anh chỉ để lại cho anh có một món nợ duy nhất ấy, anh quyết trả cho xong, đó là món nợ danh dự. Anh nghĩ: Vô lý! Khi cha ta nằm hấp hối giữa bãi chiến trường, Tênácđiê đã tìm được cha ta trong khói đạn mịt mù và xốc cha ta lên vai, cứu sống cha ta, mà Tênácđiê có mang ơn gì cha ta đâu! Còn bây giờ chịu ơn nặng với Tênácđiê như vậy mà sao ta lại không tìm được ra Tênácđiê trong chỗ nghèo khổ tối tăm mà ông ta cũng đang chới với, tìm được và cứu ông ta thoát khỏi cái chết như ông ta đã cứu cha ta. Không thể thế được, nhất định phải tìm cho ra – Mariuyt, có thể hy sinh đứt một cánh tay để tìm thấy Tênácđiê, đổ cả máu anh để cứu Tênácđiê khỏi chỗ cùng khổ. Tìm thấy Tênácđiê, giúp đỡ Tênácđiê, nói với Tênácđiê: Ông không biết tôi nhưng tôi, tôi biết ông. Tôi đây, ông muốn gì tôi cũng xin tuân theo – đó là cái ước mơ êm ái nhất mà cũng huy hoàng nhất của Mariuyt.
     
  2. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    QUYỂN VI - HAI NGÔI SAO GẶP NHAU

    Chương I & II


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mariuyt hồi ấy là một chàng trai xinh đẹp, người tầm thước, tóc dày và đen nhánh, trán cao và thông minh, hai lỗ mũi rộng, say sưa, vẻ chân thật và bình tĩnh: Tất cả diện mạo tỏa ra một tinh thần tự cao, trầm tưởng và thơ ngây. Trông nghiêng thì đường nét của chàng tròn trịa nhưng vẫn rắn rỏi. Gương mặt chàng có cái dáng hiền dịu. Nhật-nhĩ-man đã qua con đường Andát Lôrên mà thấm vào vẻ mặt Pháp. Gương mặt đó không mang góc cạnh, khiến người ta dễ nhìn ra người Nhật-nhĩ-man giữa những người La Mã và đó cũng là điểm khác nhau giữa giống sư tử và giống phượng hoàng. Chàng đang ở cái mùa đời mà trí tuệ của con người có suy nghĩ gồm cả hai phần sâu sắc và thơ ngây bằng nhau. Gặp việc quan trọng, chàng dễ ngớ người ra; nhưng khi quay được cái chìa khóa giải quyết, thì chàng có thể trở thành rất cao sâu. Cử chỉ của chàng dè dặt, lạnh lùng, lễ phép, ít cởi mở. Vì miệng chàng rất có duyên, môi thắm nhất, răng trắng nhất thiên hạ, cho nên nụ cười của chàng sửa chữa được vẻ nghiêm nghị trên mặt. Có lúc cái nụ cười say đắm ấy, phản lại một cách lạ lùng vầng trán trắng trong. Mặt chàng nhỏ, nhưng cái nhìn thật lớn.

    Trong thời kỳ túng thiếu nhất, chàng thấy mỗi khi chàng đi qua, con gái ngoảnh lại nhìn, thế là chàng rảo bước đi nhanh hay trốn tránh, lòng tê tái; chàng cho rằng họ cười bộ quần áo cũ của chàng; sự thực thì những cô gái ấy nhìn chàng vì thấy chàng xinh trai và mơ ước thầm trong lòng.

    Sự hiểu lầm thầm lặng về những cô qua đường xinh xắn ấy làm cho chàng lạnh lùng, khó tính; chàng không để ý đến một phụ nữ nào vì lẽ rất dễ hiểu là chàng lẩn tránh tất cả. Cuộc sống ấy cứ kéo dài mãi, Cuốcphêrắc cho chàng là ngu độn.

    Cuốcphêrắc còn bảo chàng: - Thôi mày đừng làm ra vẻ mô phạm nữa (họ đã bắt đầu gọi nhau mày tao biểu hiện của tình bạn trẻ trung). Tao khuyên mày bớt vùi đầu vào sách vở, hãy ngẩng nhìn bọn con gái một chút, họ cũng có lắm cái hay, Mariuyt ạ. Cứ đỏ mặt và lẩn trốn hoài rồi mày đến thành đần độn mất.

    Nhiều khi Cuốcphêrắc gặp chàng chào:

    Kính chào ông tu viện trưởng.

    Mỗi khi Cuốcphêrắc nói với Mariuyt tương tự như thế thì Mariuyt tám ngày liền tránh không gặp một người đàn bà nào, trẻ hay già cũng vậy và càng tránh Cuốcphêrắc.

    Nhưng dưới gầm trời mênh mông, có hai người đàn bà mà Mariuyt không tránh mặt và cũng không để ý tới. Đáng ra nếu ai bảo đó là đàn bà thì chắc Mariuyt rất ngạc nhiên. Một người là mụ già có râu vẫn quét dọn buồng chàng - Cuốcphêrắc thường nói đùa: Thấy mụ người ở mang râu rồi, Mariuyt không mang nữa – Người kia là một cô gái nhỏ mà Mariuyt gặp luôn nhưng không nhìn bao giờ.

    Từ hơn một năm nay, Mariuyt thấy trong vườn Luychxămbua, ở cái lối đi vắng vẻ nhất, dọc theo bờ tường khu Ươm cây, một người đàn ông và một cô gái nhỏ, lúc nào cũng ngồi với nhau trên một chiếc ghế dài ở đầu đường ít người qua lại, về phía phố Uét. Mỗi lẫn đi chơi ở vườn Luychxămbua, ngẫu nhiên – sự ngẫu nhiên của những người đi dạo để trầm tư – mà Mariuyt bước chân vào cái lối đi ấy, bao giờ chàng cũng gặp hai người đó. Người đàn ông trạc độ sáu mươi tuổi, có vẻ buồn rầu và nghiêm nghị, với cái vóc dáng khỏe mạnh và mệt mỏi của con nhà lính đã giải ngũ; giá có đeo một cái huy chương thì Mariuyt tin chắc là một sĩ quan về hưu. Trông ông ra vẻ hiền lành, nhưng khó đến gần, ông không để mắt nhìn một ai cả. Ông mặc một cái quần xanh, một áo dài xanh, đội một cái mũ rộng vành, lúc nào cũng như mới cả, một cái cà vạt đen và một cái sơ mi của người quê-cơ (giáo sĩ của một giáo phái đạo Tin lành thịnh hành ở Mỹ, Anh) nghĩa là trắng toát nhưng bằng vải thô. Một cô ả lẳng lơ một hôm qua đấy nói: Ông lão góa này trông cũng sạch mắt đấy. Tóc ông đã bạc cả.

    Lần đầu tiên Mariuyt gặp cô gái đến cùng ông già ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của họ thì cô bé mới trạc độ mười ba, mười bốn tuổi, gầy gầy đến nỗi trông ra xấu, vụng về, chẳng có ý vị gì, chỉ có đôi mắt hứa hẹn sẽ khá đẹp. Nhưng đôi mắt đó lúc nào cũng mở to nhìn không chút e lệ cho nên khó chịu. Quần áo thì nửa là bà già, nửa là trẻ con, kiểu quần áo của con gái ở nhà tu, cái áo dài len thô màu đen, may cắt vụng. Hai người có vẻ là hai bố con.

    Hai ba hôm Mariuyt để ý nhìn hai bố con người ấy, người bố tuy già nhưng chưa ra vẻ ông lão, cô con gái thì chưa ra vẻ người lớn. Về sau chàng không để ý đến họ nữa. Còn hai người đó thì hình như không trông thấy Mariuyt, họ nói chuyện với nhau bình tĩnh, thản nhiên. Cô bé thì cười nói luôn mồm, ông già ít nói, thỉnh thoảng đăm đăm nhìn cô bé với tất cả lòng trìu mến khó tả của một người cha.

    Theo thói quen, Mariuyt luôn luôn dạo chơi ở lối đi ấy. Không lần nào chàng không gặp hai cha con ông già.

    Sự việc diễn ra thế này.

    Mariuyt thường hay đi từ đầu cái lối đi mà ở cuối lối có ghế họ vẫn ngồi. Anh đi suốt dọc lối đó, qua mặt họ rồi lại quay trở lại cho đến nơi xuất phát và cứ thế làm lại. Trong mỗi cuộc đi dạo chơi, anh đi đi lại lại như vậy năm sáu lần và mỗi tuần anh đi dạo năm sáu bận. Nhưng chưa bao giờ anh với họ trao đổi một lời chào hỏi. Nhân vật ấy và người con gái, mặc dù có vẻ tránh con mắt mọi người, hoặc giả chính vì thế cũng nên, vẫn được năm sáu sinh viên tự nhiên chú ý, những sinh viên thỉnh thoảng đi dạo chơi dọc lối khu Ươm, bọn chăm học thì sau buổi lên lớp, bọn khác thì sau cuộc bi-a. Cuốcphêrắc ở trong số những anh ham chơi, có quan sát họ một độ, sau thấy cô bé xấu xí, thì vội vàng và cẩn thận lảng đi. Anh chạy trốn như người kỵ sĩ, dừng trước đà đao, phóng lại một cái tên chế giễu. Cuốcphêrắc chú ý cái áo dài đen của cô bé và mái tóc bạc của ông già, nên gọi cô gái là cô La Noa và ông già là ông Lơ Blăng (cô Đen; ông Trắng) ; không ai biết tên họ hai cha con người ấy, cái tên biếm La Noa và Lơ Blăng thành ra tên của họ. Bọn sinh viên bảo nhau: - Ồ! Ông Lơ Blăng đã đến ngồi ghế rồi – Mariuyt cũng thuận mồm gọi ông già không quen ấy là ông Lơ Blăng.

    Chúng tôi cũng theo họ gọi ông Lơ Blăng cho tiện kể.

    Hầu như hôm nào cũng vậy, Mariuyt gặp họ vào một giờ bất di dịch ở cái ghế ấy, suốt năm đầu. Chàng thấy ông già người cũng dễ ưa, nhưng cô bé mặt mày khó mến.

    *

    II

    ÁNH SÁNG ĐÃ ĐẾN

    (Nguyên văn Latinh: Lux jacta est)

    Năm thứ hai, là lúc câu chuyện của chúng ta đến quãng này, tự nhiên Mariuyt không đi dạo chơi ở vườn Luychxămbua nữa. Chàng cũng chẳng biết vì lẽ gì có sự thay đổi ấy. Sáu tháng liền chàng không để chân trên cái lối đi cũ trong vườn. Nhưng một hôm, một buổi sáng hè tươi đẹp chàng lại tới đó. Mariuyt thấy lòng vui vẻ trước cảnh trời tươi đẹp. Lòng chàng rộn rã những tiếng chim hót trên cành và tươi sáng như những mảnh trời xanh sau kẽ lá.

    Chàng tiến thẳng đến lối cũ của mình, đến cuối đường chàng lại thấy, cũng trên cái ghế cũ, hai người quen thuộc. Đi gần đến nơi chàng nhận rõ vẫn ông già ấy, không thay đổi gì, nhưng cô gái thì hình như không phải cô bé năm trước. Cô gái bây giờ là một cô gái lớn và đẹp, có cái hình dáng xinh xắn của người đàn bà mà vẫn còn vẻ thơ ngây của tuổi nhỏ, nàng đang ở cái tuổi dậy thì thoáng qua, trong sáng: Cái tuổi mười lăm. Mái tóc nàng hung nâu đẹp vô cùng với những đường vân vàng óng ả, trán nàng trắng như cẩm thạch, má mơn mởn như cánh hồng, thắm nhạt và trắng mượt mà, miệng xinh nở nụ cười trong sáng, giọng nói êm như tiếng đàn, cái đầu đáng làm mẫu cho Raphanen vẽ Maria đặt trên cái cổ mà Giăng Gugiông ưng tạc cho Vênuytx. Để tăng thêm vẻ hấp dẫn cho bộ mặt xinh tươi ấy, cái mũi không đẹp nhưng mà xinh, cái mũi không thẳng, không cong, không giống mũi người Ý cũng chẳng giống mũi người Hy, cái mũi của người thiếu nữ thủ đô thông minh, thanh tao, trong trẻo và không mẫu mực làm cho họa sĩ thất vọng và nhà thơ say mê.

    Khi Mariuyt đi qua gần nàng, chàng không nhìn thấy mắt nàng, vì mắt nàng luôn luôn nhìn xuống. Chàng chỉ trông thấy hàng mi hung nâu kín đáo và e lệ.

    Nhưng người thiếu nữ vẫn mỉm cười nghe ông già tóc bạc nói chuyện; không gì đẹp bằng nụ cười khi đôi mắt e lệ nhìn xuống.

    Lúc đầu Mariuyt cho rằng thiếu nữ là một cô con gái khác của ông già, chắc hẳn là chị cô bé năm trước. Nhưng theo thói quen đi dạo, Mariuyt lần sau lại đến gần chiếc ghế, chàng nhận rõ vẫn là cô bé năm trước. Sáu tháng qua, cô gái nhỏ đã thành một thiếu nữ, thế thôi. Chuyện cũng rất thường. Có lúc những cô gái nhỏ nở bừng ra như những đóa hồng. Hôm qua còn là trẻ con, hôm nay đã làm cho người ta bối rối. Cô gái không những lớn lên, còn duyên dáng xinh đẹp lên nữa. Tiết tháng tư, chỉ cần ba hôm là một cái cây phủ đầy hoa, sáu tháng đủ cho cô kia khoác một lốt đẹp.

    Một đôi khi có những người nghèo khổ, hèn mọn bỗng nhiên như bừng tỉnh, từ nghèo hèn trở thành sang trọng, tiêu tiền như nước, rộng rãi, huy hoàng. Đó là vì họ đã lĩnh được lợi tức. Kỳ lĩnh đến hôm qua. Cô thiếu nữ này cũng vậy. Cô đã lĩnh được khoản lục cá nguyệt bổng.

    Không phải là cô nữ sinh ký túc với cái mũ nhung xù, cái áo len thô, đôi giầy học trò và bàn tay đỏ nữa. Nàng đẹp ra và lại thêm ý nhị, ăn mặc thanh nhã, sang mà giản dị, không kiểu cách, nàng mặc một cái áo nhiễu đen, một cái áo khoác cùng một thứ hàng, mũ trắng cũng bằng nhiễu. Đôi găng trắng để lộ rõ bàn tay búp măng, đang mân mê một cái cán dù bằng ngà Trung Hoa, đôi giày lụa nhỏ che đôi chân xinh xắn. Người nàng tỏa một mùi hương trẻ trung và thấm thía.

    Lần thứ hai, Mariuyt đến gần nàng, người thiếu nữ ngẩng mặt lên; mắt nàng xanh thăm thẳm như da trời, nhưng trong cái màu trời xanh che đậy đó vẫn còn ánh của tuổi thơ. Nàng thản nhiên nhìn Mariuyt cũng như nhìn đứa bé đang chạy chơi dưới hàng cây sung hay chiếc bình cẩm thạch in bóng trên ghế nàng ngồi; còn Mariuyt thì vẫn bước đi thơ thẩn nghĩ đến chuyện khác.

    Chàng đi qua như vậy bốn năm lần nữa trước ghế của nàng, nhưng chẳng hề quay đầu nhìn.

    Những ngày sau, chàng vẫn dạo chơi ở vườn Luychxămbua, vẫn gặp "ông bố và cô gái" nhưng không để ý đến nữa. Chàng không để ý đến người thiếu nữ đẹp bây giờ cũng như không để ý đến cô gái nhỏ xấu trước kia. Chàng vẫn theo thói quen đi gần sát chiếc ghế.
     
  3. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương VII & VIII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc đời cô đơn, thoát ly tất cả, bản tính kiêu hãnh ưa độc lập, yêu cảnh vật thiên nhiên, sự rỗi rãi hàng ngày, lối sống thầm lặng, những khát khao thầm kín của thể xác, lòng say mê trước Tạo hóa, tất cả những cái đó đã tạo cho Mariuyt một tâm hồn sẵn sàng đón nhận một tình yêu đam mê. Lòng sùng bái người cha ngày càng tôn nghiêm như một tín ngưỡng và dần dần ẩn sâu vào tận đáy tâm hồn như mọi tín ngưỡng. Phải có gì chiếm lĩnh cõi ngoài của lòng chàng. Tình yêu đã đến chiếm cứ phần tâm hồn ấy.

