Trang phục truyền thống

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Đoản Nhất Thiên, 18 Tháng tám 2018.

  1. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Văn hóa mặc của người đàn ông Việt

    Bấm để xem
    Đóng lại

    [​IMG]
    Trang phục của người đàn ông Việt xưa

    Cách ăn mặc của người đàn ông Việt cổ truyền ở vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, một vùng văn hóa gốc và là cái nôi sinh thành dân tộc Việt có rất nhiều nét đặc sắc. Cách ăn mặc của cư dân đàn ông trồng lúa ở đây, trước hết cũng vẫn là một ứng xử văn hóa trong việc thích ứng với thiên nhiên vùng châu thổ Bắc Bộ, vốn là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc, bao gồm lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Ở đây có cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tuy nhiên, hai mùa nổi bật nhất ở Bắc Bộ vẫn là mùa đông và mùa hạ, thể hiện nét đặc thù khí hậu thất thường của vùng này: gió mùa Hè nóng ẩm, hầm hập. Gió mùa Đông giá buốt, làm rét run cầm cập, cắt ruột cắt gan. Vì vậy, cả đàn ông đàn bà đều ưa màu sẫm, nhất là màu nâu đất, với các loại biến tấu, từ nâu non đến nâu già... Đàn bà đi làm bận váy thâm, áo nâu yếm nâu đã đành, đàn ông đi làm, trong lúc ứng phó với cái nắng nóng ghê gớm của châu thổ Bắc Bộ vào mùa hạ, khi lao động "hai sương một nắng" trên cánh đồng, thường để lưng trần cho "lộ thiên" hoàn toàn phần trên còn phía thân người dưới, thì đóng khố. Thời xưa, đàn ông Việt thì "cởi trần đóng khố", còn đàn bà Việt thì "váy vận yếm nang", là những đồ mặc phổ biến nhất trong mùa nóng bức, khi cả đàn ông, đàn bà phải làm lụng "chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa". Thế nhưng, sau đó, cách mặc này lại được nâng cấp lên thành cái đẹp trong văn hóa mặc của người Việt cổ truyền. Đàn ông đóng khố đuôi lươn được coi là đẹp nhất trong cách mặc, ngang với đàn bà yếm thắm hở lườn... và nhất định như thế... mới xinh. Sau này, nam giới ít để lưng trần hơn, họ cũng mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, lúc xẻ tà, lúc bít tà, với cách gọi của châu thổ sông Hồng là áo cánh, còn ở châu thổ sông Cửu Long, người Nam Bộ kêu là áo bà ba. Tuy nhiên đồ mặc phía dưới của nam giới với ban đầu là chiếc khố và đóng khố, sau đã phát triển thành chiếc quần (một phần cơ bản là do cuối thế kỷ XVII, để tạo nên sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã lệnh cho trai gái Đàng Trong "dùng quần áo Bắc Quốc" (Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Còn xa hơn nữa, ngay từ thời Bắc thuộc, phong kiến Trung Hoa đã muốn thay thế hoàn toàn đồ mặc phía dưới của người Việt bằng chiếc quần, cho cả nam lẫn nữ).

    [​IMG]
    Trang phục của người đàn ông Việt xưa


    Theo sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm thì nam giới người Việt là bộ phận dương tính tiếp thu chiếc quần vào văn hóa mặc sớm nhất và cũng nhờ thế mà chiếc quần thâm nhập ngày càng mạnh vào văn hóa mặc truyền thống của Việt Nam. Dĩ nhiên, người Việt vốn là một dân tộc thiết thực trong cách mặc, họ (nam giới) không bê nguyên bằng cách "sao y bản chính" chiếc quần "ngoại lai" mà họ đã "nội hóa", đúng hơn là đã "Việt hóa" nó thành chiếc quần lá tọa. Cũng theo mô tả của sách Cơ sở văn hóa Việt Nam ở trên, quần lá tọa của nam giới người Việt là một thứ quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần (lưng quần) to bản. Khi mặc, người đàn ông buộc dây thắt lưng ra ngoài, rồi thả phần cạp thừa phía trên rũ xuống lòe xòe ra ngoài thắt lưng (vì thế, gọi là lá tọa). Quần lá tọa, do đó tuyệt đối thích hợp với khí hậu nắng nôi nóng bức của Việt Nam, bởi ống rộng nên đàn ông mặc nó mát mẻ không kém gì đàn bà Việt mặc váy. Sáng kiến này còn làm cho đàn ông Việt khi mặc loại quần thoáng mát này, đã "đa dạng hóa" được loại hình lao động, bởi nhờ có cái quần đũng sâu mà các ông có thể điều chỉnh dễ dàng cho ống quần cao thấp bằng cách kéo cạp quần lên cao hoặc tiện thoải mái trên các loại ruộng cạn, đồng sâu, ruộng khô, ruộng nước...Xem ra nếu quần lá tọa đã tuyệt nhiên thích hợp với nam giới trên cánh đồng thì trong khi đi trảy hội, hoặc tham dự lễ lạt, người đàn ông Việt đã phải chế ra một loại quần khác. Đó là quần ống sớ: màu trắng, ống hẹp, đũng cao gọn ghẽ hơn, mà cũng dễ coi hơn là quần lá tọa. Cũng phải vậy thôi, vì nam giới người Việt cũng thực thi những nguyên tắc cổ truyền của dân tộc trong cái khéo ăn khéo mặc : khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Đó còn là cái cốt lõi của văn hóa ứng xử với đồ mặc, của người Việt trong sự ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên. Và trong sự phát triển về văn hóa mặc của đàn ông Việt cổ truyền, về sau này, đàn ông Việt vào dịp hội hè đình đám, đã tiến tới mặc áo dài, thường là áo the thâm. Nam giới ở tầng lớp thượng lưu còn mặc cả áo dài trong sinh hoạt hàng ngày nữa...
     
  2. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Trang phục Tôn giáo
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hiện nay, nước ta có nhiều tôn giáo nhưng có hai tôn giáo lớn đang tồn tại với qui mô tổ chức chặt chẽ với số lượng tín đồ khá đông. Đó là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong tôn giáo, vấn đề trang phục cũng có nhiều điều cần giới thiệu.

    Trang phục Phật giáo

    Phật giáo ở nước ta chia làm hai tông phái: Bắc tông và Nam tông.

    - Các nhà sư Bắc tông (ở các chùa miền Bắc) mặc loại vải thô màu nâu (nhuộm bằng củ nâu). Về sau này đã dùng loại vải tốt, mịn hơn và có thể nhuộm bằng thuốc nhuộm. Ở trong nhà, mặc áo cánh ngắn nâu, quần nâu, nam cũng như nữ (gần đây sư nam mặc cả sơ-mi nâu). Ra đường hoặc khi có việc chùa, mặc áo dài tương đối rộng, không căng ngực, cổ tròn đứng, mềm, cài khuy kín cổ, khuy tết bằng vải nâu. Lúc làm lễ các sư bậc thấp mặc áo tràng vạt nâu, tay rộng, cổ chéo có nẹp rộng khoảng 5 cm. Các sư bậc cao mặc áo tràng vạt màu vàng (loại sắc). Bên ngoài còn khoác một tấm vải gọi là áo cà sa màu nâu hoặc màu vàng (loại sắc) tùy theo cấp bậc. Ngoài ra còn loại áo cà sa nhiều màu để dùng khi chạy đàn.

    [​IMG]

    Áo cà sa là một miếng vải gần như hình vuông mỗi chiều rộng khoảng từ 2 m đến 3 m. Đây không phải là một tấm vải liền mà là do nhiều miếng ghép lại theo qui cách nhất định. Trong kinh Phật còn gọi là y pháp, gồm có các loại: y ngũ điều, y thất điều, y cửu điều, y thập nhất điều v.v...Y ngũ điều là do 5 mảnh (điều) ghép lại, y thất điều là do 7 mảnh (điều) ghép lại v.v... Mỗi loại dành cho từng trường hợp sử dụng.

    Mô tả một tấm y ngũ điều, ta thấy như sau: Tùy theo chiều cao của người mặc, y ngũ điều có thể dài từ 1,6m đến 1,9m. Chiều ngang là năm miếng vải - tức là "điều" - mỗi "điều" có bề ngang là 40 cm. Nhưng năm "điều" không nối liền với nhau mà giữa hai "điều" lại có một dải vải bề ngang 5 cm ngăn cách (gọi là "cách"). Trên từng "điều" theo chiều dọc xuống, còn chia ra làm hai phần không đều nhau do miếng "cách" ngăn ra. Phần dài hơn gọi là "trường", phần ngắn gọi là "đoản". Ở "điều" thứ nhất: "đoản" ở trên, "trường" ở dưới thì ở điều thứ hai: "trường" lại ở trên, "đoản" ở dưới v.v..., tức là có sự sắp xếp so le "trường" và "đoản" giữa các "điều". Nhìn một y (áo) bao giờ các "đoản" cũng ở trên, để các "cách" (ngang) với số lượng nhiều hơn ở phía trên cho đẹp mắt. (Y ngũ điều có ba "cách" ở trên, hai "cách" ở phía dưới).

    Ở y thất điều lại được bố trí nhất "đoản", nhị "trường". (Trong "điều" thứ nhất là một "đoản" hai "trường", đến điều thứ hai: hai "trường" một "đoản" v.v...). Viền quanh y là một nẹp rộng 10 cm gọi là riệp. Ở mép vải phía trên của bất cứ y nào, ở khoảng 2/3 chiều ngang tính từ trái sang phải, cũng có một cúc tết bằng vải khâu trên một miếng vải hình nửa cánh quạt (dài 9 cm). Cúc này được cài vào một khuyết (cũng được khâu ở giữa miếng vải hình hai cánh quạt) ở đoạn chiều dọc bên trái tấm áo, cách mép vải trên khoảng 20 cm. Cách mặc này là khi nhà sư khoác chéo áo, hở một cánh tay. Khi cúc cài vào khuyết, hai hình nửa cánh quạt chập vào nhau, cạnh đó lại có một dải vải trang trí nữa, rất đẹp. Miếng vải nhỏ trên đó có cúc, có khuyết được gọi là bàn đà.

