Chăm (Champa, Chàm, Chiêm Thành) nay là dân tộc thiểu số chừng 100.000 người, chung sống trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhưng trước khi hội nhập chính thức vào Việt Nam ở TK. XV, xây dựng nhà nước độc lập với nền văn hóa nghệ thuật riêng rất độc đáo.
Từ đầu TK. XX, thế giới biết đến nền nghệ thuật này và xem là kỳ tích lịch sử. Nhưng Pháp và Mỹ phá hủy kiến trúc - điêu khắc Chăm có nơi hoàn toàn (như ở khu đền tháp Đồng Dương), có nơi rất nghiêm trọng (như ở khu thánh địa Mỹ Sơn).
Thập niên 80 TK. XX, chính phủ Ba Lan giúp chúng ta kịp cứu những công trình hiện còn và đăng ký vào DSVHTG.
Người Việt cổ có Văn hóa Đông Sơn, miền Trung có Văn hóa Sa Huỳnh đồng đại và rất rực rỡ, nhiều nhà khoa học xem là Văn hóa tiền Chăm.
Từ TK. II người Chăm giành độc lập, thống nhất hai bộ tộc phía Bắc và phía Nam đều thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - Polynesia), lập nước Lâm Ấp - về sau đổi là Champa, từ phía Nam Hoành Sơn xuống Bình Thuận.
Do những biến thiên lịch sử, kinh đô Champa nhiều lần di chuyển khi ở phía Bắc lúc phía Nam, gắn trung tâm chính trị luôn là trung tâm văn hóa.
Từ những trung tâm ấy lan tỏa ra xung quanh, trừ những khu
di tích bị phá hủy hoàn toàn, ngày nay chúng ta vẫn còn hệ thống tháp Chăm:
Mỹ Sơn, Bằng An, Chiên Đàng, Khương Mỹ (Quảng Nam), Cánh Tiên, An Chánh, Thủ Thiện, Bánh ít, Bình Lâm, Hưng Thạnh (Bình Định), tháp Nhạn (Phú Yên), Pô Nagar (Khánh Hòa), Hòa 'Lai, Pô Klaung Garai (Ninh Thuận), Pô Ro me, Pô Hài và Phú Hài (Bình Thuận).
Phía Bắc Hải Vân và sườn Đông cao nguyên Tây Nguyên tìm thấy nhiều dấu tích tháp Chăm, thậm chí có cây tháp còn nguyên trong rừng xanh.
Tháp Chăm là kiến trúc tôn giáo, xây thành từng cụm trên những đồi núi không cao (chừng 50m), hướng Đông đón ánh mặt trời và như gợi về nguồn xa biển cả, xây dựng cảnh quan hoành tráng.
Mỗi cụm di tích có một tháp chính ở giữa và một số tháp phụ quây quanh, luôn có tháp Cổng ở phía Đông và tháp Hỏa phía Nam.
Các tháp thờ bình diện vuông, 3 mặt làm cửa giả chỉ nhô ra một chút, mặt trước có cửa ra vào kéo dài tạo thành gian tiền sảnh chạy dọc.
Thông thường tháp có 3 hoặc 4 tầng, độ cao phổ biến ở mức trên dưới 20m phù hợp bề rộng mặt đồi khi quan sát tại chỗ có thể di chuyển lùi xa 2-3 lần độ cao.
Chiều cao tháp thường gấp 2 đến 2, 5 lần cạnh chân tháp (không kể gian sảnh cửa trước nhô ra) làm nó vươn lên mà vẫn bề thế, cùng cả quần thể dàn trải chắc chắn.
Các tầng trên là lặp lại của tầng 1, chỉ có cửa giả, thu nhỏ dần, đặt chồng nhau theo khối tháp. Các tầng ngăn cách nhau bởi diềm mái nhô ra, góc mái có hoa đao như ngọn lửa.
Đỉnh tháp và đỉnh các cột góc các tầng đều làm thành một linga và bản thân cả tháp thờ được xem là linga khổng lồ dựng trên mặt đồi tròn bè là yorú tương ứng.
Hình tượng kiến trúc hoành tráng trên hoàn toàn thống nhất với điêu khắc thờ trong lòng tháp. Lòng tháp là phòng vuông hẹp, nóc nhọn vút cao tạo không gian vời vợi gắn với thần linh.
Giữa lòng tháp là bệ thờ, trên có cặp tượng linga - yom mang hình tượng sinh thực khí nam nữ, hòa hợp Âm Dương theo tư tưởng phồn thực. Yoni như thớt dưới của cối xay bột, luôn có vòi chĩa về hướng Bắc - Âm.