    Một tháng ròng trôi qua, không ngày nào Mariuyt không đến vườn Luychxămbua. Đúng giờ thì đi, không gì ngăn giữ được chàng. Cuốcphêrắc thường nói: "Mariuyt đi làm đấy". Mariuyt sống tràn trề, say sưa. Chắc hẳn là thiếu nữ đã nhìn chàng.

    Mariuyt dần trở nên mạnh dạn hơn, chàng tiến lại gần chiếc ghế. Nhưng tính rụt rè và thận trọng của người si tình khuyên chàng chớ nên đi ngang qua trước mặt nàng. Chàng nghĩ không nên để người cha chú ý tới. Chàng tính toán rất khôn khéo để đứng ở chỗ nào, đằng sau những gốc cây, những chân tượng nào để người cha ít trông thấy chàng, nhưng để thiếu nữ trông được chàng rõ nhất. Có lúc hàng nửa tiếng đồng hồ liền chàng đứng yên lặng dưới bóng một pho tượng Lêôniđát hay một pho tượng Spacticuýt, tay cầm một quyển sách, mắt ngẩng lên dịu dàng nhìn về phía thiếu nữ ngoảnh mặt xinh tươi nhìn chàng với một nụ cười mơ hồ. Vừa nói chuyện rất thản nhiên với ông lão tóc bạc, nàng vừa gửi qua cặp mắt trinh bạch và say mê tất cả những ước mơ của lòng nàng cho Mariuyt: Lối đưa tình trao duyên từ ngày xưa của nàng Evơ ngày khai thiên lập địa và của mỗi người đàn bà từ buổi đầu yêu đương. Miệng nàng trả lời cho cha, mắt nàng trả lời cho Mariuyt.

    Chắc rằng ông Lơ Blăng mãi rồi cũng phải nghi ngờ điều gì vì nhiều khi thấy Mariuyt tới, ông đứng dậy đi lại. Ông đã rời bỏ chiếc ghế cũ và đến ngồi chiếc ghế ở đầu kia lối đi, bên cạnh pho tượng người Lực sĩ La Mã, hình như ông lão thử xem Mariuyt có theo không. Mariuyt không đoán ra dụng ý của ông. Chàng cũng theo đến phía ấy. Thế là một lần hớ. Ông già không đến đều đều tất cả mọi ngày nữa và nhiều khi không dắt cô con gái theo. Có khi ông đến một mình. Hôm ấy Mariuyt không ở lại vườn Luychxămbua. Thế là hai lần hớ.

    Mariuyt không để ý đến những triệu chứng ấy. Từ giai đoạn e dè, chàng đã bước sang giai đoạn mù quáng, sự tiến hóa ấy là tất nhiên không sao tránh được. Mối tình ngày càng mạnh. Không đêm nào chàng không mơ tưởng. Lại thêm một sự may mắn không ngờ, như dầu đổ vào lửa, càng khiến chàng mù quáng: Một buổi chiều, trời đã nhá nhem tối, chàng nhặt được trên chiếc ghế ông Lơ Blăng và cô con gái vừa rời bỏ một chiếc khăn tay. Một chiếc khăn giản dị, không thêu thùa gì, nhưng rất trắng, rất nhỏ sợi, chàng thấy đượm một mùi hương khó tả. Chàng hối hả nhặt lấy. Chiếc khăn có hai chữ U. F. Mariuyt hông biết gì về thiếu nữ xinh đẹp ấy, không biết tên, biết họ, biết nhà, hai chữ tắt này là điều đầu tiên chàng được biết về nàng; bao nhiêu ức đoán bắt đầu được xây dựng về hai cái chữ đáng yêu này. Chắc hẳn U là Uyếcxuyn, tên riêng, cái tên sao mà dịu dàng thế! Chàng đưa chiếc khăn tay lên môi hôn, hít hương thơm, ấp chiếc khăn trên tim, trên da thịt ban ngày và ban đêm chàng nằm ngủ, chiếc khăn trên môi.

    Mariuyt sung sướng reo lên:

    Cả tâm hồn thơm ngát của nàng ở đây!

    Chiếc khăn ấy chỉ là của ông lão để rơi.

    Những ngày sau hôm nhặt được chiếc khăn tay, chàng đến vườn Luychxămbua, không lúc nào rời chiếc khăn, đưa lên môi hôn và ấp trên trái tim. Thiếu nữ xinh đẹp không hiểu ra sao và ra hiệu kín đáo với chàng.

    Mariuyt nghĩ thầm:

    Trời! E lệ dễ thương chưa!

    *

    VIII

    THƯƠNG BINH CŨNG CÓ THỂ SUNG SƯỚNG

    Vì chúng tôi đã nói đến tiếng e lệ và chúng tôi không giấu giếm gì, cho nên chúng tôi phải nói là cũng có một lần nàng Uyếcxuyn của Mariuyt đã làm cho chàng giận dữ khi chàng đang mê mải say sưa. Hôm ấy nàng bảo ông Lơ Blăng đứng dậy đi dạo chơi trên lối đi. Một làn gió mạnh cuối xuân làm xao động những ngọn cây ngô đồng. Ông cha và cô con gái cắp tay nhau đi qua chiếc ghế Mariuyt ngồi. Mariuyt bàng hoàng đứng dậy nhìn theo bóng hai người.

    Bỗng nhiên một luồng gió mạnh như vui vẻ làm sứ giả cho mùa xuân thổi lên từ phía vườn Ươm, thổi vào lối đi, bọc người thiếu nữ trong một luồng rung động thần tiên và lật cái áo dài thiêng liêng lên đến giữa vế; một cái đùi nõn nà hiện ra. Mariuyt nhìn thấy, chàng bực tức và giận dữ.

    Thiếu nữ đã vội vàng kéo vạt áo xuống bằng một cử động bẽn lẽn đẹp như thần tiên. Nhưng Mariuyt vẫn phẫn uất. Có một mình chàng ở lối đi đã đành thế. Những cũng có thể có người khác, nếu có người khác thì sao? Chịu sao nổi được một chuyện như vậy! Cái việc nàng vừa làm thật là ghê tởm. Nhưng nàng có làm gì đâu, tội phạm chỉ là luồng gió thôi.

    Nhưng tên Bácthơlô (nhân vật ghen tuông trong vở kịch "Anh phó cạo thành Xêvin" nổi tiếng của Bômacse thế kỷ XVIII) lờ mờ đã gầm gừ trong lòng chú tiểu thiên thần, Mariuyt dứt khoát lấy làm bất bình và đang ghen bóng ghen gió. Sự ghen tuông xốn xang và lạ lùng của xác thịt nổi dậy trong lòng người và ngự trị lắm khi không hợp pháp như thế đấy. Tuy nhiên, ngoài chuyện ghen tức, cái đùi xinh xắn kia chẳng gợi cho Mariuyt một cảm hứng gì; được nhìn thấy chiếc bít tất trắng của bất kỳ một phụ nữ nào, chàng còn lấy làm thú vị hơn.

    Khi nàng Uyếcxuyn của chàng đi hết lối đi rồi quay trở lại cùng với ông Lơ Blăng, đi qua chiếc ghế Mariuyt, chàng nhìn nàng với con mắt bất bình, giận dữ. Thiếu nữ nẩy người nhẹ nhẹ ra phía sau, mắt ngước lên, như có ý hỏi: Sao? Có chuyện gì thế?

    Đây là lần xung đột đầu tiên giữa hai người.

    Mariuyt vừa tỏ ý giận dữ với nàng như vậy thì có một người đi qua. Đấy là một ông lão thương binh: Lưng còng, mắt dăn deo, tóc râu trắng xóa, mặc binh phục kiểu Lui XV, trên ngực đeo cái huy chương chiến binh Xanh Lui bằng miếng da hình bầu dục thêu hai chiếc gươm chéo. Ông lão thương binh cụt một tay mang hàm giả và chân gỗ. Mariuyt thấy ông lão thương binh ra vẻ thỏa mãn lắm. Hình như cái ông già khập khiễng ấy nháy mắt thân mật và vui vẻ với Mariuyt, như hai người đã đồng mưu và vừa vớ được một món bở gì. Cái "lão tướng võ tàn phế" ấy có cái gì mà vui vẻ thế. Cái chân gỗ này với cái đùi kia có liên quan gì với nhau chăng? Lòng ghen tức của Mariuyt lên đến cao độ. Lão ta cũng ở đấy lúc nãy chăng? Chắc lão đã trông thấy! Mariuyt muốn đập chết lão thương binh.

    Nhưng rồi thời gian cũng làm mòn tất cả những mũi nhọn. Lòng ghen tức của Mariuyt đối với Uyếcxuyn tuy có lý và chính đáng nhưng rồi cũng nhạt dần và mất đi. Cuối cùng chàng tha thứ, tuy rằng không phải dễ dàng lắm đâu. Chàng đã giận dỗi ba ngày liền. Qua những cái đó và vì những cái đó mối tình càng sâu nặng thêm và trở thành tình si.
     
  4. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    QUYỂN VII- PATƠRÔNG MINET

    Chương I & II


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Xã hội con người bao giờ cũng có cái nhà trong cái rạp hát, người ta gọi là tầng dưới thứ ba. Lớp đất dưới chân xã hội ở đâu cũng bị đào khoét, khi thì vì cái tốt, khi thì vì cái xấu. Những công trình ấy chồng chất lên nhau: Có những tầng ở trên và những tầng ở dưới. Có phía trên và phía dưới, trong cái hầm mỏ mờ mịt đôi khi đổ sập dưới nền văn minh đó và chúng ta thường xéo lên nó một cách thản nhiên, vô tư lự. Nhóm Bách khoa thế kỷ trước cũng là một cái hầm mỏ gần như lộ thiên. Đêm tối vốn là cái lồng ấp âm u của đạo Gia tô nguyên thủy, chỉ chờ đợi một cơ hội để nổ bùng dưới các triều đại Xêda và đã làm cho nhân loại tràn ngập ánh sáng. Vì trong đêm tối thiêng liêng có ánh sáng tiềm tàng. Núi lửa chứa đầy một thứ bóng tối có thể cháy bùng lên. Mọi thứ phún thạch bốc lửa đều bắt đầu bằng bóng tối. Những hầm mộ sâu, nơi cử hành buổi lễ mi-sa đầu tiên, không chỉ là tầng hầm của Rômơ, chúng là cái địa đạo của cả trái đất.

    Ở dưới cấu trúc xã hội, cái kiến trúc kỳ công của một túp lều ấy, có những hang hốc đủ mọi loại: Có cái hầm tôn giáo, có cái hầm triết học, có cái hầm chính trị, có cái hầm kinh tế, có cái hầm cách mạng. Kẻ thì đào cuốc với tư tưởng, kẻ thì đào cuốc với con số, kẻ thì đào cuốc với lòng giận dữ. Người ta gọi nhau và trả lời nhau từ hầm mộ này sang hầm mộ khác. Những lý tưởng không tưởng đi lại bên dưới mặt đất, chia tách ra theo mọi hướng và có khi gặp nhau và kết nghĩa anh em với nhau. Giăng Giắc (nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp thế kỷ 18) cho Điôgienơ (nhà triết học cổ Hy Lạp, nổi tiếng với giai thoại giữa ban ngày xách đèn đi tìm con người) mượn cuốc và Điôgienơ cho Giăng Giắc mượn đèn. Khi những lý tưởng không tưởng ấy chống lại nhau thì Canvanh (thủ lĩnh đạo Gia tô cải cách ở Pháp thế kỷ XVI) xoắn tóc Xôxanh (thủ lĩnh đạo Gia tô cải cách ở Ý thế kỷ XVI). Nhưng không cái gì làm ngừng lại tạm thời hoặc ngăn chặn tất cả những năng lực ấy vươn mục đích và cái hoạt động rộng lớn, song song ấy, đi, lại, lên, xuống, rồi lại dâng lên trong đêm tối và làm thay đổi từ từ cái mặt trên bằng cái tầng dưới, cái bên ngoài bằng cái bên trong: Một đàn kiến vô tận, lúc nhúc, không ai biết. Xã hội bên trên khó có thể biết gì về các công trình đào bới ấy, nó để nguyên cho xã hội cái bề mặt và làm thay đổi cả ruột gan của nó. Bao nhiêu tầng lớp trong lòng đất, bấy nhiêu công trình khác nhau, bấy nhiêu khoáng sản khia thác khác nhau. Từ những sự đào bới sâu thẳm ấy sẽ khai quật được gì? Tương lai.

    Càng xuống sâu, những người đào bới ấy càng bí mật. Đến một mức sâu mà nhà triết học xã hội còn hiểu biết được, công việc ấy còn tốt; quá cái mức sâu ấy, công việc đào bới đã mập mờ và hai mặt; sâu hơn nữa nó trở thành ghê gớm. Đến một chiều sâu nào đó, trí tuệ của con người văn minh không thâm nhập vào được những cái hang tối ấy, cái giới hạn con người còn có thể thở được đã bị vượt qua, có thể bắt đầu xuất hiện những con quái vật. Các bậc thang đi xuống rất lạ lùng, mỗi bậc thang ấy là một tầng mà triết học có thể đặt chân đứng và người ta có thể gặp một trong những người thợ, có khi thần tiên có khi quái đản. Ở tầng dưới Giăng Huyxơ có Luyte, dưới Luyte có Đêcáctơ, dưới Đêcáctơ có Vônte, dưới Vônte có Côngdorxê, dưới Côngdorxê có Rôbexpie, dưới Rôbexpie có Mara, dưới Mara có Babớp, và cứ thế nối tiếp. Xuống sâu hơn nữa, mịt mờ, ở giới hạn giữa cái lờ mờ đến cái mù mịt không trông thấy gì, người ta thấy những con người âm u khác, có lẽ chưa tồn tại. Những người thợ hôm qua là những bóng ma, những người thợ ngày mai là những ấu trùng mà con mắt của trí tuệ chỉ nhìn thấy lờ mờ. Công cuộc cấu tạo cái phôi thai của tương lai là một viễn ảnh của triết học.

    Một thế giới trong cõi mông muội, hãy còn ở trạng thái bào thai, hình dáng kỳ lạ thay!

    Xanh Ximông, Ouen, Phuriê (những nhà xã hội học không tưởng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19) cũng ở đấy, trong những kẽ hầm bên.

    Mặc dầu có một sợi dây thiêng liêng vô hình ràng buộc họ với nhau mà họ không biết, những con người đi mở đường trong lòng đất ấy luôn luôn tưởng rằng họ đơn độc, tuy họ không đơn độc chút nào: Công việc của họ rất khác nhau và ánh sáng bình thường của người này khác xa với những tia chói lòa của người khác. Người thì tươi vui như cảnh thiên đường, kẻ thì thảm thê bi đát. Tuy vậy, mặc dầu họ khác nhau đến mức nào, tất cả những con người ấy, từ người ở trên tầng cao nhất, đến người ở dưới tầng đen tối âm u nhất, từ người khôn ngoan nhất đến người điên rồ nhất, họ có một điều giống nhau. Điều ấy là: Tinh thần vô tư. Mara (nhà cách mạng Pháp, rất hăng hái kết tội nhà vua, 1743-1793) cũng quên mình như Giêsu. Họ gạt họ ra ngoài rìa, họ bỏ quên họ, họ không nghĩ chút nào đến họ. Họ nhìn thấy tất cả cái gì không phải họ. Họ có một cái nhìn và cái nhìn ấy đi dõi tìm cái tuyệt đối. Người thứ nhất có tất cả bầu trời trong mắt; người cuối cùng, dù khó hiểu đến đâu, dưới nét mày vẫn có các ánh sáng xanh nhạt của vô biên vô tận. Dù họ làm gì, ta cũng phải tôn kính những ai mang dấu hiệu: Con người ngời sao.

    Con người đen tối là dấu hiệu khác.

    Với con người này bắt đầu tội ác. Trước con người không có ánh mắt, thì hãy suy nghĩ, hãy run sợ. Trật tự xã hội có những thợ mỏ đen tối của nó! Có một điểm mà sự đào sâu là sự chôn vùi và ở đó thì ánh sáng tắt hẳn.