    Khi choàng áo này, người mặc cần buộc vào nhau hai dây vải trên hai bàn đà khác hình vuông đặt ở gần khoảng giữa tấm áo, dưới mép vải trên. Choàng và buộc dây xong, hai tay sẽ thường xuyên nâng hai bên tấm vải, coi như hai ống tay áo rất rộng.

    Theo truyền thuyết trong đạo Phật, chiếc áo cà sa hình thành là do từ những miếng vải lẻ của nhân dân tứ phương lòng thành góp lại cho người tu hành. Khi có nhiều mảnh vải rồi, các nhà sư thỉnh xin đức Phật cho biết nên may áo theo kiểu cách nào. Nhân đi qua một cánh đồng, đức Phật liền chỉ tay và truyền may theo hình các thửa ruộng. Cũng vì lẽ đó mà tấm áo cà sa còn tên gọi là tấm pháp phúc điền, ý cầu mong lúa gạo nhiều, chúng sinh no ấm.

    [​IMG]

    Loại áo cà sa nhiều màu (xanh, đỏ, tím, vàng, nâu...) cũng may theo qui cách như áo cà sa một màu, nói lên ý nghĩa tấm áo nhà chùa là do nhiều nhà đóng góp, mỗi nhà một mảnh, một màu khác nhau.

    - Các nhà sư Nam tông, trang phục không may thành quần, áo như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải vàng hoặc nâu quấn, vắt trên người với các kiểu khác nhau. Có các hình thức sau đây:

    1. Y nội: (còn gọi là y an đà hội) có tác dụng như quần áo lót gồm hai miếng vải. Miếng thứ nhất rộng 40 cm, dài từ 1m - 1,5m vắt từ trước ngực qua vai trái, qua lưng, chéo xuống sườn phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ để buộc lại với nhau. Miếng thứ hai để nguyên khổ vải (từ 70cm - 90cm), chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải dắt vào mép vải cho chặt (như chiếc váy).

    2. Y vai trái (còn gọi là y uất đà la tăng). Mặc y vai trái cần theo một trình tự như sau: khoác tấm vải ra sau lưng, tay phải cầm mép vải (bên phải) luồn từ sau nách phải ra trước ngực rồi vắt phần vải còn lại qua vai trái (như vậy là cánh tay phải và cả hai vai phải để hở ra). Còn đoạn vải bên trái vắt chùm lên phần vải trước, qua vai, buông xuống phía ngực.

    Ra đường, áo không được để hở vai và tay mà mặc theo trình tự như sau: Quàng tấm vải từ sau lưng ra phía trước hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai mép vải ở trước ngực. Cho tay trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một khoảng trống ở trước ngực. Xong lại kéo đoạn vải ấy tì vào ngực và dùng tay phải cuộn tròn từ hai mép đầu tấm vải vào dần cho đến đoạn tay trái đang giữ, thành một cuộn tròn dài thẳng đứng (tay phải cũng tì vải vào ngực mới cuộn dễ dàng được). Sau đó, nhờ có khoảng trống ở trước ngực, người mặc kéo mép vải trên lên đầu với mục đích cho mép vải phía dưới cao đến mắt cá chân. Tiếp tục vắt cuộn vải lên vai trái, đưa luồn dưới nách từ sau ra trước, cánh tay trái cặp chặt lại là xong. Như vậy, cánh tay trái sẽ không được tự do cử động bình thường.

    Về đồ đội, xưa kia có loại nón riêng cho nhà sư gọi là nón tu lờ. Nón làm bằng lá gồi, gần như chiếc mũ rộng vành. Ngày nay không phân biệt, đi nắng, các sư ông đội mũ lá, mũ cát, có thời gian đội kiểu mũ hướng đạo nâu. Trời rét đội mũ len màu nâu, hình tròn ống, trên chiết khít lại, hay đan kiểu nổi múi nhỏ như hình bụt ốc trên đầu các tượng Phật. Các sư bà đội nón bình thường. Các nhà sư Nam tông không đội mũ, khi ra đường, nếu cần dùng ô màu vàng hoặc ô màu đen.

    Nhất thiết các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Riêng nữ có khăn chít đầu. Đây là miếng vải dài 80 cm rộng từ 50 cm đến 60 cm, màu nâu như màu quần áo. Khi đội khăn xếp, gấp mép khăn (từ 5 cm đến 10 cm) theo chiều dài, chùm khăn lên đầu, mép chỗ gấp để trước trán, hai đầu khăn đưa ra phía sau rồi vắt chéo nhau ở gáy, nhét một phần vải hai bên ở đầu khăn vào trong, ở ngay sau hai tai.

    Lúc làm lễ chạy đàn, nhà sư còn đội một loại mũ nhiều màu hình hoa sen, gọi là mũ thất Phật, gồm có bảy cánh, mỗi cánh thêu một hình Phật hay hình hoa sen, hình chữ phạn...

    Tất cả các sư sãi Bắc tông đều đeo chuỗi hạt, gọi là tràng hạt. Có thể là một chuỗi dài hoặc hai, ba chuỗi ngắn, nhưng nhất thiết có 108 hạt, tượng trưng cho 108 quả bồ đề. Lần tràng hạt để mong bỏ đi 108 điều phiền não, điều xấu trong cõi đời trần tục.

    Các nhà sư phái Nam tông không đeo tràng hạt.

    Trang phục Thiên Chúa giáo

    Trang phục Thiên Chúa giáo ở Việt Nam thường thấy như sau:

    Ngoài những tín đồ có sao mặc vậy (nhưng vẫn thường dùng áo màu đen), tầng lớp học sinh học ở các tiểu chủng viện trước đây bắt buộc phải mặc áo dài bằng vải màu đen, quần trắng. Ngày nay có thể mặc quần áo bình thường nhưng màu sắc không được sặc sỡ. Tóc cắt ngắn (thường là húi "cua", không được chải chuốt).

    Qua bậc trung học, lên đến đại chủng viện, bình thường mặc áo dài đen, quần trắng. Khi lên nhà thờ hay ở cuộc lễ nghi nào đó, với chức Thày, đã được mặc áo chùng đen rộng, dài chấm gót chân. Tayáo rộng, thẳng đều. Cổ áo tròn, không cao lắm, và được lót ở trong một khoang vải hồ cứng màu trắng. Ở trước ngực áo có xẻ một đoạn để chui đầu, xỏ tay. Suốt từ cổ đến gấu áo, chạy dài một hàng khuy to.

    Lên chức Cha, trừ khi ở trong phòng riêng, bước ra ngoài là Cha phải mặc áo chùng đen. Khi Cha mới chịu chức, phải cắt tròn một ít tóc trên đỉnh đầu. Sau để tóc cũng được, nhưng không được để tóc dài. Đội mũ sọ. Mũ sọ làm bằng vải hình tròn, giống như một chũm gáo dừa, đội một tí trên đỉnh đầu, chân đi giày đen.

    Giám mục vẫn mặc áo chùng đen như Cha, còn khoác thêm một áo choàng đen ngắn bên ngoài, đeo thánh giá, thắt quanh bụng một băng vải màu tím đỏ, rộng chừng 10 cm, không buộc múi, đầu có tua buông thả dài ở bên trái. Giám mục được đeo nhẫn, biểu thị sự gắn bó với Chúa. Thánh giá và nhẫn thường bằng vàng (không được bằng bạc), kiểu cách tùy nghi. Đi giày đen.

    [​IMG]

    Tổng giám mục, trang phục như Giám mục, đầu đội mũ sọ bằng vải màu tím đỏ như màu thắt lưng.

    Như tên gọi, Đức Hồng Y mặc áo chùng màu đỏ (kiểu như áo chùng đen), áo choàng ngắn cũng màu đỏ. Trong áo choàng ngắn là một áo bằng ren trắng mỏng dài đến đầu gối, ống tay áo này rộng hơn tay áo chùng chút ít. Ngoài ra, có một mũ bốn múi màu đỏ đội ra ngoài mũ sọ khi làm lễ.

    Như những phần trên trình bày, về hình thức trang phục trong Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo, ta thấy thường là giản dị. Áo quần không diêm dúa, cầu kỳ. Màu sắc trang phục nói chung là màu tối. Các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Các học sinh, thày dòng, cha, giám mục... tóc đều cắt ngắn.

    Xuất phát từ mục đích, nội dung của từng tôn giáo, hầu hết những người làm tôn giáo đều tự nguyện sống khổ hạnh. Điều này ảnh hưởng rất rõ đến phần ăn mặc của họ.

    Điều đáng kể là trang phục trong Phật giáo Việt Nam đã được dân tộc hóa cao độ, đặc biệt là ở phái Bắc tông. Áo cánh cài khuy giữa, áo dài cài khuy cạnh, quần ống rộng của sư nam, sư nữ đều xuất phát từ mẫu áo quần của dân tộc. Kiểu chít khăn của sư nữ cũng là một sáng tạo của Việt Nam. Màu nâu của trang phục các sư Việt Nam cũng là màu của một dân tộc, một đất nước có nhiều củ nâu làm thuốc nhuộm. Trong Thiên Chúa giáo, cũng thường thấy sử dụng chiếc áo dài đen cài khuy cạnh, quần trắng kiểu dân tộc, ở từ học sinh tiểu chủng viện.

    Như vậy là kể cả trong tôn giáo, những tôn giáo từ nước ngoài du nhập, trên lĩnh vực trang phục cũng đã được người Việt Nam có ý thức dân tộc hóa để phù hợp với phong tục, tập quán, phù hợp với thực tế khách quan ở Việt Nam, góp phần đem lại cho cả tôn giáo một màu sắc Việt Nam độc đáo.
     