Nhiều linga có mặt trước tạo thành tượng thần hay gắn phù điêu chân dung bán thân vua, luôn nhìn ra cửa chính hướng Đông - Dương.
Quanh cặp tượng linga - yoni không gian rất hẹp, dường như chỉ đủ cho tín đồ xếp hàng dọc đi quanh một vòng rồi ra cửa vừa vào.
Tháp Chăm có tường dầy từ 1m1 đến 1m6, có cái gần 2m, xây đặc bằng những viên gạch chín đều như nhau, qua nhiều trăm năm - thậm chí hơn nghìn năm thử thách mà gạch không bị thối mủn; ở mặt tháp, từng viên gạch gắn nhau rất xít, không thấy có hồ vữa.
Nhiều người tìm cách lý giải, song tất cả giả thuyết đều còn kẽ hở, vì thế kỹ thuật xây tháp Chăm đến nay vẫn còn bí mật. Gần đây hé mở kỹ thuật xây mài chập với nước có nhựa-cây ô đuốc.
Mặt ngoài tháp là hệ thống cột gạch ốp vào tường song hành vươn lên cao, nhiều mảng lồi lõm đan xen, khắc rạch trực tiếp lên gạch những tượng và dải hồi văn trang trí, đường nét sắc sảo và liền mạch không sứt mẻ. Đây là điểm độc đáo hiếm gặp ở các nền điêu khắc khác.
Mặt tháp còn gắn một số tượng đá sa thạch với đề tài được tôn giáo gợi hứng (chủ yếu đạo Bà La Môn), cả những sinh hoạt ca múa trong đời sống thường nhật.
Phổ biến là tượng thần Shiva chủ về ca múa, dang những cặp tay múa uyển chuyển, nghệ thuật không gian phần nào thể hiện cả nghệ thuật thời gian.
Vũ nữ thể hiện nhiều, chạm nổi cao thành đoàn người phối hợp nhau, hoặc tượng tròn độc lập.
Tiếp đến là tượng các tiên nữ, các chiến binh, chim thần Garuda và bò thần Nandin.
Tượng đá Chăm phong phú về đề tài, tập trung phô diễn vẻ đẹp thân thể người, có sức sống nội tâm sôi nổi và kiều diễm thân mình, mơn man da thịt, luôn toát thẩm mỹ thanh cao.
Điêu khắc Chăm luôn hướng theo hiện thực nhưng không sa vào tự nhiên vụn rối.
Kỹ thuật đục chạm có lúc tinh như đồ kim hoàn, có lúc mạch lạc đến cứng cỏi, không bao giờ lỗi sót.
Quốc gia Chăm tồn tại từ TK. II đến TK. XV, sau đó thời gian dài như có tự trị cộng đồng.
Nhưng những thế kỷ đầu nghệ thuật Chăm còn phải mò mẫm, đến TK. VII mới định hình với hoàn mỹ cổ điển, sau đó trong quá trình phát triển luôn mang theo dấu ấn thời gian, nhờ đó có thể phân kỳ từng giai đoạn.
Dưới góc độ mỹ thuật, nhiều nhà nghiên cứu đồng tình với học giả Pháp Ph. Stee (Ph. Stern) năm 1942 chia mỹ thuật Chăm ra 7 phong cách nối tiếp nhau:
1. Phong cách Mỹ Sơn E1 (hay phong cách cổ) : Đầu TK. VIII đến TK. IX
2. Phong cách Hòa Lai: Múa đầu TK. IX
3. Phong cách Đồng Dương: Giữa TK. IX đến đầu TK. X
4. Phong cách Mỹ Sơn: TK. X
5. Phong cách chuyển tiếp (hay phong cách Pô Nagar) : TK. XI
6. Phong cách Bình Định: TK. XII đến hết TK. XIV
7. Phong cách muộn: TK. XV đến đầu TK. XVII.
Phát triển phong cách trên theo đơn tuyến thời gian. Nếu kết hợp không gian theo vùng địa lý, ở đây vừa có tính địa phương vừa hội nhập: Xu hướng thanh tú, đường bệ của Mỹ Sơn E1 ở phía Bắc, xu hướng uốn éo, rậm rạp của Hòa Lai phía Nam, kết hợp lại tạo phong cách Đồng Dương chung cho cả nước.
Sau đó từng vùng lại kết hợp Đồng Dương với truyền thống cũ tạo ra phong cách Mỹ Sơn ở Bắc và phong cách Pô Nagar ở Nam. Do tiến trình lịch sử, nghệ thuật Chăm chỉ còn phát triển phía Nam, phân đoạn theo mốc hội nhập vào quốc gia Việt Nam, chung sống đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.