    Ở bên dưới tất cả những hầm mỏ mà húng tôi vừa chỉ ra, ở dưới tất cả những đường hầm, ở dưới tất cả cái hệ thống mênh mông những tĩnh mạch ngầm của tiến bộ và không tưởng, sâu hơn nhiều nữa, trong lòng trái đất, thấp hơn cả Mara, thấp hơn cả Babơp, thấp hơn nữa, thấp hơn nhiều nữa và không có liên lạc gì với cái tầng trên, có cái hầm cuối cùng, một nơi khủng khiếp. Đó là nơi mà chúng tôi đã gọi là tầng ngầm thứ ba. Đó là hố của đêm tối, hầm của những người mù Inferi (lớp người hạ đẳng).

    Nơi này nối liền với vực thẳm.

    II

    TẦNG ĐÁY

    Ở đây lòng vô tư bay biến. Con quỷ ác hình thành lờ mờ. Ai cũng chỉ vì mình thôi. Cái tôi không mắt ấy gào rú, tìm kiếm, mò mẫm và gặm nhấm. Tên Uygôlanh (một tên bạo chúa khát máu ở Ý, thế kỷ 13, sau bị bắt và bị giam với các con hắn trong một cái tháp để cho chết đói. Nhà thơ Ý Đăngtơ đã dựng lên một cảnh kinh khủng trong Hài kịch thần thánh, Uygôlanh gặm cái sọ của kẻ thù hắn trong Tháp đói) của xã hội nằm ở trong cái vực ấy.

    Những cái bóng hung dữ lẩn quất, lần mò trong hố ấy, gần như thú dữ gần như yêu ma, không hề nghĩ gì đến sự tiến hóa chung mà chúng không hề biết, cả về ý niệm lẫn danh từ. Họ chỉ lo nghĩ đến sự thỏa thích cá nhân. Họ hình như là vô ý thức, ở trong con người họ có một thứ xóa bỏ ghê sợ. Họ có hai mẹ nhưng đều là mẹ ghẻ: Dốt nát và nghèo đói. Họ có một người dẫn đường là sự thiếu thốn. Tất cả các hình thái của sự thỏa thuê ở họ đều xuất phát từ thèm khát. Họ háu ăn một cách tàn bạo, nghĩa là họ hung tợn, không phải như một tên bạo chúa, mà là như một con hổ đói. Từ đau khổ, những con ấu trùng ấy chuyển sang tội ác: Huyết lệ tất nhiên, thoát thai kinh khủng, lô gích của bóng tối. Cái lê la ở tầng đáy thứ ba này không phải là sự đòi hỏi của tuyệt đối bị bóp nghẹt, đó là sự phản kháng của vật chất. Con người trở thành mãng xà. Đói khát là điểm xuất phát; làm quỷ Xatăng đó là đích. Từ cái hầm ấy Laxơne (tên những kẻ cướp giết người ghê gớm đã bị trừng phạt) chui ra.

    Bạn đọc vừa thấy, ở quyển bốn, một ngăn của cái tầng trên của hầm mỏ, cái hầm mỏ lớn của chính trị, cách mạng và triết lý. Ở đấy, như chúng tôi vừa nói, tất cả đều cao quý, trong sáng, xứng đáng, lương thiện. Ở đó người ta cũng có thể lầm lẫn và có lẫm lẫn thật, nhưng cái lầm cũng đáng kính vì nó rất dũng cảm. Tất cả công việc họ làm ở đấy, có một cái tên: Sự tiến bộ.

    Bây giờ đến lúc ta nhòm vào các vực sâu khác, những vực sâu ghê tởm.

    Ta phải nhấn mạnh vào điểm này, ở dưới đáy xã hội vẫn có cái hầm lớn của tội ác, có cho đến ngày dốt nát bị xóa bỏ.

    Cái hầm ấy ở dưới tất cả các hầm khác và là kẻ thù của tất cả cái khác. Đó là sự căm thù tất cả, không chừa sót gì. Nó không biết nhà triết học là gì: Con dao găm của nó chưa bao giờ gọt bút viết. Cái đen tối của nó không có chút quan hệ nào với cái đen tối tuyệt vời của nghiên mực. Chưa bao giờ những ngón tay của đêm tối, co cứng lại dưới cái hầm ngột ngạt ấy, đã mở một quyển sách, hay giở một tờ báo. Babơp đối với Cáctusơ là một kẻ bóc lột, Mara là một nhà quý tộc đối với Sinđeranơ (tên những kẻ cướp giết người ghê gớm đã bị trừng phạt). Mục đích của cái hầm ấy là làm sụp đổ tất cả.

    Tất cả. Cả đến những cái hầm phía trên mà nó căm thù. Trong cái lúc nhúc ghê tởm của nó, nó khoét, nó đào cho sụp đổ hết, không phải chỉ riêng cái trật tự xã hội hiện giờ. Nó cố phá cho đổ triết học, đổ khoa học, đổ luật pháp, đổ tư tưởng con người, đổ văn minh, đổ cách mạng, đổ tiến bộ. Tên nó chỉ đơn giản là ăn cắp, làm đĩ, giết người và ám sát. Nó là đêm tối âm u và nó muốn tất cả là hỗn mang, đảo lộn. Cái nóc hầm của nó lợp bằng ngu dốt.

    Tất cả các hầm khác ở bên trên chỉ nhằm có một mục đích là xóa bỏ cái tầng đáy đó. Tất cả các tổ chức cùng một lúc của triết học và của tiến bộ đều hướng vào mục đích ấy, bằng sự cải thiện cái thực tế cũng như bằng sự chiêm ngưỡng cái tuyệt đối. Phá hủy cái hầm Ngu dốt, bạn sẽ tiêu diệt được con chuột chũi: Tội ác.

    Chúng ta hãy cô đọng lại bằng vài lời một phần những cái chúng tôi vừa viết. Mối nguy hiểm duy nhất của xã hội là bóng tối.

    Nhân loại là đồng nhất. Tất cả mọi người đều nặn bằng một loại đất sét. Không có một sự khác biệt nào trong số phận ít nhất là ở trên mặt đất này. Cũng là bóng tối lúc đầu, cùng là da thịt lúc còn sống, cùng là tro bụi lúc chết, nhưng ngu dốt trộn vào chất người ấy, làm cho nó đen đi. Cái màu đen không xóa được đó thấm vào bên trong con người và trở thành cái ác.
     
  5. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    QUYỂN VIII-ANH NHÀ NGHÈO BẤT HẢO

    Chương I & II


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hè qua, rồi thu cũng qua, đông đã đến. Chẳng thấy ông Lơ Blăng, cũng chẳng thấy cô con gái đặt chân đến vườn Luychxămbua nữa. Mariuyt chỉ có độc một ý tưởng, là được thấy lại khuôn mặt dịu dàng, đáng yêu kia. Đi đâu cũng tìm, chỗ nào cũng tìm mà chẳng thấy bóng người yêu. Mariuyt không còn là anh chàng mơ mộng, bồng bột, con người quả quyết, say sưa, rắn rỏi, con người hăng say thách thức cuộc đời, một khối óc xây dựng hết mộng tương lai này đến mộng tương lai khác, một trí tuệ chứa đầy những kế hoạch, những dự định, những kiêu hãnh, những tư tưởng và những ý chí. Chàng như con chó lạc, lúc nào cũng buồn rũ ra. Thế là hết. Chàng chán ngấy công việc, đi chơi thì mệt, ở nhà thì buồn. Trước kia, vũ trụ mênh mông, biết bao hình ảnh, biết bao ánh sáng, biết bao tiếng nói, lời khuyên, biết bao hy vọng, tiền đồ, biết bao lời giáo huấn. Thế mà bây giờ, chàng chỉ thấy vũ trụ trống trải. Không còn gì nữa.

    Chàng vẫn suy nghĩ, vì chàng không thể làm gì khác được. Nhưng chàng ngao ngán với cả ý nghĩ của mình. Ý nghĩ của chàng luôn luôn thì thầm với chàng điều này điều nọ, chàng chỉ âm thầm trả lời: Thôi, có ích gì?

    Chàng tự trách nhiều khoản: Tại sao mình lại theo đuổi nàng. Chỉ trông thấy nàng là mình đủ sung sướng! Nàng nhìn mình, chưa phải là bát ngát rồi sao? Nhưng nàng có vẻ yêu mình, chưa phải là tất cả rồi ư? Mình còn mong gì nữa? Để rồi chẳng còn gì hết. Mình lạ lùng quá. Chỉ tại mình.. và.. Chàng chẳng nói gì cho Cuốcphêrắc biết, bản tính chàng như vậy. Nhưng Cuốcphêrắc đoán biết tất cả, cũng là bản tính anh ta và rất đỗi sửng sốt, bắt đầu khen Mariuyt đã biết yêu thương. Rồi thấy Mariuyt đâm ra buồn chán vẩn vơ, anh chàng phải bảo: Mày ngu quá đỗi. Nào đi đến Sômie đi.

    Nhân một ngày tiết tháng chín, trời trong đẹp. Mariuyt đành để ba chàng Cuốcphêrắc, Bôtxuyê và Gơrăngte dẫn chàng đến dự buổi dạ hội ở Xô, chàng hy vọng tình cờ sẽ gặp người yêu: Mơ ước thật là viển vông! Tất nhiên, nàng không có đấy. Gơrăngte lầm bầm một mình: Ấy thế mà mọi người đàn bà mất tích đều gặp được ở đây. Mariuyt để mặc các bạn ở lại khiêu vũ, một mình chàng kéo bộ trở về, mỏi mệt, lòng nóng như thiêu, con mắt đục mờ, buồn rười rượi. Xe ngựa nào cũng vang tiếng hát, đầy khách dự hội trở về. Xe chạy rầm rập, bốc bụi mù đường phố làm chàng hốt hoảng. Tuyệt vọng, chàng hít mạnh mùi thơm hăng hắc của dãy cây bồ đào cho đầu óc tỉnh táo ra. Chàng sống ngày càng cô độc, càng mê loạn, đau khổ, âm thầm xót xa trong dạ. Chàng quẩn quanh trong nỗi đau xót như con sói đi đi lại lại trong cạm bẫy, không sao thoát ra được. Con người si tình tìm kiếm người yêu khắp nơi khắp chỗ.

    Một lần khác, một cuộc gặp gỡ lạ lùng khiến chàng không sao quên được. Chàng đang đi tha thẩn ở những phố nhỏ bên đại lộ Anhvalit, bỗng gặp một người mặc quần áo thợ, đội mũ lưỡi trai, để lộ một mớ tóc bạc phơ. Mariuyt chú ý đến mớ tóc đẹp, rồi nhìn người ấy đang bước từng bước một, đăm chiêu như có việc gì đau đớn lo phiền lắm. Có điều lạ là hình như đúng ông Lơ Blăng! Cũng mái tóc ấy, cũng nét mặt ấy, dưới vành lưỡi trai cũng dáng điệu ấy, nhưng có vẻ buồn bã hơn. Nhưng tại sao lại bộ áo thợ thuyền? Thế là nghĩa gì? Tại sao lại trá hình như vậy? Mariuyt rất đỗi ngạc nhiên. Lúc định trí lại, chàng vội rảo bước theo người ấy. Biết đâu chàng không tìm thấy dấu vết người yêu? Dù sao cũng phải đến gần xem cho kỹ rồi tìm ra điều bí ẩn chứ! Nghĩ đến đấy thì chậm quá rồi, ông già đã mất hút. Người ấy rẽ sang phố khác. Mariuyt không sao tìm thấy được. Cuộc gặp gỡ ấy làm cho chàng bận tâm mất mấy ngày, sau rồi cũng quên đi. Chàng nghĩ thầm: - Thôi, chắc là hai người giống nhau thôi.

    II

    BẮT ĐƯỢC CỦA

    Mariuyt vẫn ở căn nhà nát Gorbô, chàng chẳng để ý đến ai ở trong nhà cả. Sự thật, dạo ấy nhà cũng chỉ có độc Mariuyt với gia đình Giôngđơret mà chàng đã trả giúp tiền nhà một lần. Sau lần ấy, chàng chẳng bao giờ trò chuyện với ai, bố, mẹ cũng không, con gái cũng không. Những người thuê khác đã dọn đi hoặc chết rồi, hoặc thiếu tiền nhà bị đuổi đi.

    Một ngày đông năm ấy, vào lúc quá trưa, mặt trời hé chút ánh sáng, nhưng ngày đó lại là ngày mồng 2 tháng hai, cái ngày lễ Săngđơlô cổ xưa, mặt trời độc ác báo hiệu sáu tuần lễ rét mướt, cái ngày mà Machia Lanxbe đã ca vịnh trong hai câu thơ xứng đáng là thơ cổ điển:

    Mặt trời dù tỏ, dù mờ nhạt.

    Con gấu thung thăng trở lại hang.

    Ngày ấy, Mariuyt cũng vừa chui ở cái hang Gorbô ra. Trời vừa tối. Giờ đi ăn. Dù sao rồi cũng phải nghĩ đến chuyện ăn uống, chao ôi! Ái tình dù cao thượng vẫn có những nhược điểm như thế đó!

    Chàng vừa bước qua bậc cửa thì chợt thấy bà Bugông vừa quét nhà vừa cất tiếng nói một mình câu bất hủ sau đây:

    - Thời buổi này chẳng có cái gì là rẻ sất, cái gì cũng đắt như vàng. Chỉ có công người là rẻ, rẻ thối ra.

    Mariuyt từ từ bước ra phía cửa để lên phố Xanh Giắc. Chàng cúi gầm mặt xuống, có vẻ nghĩ ngợi.

    Trong sương chiều, bỗng chàng lại bị ai xô phải. Chàng quay lại, thấy hai cô con gái ăn mặc rách rưới, một cô thì dong dỏng cao, người mảnh khảnh, một cô bé hơn. Hai cô có vẻ hoảng hốt, thở hổn hển, đi rõ nhanh, như chạy trốn. Hai cô đi ngược lại, không trông thấy Mariuyt nên đâm sầm phải. Trong bóng tối sâm sẩm, Mariuyt nhận được khuôn mặt nhợt nhạt, đầu tóc rối tung, cái mũ kinh khủng, váy rách tả tơi, chân thì giẫm đất! Hai cô vừa chạy vừa nói chuyện. Cô lớn bảo thầm cô bé:

    Tụi cớm vừa đến. Suýt nữa tóm được tao.

    Cô kia trẻ con:

    Tôi cũng trông thấy. Thế là tẩu, tẩu nhé, tẩu bán sống bán chết.

    Mariuyt nghe qua mấy câu tiếng lóng, đủ hiểu rằng bọn sen đầm hay cảnh sát suýt nữa tóm được mấy cô bé này và hai cô chạy thoát.

    Hai cô đi sâu vào bóng cây um tùm ở đại lộ phía sau. Trong đêm tối, thấy bóng hai người trăng trắng một lát, rồi biến mất.

    Mariuyt dừng lại một chốc.

    Chàng vừa định đi thì chợt thấy một gói nhỏ xam xám ở ngay dưới chân. Chàng cúi xuống, nhặt cái gói lên. Gói ấy hình như là một phong bì đựng giấy má. Chàng nói:

    Ừ, chắc là của mấy cô bé tội nghiệp đánh rơi đây!

    Chàng quay trở lại, cất tiếng gọi, nhưng không thấy gì. Chàng cho là các cô đã đi xa, liền nhét phong bì vào túi rồi đi ăn.

    Giữa đường, qua một ngõ hẻm phố Muphơta, chàng thấy một cái áo quan trẻ con đặt trên ba cái ghế tựa, phủ một tấm khăn liệm đen; một ngọn nến leo lắt cháy. Chàng nhớ đến hai cô gái trong bóng tối ban nãy. Chàng nghĩ thầm:

    - Khốn nạn! Các bà mẹ thà trông thấy con chết còn ít buồn hơn là thấy chúng sống khổ sống nhục.