  3. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Trang phục lễ cưới
    Bấm để xem
    Đóng lại


    Trang phục lễ cưới hỏi
    Nhân dân ta mỗi khi nói tới ngày cưới vẫn thường cho rằng "Trăm năm mới có một lần" có lẽ do đó mà từ trước đến ngày nay, những bộ trang phục trong ngày cưới bao giờ cũng mới, đẹp hơn trang phục ngày thường. Thời xưa, bộ trang phục mà các cô dâu mặc trong ngày cưới cũng chính là trang phục của các cô mặc trong những ngày hội cổ truyền của dân tộc.

    Thời xa xưa, trong ngày cưới của dân tộc Việt, các cô dâu miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài cùng là chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai chiếc áo màu hồng và màu xanh hoặc màu vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng, cuối cùng là chiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa bạch. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụa màu hoa đào, hoa lý, ngoài cùng là thắt lưng sồi xe hay vải sa màu đen, cả ba thắt lưng đều có tua ở hai đầu. Vấn khăn, đầu khăn gài chiếc đinh ghim, có đính con bướm vàng chạm bạc, để tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường đội nón thúng quai thao (chủ yếu là để che mặt cho đỡ thẹn với mọi người), chân đi dép cong. Đồ trang sức có khuyên đeo tai bằng vàng hoặc bằng bạc, cạnh sườn đeo bộ xà tích, con dao, ống vôi bằng bạc chạm trổ tinh vi.

    Cô dâu miền Trung cũng mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, áo giữa bằng the hay vân thưa màu xanh chàm, áo ngoài cùng bằng the hay vân thưa màu đen. Có người chỉ mặc lồng hai áo, trong cũng là màu đỏ hoặc hồng điều, ngoài là vân thưa màu xanh chàm để tạo nên hiệu quả một màu tím đặc biệt nền nã. Mặc quần trắng, đi hài thêu. Tóc chải lật, búi sau gáy. Cổ đeo kiềng hoặc quấn chuỗi hột vàng cao lên quanh cổ. Cổ tay đeo vòng vàng, xuyến vàng...

    Cô dâu miền Nam mặc áo dài gấm, quần lĩnh đen, đi hài thêu. Tóc chải lật, búi lại và cuốn ba vòng phía sau đầu, gài lược "bánh lái" bằng đồi mồi hoặc bằng vàng, bạc. Có người cài trâm vàng, đầu trâm có đính lò xo nhỏ nối tiếp với một con bướm bằng vàng hay bạc tạo nên một độ rung, tăng thêm nhiều phần sinh động và thẩm mỹ, đeo dây chuyền nách (xà nách) bằng vàng, đeo nhiều chuỗi hột vàng ở cổ...

    Chú rể ba miền đều thường mặc áo thụng bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiễu màu lam, chân đi văn hài thêu đẹp.

    Những năm 1920 - 1930, ở thành thị miền Bắc, cô dâu mặc áo dài cài vạt. Ngoài là chiếc áo the thâm, bên trong, áo màu hồng hay xanh hoặc ngoài là chiếc áo dài sa tanh đen, bên trong, áo dài lụa trắng Cố Đô. Mặc quần lĩnh hay sa tanh đen. Chân đi văn hài thêu hạt cườm hay đôi guốc cong. Vấn khăn nhung đen, đeo hoa tai bèo, cổ đeo nhiều vòng chuỗi hột bằng vàng. Chú rể mặc áo dài the thâm, trên nền áo dài trắng bên trong. Quần trắng ống sớ, đi giày Gia Định. Đội khăn xếp. Khi lễ tơ hồng, lễ nhà thờ thì khoác áo thụng lam.

    Đến giai đoạn sau, các cô dâu con nhà giàu mặc áo thụng bằng gấm màu đỏ hoặc màu vàng...có họa tiết rồng phượng, cánh tay áo dài và rộng. Mặc quần trắng, đi giày vân hài bằng nhung màu đỏ hoặc màu vàng hay lam có thêu rồng, phượng bằng hạt cườm hay chỉ kim tuyến lóng lánh. Đầu đội khăn vành dây bằng nhiễu, màu lam hay vàng quấn nhiều vòng quanh đầu. Trang phục như trên thường được gọi là kiểu hoàng hậu, từ miền Trung phổ biến ra miền Bắc. Có cô dâu mặc áo dài bằng vải mình khô hoa ướt hoặc gấm hoa, sa tanh, hay nhung đỏ, mặc quần lụa trắng. Vấn khăn vành dây, cổ đeo kiềng hay dây chuyền. Tay đeo xuyến, vòng.

    Ở thành thị về sau này còn tiếp thu một số hình thức trang điểm của Châu Âu. Cô dâu trang điểm son phấn, cài thêm bông hoa hồng trắng bằng voan ở ngực trái, tay ôm bó hoa lay ơn trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, đồng thời làm đẹp cho bộ trang phục ngày cưới. Mặt khác cũng để đôi tay đỡ ngượng nghịu. Chú rể mặc com-lê, thắt cra-vát hay cài nơ ở cổ, đi giày da. Ở ngoại thành, cô dâu mặc theo lối cổ truyền áo dài cài cúc, quần lĩnh đen. Chú rể mặc áo the, quần trắng, đội khăn xếp.

    Trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do, đám cưới được tổ chức giản dị theo đời sống mới, phù hợp với hoàn cảnh từng nơi. Trang phục lễ cưới cũng vì vậy mà không có gì khác biệt với trang phục ngày thường, mà chỉ là quần áo mới may.

    Từ năm 1954, nhiều nghi thức, trang phục lễ cưới được lược bỏ, xuất phát từ trình độ giác ngộ của miền Bắc mới được giải phóng và vì cuộc chiến đấu gian khổ chống đế quốc Mỹ cũng không cho phép bày biện nhiều. Với tinh thần vừa chiến đấu vừa xây dựng, với ý thức của những con người tràn đầy niềm lạc quan, dù trong bom đạn, lễ cưới vẫn được quan tâm tổ chức đàng hoàng.

    Ở thành thị, cô dâu mặc áo dài màu trắng hoặc các màu sáng, nhạt, mặc quần trắng, đi giày cao gót, tay ôm hoa lay-ơn. Tóc phi-dê hoặc chải bồng, cặp tóc. Trang điểm má hồng, môi son. Chú rể mặc com-lê, thắt cra-vát, đi giày. Những người là cán bộ hay ở nông thôn, cô dâu thường mặc áo sơ-mi trắng hoặc áo cánh trắng hay áo bà ba, quần đen, đi dép mới. Chú rể mặc áo sơ-mi mới, quần Âu, đi giày, xăng-đan hoặc dép nhựa. Bộ đội vẫn có thể mặc bộ quân phục, cán bộ thì mặc quần áo đại cán mới, tóc chải gọn gàng.

    Ở miền Nam, vùng ta kiểm soát, tình hình diễn ra cũng như ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

    Từ sau năm 1975, đất nước đã thống nhất, mối giao lưu văn hóa mở rộng và đặc biệt là những năm 1980 - 1981, do ảnh hưởng của các mốt trang phục Âu Mỹ, một số cô dâu ở thành thị miền Nam và miền Bắc mặc áo liền váy màu trắng hoặc màu vàng, màu xanh nhạt, gấp nếp ở tay, ở ngực, váy xòe rộng, dài quá gót chân, có những chiếc váy từ thắt lưng đến gấu chia làm nhiều đoạn với những khoanh đăng ten, gọi là váy ba tầng hay năm tầng hoặc váy dài, gấp nhiều đường chiết ở ngực, thắt lưng... Đi giày cao gót trắng. Tay đeo găng mỏng. Cổ đeo chuỗi hạt kim cương hoặc giả kim cương hay xa-phia lóng lánh. Tóc phi-dê, người nào tóc dài thì làm phi-dê giả, tóc uốn thành chín búp dài gọi là búp Ăng-lê rủ xuống quanh đầu. Mái tóc phía trước cài vòng hoa trắng bằng vải hoặc chải tóc bồng cao, cài những vòng hạt có tua rủ xuống hai bên thái dương và ở giữa trán, trùm thêm một khăn voan trắng trên đầu. Lúc đưa dâu, có cô dâu kéo khăn ấy che mặt. Mặt trang điểm phấn son đậm nét. Nhiều người kẻ mắt đậm, mi mắt trên bôi xanh, cặp hàng lông mi giả dài và cong. Tay ôm bó hoa lay-ơn trắng, thêm một dây hoa hồng trắng dài gần đến chân. Tất cả những cái đó làm cho cô dâu khác biệt và nổi bật lên giữa các cô phù dâu. Chú rể mặc com lê, màu be hay kẻ ca-rô hoặc màu đậm, thắt cra-vát điểm hoa nhiều màu. Đi giày da đen. Đặc biệt là có cài một bông hoa hồng trắng ở túi áo ngực cho khác với những người phù rể. Ở nông thôn, trang phục cô dâu, chú rể chỉ là quần áo mặc ngày thường nhưng mới và đẹp. Về trang phục của những người phù rể đều mặc tương tự như quần áo chú rể. Phù dâu thời xưa mặc tương tự như cô dâu, gần đây đám cưới ở thành thị, phù dâu cũng chỉ mặc áo dài các màu, quần trắng, trang điểm đẹp.

    Với quan điểm thẩm mỹ đương thời, phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay, để thêm phần duyên dáng, tươi đẹp và để có sự khác biệt với các cô phù dâu, cô dâu có thể cài bên mái tóc một dải hoa trắng. Ngoài ra nên đeo những đồ trang sức như: dây chuyền, chuỗi hạt... trang nhã. Chỉ nên trang điểm nhẹ, tránh tình trạng hóa trang biến thành một người khác không ai nhận ra được. Chú rể nên mặc com-lê bằng vải trơn màu sáng, đeo cra-vát, cài một bông hoa trắng trên ngực hoặc đơn giản hơn, có thể mặc sơ-mi dài tay và thắt cra-vát, nếu trời nóng nực. Những người đi dự đám cưới nên ăn mặc đẹp, gọn gàng, sạch sẽ, tránh sự lố lăng, kệch cỡm.