    Hai cái bóng đã thay đổi vị buồn cho chàng, rồi cũng bay khỏi tâm trí. Chàng lại chìm vào những ý nghĩ của riêng chàng. Chàng nhớ lại sáu tháng qua, sáu tháng yêu đương, hạnh phúc, với những ngày đầy ánh sáng, dưới hàng cây tươi đẹp vườn Luychxămbua. Chàng nghĩ thầm:

    - Đời mình bây tối tăm quá. Vẫn thấy biết bao thiếu nữ. Nhưng trước kia, họ xinh tươi thế mà bây giờ thì xấu như ma.
     
  6. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương IX, X

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Gian phòng tối quá, người ở ngoài mới bước vào tưởng như đi vào một cái hầm. Hai người lạ bước vào rụt rè, không nhận rõ những hình người xung quanh, trái lại những người trong phòng quen sống trong bóng hoàng hôn ấy nhìn rõ từng nét mặt họ. Ông Lơ Blăng, vẫn đôi mắt hiền từ và buồn rầu, lại gần Giôngđơret và nói với hắn:

    - Ở trong bọc này có ít quần áo mới, bít tất và chăn len.

    Giôngđơret cúi rạp xuống tận đất:

    - Ngài ân nhân phúc đức, cho chúng tôi hậu quá!

    Rồi, trong khi hai người khách đang để ý xem xét cái gian phòng tiều tụy ấy, hắn ghé vào tai cô gái lớn nói nhỏ và nhanh:

    - Hừ! Tao đã bảo mà: Lại quần áo, chứ tiền gì! Chúng nó cùng một giuộc cả. À, cái bức thư đưa cho lão già ngớ ngẩn ấy, tao ký tên gì nhỉ?

    Cô con gái trả lời:

    - Phabăngtu.

    - Nghệ sĩ sân khấu, được rồi.

    May cho Giôngđơret, đúng lúc ấy ông Lơ Blăng quay lại nói với hắn, vừa nói vừa ngập ngừng cố nhớ ra tên hắn:

    - Tình cảnh ông thật đáng ái ngại, ông..

    Giôngđơret vội vàng nói tiếp:

    - Phabăngtu.

    - Ông Phabăngtu, phải rồi, đúng, tôi nhớ ra rồi.

    - Nghệ sĩ sân khấu, thưa ngài, chúng tôi đã từng được hoan nghênh.

    Giôngđơret tưởng đến lúc phải đoạt lấy cảm tình của nhà từ thiện. Hắn nói với một giọng vừa khoa trương như anh làm xiếc ở phiên chợ vừa cầu khẩn như người ăn mày kêu đường:

    - Học trò của nghệ sĩ Tanma (nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng của nước Pháp đầu thế kỷ thứ 19) – Bẩm ngài, tôi là đồ đệ của Tanma. Đã có thời oanh liệt, bây giờ thì là lúc tàn tạ. Ngài xem, ngài ân nhân của chúng tôi, đói không bánh, rét không lửa. Khốn nạn, các cháu lạnh thế này mà không có một thanh củi. Chiếc ghế độc nhất thì bục tung, kính thì vỡ, mà trời ghét quá – Mẹ các cháu ốm liệt giường.

    - Tội nghiệp bà nhà!

    Giôngđơret nói thêm:

    - Cháu bé bị thương.

    Đứa bé thấy có người lạ, không khóc nữa và đang mải ngắm "cô tiểu thư". Giôngđơret vừa cấu vào tay đứa bé bị thương vừa nói sẽ:

    - Khóc lên, kêu lên!

    Hắn làm tất cả những việc đó như một nhà ảo thuật. Đứa bé khóc to lên.

    Cô thiếu nữ đáng yêu của Mariuyt, nàng "Uyếcxuyn" của lòng chàng, bước nhanh lại gần đứa bé và nói:

    - Tội bé quá, bé yêu.

    Giôngđơret nói tiếp:

    - Thưa tiểu thư, nắm tay cháu đẫm máu đây này, cháu bị thương vì một cái máy, cháu làm việc ở đó để kiếm sáu xu mỗi ngày. Có lẽ đến phải cưa cánh tay.

    Ông lão hoảng hốt kêu lên:

    - Thật ư?

    Đứa bé tưởng thật khóc rống lên.

    Người cha nói:

    - Thưa ngài ân nhân, có lẽ phải cưa thật.

    Đã một lúc rồi Giôngđơret nhìn nhà từ thiện với một vẻ khác thường. Lần này vừa nói hắn vừa chăm chú nhìn ông ta như cố ý nhớ lại một chuyện cũ. Rồi thừa dịp hai người lạ đang hỏi han đứa nhỏ về bàn tay bị thương, hắn lần lại gần giường vợ nằm, người vợ với vẻ mặt mệt mỏi, ngớ ngẩn. Hắn nói nhanh và khẽ:

    - Mẹ nó này, nhìn kỹ lão ấy thử xem.

    Rồi hắn quay lại nói với ông Lơ Blăng, vẫn cái điệu kêu van từ nãy:

    - Ngài ân nhân! Xin ngài trông xem, tất cả áo xống của tôi chỉ có chiếc sơ mi của vợ, chiếc sơ mi rách giữa ngày đông tháng giá này. Tôi không ra phố được vì không có áo, nếu có quần áo thì tôi đến ngay nữ nghệ sĩ Mác (nữ diễn viên sân khấu nổi tiếng đầu thế kỷ XIX), cô biết tôi và quý tôi lắm, hình như cô ấy vẫn ở phố Tuađôđam hay sao ấy? Thưa ngài, chúng tôi cùng biểu diễn với nhau ở địa phương. Cùng hưởng vinh quang. Nếu nhà tôi đến thì Xêlimen tất cứu giúp tôi, thưa ngài! Enmia sẽ bố thí cho Bêliđe (nhân vật trong một số hài kịch nổi tiếng của Môlie). Nhưng không, không có gì cả. Một đồng xu nhỏ trong nhà cũng không có. Vợ ốm, không có đồng xu nào! Con bị thương nặng, không có đồng xu nào. Nhà tôi thường nghẹt thở. Đến cái tuổi phải thế, lại còn thêm bệnh thần kinh xen vào. Phải có thuốc thang cho nhà tôi, cho cả con cháu nữa. Nhưng mà y sĩ, dược sĩ thì lấy tiền đâu trả? Không có một đồng một chữ trong nhà! Chỉ cần một trinh thôi cũng đủ cho tôi quỳ xuống mà nhận rồi. Nghệ thuật đã đến bước đường cùng như thế này. Thưa tiểu thư xinh đẹp, thưa ngài ân nhân đại lượng, ngài và cô có biết đâu, ngài và cô đạo đức và nhân từ, làm nức hương thơm ở cái nhà thờ mà con tôi hằng ngày đi cầu nguyện và được nhìn thấy quý dung nhan, ngài và cô làm sao biết được? Thưa ngài, tôi nuôi dạy con tôi theo lẽ đạo. Tôi không muốn cho chúng theo nghề xướng ca. Chao ôi! Nếu mà chúng giở chứng, cái bọn con ranh ấy, thì tôi đâu có đùa! Con cái tôi phải biết thế nào là danh dự, là luân lý, là đạo đức. Ngài thử hỏi các cháu mà xem. Chúng nó phải đi ngay về thẳng. Chúng nó có cha mà. Không như cái ngữ khốn nạn lúc vô gia đình, về sau là vợ khắp thiên hạ. Bắt đầu là cô Không-con-ai-cả, rồi trở thành bà Vợ-mọi-người. Ối dào! Dòng họ Phabăngtu không có những thứ như thế. Nhất thiết tôi phải nuôi dạy nó trong đức hạnh và chúng phải lương thiện, phải dễ thương, phải tin Chúa. Mẹ kiếp! Thưa ngài, ngài có biết ngày mai đây sẽ xảy ra chuyện gì không? Ngày mai mồng 4 tháng hai, ngày ác nghiệt, ngày hẹn cuối cùng của chủ nhà, nếu chiều nay không có tiền trả, thì tôi và con cháu lớn, vợ tôi đang ốm, con tôi đang bị thương, tất cả vợ chồng con cái sẽ bị đuổi ra đường, nằm vỉa hè, mặc mưa, mặc tuyết. Thưa ngài, như thế đấy, tôi còn nợ bốn hạn tức một năm tiền nhà, nghĩa là sáu mươi phơrăng.

    Giôngđơret nói dối. Bốn kỳ hạn thì chỉ có bốn mươi phơrăng, hơn nữa hắn có nợ đâu đến bốn kỳ hạn? Mới sáu tháng trước Mariuyt trả giúp cho hắn hai kỳ rồi.

    Ông Lơ Blăng móc túi ra năm phơrăng đặt trên bàn.

    Giôngđơret có đủ thì giờ lẩm bẩm vào tai con gái lớn:

    - Thằng đểu, năm phơrăng, nó cho năm phơrăng thì làm được cái gì? Không đủ trả cái ghế, miếng kính. Ta đã bỏ ra bao nhiêu rồi!

    Lúc ấy ông Lơ Blăng đã cởi chiếc áo khoác đen mặc ngoài chiếc áo dài xanh và vắt lên tay ghế.

    - Ông Phabăngtu ơi! Tôi chỉ còn năm phơrăng đó trong người, tôi đưa cháu về nhà, tối tôi lại đến; có phải tối nay ông phải trả tiền nhà không?

    Mặt Giôngđơret bỗng sáng bừng lên một cách lạ lùng. Hắn vội vàng trả lời:

    - Bẩm ngài, tám giờ tối tôi phải mang tiền trả chủ nhà.

    - Sáu giờ tôi sẽ đến đây và mang cho ông sáu mươi phơrăng.

    - Ôi! Ngài ân nhân quý hóa, - Giôngđơret cuống quýt kêu như thế rồi bảo sẽ vợ:

    - Mẹ nó nhìn kỹ lão già nhé.

    Ông Lơ Blăng dắt tay con gái quay mặt ra phía cửa, chào:

    - Chào các bạn, chiều nay nhé.

    Giôngđơret hỏi:

    - Sáu giờ ạ?

    - Sáu giờ đúng.

    Cô gái lớn lúc ấy nhìn thấy chiếc áo khoác ngoài để trên tay ghế, cô nói:

    - Thưa ông! Ông bỏ quên cái áo ạ.

    Giôngđơret lừ mắt lườm con và nhún vai.

    Ông Lơ Blăng quay lại, mỉm cười nói:

    - Tôi không bỏ quên đâu, tôi để lại đấy.

    - Thưa ngài ân nhân, ngài ân nhân cao cả của tôi, tôi không cầm được nước mắt! Thưa ngài cho phép tôi tiễn chân ngài ra xe.

    Ông Lơ Blăng bảo:

    - Ông xuống đường thì mặc cái áo này vào. Trời lạnh lắm.

    Chẳng phải đợi mời lần thứ hai, Giôngđơret khoác ngay chiếc áo. Cả ba người cùng ra, Giôngđơret đi trước hai người khách.

    X

    GIÁ THUÊ XE NHÀ NƯỚC: HAI PHƠRĂNG

    MỘT GIỜ

    Mariuyt không bỏ qua một tí nào câu chuyện chàng chứng kiến, thế mà thực ra chàng chẳng nhìn thấy gì. Mắt chàng không chút nào rời người thiếu nữ, trái tim chàng như bao bọc lấy nàng từ lúc nàng bước chân vào gian phòng tồi tàn kia. Suốt thời gian nàng ở đấy, Mariuyt tâm hồn như ngất ngây say sưa, không còn để ý đến sự vật gì xung quanh nữa. Chàng đang chiêm ngưỡng trước mắt không phải một thiếu nữ mà là một ánh hào quang khoác áo xa tanh và đội mũ nhung. Sao thiên lang rọi vào trong phòng ấy cũng không làm cho chàng choáng ngợp hơn.

    Khi thiếu nữ mở cái bọc, giở những quần áo, chăn ra, ân cần hỏi người đàn bà ốm, âu yếm thăm đứa nhỏ bị thương, chàng theo dõi tất cả những cử chỉ của nàng, cố nghe tiếng nói của nàng. Chàng đã quen đôi mắt, cái trán, cái vẻ đẹp của nàng, thân hình, dáng điệu nàng, nhưng chưa thuộc giọng nói của nàng. Ở vườn Luychxămbua, có lúc chàng như thoáng nghe được nàng nói một vài tiếng nhưng chàng không chắc có phải tiếng nàng như thế không. Chàng có thể chịu giảm thọ mười năm để được nghe tiếng nàng nói, để giữ được trong tâm hồn chàng một chút cái âm nhạc du dương ấy. Nhưng giọng kể lể thảm hại, tiếng nói oang oang của Giôngđơret át cả tiếng nàng. Mariuyt giận vô cùng trong chính lúc say sưa ấy. Mắt chàng ôm ấp lấy nàng. Chàng không thể tưởng tượng được chính con người thần tiên ấy lại đang ở giữa con vật ghê tởm, trong cái ổ kinh khủng này. Thật như một con chim hoàng yến giữa một đàn cóc.

    Khi nàng bước ra, chàng chỉ có một ý nghĩ là theo nàng, theo từng bước cho đến khi biết được chỗ nàng ở, không thể lại mất hút nàng một lần nữa sau cuộc tái ngộ kỳ diệu này. Mariuyt từ trên tủ nhảy xuống, cầm mũ, tay đã nắm quả đấm cửa, sắp sửa bước ra rồi chàng chợt nghĩ ra và đứng dừng lại. Hành lang dài, cầu thang đốc, gã Giôngđơret còn kể lể, ông Lơ Blăng có lẽ chưa lên xe, nếu trong hành lang, trên cầu thang hay ở ngưỡng cửa, ông ngoảnh lại và bắt gặp Mariuyt trong cái nhà này, ông sẽ ngạc nhiên như thế nào? Hay là đợi một lát? Nhưng lỡ xe lại đi mất. Mariuyt phân vân. Cuối cùng chàng mở cửa đi ra.

    Trong hành lang không còn ai, chàng chạy ra cầu thang. Cầu thang không còn ai, chàng xuống vội cầu thang và ra phố thì vừa kịp trông thấy một cái xe ngựa rẽ ra phố Pơti Păngkiê và đi về Paris.

    Mariuyt chạy vội về phía ấy. Đến góc phố chàng lại thấy chiếc xe chạy nhanh xuống phố Múpphơta. Xe chạy đã quá xa, không sao theo kịp. Chạy theo ư? Không được. Người trong xe có thể trông thấy kẻ đuổi theo, người bố sẽ nhận ra chàng, sự may mắn hãn hữu và kỳ diệu: Vừa lúc ấy, Mariuyt thấy một chiếc xe ngựa cho thuê của nhà nước đi qua phố, không có khách. Chỉ còn một cách là lên xe ấy để đuổi theo xe kia. Thật là bảo đảm, không sợ bị lộ.

    Mariuyt ra hiệu bảo người đánh xe dừng lại và nói:

    - Đi giờ.

    Mariuyt không có ca vát, áo dài chàng mặc làm việc hàng ngày mất cả khuy, sơ mi rách trước ngực.

    Người lái xe dừng lại, nháy mắt ra hiệu, giơ bàn tay về phía Mariuyt, ngón tay cái cọ cọ ngón tay trỏ.

    Mariuyt hỏi:

    - Cái gì?

    - Trả tiền trước.

    Mariuyt nhớ ra chàng chỉ có mười sáu xu. Chàng hỏi:

    - Bao nhiêu?

    - Bốn mươi xu.

    - Về tôi sẽ trả.

    Người lái xe không trả lời, huýt sáo miệng điệu La Palit và quất ngựa đi. Mariuyt ngơ ngẩn nhìn chiếc xe ngựa chạy ra. Chỉ vì thiếu hai mươi xu mà mất vui sướng! Mất hạnh phúc! Mất tình yêu! Lại trở về đêm tối. Mắt đã trông thấy nay lại như mù. Chàng giận dỗi nghĩ tới năm phơrăng đã cho cái con khốn nạn buổi sáng, chàng đâm ra tiếc, tiếc quá. Nếu có năm phơrăng ấy thì thật là trời cứu chàng; chàng sẽ sống lại, thoát khỏi đêm tối âm u, thoát khỏi cô đơn, buồn bã, góa bụa. Chàng sẽ nối lại cái sợi chỉ đen của đời chàng với sợi kim tuyến tươi đẹp vừa phất phơ trước mắt chàng, nhưng lại vừa dứt một lần nữa. Mariuyt trở lại căn nhà của chàng, tuyệt vọng.

    Mariuyt có thể nghĩ ông Lơ Blăng đã hẹn buổi chiều sẽ lại và chàng có thể chuẩn bị sẵn sàng để đuổi theo ông khôn khéo hơn, những đang mải ngắm say sưa người yêu, chàng chỉ nghe mơ hồ lời nói của ông Lơ Blăng.

    Khi sắp sửa bước lên cầu thang, Mariuyt thấy ở bên kia đường, dọc theo bức tường vắng phố Barie đê Gôbơlanh, Giôngđơret trùm chiếc áo khóa của nhà "từ thiện", đang nói chuyện với một người ra dáng bất hảo, một hạng người ăn sương, vẻ mặt khả nghi, lời nói mập mờ, ý đồ đen tối, bọn người thường ngủ ngày nghĩa là ban đêm thì làm việc.

    Một người cảnh binh chắc phải để ý đến hai nhân vật lạ đứng dưới gió tuyết thì thầm như vậy, nhưng Mariuyt thì không để ý đến.

    Tuy nhiên, dù đang băn khoăn buồn bực, chàng cũng nhận thấy cái người ăn sương đang nói chuyện với Giôngđơret phảng phất giống như một tên là Păngsô biệt hiệu là Pơranhtaniê, cũng là Bigrơnay mà Cuốcphêrắc đã chỉ mặt cho chàng một lần và giới thiệu là một tên ăn sương nguy hiểm trong khu phố này. Ta đã đọc đến tên nhân vật ấy trong quyển trên. Cái tên Hăngsô tức là Pơranhtaniê, tức là Bigrơnay đã xuất hiện trong nhiều vụ án đại hình và sau đó trở thành một tên vô lại có tên tuổi. Hồi bấy giờ nó chỉ là một tên vô lại cừ khôi. Ngày nay nó trở nên một sư tổ trong đám trộm cướp. Cuối triều đại trước hắn được tôn làm trưởng phái. Cứ đến tối, ở nhà lao La Forxơ trong hố sư tử, khi các nhóm họp nhau bàn định rầm rì thì luôn nhắc đến tên hắn. Ở nhà lao đó, người ta còn thấy, đứng dưới con đường tuần tra chỗ có cái ống thoát nước nhà tiêu, cái cống mà năm 1843, giữa ban ngày, ba mươi tù nhân đã trốn thoát – trên những tấm đá hố xí, khắc trên tường, ven theo đường tuần tra, tên của hắn, Păngsô, chính tự tay hắn khắc trong một vụ âm mưu vượt ngục. Hồi 1832 cảnh sát đã theo dõi hắn, nhưng hắn chưa thực sự tỏ tài.
     
  7. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương XI, XII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mariuyt lững thững bước lên cầu thang. Sắp bước vào phòng chàng thấy cô Giôngđơret chị đi theo chàng trong hành lang. Trông thấy cô gái ấy, chàng chán ghét lắm; mất năm phơrăng cho cô ta, đòi lại bây giờ cũng muộn rồi, cái xe hàng không còn đấy, cái xe ngựa kia cũng đã chạy quá xa rồi. Vả lại có đòi, cô ta cũng chẳng trả lại nào. Còn hỏi cô ta ở chỗ ở của hai người khách vừa đến thì vô ích, chắc chắn là cô ta không biết, vì là thư ký tên Phabăngtu để gửi cho nhà từ thiện ở nhà thờ Xanh Giắc đuy Hôpa.

    Mariuyt vào phòng và khép cửa lại. Cánh cửa không đóng được; Mariuyt quay lại thì thấy một bàn tay giữ nó nửa khép, nửa mở.

    Mariuyt hỏi:

    - Thế là cái gì? Ai đấy?

    - Đấy là cô Giôngđơret.

    Mariuyt nói, gần như gắt gỏng:

    - Lại cô, lúc nào cũng chỉ thấy cô! Cô muốn gì?

    Cô Giôngđơret ra vẻ tư lự không trả lời. Cô ta không còn cái dáng điệu dạn dĩ như buổi sáng nữa. Cô ta không bước vào phòng, vẫn ở ngoài hành lang, trong bóng tối. Mariuyt chỉ nhìn thấy cô ta qua ngách cửa.

    Chàng bảo:

    - Thế nào, cô muốn gì thì nói đi nào.

    Cô ta ngước mắt nhìn Mariuyt, cặp mắt tối tăm buồn rầu hình như có một chút ánh sáng mơ hồ mới nhóm lên:

    - Ông Mariuyt, sao ông có vẻ buồn thế? Ông có việc gì bận lòng?

    - Tôi ấy à?

    - Vâng, ông.

    - Tôi chẳng có gì.

    - Có.

    - Tôi dám nói là có.

    - Cô đừng lôi thôi nữa, hãy để tôi yên.

    Mariuyt lại đẩy cánh cửa, cô ta lại giữ lấy cánh cửa và bảo:

    - Ông này! Ông nghĩ lầm đấy, ông không giàu có, nhưng ông đã có lòng tốt sáng nay. Ông đã cho tôi ăn, bây giờ ông có việc gì, cứ nói cho tôi biết. Ông đang buồn, ai chả thấy. Tôi không thích thấy ông buồn. Làm thế nào để ông hết buồn? Tôi có thể giúp ông điều gì được không? Ông cứ sai tôi. Tôi không cần hiểu biết việc riêng của ông đâu, ông không cần nói gì cả, nhưng tôi vẫn có thể giúp ông được. Tôi giúp ông được, tôi vẫn giúp cho bố tôi đấy. Đưa thư, đến nhà này nhà khác, hỏi thăm chỗ này chỗ khác, tìm một địa chỉ, theo dõi một người, tôi làm được cả. Vậy ông cho tôi biết ông muốn điều gì, tôi có thể đến bảo người ta. Có khi chỉ cần có người nhắn tin với người ta là đủ rồi, là người ta hiểu việc và việc sẽ thành. Ông cứ nhờ tôi.

    Một ý nghĩ thoảng qua trí óc Mariuyt. Chết đuối, gặp cái gì mà chẳng muốn với? Chàng lại gần cô Giôngđơret.

    - Ta bảo em nhé..

    Cô ta ngắt lời Mariuyt, vẻ sung sướng:

    - Phải đấy, cứ gọi tôi là em, tôi thích thế.

    - Thế nhé. Em đã dẫn ông lão và cô con gái đến đây.

    - Vâng.

    - Em hẳn biết chỗ ở của họ?

    - Không.

    - Thì em hãy tìm cho ta đi.

    Mắt cô Giôngđơret đang u buồn bỗng tươi sáng lên, những rồi lại âm thầm.

    Cô ta hỏi:

    - Ông cần biết chỗ ở của họ phải không?

    - Phải.

    - Ông có quen họ không?

    - Không.

    - Nghĩa là ông không quen cô ta, nhưng muốn làm quen với cô ta chứ gì. – Cô Giôngđơret hỏi vội vàng như vậy. Lúc nãy cô gọi họ, bây giờ thì cô ta, giọng vừa đầy ý nghĩa vừa chua chát.

    - Thế em có giúp ta được không?

    - Cho ông biết địa chỉ của cô tiểu thư xinh đẹp ấy à?

    Mariuyt nghe trong những tiếng "tiểu thư xinh đẹp" ấy có cái gì rất khó chịu. Chàng như muốn gắt:

    - Thôi được, nghĩa là địa chỉ của người bố và người con gái, địa chỉ của họ ấy mà.

    Cô Giôngđơret đăm đăm nhìn chàng:

    - Thế ông sẽ cho tôi cái gì?

    - Muốn cái gì cũng được.

    - Muốn cái gì cũng được à?

    - Phải.

    - Tôi sẽ tìm địa chỉ của họ cho ông.

    Cô Giôngđơret cúi đầu, rồi ngoắt một cái kéo cánh cửa sập lại.

    Còn một mình Mariuyt.

    Chàng ngồi vật xuống chiếc ghế, gục đầu trên bàn tay, khuỷu tay tì xuống giường, chìm đắm trong những ý nghĩ mơ hồ, đầu óc như choáng váng. Bao nhiêu việc dồn dập xảy ra từ buổi sáng, nàng tiên xuất hiện rồi biến đi, những điều mà đứa con gái Giôngđơret vừa nói với chàng, một tia mong đợi lờ mờ trong cả một bầu trời tuyệt vọng, tất cả những ý nghĩ và cảm xúc ấy rối bời trong óc.

    Bỗng nhiên chàng chợt tỉnh cơn mơ mộng. Tiếng nói gắt gỏng thô bạo của Giôngđơret vang lên, Mariuyt nghe thấy những lời làm cho chàng phải chú ý một cách đặc biệt.

    - Tao bảo mẹ nó rằng tao tin chắc lắm mà, tao nhận được ra hắn mà.

    Giôngđơret nói đến ai? Hắn nhận ra ai? Ông Lơ Blăng à? Tình cờ và không mong đợi, Mariuyt có thể biết tất cả những điều chàng muốn biết chăng? Nếu chàng không biết được những điều ấy thì chàng cũng không hiểu ý nghĩa của đời chàng nữa. Chàng có sắp biết được người chàng yêu là ai không? Cái bóng tối bao phủ họ sắp sáng tỏ ra chăng? Có xé toang được cái màn bí mật không? Trời ơi!

    Chàng nhảy chồm lên tủ và đến cạnh cái lỗ hổng ở bức vách.

    Trước mắt chàng lại hiện ra gian phòng tiều tụy của Giôngđơret.

    *

    XII

    NĂM PHƠRĂNG CỦA ÔNG LƠ BLĂNG

    DÙNG LÀM GÌ?

    Không có gì thay đổi trong dáng dấp gia đình ấy, chỉ có mụ vợ và hai đứa con gái đã lấy những đôi tất trong bọc đi vào chân và mặc những chiếc áo đen. Trên hai cái giường đã trải hai tấm chăn mới.

    Lão Giôngđơret chắc mới về, còn thở hổn hển. Hai đứa con gái ngồi gần lò sưởi, đứa lớn đang băng tay cho đứa nhỏ. Vợ hắn ngồi phệt trên chiếc giường gần lò sưởi, vẻ mặt ngạc nhiên. Giôngđơret soạc cẳng đi lại trong phòng. Mắt hắn trông ghê gớm lạ lùng.

    Mụ vợ rụt rè ngơ ngác trước dáng điệu dữ tợn của chồng, đánh bạo hỏi một câu.

    - Thế nào, thật ư, chắc như thế đấy chứ?

    - Chắc chứ! Tám năm rồi, nhưng tao vẫn nhận ra. Tao nhận được thật đó! Tao nhận được ngay nó. Sao! Thế mà mẹ mày không thấy ngay à?

    - Không.

    - Tao đã bảo mẹ mày để ý mà! Cái dáng người ấy, cả vẻ mặt ấy chỉ già đi một chút thôi. – Có những đứa không chịu già, không hiểu chúng nó làm thế nào, chính giọng nói của hắn. Chỉ có ăn mặc tử tế hơn, thế thôi! Hừ, đồ quỷ tàng hình, tao tóm được mày rồi.

    Hắn ngừng lại bảo hai đứa con:

    - Bước cả đi! – Thế mà mẹ mày không thấy ngay thì lạ thật.

    Nghe lệnh bố, hai đứa con đứng dậy. Người mẹ nói sẽ:

    - Tay nó đau thế, đi đâu?

    Giôngđơret nói:

    - Ra ngoài thoáng khí lại càng tốt. Xéo đi.

    Không ai cưỡng lại được hạng người như Giôngđơret. Hai đứa con gái ra ngoài.

    Khi hai đứa sắp bước ra cửa phòng, người cha giữ tay đứa con gái lớn và nói bằng một giọng đặc biệt:

    - Năm giờ đúng về đây, cả hai đứa. Tao có việc cần chúng mày.

    Mariuyt lại càng chú ý.

    Còn một mình với vợ, Giôngđơret đi đi lại lại ba vòng trong gian buồng, im lặng. Rồi hắn giắt mãi cái gấu áo sơ mi đàn bà hắn đang mặc vào trong quần, dưới thắt lưng.

    Bỗng nhiên hắn quay lại phía vợ, khoanh tay nói dõng dạc:

    - Còn điều này nữa, mẹ mày có muốn biết không? Con tiểu thư ấy..

    - Nó làm sao? Con tiểu thư ấy thế nào? Mụ vợ hỏi.

    Mariuyt không còn nghi ngờ gì nữa! Chính họ nói về nàng. Chàng nóng lòng sốt ruột nghe ngóng. Tất cả cuộc đời của chàng là ở những điều sắp nghe thấy đây.

    Nhưng lão Giôngđơret nghiêng đầu, nói nhỏ với vợ. Rồi hắn đứng dậy nói to:

    - Chính con ấy.

    - Cái thứ ấy?

    - Phải thứ ấy đó.

    Không có lời nào nói được hết ý nghĩa tiếng kêu: Cái thứ ấy của mụ vợ. Quả là tất cả ngạc nhiên, điên dại, căm hờn, giận dữ hợp lại, kết lại trong một giọng nói quái gở. Chỉ một vài lời nói của chồng, cái tên thiếu nữ mà hắn rỉ tai cho mụ đủ làm mụ đàn bà thô lỗ đang mệt mỏi ấy vùng dậy; vốn ghê tởm, mụ trở nên kinh khủng. Mụ thét:

    - Không thể được! Con ta chân không giầy, áo không có, còn nó nào áo khoác sa tanh, nào mũ nhung, nào giầy lụa, nào gì nữa! Tất cả quần áo dễ đến hơn hai trăm phơrăng, như một bà lớn! Không! Mình lầm đấy! Con nọ xấu như ma kia mà, con này thì xinh, xinh thật. Không phải nó đâu!

    - Tao bảo mẹ mày là chính nó mà. Rồi mẹ mày xem.

    Thấy chồng cả quyết như vậy, mụ vợ ngẩng cái mặt phèn phẹt vừa đỏ vừa vàng, nhìn lên trần, vẻ mặt thật là dị hợm.

    Mariuyt thấy mụ lúc bấy giờ trông ghê rợn hơn cả chồng mụ. Thật là một con lợn sề với cặp mắt hổ cái.

    - Thật thế à? Thật cái con tiểu thư đẹp đẽ ghê tởm ấy, nó làm bộ thương hại con tôi, chính con ăn mày ấy à? Trời ơi! Tôi muốn xéo lòi ruột nó ra.

    Mụ nhảy từ trên giường xuống, đứng lặng một lát, tóc rối bời, hai lỗ mũi phồng lên, miệng há hốc, hai bàn tay nắm chặt vắt ra đằng sau. Rồi mụ lại ngã vật xuống giường. Thằng chồng đi đi lại lại, không để ý gì đến mụ vợ.

    Sau mấy phút im lặng như thế, hắn lại gần vợ, đứng trước mặt, hai tay khoanh lên ngực, như lúc nãy:

    - Còn một điều nữa, mẹ mày có muốn nghe không?

    - Điều gì?

    Hắn trả lời vắn tắt và se sẽ:

    - Nghĩa là đến lúc tao phất rồi!

    Mụ Giôngđơret nhìn chồng một cách đặc biệt như muốn bảo:

    - Mình điên rồi chăng?

    Giôngđơret nói tiếp:

    - Mẹ kiếp! Tao đã kéo dài cuộc đời làm dân cái xứ hễ-có-bánh-thì-chết-rét-hễ-có-củi-thì-chết-đói từ lâu rồi. Một cái miệng tao, lại bao nhiêu miệng khác nữa. Tao nói thật đấy. Phải cắt đứt cái trò khôi hài ấy đi. Chúa Trời cho! Tao muốn ăn cho no, uống cho say! Đớp này! Giấc này! Và không muốn làm gì cả. Bây giờ đến lượt tao, trước khi thở hắt ra, tao muốn cũng làm triệu phú một phen.

    Hắn đi vòng quanh cái ổ rồi nói tiếp:

    - Như chúng nó.

    Mụ vợ hỏi:

    - Ý mình muốn nói gì thế?