    Trong dân tộc Việt nước ta, trang phục lễ cưới của cô dâu cũng chính là trang phục ngày hội, ngày lễ. Toàn bộ trang phục của cô dâu, chú rể, của những người đi dự lễ cưới nếu ăn nhập vào thiên nhiên, kiến trúc Việt Nam, thật là đẹp.

    Ngày nay, dù đất nước đang xây dựng xã hội chủ nghĩa, các nhà máy mọc lên, giao thông mở rộng, thành thị nông thôn giao lưu, cuộc sống có nhiều thay đổi, tâm hồn con người Việt Nam, tính cách con người Việt Nam thể hiện trên nhiều mặt, trong đó có phần trang phục không thể tách rời môi trường, cảnh trí, thiên nhiên Việt Nam. Trang phục lễ cưới, dù ở nông thôn hay thành thị, dù có sự biến đổi tất yếu, vẫn cần góp phần tạo nên một bức tranh đời sống văn hóa thật độc đáo của con người Việt Nam. Cần nối tiếp và phát huy cái đẹp từ ngàn xưa để lại, mỗi lần trong đời người nhớ tới hình ảnh ấy củng cố thêm cho mình lòng yêu quê hương, đất nước, lòng quyết tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

    Đến những năm 1981 - 1982 nhờ có sự hướng dẫn chọn lọc, trang phục cô dâu đã quay về chiếc áo dài cổ truyền dân tộc với mấy kiểu sau đây:

    Kiểu áo dài "hoàng hậu", cổ đứng cao, tay thụng, dài vừa tầm, may sát thân, màu đỏ hay nhiều màu sắc khác. Đội khăn vành dày màu vàng bằng vải kim tuyến. Ngực cài bông hoa hồng trắng. Mặc quần trắng, đi giày cao gót. Tô điểm nhẹ trên khuôn mặt.

    Kiểu áo dài bình thường màu trắng, hoặc các màu sáng, điểm hoa nhẹ, may sát thân, tay hơi loe, vai ráp lăng, vạt dài ngay ống chân. Mặc quần trắng, đi giày trắng cao gót. Mái tóc để tự nhiên, cài thêm bông hoa trắng nhỏ, tay ôm hoa lay-ơn trắng.

    Những bộ trang phục cưới thanh nhã còn giữ được những nét cổ truyền của dân tộc như trên làm tôn vẻ đẹp cho các cô dâu đã được nhiều người ưa thích.

    Trang phục lễ cưới ở đồng bào người Việt cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn. Những nét tiến bộ trên cơ sở truyền thống dân tộc được nhân dân phát huy làm phong phú thêm cho trang phục ngày cưới. Những mốt "hiện đại" theo sự biến động của trào lưu trang phục nước ngoài xa lạ với thẩm mỹ của nhân dân, không phù hợp với tầm vóc cơ thể của người phụ nữ Việt Nam đã dần bị loại trừ như thứ váy năm, bảy tầng, kiểu tóc và những hình thức "trang điểm" diêm dúa, lạc lõng, lai căng, đua đòi, thiếu sự hài hòa thẩm mỹ, nó không làm đẹp mà đi ngược lại điều mong muốn của các cô dâu và mọi người.

    Chúng ta đều biết, có những tộc người ở nước ta hay ở một số nước trên thế giới (dù đã có nền công nghiệp hiện đại) ngày nay vẫn duy trì một phong tục tốt: Cô dâu trong ngày cưới mặc bộ trang phục cổ truyền đẹp nhất của dân tộc mình.

    Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, trang phục lễ cưới nói chung của cô dâu chú rể nói riêng cũng cần tùy thuộc vào khả năng kinh tế của từng gia đình, dựa theo phong tục tập quán ở từng địa phương mà định liệu. Ở thành thị (hoặc ở nông thôn, nếu có điều kiện), cô dâu nên mặc áo dài trắng hoặc áo dài màu sáng, nhạt. Chọn lựa không thể tùy tiện, không nên quan niệm rằng loại vải nào càng đắt tiền là càng đẹp, màu sắc nào càng rực rỡ là càng sang trọng, hợp thời. Ngoài màu sắc (như trắng, đỏ, xanh nhạt...) hoặc theo chất liệu vải (như lụa, nhung, xoa ni lông...), còn phải căn cứ vào tầm vóc từng người (cao, thấp, gầy, béo).
     
  4. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Trang phục đám tang

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trang phục lễ tang

    Trong lịch sử loài người đến trung kỳ thời đại đồ đá cũ mới có tập tục mai táng người chết, ai cũng hiểu là người đó không bao giờ còn trở lại với người sống nữa. Tình cảm thông thường của những người sống là sự thương nhớ, đau khổ... Biểu lộ bằng nước mắt, sự buồn rầu, than vãn. Có thời kỳ, với triết lý của tôn giáo, người ta còn cho rằng sống là gửi, chết là về, chết là thoát khỏi sự đau khổ của cuộc đời, chết là để tiếp tục sống ở bên kia thế giới (hoặc là lên thiên đàng, hoặc là xuống địa ngục).

    Nói chung, tang lễ người Việt trong cái buồn lại xen lẫn một niềm an ủi hoặc lo lắng. Những diễn biến tình cảm có ảnh hưởng đến nội dung và các mặt hình thức trong tổ chức lễ tang. Dù sao với ý niệm "nghĩa tử là nghĩa tận" , các hình thức biểu hiện mối quan hệ tình cảm, tinh thần trách nhiệm của người sống với người chết ngày càng phong phú, đa dạng. Trang phục lễ tang là một trong những biểu hiện quan trọng, lâu dần trở thành phong tục.

    Tục thời Hùng Vương khi có người chết, người ta giã chày vào cối phát ra tín hiệu thông báo cho mọi người cùng biết, có thể thời đó đã có những nghi thức và trang phục đơn giản về lễ tang nhưng ta chưa tra cứu được.

    Trang phục lễ tang, ngoài mục đích để biểu thị tình cảm, thái độ với người chết, còn là để phân biệt mối quan hệ thân sơ ruột thịt xa gần với người chết. Sau này, trang phục lễ tang, nằm trong toàn bộ tổ chức lễ tang, đã được giai cấp bóc lột, thống trị dùng làm phương tiện khoe của, thị uy, tuyên truyền cho quan điểm giai cấp, đẳng cấp đương thời. Trong khi đó, có những gia đình nhân dân lao động, không đủ tiền mua áo quan cho người chết, phải bó chiếu đem chôn, nói gì tới trang phục lễ tang cho người chết. Ngay cả trong trường hợp này, người ta cũng cố gắng tìm một dải vải nhỏ chít lên đầu, gọi là có tí chút để tang cho đỡ tủi vong linh người chết, cho đỡ đau lòng người sống. Qua đó, ta thấy trang phục lễ tang có ý nghĩa quan trọng thiêng liêng.

    Trong xã hội phong kiến Việt Nam, từ thời nhà Lý, đã có nói tới quốc tang, với trang phục quốc tang dùng vải xô, gai. Vua chết, cả nước phải để tang. Vua Lý Nhân Tông, xuất phát từ lòng thương dân, trước ngày chết (1127) dặn lại quan, dân chỉ nên để tang 3 tháng. Vì vậy, sau khi vua chết, triều đình đã bỏ áo tang sớm. Đến thời Lý Cao Tông (1176 - 1210) bắt đầu để tang vua 3 năm. Sau đó, thỉnh thoảng cũng có đời vua (Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông) chỉ duy trì quốc tang hơn một năm vì những lý do khách quan nào đó (như sự trời ra tai cho thiên hạ v. V...). Đến cái chết của vua Lê Thánh Tông (1497) trang phục quốc tang được thực hiện nghiêm túc. Dân gian trăm họ phải để tóc dài, mặc áo xô trắng 100 ngày. Các quan để tóc dài, mặc áo xô trắng 3 năm. Ở nhà có thể mặc áo xanh. Ngoài 100 ngày được mặc áo xanh hay áo đen, không được dùng các màu hồng, màu lục. Từ đó về sau, từ vua đến dân ai cũng để tang cha mẹ 3 năm.

    Đến năm 1601, vua Lê Thế Tông mất, lệ để tang lại được quy định cụ thể hơn:

    - Thương phụ (chúa Trịnh) để tang 100 ngày. Khi ra làm việc ở vương phủ thì mặc áo trắng, dây thao trắng, mũ trắng. Các thân vương và các quan văn võ tước quận công trở lên mà vẫn thường được dự chầu, các quan từ ngũ phẩm trở lên không thường xuyên vào chầu và các quan cai trị ở địa phương để tang 2 năm, mặc áo trắng vén gấu, dây thao trắng, mũ trắng. Sau 27 ngày, khi vào chầu hay khi làm việc có thể mặc áo đen, dây thao đen, mũ đen.

    - Về hàng võ, tước hầu, tước bá, từ ngũ phẩm trở lên, các chức nội giám, từ lục phẩm trở lên, về hàng văn, các quan bộ, tự, thủ lĩnh, tri phủ, tri huyện, hiệu quản trở lên để trong một năm, mặc áo trắng vén gấu, dây thao trắng, mũ trắng. Quá 100 ngày, khi vào chầu hay làm việc có thể mặc áo đen, dây thao đen, mũ đen.

    - Hàng võ, từ lục phẩm trở xuống, hàng văn, bát, cửu phẩm triều yết, để tang 9 tháng, mặc áo trắng vén gấu. Các hộ vệ hiệu sĩ, án lại, hoa văn (học sinh) để tang một năm. Khi vào chầu hay đứng đầu mặc áo đen, gươm vỏ đen, dây thao đen, mũ đen, không được dùng trang sức vàng bạc.

    - Vợ các quan là mệnh phụ để tang một năm, không là mệnh phụ để tang 100 ngày, không được trang sức.

    - Các ấm quan, thuộc viên và tạp lưu để tang 5 tháng, mặc áo trắng vén gấu, sau 100 ngày, khi vào chầu hay đến nha môn làm việc thì mặc áo, dây thao, mũ màu đen.