    Hắn lắc lư cái đầu, nháy mắt ra hiệu và cất tiếng dõng dạc như anh chàng ảo thuật đầu đường sắp biểu diễn:

    - Tao muốn nói gì à? Nghe đây!

    Mụ Giôngđơret lẩm bẩm trong mồm:

    - Chết! Sẽ chứ nào, hình như là việc phải giữ kín, không để ai nghe mà.

    - Ai nghe được? Gã bên cạnh à? Tao thấy hắn ra phố lúc nãy. Mà cái thằng ngốc ấy thì hiểu cái quái gì? Tao bảo tao đã thấy nó ra phố rồi.

    Tuy vậy Giôngđơret theo bản năng cũng hạ thấp giọng, nhưng cũng vẫn còn đủ cho Mariuyt nghe. Một điều may mắn làm cho Mariuyt không mất một lời nào trong câu chuyện là tuyết rơi ngoài đường làm tiếng xe cộ bớt ầm ĩ. Mariuyt nghe thấy thế này:

    - Mẹ mày nghe đây. Con bò vàng, tao nắm được rồi. Nghĩa là cũng như nắm được rồi. Xong xuôi rồi, sắp xếp đâu ra đấy rồi. Tao đã gặp bọn ấy. Sáu giờ chiều hắn sẽ đến và mang lại sáu mươi phơrăng. Hừ, đồ chó chết! Mẹ mày có thấy không, tao đã bịa ra sáu mươi phơrăng như thế nào chứ? Chủ nhà đòi, ngày 4 tháng hai, thực ra có phải đâu là tiền nhà. Cũng khá đấy chứ. Thế là sáu giờ hắn sẽ đến, giờ này gã láng giềng đi ăn rồi, mụ Bugông đi rửa bát ngoài phố, không còn ai trong nhà. Anh chàng láng giềng không bao giờ về trước mười một giờ. Hai con nhãi sẽ đứng canh. Mẹ mày giúp tao một tay. Hắn sẽ phải làm theo lời ta.

    Mụ vợ hỏi:

    - Nếu hắn không làm theo?

    Giôngđơret làm một cử chỉ kinh khủng và nói:

    - Thì ta sẽ làm thịt nó!

    Rồi hắn phá lên cười.

    Lần đầu tiên Mariuyt thấy hắn cười. Tiếng cười êm ru, giá lạnh làm rùng mình.

    Giôngđơret mở một ô tủ ở gần lò sưởi, tút ra một cái mũ két cũ, chải qua loa rồi đội lên đầu:

    - Bây giờ tao đi đây. Tao còn phải gặp mấy đứa nữa. Tay nghề cả. Mẹ mày sẽ thấy gọn gàng như thế nào. Tao đi ra ngoài một lát thôi. Một vố tuyệt diệu. Trông nhà nhớ!

    Thu hai nắm tay vào túi quần xong, hắn nghĩ ngợi một lát rồi nói:

    - Mẹ mày có thấy không, cũng may là hắn không nhận ra tao, nếu hắn nhận ra chắc hắn không trở lại. Thì là hỏng ăn. Công ở cái bộ ria của tao đấy! Cái bộ ria lãng mạn, cái bộ ria lãng mạn tốt tốt là.

    Rồi hắn lại phá lên cười nữa. Hắn đi ra phía cửa sổ, tuyết vẫn rơi, rạch dọc trời màu xám.

    - Trời khốn nạn!

    Hắn vừa khép chiếc áo khoác vừa nói:

    - Cái vỏ rộng quá, nhưng không sao! Cái thằng cha già cũng có nhã ý để lại cho tao. Không có cái áo này thì ra đường thế chó nào được và chuyện sẽ hỏng bét cả. Một cái áo mà quyết định đấy.

    Rồi hắn đi ra, kéo sụp cái mũ két xuống.

    Vừa được mấy bước thì cánh cửa mở, bộ mặt hung dữ và tinh quái của hắn lại hiện ra trong khung cửa:

    - Tao quên khuấy. Mẹ mày phải có một cái hỏa lò nấu than.

    Rồi hắn vứt vào tạp dề vợ đồng bạc năm phơrăng của nhà "từ thiện".

    Mụ vợ hỏi lại:

    - Một cái hỏa lò than?

    - Phải.

    - Mấy hộc?

    - Hai hộc.

    - Thế là mất ba mươi xu. Còn thừa thì tôi mua thức ăn bữa chiều.

    - Ấy, không nên.

    - Sao?

    - Không nên tiêu lọn đồng một trăm xu ấy.

    - Thế nào?

    - Tao cũng cần mua cái này.

    - Cái gì?

    - Một thứ này.

    - Bao nhiêu tiền?

    - Có hàng sắt nào gần đây không?

    - Có, ở phố Múpphơta.

    - À phải rồi, ở góc phố, có một cửa hàng.

    - Nhưng mình bảo mình cần bao nhiêu để mua sắm thứ đó.

    - Khoảng năm mươi xu, ba phơrăng gì đó.

    - Thế thì bữa cơm chả còn gì.

    - Hôm nay không phải là ngày ăn nhậu. Còn nhiều việc khác đáng làm hơn.

    - Được rồi, cưng ạ.

    Mụ vợ nói xong, Giôngđơret khép cửa. Mariuyt nghe thấy bước chân hắn xa dần ngoài hành lang và xuống nhanh cầu thang.

    Đồng hồ ở Xanh Mêda đánh một giờ.
     
  8. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương XIII, XIV

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ta đã biết, Mariuyt hay mơ mộng nhưng bản tính chàng vốn cương nghị và quyết đoán. Cái thói quen suy nghĩ thầm lặng đơn độc trong khi làm phát triển lòng ưu ái cảm thông của chàng khiến Mariuyt không hay giận dữ, tuy nhiên vẫn giữ nguyên tấm lòng công phẫn trước những cái xấu xa. Chàng nhân từ như mọt nhà tu hành, nhưng nghiêm khắc như một quan tòa. Chàng thương hại một con cóc nhưng sẵn sàng giẫm chết một con rắn độc. Trước mắt chàng lại chính là một cái hang rắn độc, một cái tổ quỷ. Chàng nghĩ thầm:

    Phải dẫm chết bọn khốn kiếp này.

    Những điều bí ẩn chàng muốn biết chẳng điều gì sáng thêm, trái lại càng tối tăm hơn. Chàng chẳng biết gì hơn về thiếu nữ xinh đẹp ở vườn Luychxămbua và người mà chàng vẫn quen gọi là ông Lơ Blăng, chỉ nhận thấy rằng Giôngđơret biết họ. Chàng chỉ biết một điều qua những lời bàn tính mập mờ của bọn quỷ ấy, là chúng đang giăng một cái bẫy bí mật nhưng ghê gớm và ông già với cô con gái sắp gặp một sự nguy hiểm rất lớn, nàng thì còn có thể may ra không việc gì, nhưng ông lão thì chắc chắn sẽ bị hại. Nhất định phải cứu họ, phải phá tan những âm mưu ghê tởm của bọn Giôngđơret, phải xé toạc cái lưới mạng nhện của chúng.

    Mariuyt để ý nhìn mụ Giôngđơret. Mụ vừa lấy ở một góc buồng ra một cái bếp cũ bằng tôn và đang bới đống sắt vụn.

    Chàng từ từ ở trên tủ bước xuống, rất sẽ, không động một tiếng.

    Chàng rùng mình nghĩ đến việc đen tối sắp xảy ra và ghê tởm trông thấy vợ chồng Giôngđơret; giữa những cảm giác nặng nề ấy chàng bỗng thấy vui mừng nghĩ rằng có lẽ chàng được dịp làm ơn to cho người chàng yêu.

    Nhưng làm thế nào? Báo cho những người bị đe dọa ư? Tìm họ ở đâu mới được chứ? Chàng không biết chỗ ở của họ. Họ đã xuất hiện một lát trước mặt chàng nhưng rồi lại chìm sâu dưới đáy Paris. Đợi ông Lơ Blăng buổi chiều ở cửa lúc sáu giờ thì ông ấy đến và báo cho ông ta biết ư? Nhưng Giôngđơret sẽ nhận thấy chàng rình chờ, phố vắng, chúng nó khỏe vì đông, chúng sẽ có cách bắt chàng hay gạt chàng đi một chỗ khác và người Mariuyt định cứu sẽ không thoát được. Chuông vừa đánh một giờ. Sáu giờ chúng sẽ hành động, Mariuyt còn năm tiếng đồng hồ trước mặt.

    Chỉ còn một cách.

    Chàng mặc chiếc áo khá hơn, quàng phu-la vào cổ cầm mũ đi, im lặng nhẹ nhàng như người đi chân không trên mặt rêu.

    Mụ Giôngđơret vẫn mải bới đống sắt vụn.

    Ra ngoài đường, Mariuyt đi vào phố Pơti Băngkiê.

    Chàng đi đến phố gần một cái tường thấp, có nhiều chỗ có thể nhảy qua được, đằng sau tường là một bãi đất hoang, chàng đi từ từ, đang bận suy nghĩ, bước chân đi trên tuyết êm êm; bỗng nhiên Mariuyt nghe thấy tiếng người ở gần. Chàng quay lại, phố vắng không một ai, giữa ban ngày, thế mà vẫn nghe có tiếng người.

    Chàng nảy ý nhìn qua tường xem sao. Đằng sau tường quả nhiên có hai gã đàn ông ngồi trên tuyết, lưng dựa vào tường, đang thì thầm với nhau.

    Mariuyt không biết mặt hai người ấy. Một người râu xồm, mặc áo bơ-lu, một người đầu tóc bù xù, quần áo rách rưới. Gã râu xồm đội một cái mũ chỏm Hy-lạp, gã kia để đầu trần, tuyết lẫn trong tóc.

    Mariuyt thò đầu qua tường và nghe được chuyện họ nói.

    Gã đầu bù lấy khuỷu tay hích gã kia và bảo:

    Có Patơrông Minét thì không thể hỏng được.

    Có chắc không? Gã râu xồm hỏi.

    Gã đầu bù đáp:

    - Ít nhất mỗi thằng cũng được năm trăm phên mà, có sao thì cũng chỉ năm, sáu hay mười năm là cùng.

    Gã kia thò tay dưới chiếc mũ Hy-lạp gãi gãi đầu, trả lời có vẻ do dự:

    Đã rõ ràng là thế rồi, không cách nào xảy ra ngược thế.

    - Tao bảo mày là chuyện không thể hỏng được. Cái xe ngựa của lão Sôdơ sẽ thắng sẵn.

    Đến đây thì hai gã quay sang bàn về một vở hài kịch diễn hôm trước ở rạp Ghetê.

    Mariuyt lại đi.

    Chàng cho rằng câu chuyện mập mờ của hai người ẩn sau bức tường và ngồi xổm trên tuyết một cách lạ lùng như vậy có lẽ cũng có liên can gì với âm mưu khốn nạn của Giôngđơret. Chắc cũng là cái chuyện ấy thôi.

    Mariuyt đi về phía cửa ô Xanh Măcxô và hỏi người chủ cửa hàng đầu tiên xem viên đồn trưởng cảnh binh ở đâu. Người ta chỉ số nhà 14 phố Pôngtoadơ.

    Mariuyt đi thẳng đến đó.

    Qua một cửa hàng bánh, chàng mua một cái bánh hai xu vừa đi vừa ăn, tính trước rằng sẽ không được ăn bữa chiều rồi.

    Đi đường chàng nghĩ: Thế mà lại hóa hay. Chàng tự nhủ nếu không cho con gái Giôngđơret năm phơrăng, thì tất chàng đã đi theo chiếc xe của ông Lơ Blăng và như vậy thì hẳn là không biết được chuyện gì; như vậy ông Lơ Blăng sẽ bị hại và cả cô con gái của ông cũng mắc nạn.

    XIV

    MỘT CẢNH BINH TẶNG MỘT LUẬT SƯ

    HAI QUẢ ĐẤM

    Đến số nhà 14 phố Pôngtoadơ chàng trèo lên gác một, xin gặp ông cảnh sát trưởng.

    Một nhân viên văn phòng trả lời:

    - Ông cảnh sát trưởng đi vắng. Nhưng có một vị thanh tra thay. Ông muốn gặp ông ấy không? Có cần kíp không?

    - Có, Mariuyt bảo.

    Nhân viên này dẫn chàng vào phòng làm việc của ông cảnh sát trưởng. Một người cao lớn đang đứng trong phòng, sau chấn song sắt, tựa vào một cái lò sưởi và cả hai tay sốc vạt chiếc áo khoác ba bâu. Người mặt vuông môi mỏng và cương nghị, râu má dầy, lốm đốm trông dữ tợn, mắt nhìn soi mói. Có thể nói con mắt ấy không chỉ nhìn sâu mà còn sục sạo nữa. Con người ấy cũng không kém dữ tợn, kém ghê rợn hơn Giôngđơret bao nhiêu. Bọn chó giữ nhà có khi trông cũng đáng sợ như chó sói.

    Hỏi ai? – Người ấy hỏi đổng Mariuyt.

    Ông cảnh sát trưởng.

    Ông ấy đi vắng. Tôi thay ông ấy.

    Có một việc rất bí mật.

    Thì nói đi.

    Và rất gấp.

    Thì nói mau lên.

    Con người ấy bình tĩnh và cộc, vừa đáng ghê sợ vừa đáng tin cậy. Hắn làm cho người ta vừa sợ hãi, vừa yên tâm. Mariuyt kể rằng một người mà chàng chỉ biết mặt thôi, ngay chiều hôm nay, sẽ rơi vào một cái bẫy, và chàng Mariuyt Pôngmecxi, luật sư, ở cái buồng bên cạnh ổ cướp ấy, nghe thấy qua bức vách tất cả âm mưu; rằng tên cướp đã gài bẫy ấy tên là Giôngđơret, nó có những kẻ tòng phạm, cũng là bọn du thủ du thực, trèo tường, khoét vách; trong bọn có tên Păngsô còn gọi là Pơranhtaniê hoặc Bigrơnay; rằng hai đứa con gái của Giôngđơret sẽ đứng gác, rằng không có cách nào báo cho người bị đe dọa biết vì chàng không biết cả tên người ấy; và cuối cùng là tất cả sẽ phải tiến hành vào sáu giờ chiều, ở một nơi vắng vẻ nhất của đại lộ Ôpitan, trong cái nhà số 50-52.

    Nghe thấy số nhà ấy viên thanh tra ngẩng đầu lên và lạnh lùng nói:

    Thế là cái buồng ở cuối hành lang phải không?

    Đúng thế, Mariuyt đáp. Và anh nói thêm:

    Thế ông biết cái nhà ấy à?

    Viên thanh tra im lặng một lát, đưa gót giày áp vào miệng lò sưởi cho ấm rồi trả lời.

    Hình như thế.

    Rồi hắn nói lẩm bẩm trong mồm như nói với cái ca vát quàng cổ của hắn hơn là nói với Mariuyt:

    Patơrông Minét phải dính líu vào đấy chắc.

    Cái tên này làm cho Mariuyt chú ý. Anh nói:

    Patơrông Minét, tôi quả có nghe nói đến cái tên này.

    Và anh kể cho viên thanh tra câu chuyện giữa gã tóc bù và tên râu xồm, trong tuyết, đằng sau bức tường xóm Pơti Băngkiê.

    Viên thanh tra lầu bầu trong mồm.

    - Tên tóc bù chắc là Bruygiông, còn tên râu xồm chắc là Đơmi-Lia hay Đơ Milia.

    Hắn lại cụp mắt xuống và nghĩ ngợi.

    - Còn lão Sôdơ, ta đoán được rồi. Cái áo khoác của tôi bị sém rồi. Chúng cứ đốt trong lò sưởi này nhiều lửa quá. Còn số nhà 50-52 là nhà Gorbô cũ,

    Rồi hắn nhìn Mariuyt.

    Chỉ thấy tên râu xồm và tên tóc bù ấy thôi à?

    Cả Păngsô nữa.

    Không thấy lởn vởn ở đấy một gã bảnh bao quỷ quái à?

    Không.

    Lại một thằng cha to lớn, trông như con voi vườn Bác thảo ấy?

    Không.

    Và một thằng ranh mãnh, như một cái "đuôi đỏ" cũ.

    Không.