    - Các xá lại, văn thuộc, quan viên tử, tôn, nha lại, xã trưởng, thổ tù, phụ đạo, nhân dân ở làng nhà vua và ở trong đô thành để tang 100 ngày. Nhân dân các xứ để tang 27 ngày, đều cấm âm nhạc và đồ mặc, đồ dùng màu sắc lòe loẹt và đồ châu ngọc, vàng bạc.

    Năm 1758, vua Lê Hiến Tông mất, Triều Đình lại yết bảng:

    - Các hoàng thân và trai gái họ nhà vua đều để tang theo gia lễ.

    - Các quan văn võ được dự chầu trở lên, các quan nội giám từ chức thiên giám trở lên, để tang ba năm, khi chầu (vua) thì mũ, áo, đai, đều màu đen, khi hầu (chúa) mặc áo thanh cát màu hoa quì, đội mũ sa đen, dây thao đen. Ra công đường làm việc mặc áo vải đen.

    - Vợ các quan văn, quan võ, người nào là mệnh phụ để tang một năm, người nào chưa là mệnh phụ để tang 5 tháng.

    - Hàng văn từ tự thừa, đồng tri phủ trở xuống để tang 9 tháng. Hàng võ từ thuộc viên có chức trở xuống, nội giám từ chức phụng ngự trở xuống, để tang 9 tháng. Áo mũ vào chầu đều dùng sắc đen. Khi vào hầu mặc áo thanh cát màu hoa quì, đội mũ sa đen, dây thao đen. Ra công trường làm việc, mặc áo vải đen.

    - Các ấm chức, nho sinh trúng thức, giám sinh, biền binh hợp thức, nho sinh, sinh đồ, quan viên tử tôn, nhiều nam, học sinh, sinh viên, đều để tang 5 tháng. Khi vào hầu phủ chúa mặc áo thanh cát màu hoa quì, ngày thường đều dùng áo vải đen.

    - Chức phụ đạo, thổ tù, các thuộc viên, tạp lưu, các án lại, hoa văn học sinh, thư tả, đề lại, xã trưởng để tang 5 tháng. Khi hầu phủ chúa mặc áo thanh cát màu hoa quì, ngoài ra đều dùng các vải đen.

    - Xã dân các huyện xứ Thanh Hoa và nhân dân trong đô thành để tang 1 tháng, nhân dân các xứ để tang 27 ngày. Phàm màu sắc lòe loẹt, châu ngọc vàng bạc đều cấm cho đến hết hạn để tang.

    Đối với nhà chúa:

    - Năm 1729, chúa Trịnh Cương mất, thân thuộc nhà chúa để tang theo gia lễ. Các quan võ được dự ban chầu trở lên, nội giám chức thiêm sai thái giám trở lên, để tang một năm, triều phục mũ đai đều dùng các màu xanh, lục, đen.

    - Đến thời nhà Nguyễn, tổ chức quốc tang được bày biện qui mô, linh đình, tốn kém vô kể. Trang phục lễ tang của hoàng gia và các tầng lớp quan, quân cũng có nhiều kiểu cách phức tạp. (Viện bảo tàng Con người ở Pa-ri đã trưng bày một mô hình đồ sộ phản ánh cung cách xa hoa tuyệt đỉnh của vua nhà Nguyễn).

    Ngoài quốc tang giai cấp phong kiến và nhân dân lao động chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến khi có tang đều tuân thủ những qui định về cái gọi là gia lễ.

    Có năm loại trang phục lễ tang (gọi tắt là tang phục):

    1. Trảm thôi là trang phục đại tang, để trở cha, mẹ 3 năm. Trảm thôi có nghĩa là may áo không cắt mà dùng phương pháp chặt vải cho các mép vải xơ ra một cách tiều tụy, tỏ ý đau đớn. Áo trảm thôi dài, rộng, tay thụng may bằng thứ xô rất thô, xấu, không viền gấu, không cài khuy mà chỉ buộc dải. Ở lưng áo có may thêm một miếng vải gọi là phụ bản. Hai vai có hai miếng vải gọi là thích.

    Con trai, mặc áo trảm thôi còn phải buộc một sợi dây gai ngang lưng và đội một loại mũ gọi là mũ rơm. Mũ rơm hình vành bánh xe, tết bằng rơm hay lá chuối khô, ở trên có chằng hai dải vải xô hình chữ thập, có một quai cũng bằng vải xô để đeo dưới cằm.

    Tục chống gậy. Cha chết thì con chống gậy tre. Phải chọn thứ tre màu xẫm đen (màu tang tóc). Sở dĩ, chọn loại tre này vì cây tre bốn mùa không đổi mầu, ví như tình cảm thương đau của người con không bao giờ giảm sút. Gậy tre để tròn, tượng trưng cho trời, ý coi cha như trời cao. Mẹ mất thì con chống gậy bằng gỗ cây vông. Cây vông còn tên là Đồng. Đồng nghĩa là cùng, ý rằng lòng mẹ vẫn cùng hợp với cha. Gậy vông được đẽo phần trên tròn, phần dưới vuông. Hình vuông tượng trưng cho đất, ý coi mẹ như đất dày. Chống gậy để tỏ ra là người con có hiếu, vì quá buồn thương, khóc lóc đến nỗi ốm yếu, không đủ sức đi đứng như bình thường.

    Trong đám tang mỗi người con trai đội một mũ rơm, chống một gậy. Vắng người nào, mũ và gậy phải được treo ở cạnh bàn thờ hay đặt theo áo quan để mọi người cùng biết. Con gái, con dâu để trở đại tang cũng mặc xô gai nhưng không chống gậy, không đội mũ rơm mà xõa tóc, đội mũ mấn. Gọi là mũ nhưng chỉ là miếng vải xô chiều ngang khoảng 30 cm. Chiều dài khoảng hơn 1m gập đôi lại nhưng để hai đầu vải so le, rồi khâu một cạnh, chùm lên đầu thành một hình chóp. Đặc biệt, con trai, con gái và vợ người chết còn dùng một dải xô trắng chiều ngang khoảng 30 cm, dài hơn 1m, theo chiều dài gập lại vài lần để hình thành một chiếc khăn có chiều ngang khoảng 5 cm, chít quanh đầu, buộc múi ở phía sau, bỏ thõng hai đầu khăn xuống lưng, gọi là khăn ngang.

    Ti thôi là tang phục không trọng bằng trảm thôi. Ti thôi có trường hợp để tang 3 năm, có trường hợp để tang 1 năm, 5 tháng hoặc 3 tháng. Ti là bằng. Gấu áo ti thôi không để xổ mà có viền qua loa. Áp dụng cho những trường hợp như con để trở mẹ ghẻ, mẹ nuôi (cũng có khi dùng trảm thôi) 3 năm. Chồng để trở vợ, con rể để trở bố mẹ vợ 1 năm. Cháu để tang ông bà nội, con để tang cha dượng, anh em ruột đều để tang ti thôi 1 năm. Trường hợp chị em dâu, chị em ruột đã lấy chồng, anh em chị em coi chú con bác để tang 9 tháng. Để tang cụ ông cụ bà nội, ông bà ngoại, anh em chị em cùng mẹ khác cha 5 tháng. Trường hợp con không ở với cha dượng, chồng để trở vợ lẽ đều để tang ti thôi 3 tháng v. V...

    2. Cơ phục cũng như ti thôi nhưng áp dụng trong những trường hợp như để trở bác trai, bác gái, chú, thím, cô ruột (chưa lấy chồng) đều 1 năm.

    3. Đại công là trang phục dùng thứ vải to sợi, còn thô, trong những trường hợp như cô ruột đã lấy chồng, anh em chị em con chú, con bác, đều 9 tháng.

    4. Tiểu công là trang phục dùng thứ vải nhỏ sợi đã làm kỹ trong những trường hợp như cháu để trở ông bác, bà bác, ông chú, bà thím, bà cô ruột (chưa lấy chồng), bác trai bác gái, chú thím, cô họ (chưa lấy chồng) đều 5 tháng v. V...

    5. Ti ma là trang phục có thể dùng vải nhỏ sợi, mịn, trong những trường hợp như để trở ông bà họ, vợ lẽ cha, anh em năm đời đều 3 tháng v. V...

    Ngoài ra còn nhiều qui định về để trở đối với hàng con, hàng cháu, họ nội, họ ngoại, họ xa, họ gần, thày dạy học, bè bạn... Rất phức tạp.

    Đối với người chết cũng có trang phục như khăn chít đầu (bức cân), khăn phủ mặt (khăn minh mục), bao tay (các thủ bạch), áo thâm, áo trắng, quần trắng, thắt lưng, bít tất, giày... Áo phải cắt hết khuy, mặc lẻ, không nên mặc chẵn. Trước kia, những người để tang đều mặc quần áo tang trắng nhưng về sau, trừ những người để trở đại tang còn chỉ quấn khăn là chính. Nam quấn khăn vải trắng rộng bản, nữ vấn khăn trắng xoắn lộn với tóc. Hàng chắt, khăn màu vàng, hàng chút chít khăn màu đỏ. Đi đưa ma, xưa thường phải đi chân đất, nhà giàu ở thành thị sau bỏ lệ ấy mà đi dép tết bằng cói.

    Sau ngày lễ tang, những người thân vẫn còn chít khăn ngang cho tới 100 ngày (có người theo phong tục phương Tây, dùng vải đen may khăn ấy). Áo quần để xổ gấu. Sống áo dài để hai nẹp máy ra ngoài (như mặc áo trái). Đội mũ cát hay mũ phớt, phải quấn khăn trắng quanh mũ hoặc may một khoanh băng đen (rộng khoảng 4 cm) có thừa ra hai đuôi ngắn về phía sau, lồng vào mũ.

    Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, trang phục lễ tang đơn giản nhiều. Ví dụ, dùng áo xô nhưng bỏ hai tay áo đi. Đưa đám, đi giày dép bình thường. Nhiều người không đội mũ rơm, không chống gậy nữa. Ngày thường để trở bằng cách dùng miếng vải đen rộng chừng 8 cm máy thành nhiều nếp đeo quanh cánh tay. Có người đính ở trước ngực một miếng vải đen nhỏ. Có gia đình, trong đám tang vẫn mặc bình thường và chỉ để tang bằng cách chít khăn. Những người thân thích nhất với người chết (như vợ với chồng, con với cha, mẹ...) chít khăn xô buông hai dải phía sau. Họ hàng chít khăn vải trắng quanh đầu. Bè bạn đeo băng đen ở cánh tay hay đính miếng vải đen trước ngực.

    Xét về nhiều mặt, để tang như vậy là thuận hợp, vừa giản dị, tiết kiệm, vừa không cắt đứt truyền thống dân tộc mà vẫn không hề có gì làm giảm bớt tình cảm thương tiếc đối với người quá cố. Điều quan trọng là ở ý thức, thái độ của mọi người trong đám tang. Ngoài việc không nên nói chuyện ồn ào, cười đùa cợt nhả, những người trong nhà tang và cả những người đến viếng, đi đưa tang không nên ăn mặc lòe loẹt (như mặc áo dài hoa to sặc sỡ, hoặc đeo cravat đỏ...), hoặc trang điểm cầu kỳ, diêm dúa.

    Đối với trường hợp quốc tang (lãnh tụ tối cao mất), cán bộ, quân đội, nhân dân đeo ở ngực miếng vải nhỏ chữ nhật nằm (3cm x 6cm) nửa trên đỏ, nửa dưới đen.

    Nhìn lại, trang phục lễ tang Việt Nam đã có từ lâu đời. Xưa nay, khi phát tang thường là dùng màu trắng may bằng các loại vải thô, rẻ tiền như xô, gai... Khi may, khi mặc, còn cố tình làm cho xấu xí đi để tỏ lòng thương tiếc đối với người quá cố, để chứng minh bản thân người sống đau buồn đến mức không muốn hưởng thụ gì là vui, sướng, đẹp... Thực chất tình cảm có thể như vậy. Nhưng rồi cũng không ít trường hợp chỉ là để cho người khác khỏi chê cười, nếu không phải là bày vẽ để thực hiện những ý đồ riêng biệt (như lừa dối mọi người). Nếu đi quá, sẽ là những hiện tượng hình thức chủ nghĩa, phản vệ sinh (thời xưa khi đưa ma phải ăn mặc xộc xệch, nhàu nát, đi chân đất, lăn đường hoặc chống gậy đi giật lùi, tùy mối quan hệ máu mủ với người chết. Sau đó, người để tang còn không chải tóc không tắm giặt, không xem hát, nghe nhạc trong nhiều ngày). Quan điểm tư tưởng phong kiến cũng được biểu hiện rõ ràng (như quan điểm trọng nam khinh nữ).

    Lược bỏ những hình thức tiêu cực, việc để tang rất có ý nghĩa trong mối quan hệ giữa người sống với người chết, giữa những người sống với nhau. Trang phục lễ tang nhắc nhở người sống biểu lộ tình thương yêu và lòng biết ơn đối với người đã khuất. Nó khuyên những người đang sống cần cống hiến cho xã hội như thế nào, cần đối xử với nhau như thế nào để khi nhắm mắt có thể ngậm cười trong niềm thương tiếc của mọi người. Và nếu mọi người có điều kiện tìm hiểu về những nguyên nhân nào đó đã sản sinh ra những tục lệ để tang, chắc rằng tác dụng giáo dục con người càng thêm sâu sắc.

    Trang phục lễ tang đơn giản, nghiêm túc mang được những ý nghĩa sâu sắc cũng là một mặt của đời sống văn hóa mà mỗi dân tộc có truyền thống văn minh không thể thiếu quan tâm.
     
  5. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Trang phục lực lượng vũ trang cách mạng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trang phục quân đội nhân dân Việt Nam

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22-12-1944 tại chiến khu Việt Bắc, Đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam được thành lập. Đây là những người chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số 34 người, những người đầu tiên của lực lượng võ trang chính qui của Đảng. Dù cùng chung một lý tưởng nhưng khác nhau về thành phần xuất thân, nghề nghiệp v. V..., lại do hoàn cảnh lúc ấy mỗi người phải có một việc làm nào đó vừa để sinh sống, vừa để che mắt kẻ thù nên trang phục mỗi người một vẻ: Người mặc quần áo chàm, người mặc quần áo nâu, người mặc com lê, người đi hài xảo, người đi giày vải, người đi giày da v. V... Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, tình hình trang phục của quân đội này biến chuyển tùy thuộc sự ủng hộ của nhân dân và tùy thuộc những chiến lợi phẩm thu được của địch sau mỗi trận đánh thắng. Do đó ngoài quần áo thường, có khi các đội viên còn mặc cả quần áo lính khố xanh, lính khố đỏ, quần áo lính hoặc võ quan Pháp, Nhật...

    Hiện tượng trên kéo dài cho tới ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Để ra mắt nhân dân Thủ đô Hà Nội, chào mừng ngày lễ Độc lập (2-9-1945). Đội Võ trang tuyên truyền Giải phóng quân từ chiến khu về Hà Nội đã được trang bị đồng bộ.

    Nam: Áo sơ mi cộc tay, vạt áo bỏ trong quần. Mặc quần soóc, thắt lưng da to bản. Chân đi giày da ngắn cổ. Đội mũ cát màu trắng.

    Nữ: Áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản. Mặc quần vải màu đen, gấu quần túm gọn. Đi giày ba ta. Tóc cặp gọn. Đội mũ rộng vành màu chàm.

    Đã giành được chính quyền, nhưng vấn đề trang phục quân đội vẫn chưa được qui định, sự trang bị tùy thuộc khả năng của từng đơn vị, từng địa phương. Riêng ở Hà Nội, các chiến sĩ Vệ quốc quân (đa số là tiểu tư sản học sinh, công nhân) mặc rất đẹp. Áo sơ mi, quần bó ống, đi giày da cổ thấp. Đặc biệt là có loại mũ ca lô vải màu vàng hay bằng dạ tím than, đội lệch trên đầu. Trước mũ đính một ngôi sao vàng trên nền đỏ tròn. Tự vệ chiến đấu thành đeo sao vàng, nền đỏ vuông (đều bằng vải hoặc nỉ màu đỏ). Đối với cán bộ chỉ huy, quân hiệu còn thêu thêm một vành chỉ màu vàng cho các cấp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội trưởng từ cấp chi đội trưởng thêu bằng chỉ kim tuyến (vàng). Cấp phó, thêu một vành bằng chỉ màu trắng, từ cấp chi đội phó thêu bằng chỉ ngân tuyến (bạc).

    Ngoài ra, còn có cấp hiệu hình chữ nhật (5cm x 2cm) gài ở túi ngực bên trái. Cấp hiệu, nền bằng vải màu đỏ, ở giữa thêu sao màu trắng. Cấp cán bộ tiểu đội: Một sao, trung đội: Hai sao, đại đội: Ba sao, chi đội: Bốn sao. Cấp trưởng, thêu vành vàng, cấp phó thêu vành trắng.

    19-12-1946, ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Các lực lượng vũ trang tản vào dân, dựa vào dân, mặc như dân. Ở miền Bắc, miền Trung chủ yếu mặc vải nâu: Áo cánh có hai túi, quần ta buộc túm ống (do đó có tên gọi bộ đội là Vệ túm. Cũng có người cho rằng do một số chiến sĩ rách áo, rách quần, chưa vá kịp, lấy dây buộc túm lại, nên có tên gọi như vậy). Có người mặc sơ-mi, quần Âu. Mũ nón, giày dép có gì dùng vậy. Có người đi chân đất. Cán bộ mặc thêm áo blu-dông, áo vét Ca-na-điêng, áo va-rơi... Tùy theo khả năng tự túc. Chiến sĩ khu V, mặc áo cánh, quần ta màu tro xám, bằng vải sợi bông gọi là vải Sita. Miền Nam thường mặc áo bà ba đen, quần đùi, do đặc điểm thời tiết nóng và do phải hoạt động trong địa hình Nam Bộ nhiều kênh rạch, sình lầy.

    Cuối năm 1947, xuất hiện chiếc áo chấn thủ trong quân đội. Áo chấn thủ rất đơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ, tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: Mảnh trước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Còn cạnh sườn và trên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chần hình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt. Những năm kháng chiến gian khổ hiếm bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập rập, phơi khô thay bông. Cúc, khuy cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy ép tẩm sơn thay thế.

    Tấm áo chấn thủ đã trở thành một điển hình khi ta nói tới anh bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thêm vào đó, không thể không nhắc tới chiếc mũ đan bằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải chùm cả vành mũ, bên ngoài phủ một tấm lưới có dắt rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ để ngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù hoa. Dưới chân anh bộ đội là đôi dép lốp cao su đen (thường gọi tắt là dép cao su).

    Đôi dép cao su này từ khu Tư trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên. Đây là một sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết được đồ đi cho quân, dân ta suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ ta lấy lốp xe, đo chân cắt thành đế dép, dùi tám lỗ để xỏ quai bằng xăm ô tô (cao su đen): Hai quai chéo phía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vàng. Bề ngang các quai khoảng 1 cm. Một đôi dép rất đơn giản, dùng được trong mọi điều kiện nắng, mưa, lội nước, đạp gai v. V... Bộ đội, nhân dân đang thiếu đồ đi, đa số đi chân đất, nay thấy đôi dép này ra đời với giá thành không đáng kể, nên lập tức mọi người ưa thích sử dụng. Dép lên đến Việt Bắc được cải tiến: Hai quai chéo làm to bản ra và được đóng đanh tre thêm cho đỡ tuột. Có nơi dùng quai bằng cao su màu đỏ, cắt lượn khá đẹp.

    Từ năm 1950, từng bước bộ đội được trang bị đồng bộ: Áo sơ-mi hai túi, có cầu vai, quần Âu, ở gấu quần có khuy và khuyết để cài túm lại cho gọn gàng. Cả bộ màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Giày vải xanh, đế cao su. Nhiều người vẫn đi dép cao su đen.