    - Còn tên thứ tư thì chả ai trông thấy hắn, cả bọn phụ tá, bọn nhân viên và thủ hạ của hắn. Không thấy nó thì cũng chẳng lạ gì.

    Không. Tất cả cái lũ ấy là lũ nào vậy?

    Viên thanh tra trả lời:

    Vả lại chưa đến giờ chúng ra mặt.

    Hắn lại im lặng, rồi lại nói:

    - 50-52. Ta biết cái ổ ấy, không thể nấp ở trong nhà mà không bị các tài tử đó phát hiện. Và thế là chúng sẽ hoãn trình diễn ở hài kịch. Chúng khiêm tốn lắm, công chúng làm cho chúng khó chịu. Không, không thể được. Ta muốn nghe chúng hát và khiến chúng nhảy múa kia.

    Độc tấu xong, hắn quay sang phía Mariuyt, nhìn thẳng vào mặt chàng và hỏi:

    Có sợ không?

    Sợ gì?

    Sợ bọn chúng.

    - Không sợ chúng cũng như không sợ ông vậy. – Mariuyt trả lời sẵng, chàng đã bắt đầu để ý viên thanh tra khi nói với chàng vẫn không gọi ông. Viên thanh tra nhìn Mariuyt trực thị hơn nữa và nói tiếp với một vẻ trang trọng như phát biểu một châm ngôn.

    - Câu trả lời của anh là của một người dũng cảm và một người lương thiện. Dũng cảm không sợ kẻ ác, lương thiện không sợ nhà cầm quyền.

    Mariuyt ngắt lời hắn.

    Được rồi. Nhưng ông định làm thế nào?

    Viên thanh tra chỉ trả lời:

    - Những người ở trong nhà ấy đều có chìa khóa cổng riêng để đi, về ban đêm. Anh phải có một cái chứ?

    Có. Mariuyt trả lời.

    Viên thanh tra bảo:

    Đưa cho tôi.

    Mariuyt rút cái chìa khóa tỏng túi ghi lê, đưa cho thanh tra và nói thêm:

    Nếu ông nghe tôi thì nên đến đông.

    Viên thanh tra nhìn Mariuyt như Vônte nhìn một vị hàn lâm tỉnh nhỏ khi người này đề nghị với mình một vần thơ. Hắn thọc cùng một lúc hai bàn tay hộ pháp vào hai cái túi khổng lồ của cái áo khoác và rút ra hai khẩu súng lục nhỏ bằng thép, thứ súng mà người ta gọi là "quả đấm". Hắn đưa cho Mariuyt và nói nhanh, gọn:

    - Cầm lấy cái này. Về nhà, nấp ở trong buồng mình. Để cho họ tưởng là anh ra phố. Súng đã nạp đạn, mỗi khẩu hai viên. Anh phải quan sát. Có một cái lỗ ở bức vách, anh đã bảo tôi thế. Chúng sẽ đến. Để cho chúng tiến hành công việc được chút ít. Khi thấy đúng lúc và cần phải chặn tay chúng, anh bắn một phát súng. Đừng bắn sớm. Việc khác mặc tôi. Một phát súng chỉ thiên, lên trần, hay vào đâu cũng được. Chú ý không bắn sớm quá. Hãy đợi chúng khởi sự. Anh là luật sư, anh hiểu.

    Mariuyt cầm hai khẩu súng, bỏ vào túi bên chiếc áo ngoài của chàng. Viên thanh tra bảo:

    Nó cộm lên thế kia, người ta trông thấy. Bỏ vào túi trong thì hơn.

    Mariuyt giấu hai khẩu súng vào túi trong. Viên thanh tra nói tiếp:

    Bây giờ không ai được bỏ phí một chút nào. Mấy giờ rồi?

    Hai giờ rưỡi. Hẹn bảy giờ phải không?

    Sáu giờ - Mariuyt đáp.

    Viên thanh tra nói tiếp:

    - Tôi có đủ thì giờ, nhưng chỉ vừa vặn đủ thì giờ thôi. Những điều tôi dặn đừng quên gì. Pằng! Một phát súng.

    - Ông cứ yên trí, - Mariuyt đáp.

    Khi Mariuyt vặn quả đấm cửa để đi ra, viên thanh tra nói to với anh:

    - À, nếu từ nay đến lúc đó, anh cần tới tôi thì đến đây, hoặc cho người đến báo. Hỏi thanh tra Giave.
     
  9. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương XV, XVI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một lúc sau, hồi ba giờ, Cuốcphêrắc tình cờ đi qua phố Muphơta cùng với Bôtxuyê. Tuyết rơi càng nhiều, đầy trời. Bôtxuyê nói với Cuốcphêrắc:

    - Tuyết rơi tưởng như trời có dịch bướm trắng.

    Thình lình, Bôtxuyê nhìn thấy Mariuytx đang đi ngược phố lên trạm gác với một vẻ đặc biệt. Hắn kêu:

    - Ơ kìa! Mariuytx.

    - Mình cũng trông thấy - Cuốcphêrắc nói. Đừng gọi hắn.

    - Tại sao?

    - Hắn bận.

    - Bận gì?

    - Cậu không thấy vẻ mặt hắn à?

    - Vẻ mặt gì?

    - Mặt một người đang đuổi theo một người.

    - Đúng thế, Bôtxuyê bảo. Cuốcphêrắc lại nói tiếp:

    - Trông mặt cậu ấy kia kìa.

    - Nhưng cậu ấy đi theo ai thế chứ?

    - Lại một ả mèo-mũ-hoa nào đây. Cậu ấy yêu rồi.

    - Những mình chẳng thấy mèo-mũ-hoa nào tỏng phố này cả. Không một bóng đàn bà.

    Cuốcphêrắc nhìn và kêu:

    - Cậu ấy đuổi theo một người đàn ông.

    Quả vậy, một người đàn ông đang đi phía trước đầu đội mũ lưỡi trai, có thể thấy bộ râu lốm đốm, mặc dầu nhìn đằng sau lưng. Hắn đi cách Mariuytx hai mươi bước. Hắn mặc một cái áo khoác ngoài rất mới, nhưng quá rộng và một cái quần rách tã, be bét những bùn. Bôtxuyê cười phá lên.

    - Người đàn ông kia là ai?

    - Người ấy à? Một nhà thơ. Các nhà thơ thường mặc quần của những anh bán da thỏ và áo của các vị nguyên lão.

    - Xem Mariuytx đi đâu, xem người kia đi đâu.

    - Ta đi theo họ nhé.

    - Bôtxuyê, con phượng hoàng đất Mô, Bôtxuyê ơi! Cậu là một con vật ngu độn tuyêt vời. Ai lại đuổi theo một người đàn ông đang đuổi theo một người đàn ông.

    Họ quay trở lại.

    Mariuytx đã gặp Giôngđơret ở phố Muphơta và đi theo rình hắn.

    Giôngđơret cứ đi lên phía trước không ngờ có một con mắt đang theo dõi mình.

    Hắn rời phố Muphơta và Mariuytx thấy hắn vào một cái lều ghê tởm nhất ở phố Graxiơ. Hắn ở trong đó độ mười lăm phút rồi trở về phố Muphơta, dừng lại trước một cửa hàng sắt, hồi ấy vẫn mở ở góc phố Pie Lôngba. Vài phút sau Mariuytx thấy hắn trở ra, cầm một cái đục lớn tra cán gỗ trắng. Hắn thu cái đục dưới chiếc áo khoác. Ngang phố Pitơ Giăngtidi hắn rẽ tay trái và đi nhanh về phố Pơti Băngkiê. Trời sắp tối. Tuyết ngừng rơi một lúc, lại rơi nhiều hơn, Mariuytx đứng lại ẩn mình ở góc phố Pơti Băngkiê lúc nào cũng vắng tanh và không đi theo Giôngđơret nữa. Cũng may cho chàng bởi vì khi Giôngđơret đi gần đến bức tường thấp mà hồi nãy Mariuytx nghe thấy tên tóc bù nói chuyện với tên râu xồm, thì hắn quay người lại, nhìn xem có ai theo dõi không. Không thấy Mariuytx, thế là hắn nhảy qua bức tường và biến mất.

    Cái quãng trống, mà bức tường này bao quanh thông với sân sau nhà một người chủ xe ngựa đã vỡ nợ, nhưng vẫn còn mấy chiếc xe cọc cạch ở trong kho.

    Mariuytx nghĩ tốt nhất là nên lợi dụng lúc Giôngđơret vắng nhà mà trở về. Vả lại trời đã về chiều, mà chiều nào mụ Buyêcgông ra đi rửa bát ngoài phố cũng khóa cửa nhà lại, cho nên vào sẩm tối thì bao giờ cửa nhà cũng khóa kín. Mariuytx đã đưa chìa khóa cho viên thanh tra cảnh sát nên chàng cần phải về nhanh.

    Trời tối, đêm hầu xuống hẳn. Ở chân trời và trong không gian vô tận chỉ còn một điểm nhận ánh sáng mặt trời: Đó là mặt trăng.

    Mặt trăng lên đỏ ngòm đàng sau cái chóp thấp nhà Xanpêtrie.

    Mariuytx rảo bước về nhà số 50-52. Cửa hãy còn mở. Anh rón rén trèo thang gác và đi lên dọc theo tường hành lang. Hai bên là những gian buồng tồi tàn để cho thuê, mà chưa ai thuê nên mụ Buyêcgông thường để ngỏ cửa. Qua một gian nọ, Mariuytx trông thấy bốn cái đầu người in hình, trông mờ mờ trong cái bóng ngày còn sót lọt qua một cửa sổ nhỏ. Mariuytx không nhìn vì sợ họ nhìn thấy chàng. Chàng về được tới phòng mình không ai hay, không một tiếng động. Vừa kịp. Chỉ một lát sau chàng nghe thấy mụ Buyêcgông ra đi và cửa đóng sập lại.

    XVI

    MỘT BÀI HÁT THEO ĐIỆU ANH

    THỊNH HÀNH KHOẢNG 1832

    Mariuytx ngồi xuống giường. Lúc bấy giờ vào khoảng năm giờ rưỡi chiều. Chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa thì việc kia sẽ đến. Chàng nghe tiếng mạch máu đập trong người như nghe tiếng mạch máu đập trong người như nghe tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ trong bóng tối. Chàng nghĩ rằng trong bóng tối hiện giờ tội ác và công lý đi từ phía bên kia. Chàng không sợ, nhưng chàng không thể không rùng mình nghĩ đến những việc sắp xảy ra. Như người đứng trước một chuyện quá ư đột ngột, cả ngày hôm ấy Mariuytx tưởng như mình đang mơ, muốn chắc chắn rằng đây không phải là một cơn ác mộng, Mariuytx luôn luôn mó tới hai chiếc súng ngắn lành lạnh trong túi áo vét.

    Tuyết không rơi nữa. Mặt trăng nhô khỏi màn sương mù, càng ngày càng tỏ, ánh trăng hồng ánh tuyết trên mặt đất rọi vào trong phòng chàng như một thứ ánh sáng mờ mờ như lúc hoàng hôn.

    Trong phòng Giôngđơret có ánh sáng. Cái lỗ hổng trên vách, sáng đỏ như máu.

    Ánh sáng ấy chắc chắn không phải là ánh nến. Cả gian phòng bên ấy yên lặng, không ai cựa quậy, không ai nói một lời, không một hơi thở. Yên lặng lạnh lẽo và hoàn toàn, không có cái ánh sáng ấy thì chẳng khác gì một ngôi mộ.

    Mariuytx se sẽ cởi giầy đút vào gầm giường.

    Vài phút sau, Mariuytx nghe tiếng cánh cổng xoay trên bản lề. Một tiếng chân nặng nề, vội vã leo lên cầu thang; Giôngđơret đã về.

    Tức thì nhiều tiếng nói ồn ào nổi lên. Tất cả mọi người đều ở nhà. Tuy nhiên khi Giôngđơret đi vắng thì họ yên lặng như đàn sói con vắng bố. Giôngđơret nói:

    - Tao đây!

    Hai đứa con gái dài mồm ra:

    - Chào bố.

    - Thế nào? – Mụ vợ hỏi.

    - Gọn lắm, nhưng tao lạnh cứng cả chân đây này. Tốt lắm, mẹ mày đã mặc áo xống chỉnh tề, được lắm, phải làm cho hắn yên dạ.

    - Như sẵn sàng đi phố.

    - Mẹ mày không quên gì chứ? Làm được đúng như tao dặn chứ?

    - Mình cứ yên chí.

    - Là vì..

    Giôngđơret không nói hết. Mariuytx nghe thấy hắn để một vật gì nặng lên bàn, có lẽ chiếc đục hắn vừa mới mua. Hắn hỏi:

    - Thế nào, đã ăn uống gì chưa?

    Mụ vợ trả lời:

    - Đã, tôi kiếm được ba củ khoai lớn và muối. Nhân tiện có lửa, tôi đã nấu khoai.

    - Khá lắm. Ngày mai tao sẽ cho chúng mày đi hiệu, ăn vịt và nhiều thứ nữa, như những ông hoàng. Công việc trôi chảy cả.

    Đến đây, hắn hạ thấp giọng bảo vợ:

    - Bẫy chuột đã mở mèo đợi sẵn rồi.

    Hắn lại hạ thấp giọng nữa:

    - Cho cái này vào lò.

    Mariuytx nghe thấy tiếng lào xào của than củi do cặp hay thứ gì bằng sắt cời lên. Giôngđơret nói tiếp:

    - Mẹ mày đã bôi mỡ chốt cửa chưa, cho khỏi có tiếng động?

    - Xong cả.

    - Mấy giờ rồi?

    - Sắp sáu giờ, chuông Xanh Mêda vừa đánh nửa tiếng.

    Giôngđơret nói:

    - Khỉ chửa, lũ nhãi phải đi gác chứ. Lại đây, nghe tao dặn.

    Có tiếng thì thầm.

    Lại tiếng Giôngđơret cất lên:

    - Mụ Buyêcgông đã ra phố chưa?

    - Rồi, - mụ vợ trả lời.

    - Mẹ mày có chắc là không có ai bên cạnh không?

    - Cả ngày hắn không về. Và giờ này là hắn đi ăn, mình cũng biết đấy.

    - Mẹ mày chắc không?

    - Chắc.

    - Cũng được, - Giôngđơret nói tiếp. Nhưng cứ sang thử xem hắn có nhà không cũng không sao. Con này, cầm cây nến sang thử.

    Mariuytx từ trên mặt tủ nhảy cả bốn vó xuống và lặng lẽ chui vào gầm giường. Vừa chui xong thì thấy một ánh sáng le lói đằng sau khe cửa. Một tiếng nói cất lên.

    - Bố ơi! Đi vắng.

    Mariuytx nhận ra tiếng đứa con gái lớn.

    - Mày có vào không?

    - Không, nhưng mà chìa khóa cắm ở cửa, thế là anh ta đi vắng rồi còn gì.

    Người bố hét lên:

    - Cứ vào đi nào!

    Cửa mở, Mariuytx trông thấy đứa con gái lớn Giôngđơret bước vào, tay cầm cây nến. Nó trông cũng như buổi sáng nhưng có vẻ ghê rợn hơn dưới ánh nến.

    Nó đi thẳng đến giường. Mariuytx phải một chút hoảng sợ khó tả. Những có cái gương treo trên tường bên cạnh giường. Nó đi tới cái gương ấy. Nó kiễng chân lên soi gương, có những tiếng sắt chạm nhau ở phòng bên.

    Nó lấy lòng bàn tay vuốt tóc, mỉm cười với gương và se sẽ hát bằng cái giọng rè rè, ảm đạm của nó:

    Duyên tình ngắn ngủi một tuần thôi,

    Giây phút hạnh phùng khéo vội trôi,

    Say đắm ích gì trong chốc lát?

    Đã yêu nên yêu mãi yêu hoài!..

    Yêu mãi yêu hoài!.. Yêu mãi yêu hoài!..

    Tuy nhiên Mariuytx vẫn run, chàng cho rằng thế nào nó cũng nghe thấy hơi thở của chàng. Nó đi về phía cửa sổ, nhìn ra ngoài và nói to một mình, với vẻ nửa không nửa dại xưa nay của nó:

    - Paris khi mặc sơ mi trắng thì sao trông xấu thế!

    Nó lại trở về chỗ cái gương và lằm duyên trong gương, soi thẳng rồi lại soi nghiêng.

    - Thế nào? Mày làm gì vậy? – Người bố hỏi to.

    - Con xem dưới gầm giường và gầm bàn, chẳng có ai. Con gái Giôngđơret vừa trả lời vừa sửa mái tóc.

    Thằng bố rú lên:

    - Đồ ngốc. Về ngay đây, mau lên. Đừng mất thì giờ.

    - Con về ngay, về ngay đây. Trong cái lều nát này chẳng có thời giờ làm gì cả.

    Nó lại ngâm nga:

    Chàng dứt tình em, theo sự nghiệp.

    Lòng đau quyện mãi bước chân ai.

    Nó nhìn vào gương một lần chót, rồi quay ra và đóng cửa lại. Một lát sau, Mariuytx nghe thấy tiếng chân không của hai đứa con gái ngoài hành lang và tiếng Giôngđơret hét theo:

    - Cẩn thận đấy! Một đứa ở bên rào, một đứa ở góc phố Pơti Băngkiê. Phải luôn luôn nhìn cổng nhà. Thấy cái gì lạ thì chạy ba chân bốn cẳng về đây ngay. Có chìa khóa để về đấy.

    Đứa con gái lớn lẩm bẩm:

    - Đứng gác chân không trên tuyết!

    - Ngày mai chúng mày sẽ có giầy lụa cánh cam, nhãi ạ!

    Hai đứa xuống cầu thang, vài giây sau có tiếng cánh cổng đập dưới nhà. Vậy là hai đứa con gái đã xuống đường rồi.

    Trong ngôi nhà chỉ còn Mariuytx và hai vợ chồng Giôngđơret và có lẽ cái bọn người bí mật mà Mariuytx thoáng thấy trong bóng tối, đằng sau cánh cửa gian phòng trống.
     
  10. Nguyên Vĩ Thu Thu Tàn Hồng

    Messages:
    392
    Chương XVII, XVIII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mariuytx thấy đến lúc lại phải leo lên đài quan sát. Với cái lanh lẹn của tuổi thanh niên, chỉ một loáng, chàng đã lên cạnh cái lỗ hổng ở vách.

    Mariuytx lại nhìn.

    Phòng của Giôngđơret có một vẻ lạ lùng, Mariuytx bây giờ hiểu vì sao có cái thứ ánh sáng đặc biệt chàng đã thấy. Một cây nến cháy trong một chân đèn đồng rỉ xanh, nhưng ánh sáng trong phòng không phải là ánh nến ấy. Ngọn lửa một cái hỏa lò to lớn, đầy than hồng, để trong lò sưởi chiếu sáng cả gian phòng. Đấy là cái hỏa lò mà mụ Giôngđơret đã sắm sửa buổi sáng. Than thì hồng, cái lò đỏ rực, một ngọn lửa xanh nhảy muad trong lò, chiếu rõ hình cái đục nung đỏ trong thanh hồng. Đó là cái đục mà Giôngđơret mua ở phố Lôngba. Ở cái xó gần cửa thấy xếp hai đống: Một đống hình như đống sắt và một đống như đống thừng, xếp sẵn có việc gì đấy. Đối với một người không biết tí gì về câu chuyện đang sửa soạn, hai đống sắt và dây thừng ấy có vẻ hoặc rất bình thường, hoặc rất ghê gớm. Cái gian phòng tồi tàn dáng rực ấy giống như một lò rèn hơn là một cửa âm phủ. Nhưng trong ánh sáng ấy, Giôngđơret lại trông như một con quỷ sứ hơn là một người thợ rèn.

    Lò than bố nóng quá, cây nến trên bàn cháy rất nhanh về phía lò lửa và vẹt hẳn đi một cạnh. Trên lò sưởi có một cái đèn xách bằng đồng, ánh sáng che kín, một cái đèn xứng đáng với nhà hiền triết Điôgien trở thành tướng cướp Cáctút.

    Lò than để ngay giữa lò sưởi, giữa những cành củi gần tắt hẳn, lò than bốc hơi lên ống khói nên không tỏa mùi than ra ngoài.

    Ánh trăng luồn qua bốn miếng kính cửa sổ dãi bóng sáng trắng trong gian phòng đỏ rực. Óc mơ màng thi sĩ trong con người Mariuytx, mơ mành ngay giữa lúc hành động, khiến chàng nghĩ tới một hình tượng nên thơ: Một ý niệm cao cả thần tiên như đang lẫn lộn với những ảo mộng trần gian quái đản. Một luồng gió thổi qua ô kính vỡ, góp phần đánh tan mùi than như không có cái hỏa lò ấy trong buồng.

    Cái ổ của Giôngđơret trong nhà hát Gorbô mà chúng ta đã biết rõ vị trí, là địa điểm lý tưởng cho những hành động hung bạo, bí ẩn, che giấu những tội ác ghê gớm. Cái buồng hẻo lánh nhất trong cái nhà trơ trọi nhất ở cái phố vắng vẻ nhất Paris. Ở chỗ này mà không có cạm bẫy thì tất nhiên người ta phải dựng ra cạm bẫy.

    Cả một gian nhà sâu thẳm, cả một dãy buồng trống ngăn cách cái ổ ấy với ngoài phố, buồng chỉ có một cái cửa sổ lại mở ra phía bãi hoang có tường và rào quây kín.

    Giôngđơret ngồi trên chiếc ghế rách, châm thuốc hút, vợ hắn se sẽ nói chuyện với hắn.

    Nếu Mariuytx giống tính Cuốcphêrắc, nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cười được, chắc anh phải cười rộ lên khi mắt anh thấy mụ Giôngđơret. Mụ đội một cái mũ đen, có lông chim, gần giống mũ của các viên quan truyền lệnh trong buổi lễ đăng quang của vua Sáclơ X, một cái khăn quang bằng tác-tăng rộng, buông treenn chiếc váy len đan và đôi giầy đàn ông mà con gái mụ đã chê bai buổi sáng. Chính cái bộ cánh ấy đã làm cho Giôngđơret phải buột miệng: "Tốt lắm! Mẹ mày đã mặc áo xống chỉnh tề, được lắm phải làm cho hắn yên dạ". Còn Giôngđơret thì vẫn mặc chiếc áo ngoài mới và rộng thùng thình mà ông Lơ Blăng đã cho hắn; y phục của hắn vẫn làm nổi bật sự trái ngược giữa cái áo ngoài và chiếc quần mà Cuốcphêrắc cho là lý tưởng của nhà thơ.

    Bỗng nhiên Giôngđơret nói to lên:

    - À, mà tao nghĩ ra rồi, trời này chắc hắn phải đi xe đến. Mẹ mày thắp cái đèn xách lên rồi mang xuống dưới nhà. Mẹ mày sẽ đứng trong cổng. Nghe tiếng xe đỗ là phải mở cổng ngay, hắn lên gác, mẹ mày soi đèn ở cầu thang và hành lang cho hắn, khi hắn vào phòng thì xuống mau trả tiền xe và bảo xe đi.

    Mụ vợ hỏi:

    - Thế còn tiền?

    Giôngđơret sục sạo túi quần và đưa năm phơrăng cho vợ. Mụ vợ ngạc nhiên hỏi:

    - Tiền nào đây?

    Giôngđơret đáp giọng rất oai:

    - Đồng bạc gã láng giềng cho buổi sáng.

    Hắn nói thêm:

    - Mẹ mày có biết không? Phải có hai cái ghế tựa.

    - Để làm gì?

    - Để ngồi.

    Mariuytx bỗng thấy rùng mình sau xương sống khi nghe mụ Giôngđơret tra lời chồng rất thản nhiên:

    - Khó gì! Để tôi sang lấy ghế của anh chàng láng giềng.

    Rồi nhanh như cắt, mụ mở cửa đi ra ngoài hành lang.

    Mariuytx không có thời giờ xuống tủ để đến nấp dưới gầm giường.

    Giôngđơret bảo vợ:

    - Cầm cây nến.

    - Thôi, cầm vướng thêm, phải mang đến hai cái ghế mà. Sáng trăng mà.

    Mariuytx nghe thấy bàn tay nặng nề của mụ Giôngđơret sờ tìm chìa khóa cửa buồng chàng trong bóng tối. Cửa mở. Mariuytx kinh ngạc và hốt hoảng đứng trân trân trên tủ.

    Mụ Giôngđơret vào phòng.

    Cái cửa sổ nhỏ gần mái nàh để lọt một tia ánh trăng ngăn gian phòng thành hai khoảng tối. Một khoảng tối trùm bọc cả bức vách Mariuytx đứng tựa. Mariuytx chìm ngập trong bóng tối ấy.

    Mụ Giôngđơret ngước mắt nhìn, không thấy Mariuytx; mụ xách hai chiếc ghế, hai cái ghế duy nhất của Mariuytx và bước ra, để cánh cửa dập mạnh vào lưng.

    Mụ trở vào trong ổ:

    - Đây ghế đây.

    - Đèn đây, xuống ngay dưới cổng đi.

    Mụ vợ đi. Còn một mình Giôngđơret.

    Hắn để hai chiếc ghế hai bên bàn, lật lại chiếc đục trong lò than, đặt một cái bình phong cũ trước lò sưởi để che khuất lò than, rồi hắn đi ra chỗ đóng thừng và cúi xuống như xem xét cái gì. Bấy giờ Mariuytx mới nhận ra đống thừng ấy là một cái thang dây làm rất khéo, có những nấc gỗ và hai cái móc để treo.

    Cái thang ấy cùng một số khí cụ khác, giống như những chiếc vồ sắt, vứt lẫn lộn trong đống dắt vụn đằng sau cánh cửa, buổi sáng chưa thấy trong cái ổ này. Chắc buổi trưa, khi Mariuytx đi vắng, có người mang đến.

    - Đây là dụng cụ của người làm dao kéo! Mariuytx tự nhủ.

    Nếu chàng thông thao hơn thì có thể nhận ra trong các cái mà chàng gọi là dụng cụ của người làm dao ấy những dụng cụ có thể cạy một ống khóa, hay một cánh cửa và những cái khác có thể chặt hay là chém, hai loại dụng cụ ghê gớm mà bọn kẻ cướp vẫn gọi lóng là lủ em hay cái cứa.

    Trước mặt Mariuytx bây giờ là cái lò sưởi, cái bàn và hai chiếc ghế. Lò than bị che khuất, trong gian phòng chỉ còn ánh sáng của cây nến. Các đồ vật bé nhỏ nhất trên bàn hay lò sưởi cũng ngả một bóng tối to sù. Một cái bình đựng nước sứt mẻ che khuất cả nửa bức vách. Gian phòng có một vẻ yên lặng ghê tởm và đe dọa. Người ta như chờ đợi một cái gì kinh khủng.

    Cái điếu của Giôngđơret đã tắt, triệu chứng hắn đang suy nghĩ lung lắm. Giôngđơret ngồi xuống ghế. Bóng nến làm cho mặt hắn xương xẩu và sắc sảo thêm. Thỉnh thoảng hắn cau mày, hay bỗng nhiên xòe bàn tay phải ra như tự mình trả lời mình điều gì trong một cuộc đối thoại thầm lặng. Trong một phút tự vấn đáp thầm lặng như vậy, hắn rút cái ô kéo ra, lấy con dao làm bếp dài giấu trong đó và liếc thử trên móng tay. Xong, hắn lại để con dao vào ô kéo và đóng ô lại.

    Mariuytx cũng rút khẩu súng ngắn trong túi bên phải và lên đạn. Súng lên đạn kêu một tiếng cách nhỏ, gọn và rõ.

    Giôngđơret giật mình nhổm dậy khỏi ghế, hỏi:

    - Ai đấy?

    Mariuytx nín thở. Giôngđơret lắng nghe một lát rồi cười bảo:

    - Mình ngốc thật. Cái vách nó rạn.

    Mariuytx vẫn giữ khẩu súng trong tay.

    XVIII

    HAI CHIẾC GHẾ CỦA MARIUYTX

    ĐẶT ĐỐI DIỆN NHAU

    Bỗng nhiên tiếng chuông xa xôi và buồn bã làm rung chuyển kính cửa. Đồng hồ Xanh Mêda báo sáu giờ.

    Mỗi tiếng chuông đánh, Giôngđơret lại gật đầu một cái. Sau tiếng thứ sáu, hắn lấy ngón tay gạt tàn bấc ngọn nến, rồi đnưgs dậy đi lại trong phòng, nghe ngóng phía ngoài hành lang, lại đi, rồi lại nghe ngóng nữa.

    Hắn lẩm bẩm:

    - Quí hồ lão đến là được! Rồi hắn lại về ghế ngồi.

    Hắn vừa ngồi xuống thì cửa mở.

    Mụ Giôngđơret mở cửa nhưng vẫn đứng ngoài hành lang. Ánh sáng lọt qua lỗ hổng chiếc đèn xách tay từ dưới chiếu lên mặt mụ, để lộ cái miệng nhăn nhở trông đến kinh khủng. Mụ nói:

    - Xin mời ngài vào.

    Giôngđơret vội vàng đứng dậy nối lời:

    - Xin mời ngài ân nhân của tôi vào.

    Ông Lơ Blăng xuất hiện.

    Vẻ mặt ông bình thản trong sáng, trông thật đáng kính.

    Ông đặt xuống bàn bốn đồng Louis và nói:

    - Ông Phabăngtu ơi! Đây là để ông trả tiền nhà và tiêu những thứ cần kíp trong nhà. Còn sau sẽ liệu.

    - Trời phù hộ ngài, ngài ân nhân rất phúc hậu của tôi.

    Giôngđơret vừa nói với ông Lơ Blăng vừa dịch nhanh lại gần vợ, bảo:

    - Cho cái xe ngựa lui.

    Mụ vợ lẩn đi, còn Giôngđơret thì không ngớt chào hỏi, cám ơn ông Lơ Blăng và đưa ghế mời ông ngồi. Lát sau mụ vợ trở về, rỉ tai chồng:

    - Xong rồi.

    Tuyết vẫn rơi từ sáng, lớp tuyết trên mặt đường dày đến nỗi không nghe thấy tiếng xe ngựa đến mà cũng không nghe thấy tiếng xe đi.

    Ông Lơ Blăng đã ngồi xuống ghế.

    Giôngđơret ngồi ở ghế đối diện với ông Lơ Blăng.

    Để hình dung được tấn trò sắp diễn ra, độc giả hãy tưởng tượng một đêm lạnh giá, cả cái khu Xanhpêtơrie vắng lặng tuyết phủ trắng lợp, dưới ánh trăng thanh, ghê rợn như những tấm vải liệm, những ngọn đèn treo đỏ lòm lác đác dọc các đường phố ảm đạm và những dãy cây du đen sì; một quãng đường dài xung quanh không bóng người, lúc này là cái phút vắng lặng, ghê rợn, tối tăm nhất của gian nhà nát Gorbô; giữa cái vắng lặng âm u ấy là gian phòng rộng tiều tụy của Giôngđơret dưới ánh nến vật vờ; và trong cái ổ ấy, hai người ngồi ở một cái bàn: Ông Lơ Blăng bình tĩnh, Giôngđơret tươi cười nhưng kinh khủng, mụ Giôngđơret, con sói cái, rình ở một góc và đằng sau bức vách, Mariuytx, vô hình, đứng yên, không bỏ sót một lời nói, một cử chỉ ở phía bên kia, mắt đăm đăm, khẩu súng ngắn cầm tay.

    Mariuytx tuy vậy không một chút sợ hãi, chàng chỉ có một cảm giác ghê tởm. Chàng nắm chặt báng súng, vững dạ. Chàng nghĩ:

    - Mình chặn tay thằng khốn nạn này lúc nào cũng được.

    Chàng cảm thấy cảnh sát đang nấp sẵn ở đâu đây, chỉ đợi báo hiệu theo giao ước là giơ tay nắm cổ chúng.

    Chàng cũng hy vọng cuộc chạm trán quyết liệt này giữa Giôngđơret và ông Lơ Blăng sẽ làm bật tia sáng soi tỏ cho chàng tất cả những điều bí ẩn chàng muốn biết.
     
Tags:
Trả lời qua Facebook
Loading...