    Ở chiến dịch Tây Bắc (1952), để chống cái rét của vùng rừng núi, bộ đội được phát áo chấn thủ dài tay (như một thứ blu-dông bông). Ngoài ra, do thu được nhiều dù chiến lợi phẩm, mỗi người thường dùng một miếng dù to, khi hành quân thì ngụy trang, trời rét thì quàng cổ, đêm ngủ thì làm chăn đắp.

    Năm 1953, quân đội ta bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất và đến ngày tiếp quản Thủ đô (10-1954), đa số đã được mặc đồng phục.

    Chiến sĩ: Áo sơ-mi tay dài, cổ đứng, hai túi ngực có nắp, vai đệm thêm vải và máy 32 đường chỉ cho bền, thắt lưng vải ra ngoài, quần Âu, mũ cối, giầy vải (đế cao su), tất cả màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Mặc áo này, bỏ vạt ra ngoài quần. Mặc áo sơ-mi thường phải cho vạt áo vào trong quần.

    · Cán bộ trung cấp: Như chiến sĩ, áo có bốn túi trong, nắp ngoài, không có đệm vai, không thắt lưng ra ngoài áo.

    · Cán bộ cao cấp: Như cán bộ trung cấp, dùng loại vải tốt hơn (như ga-ba-đin).

    Đã có quân hiệu bằng đồng hình tròn, đường kính 3cm, nền đỏ, có nhiều tia từ một ngôi sao vàng nổi ở giữa tỏa ra. Vành quân hiệu là một đường gờ nổi nhỏ, màu vàng.

    Năm 1958 bắt đầu có trang phục, quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu của Lục quân, Hải quân, Không quân.

    Lục quân: Trang phục như kiểu cũ (năm 1954). Quân hiệu hình tròn, đường kính 3, 3 cm, nền đỏ, ở giữa là ngôi sao vàng nổi, có nhiều tia tỏa ra. Ở dưới là hình nửa bánh xe, hai bên là hai bông lúa ôm vòng lên, tượng trưng cho công nông đeo ở trước mũ.

    Không quân: Áo blu-dông, hai túi ngực có nắp, quần Âu, đi bốt cao (hoặc giầy da đen), đội mũ bay. Quân hiệu, nền xanh da trời (tượng trưng cho bầu trời) ngôi sao vàng nổi ở giữa hình hai cánh chim bạc, phía dưới có hình nửa bánh xe, vòng hai bên là hình bông lúa.

    Hải quân: Áo sơ mi trắng, vải dày, cổ chui, cổ áo liền yếm. Ngoài ra còn có một yếm trắng đệm trong cổ áo phía trước với năm đường kẻ màu tím than, tượng trưng cho sóng nước. Quần Âu màu tím than. Mũ vải trắng có vành da ghi chữ Quân đội nhân dân Việt Nam và hai dải vải màu xanh buông về phía sau.

    . Quân hiệu, nền màu tím than, (tượng trưng cho màu biển), giữa là hình ngôi sao vàng nổi đè lên hình mỏ neo màu đỏ, phía dưới có hình nửa bánh xe, vòng hai bên là hình bông lúa.

    · Cấp hiệu của các quân chủng đều nền màu vàng, viền chung quanh theo màu nền của từng loại quân hiệu. Cấp hiệu đeo ở cầu vai.

    · Phù hiệu, nền theo màu của từng quân chủng, có các hình tượng trưng theo từng loại binh chủng. Phù hiệu đeo ở ve áo.

    Trong khi ở miền Bắc quân đội tiến dần lên chính qui hiện đại thì ở miền Nam, các chiến sĩ Giải phóng quân vẫn ngày đêm đương đầu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong một cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt. Hình ảnh anh bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tô đậm nét cùng với tấm áo chấn thủ điển hình thì chiếc mũ tai bèo thời gian chống Mỹ cứu nước. Ở miền Nam lại là tượng trưng cho chiến sĩ Giải phóng quân kiên cường dũng cảm. Chiến sĩ Giải phóng quân mặc áo sơ mi, quần Âu vải xanh lá cây, đi giày vải. Đặc biệt là đội mũ tai bèo. Mũ tai bèo là một loại mũ vải màu xanh lá cây, vành mũ tròn và mềm trông giống như một cánh bèo. Chiến sĩ Giải phóng quân còn thường khoác một mảnh dù hoa để ngụy trang. Quân hiệu: Nền nửa trên đỏ, nửa dưới màu xanh da trời, giữa là ngôi sao vàng nổi (tượng trưng cho lá cờ giải phóng miền Nam).

    Ngoài những bộ trang phục thường dùng, ngành quân trang còn nghiên cứu sáng tạo ra nhiều bộ quần áo mới để góp phần giải quyết những vấn đề về quân sự trong cuộc đụng độ với một kẻ thù có một tiềm lực to lớn, có những phương tiện vũ khí hiện đại đặc biệt. Tuy đây không phải là trang phục chính qui nhưng những trang phục này có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào những chiến công oanh liệt vang dội hoàn cầu. Đó là những quân trang nghiệp vụ.

    · Bộ quần áo bay của chiến sĩ lái máy bay do ngành quân trang Việt Nam sản xuất, được mặc ra ngoài bộ quần áo cao áp, được may theo qui cách riêng, phù hợp với đặc tính chiến đấu của ta, tạo điều kiện thuận lợi sử dụng những thiết bị mang theo người gọn nhẹ: Quần sáu túi, áo mười túi, kiểu may mang những nét dân tộc để khi nhảy dù không lẫn với phi công địch.

    · Áo phao cho các chiến sĩ đặc công thủy. May theo kiểu áo cộc tay, hai lần vải, ở giữa chứa hạt xốp có tác dụng làm nổi người, nhất là đối với những trường hợp chiến sĩ đuối sức, hay bị ngất đi trong khi làm nhiệm vụ dưới nước.

    · Áo giáp: Trên cơ sở áo chấn thủ hai lượt vải, giữa áo giáp có đặt các miếng tre đực hay kim loại. Hoặc buộc ở ngoài áo nhiều miếng kim loại xếp chồng lên nhau như vẩy tê tê hay mái ngói, có tác dụng chống mảnh đạn hay bom bi của địch. (Ta có thể liên tưởng đến các mảnh giáp thời Hùng Vương). Áo giáp ngắn cho chiến sĩ lái xe ô tô. Áo giáp dài cho chiến sĩ đứng ở điểm chốt (đếm bom rơi hay báo động...). Áo này nặng đến 27kg.

    Sau khi thống nhất đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính qui, hiện đại, trang phục quân đội được nghiên cứu kỹ càng, chu đáo hơn. Ngoài chức năng thực dụng, phù hợp với tính chiến đấu cao, phù hợp với điều kiện thời tiết ở Việt Nam, phù hợp với khả năng kinh tế trước mắt, còn đồng thời quan tâm nhiều đến yếu tố thẩm mỹ.

    Năm 1982, trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam được qui định để áp dụng thống nhất trong toàn quân (gọi là quân phục K82).

    Quân phục K82 có kiểu để mặc trong mùa hè, mùa thu, có kiểu để mặc trong mùa đông, mùa xuân, có kiểu dùng cho sĩ quan, chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên nam và nữ, có kiểu của bộ đội Hải quân, có kiểu dùng cho lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt. Về quần, nói chung là một kiểu thống nhất. Về chất liệu, tùy theo cấp bậc, có những loại vải khác nhau. Về qui cách mặc, về trường hợp sử dụng như khi làm việc, khi hội họp, khi dự lễ, khi đi nước ngoài... Đều được qui định.

    Khi làm việc, học tập, hội họp bình thường ở trong nước, sĩ quan chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp và nữ, mùa hè, mùa thu nam mặc áo (kiểu như sơ-mi bludong) chít gấu, dài tay, cổ đứng, hoặc áo chít gấu, ngắn tay, cổ bẻ. Nữ mặc áo dài tay cổ đứng hoặc áo dài tay cổ bẻ không có áo ngắn tay. Cả hai loại đều có 2 túi ngực may ngoài, nắp túi lượn. Mặc quần dài. Đeo quân hàm kết hợp. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm.

    Mùa đông, mùa xuân, mặc quân phục K82 đồng bộ cùng một loại vải, theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ đứng, màu quân phục (không mặc màu khác). Cra-vát màu rêu thẫm. Áo ngoài cổ bẻ, có 4 túi nổ, nắp lượn. Quần như kiểu mùa hè. Đeo quân hàm kết hợp. Đội mũ mềm hoặc mũ cứng, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giày (không được đi dép).

    Riêng bộ đội Hải quân, mặc áo sơ-mi màu trắng hoặc màu ghi nhạt trong áo quân phục mùa đông K82, đeo cra-vát màu tím than.

    Bộ đội Hải quân đánh bộ, mặc theo kiểu và màu quân phục bộ binh, đeo quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ.

    Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân, mang quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Không quân.

    Lúc rét, có thể mặc áo khoác dài K82, chỉ đeo quân hàm kết hợp. Khi mặc áo khoác, áo mưa có dây thắt bên ngoài, phải thắt và cài ngay ngắn về phía trước.

    Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy, là nam, mặc quân phục K82 chiến sĩ, áo chùm mông, hai túi ngực có nắp lượn, cổ cài kín ống tay có cài khuy, vạt áo bỏ ngoài quần, thắt lưng to bên ngoài. Khi mặc quân phục kiểu áo sơ-mi và áo kiểu của Hải quân, vạt áo bỏ trong quần, thắt lưng nhỏ bên ngoài. Mang quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm. Ở vùng rét nhiều, có thể đội mũ bông. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

    Nếu là bộ đội Hải quân, mặc quân phục kiểu áo có yếm theo từng mùa. Mang quân hàm vuông ở đầu bả vai. Đội mũ cứng như mũ bộ binh hoặc đội mũ mềm màu xanh tím than. Mũ (có dải) cả hai mùa đều màu trắng chỉ dùng trong nghi lễ và hội họp long trọng. Trên mũ này có quân hiệu và chữ "Hải quân Việt Nam" màu vàng. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

    Học viên của Hải quân, mặc như quân phục học viên bộ binh nhưng theo màu Hải quân tùy theo từng mùa.

    Hải quân đánh bộ, mặc như kiểu và màu quân phục bộ binh, mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ.

    Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân. Mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Không quân. Đội mũ cứng như bộ binh hoặc mũ mềm màu tím than. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

    Đối với nữ, (gồm tất cả các quân chủng), mặc quân phục K82 của nữ. Áo hai túi ngực có nắp lượn, chiết ly eo, gấu áo to, tay áo măng sét, cài khuy. Đeo quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giày hoặc đi dép.

    Các lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt, khi công tác, học tập, hội họp bình thường mặc quân phục thường dùng theo từng mùa như qui định ở trên (tùy theo từng đối tượng). Còn khi làm công tác nghiệp vụ, bộ đội gác Lăng và bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh, bộ đội danh dự của Bộ và Quân nhạc, mặc quân phục K82 màu trắng có viền đỏ ở vành mũ kê-pi, ở ve áo, ngoài và nẹp dọc quần. Mũ kê-pi có dây màu vàng. Các áo nổi màu vàng có ngôi sao giữa hai bông lúa.

    Áo sơ mi trong của bộ đội gác Lăng và bộ đội bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh màu trắng, của bộ đội danh dự và quân nhạc màu cỏ úa, cra-vát màu rêu thẫm. Khi hòa nhạc hoặc phục vụ lễ tang, quân nhạc mặc áo sơ mi trắng, đeo cra-vát đen.

    Văn công quân đội chuyên nghiệp mặc quân phục khi biểu diễn.

    Các đơn vị chuyên môn như lái máy bay, lái xe tăng, xe bọc thép, thợ máy, bộ đội đặc công, quân y... Khi luyện tập, hoạt động, công tác theo nghiệp vụ chuyên môn nào thì mặc trang phục nghiệp vụ đó.

    Các lực lượng cảnh vệ, canh gác các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu, Quân đoàn, Binh đoàn Quân chủng, Binh chủng, các Học viện và trường thuộc Bộ, các lực lượng kiểm soát quân sự chuyên nghiệp làm nhiệm vụ mặc quân phục K82 có thắt lưng to bên ngoài. Ban ngày mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn, đội mũ kê-pi, đi giày. Ban đêm đội mũ cứng hoặc mũ mềm, mang quân hàm kết hợp, khi cần thiết có thể đội mũ sắt.

    Đi công tác, học tập, hội họp, công tác ở nước ngoài, sĩ quan hoặc chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp và nữ mặc quân phục K82.

    Khi nóng, mặc quân phục hè theo màu của từng quân chủng, áo chít gấu dài tay, cổ cứng, có cra-vát (màu rêu thẫm), mang quân hàm vai (không đeo phù hiệp ở ve áo), đội mũ kê-pi, đi giày da, đeo cuống huân chương.

    Khi rét, mặc quân phục đông đồng bộ theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ cứng, màu quân phục, có cra-vát (màu rêu thẫm), mang quân hàm vai. Ve áo của cấp tướng, đeo cành tùng và một ngôi sao màu vàng, của cấp tá và cấp úy đeo nền phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi của cấp tướng có cành tùng kép màu vàng bao quanh quân hiệu, và dây màu vàng, của cấp tá có dây màu vàng, của cấp úy không có dây màu vàng. Riêng mũ kê-pi của sĩ quan Hải quân vành mũ màu trắng, thành mũ màu xanh tím than (cả hai mùa). Đi giày da, đeo cuống huân chương.

    Khi rét, mặc áo khoác ngoài kiểu K82, đeo quân hàm vai, ve áo cấp tướng có cành tùng và một ngôi sao vàng, của cấp tá đeo nền phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn.

    Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy, mặc quân phục K82 như ở trong nước, mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi, đi giày, đeo cuống huân chương.

    Khi dự lễ lớn, đối với cấp tướng: Mặc lễ phục mùa hè màu xám nhạt, mùa đông màu cỏ úa thẫm, áo ngoài cổ bẻ, cúc áo màu vàng hình quốc huy, hai túi dưới chìm, cổ áo có viền theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng, trên ve áo có cành tùng và một ngôi sao vàng. Áo sơ mi trắng, cổ đứng dài tay, cra-vát đen. Đeo quân hàm vai. Đội mũ kê-pi viền đỏ, có cành tùng kép màu vàng bao quanh chân hiệu, dây màu vàng. Quần như quân phục thường. Giày da đen.

    Cấp tá, lễ phục, màu và hình thức như của cấp tướng. Chỉ khác: Mũ kê-pi không có cành tùng bao quanh quân hiệu. Ve áo chỉ có cánh tùng không có ngôi sao vàng. Cúc áo hình sao có hai bông lúa.

    Cấp úy, mặc quân phục đông K82 đồng bộ.

    Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy: Mặc quân phục K82 chiến sĩ, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm (thống nhất theo từng khối), đi giày.

    Quân nhân dự lễ đeo huân chương, huy chương, và huy hiệu đã được tặng thưởng.

    Khi dự lễ nhỏ hoặc hội họp long trọng trong và ngoài nước: Sĩ quan và chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp, hè thu: Mặc quân phục hè thu K82, áo chít gấu ngắn tay cổ bẻ (không có cra-vát) mang quân hàm vai, đeo phù hiệu ở ve cổ áo. Trường hợp mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, không thắt cra-vát, mở cúc cổ, mang quân hàm và phù hiệu như khi mặc áo cổ bẻ, có thể xắn tay áo trên khuỷu tay, gấp nếp ngay ngắn.

    Khi đi công tác, học tập ở nước ngoài lúc nóng bức có thể mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, đeo cra-vát, mang quân hàm vai. Khi thắt cra-vát thì không đeo phù hiệu.

    Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy: Mặc quân phục K82 chiến sĩ đeo quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm (thống nhất theo từng khối), đi giày.

    Quân nhân dự lễ nhỏ hoặc hội họp long trọng, đeo cuống huân chương, huy chương và huy hiệu được tặng thưởng.

    Sĩ quan cấp tướng và cấp tá, lúc rét có thể mặc áo khoác K82, đeo quân hàm vai.

    Mùa hè, có thể mặc áo chít gấu cổ bẻ, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn.

    Năm 1982, cùng với trang phục K82, đã qui định về quân hiệu, phù hiệu, cấp hiệu thống nhất như sau:

    · Quân hiệu của Quân đội Nhân dân Việt Nam hình tròn, nền đỏ ở giữa là ngôi sao vàng (biểu tượng lá cờ Tổ quốc). Phía dưới có hình nửa bánh xe, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao, tượng trưng cho công nông. Vành ngoài màu vàng.

    · Quân hiệu nhỏ gắn trên mũ mềm, mũ bông, mũ nồi của văn công.

    · Quân hiệu lớn gắn trên mũ cứng, mũ kê-pi, mũ có dải của hạ sĩ quan, binh sĩ Hải quân.

    · Cấp hiệu của sĩ quan và chuẩn úy (mang trên vai áo) bao gồm cả bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp thống nhất nền màu vàng, có viền một ly theo màu phù hiệu của từng quân chủng, bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp.

    · Trên cấp hiệu của cấp tướng có sao, và cúc tròn nổi hình quốc huy màu vàng. Của các cấp khác có sao, vạch và cúc tròn nổi hình ngôi sao giữa hai bông lúa màu trắng.

    · Cấp hiệu của đại tá có ba sao, hai gạch. Cấp hiểu của trung tá có hai sao, hai vạch, thiếu tá một sao, hai vạch.

    · Cấp hiệu của đại úy có bốn sao, một vạch, thượng úy ba sao một vạch, trung úy hai sao một vạch, thiếu úy một sao, một vạch, chuẩn úy một vạch.

    · Cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ, nền màu xám nhạt có viền một ly theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng. Trên nền cấp hiệu có cúc màu trắng, có vạch bằng vải màu đỏ để phân biệt cấp bậc.

    · Cấp hiệu của binh nhất: Hai chữ V, của binh nhì: Một chữ V. Riêng nền cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ Không quân trong bộ đội danh dự, màu xanh da trời, vạch cấp hiệu màu vàng.

    · Cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ Hải quân, hình vuông, nền màu xanh tím than.

    · Cấp hiệu của binh nhất, hai vạch vàng ở hai đầu cấp hiệu, binh nhì, một vạch vàng ở một đầu cấp hiệu, tất cả đều có gắn hình phù hiệu của quân chủng Hải quân, hoặc ngành nghề chuyên môn ở giữa nền phù hiệu (kể cả của hạ sĩ quan).

    · Cấp hiệu của học viên đào tạo sĩ quan, nền theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng, có viền 6 ly màu vàng và cúc màu trắng.

    · Cấp hiệu của học viên đào tạo hạ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật trung cấp, nền theo màu cấp hiệu của học viên sĩ quan nhưng chỉ viền một ly theo màu quân chủng, bộ đội biên phòng (không viền vàng).

    · Cấp hiệu của quân nhạc màu đỏ, của văn công màu vàng (không có vạch ngang) cúc màu trắng, trên nền cấp hiệu có hình phù hiệu ngành chuyên môn màu trắng trên nền nổi hình tròn màu đỏ.

    · Phù hiệu (mang trên ve áo) bao gồm nền và hình phù hiệu.

    · Nền phù hiệu có màu sắc khác nhau để phân biệt các quân chủng, bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp:

    · Lục quân: Màu đỏ tươi.

    · Không quân và Phòng không: Màu xanh da trời.

    · Hải quân: Màu tím than.

    · Bộ đội biên phòng: Màu xanh lá cây.

    · Quân nhân chuyên nghiệp: Màu ghi sáng.

    Hình phù hiệu đặt trên nền phù hiệu, có hình dáng khác nhau để phân biệt quân chủng, binh chủng và ngành chuyên môn.

    Toàn quân có 25 loại hình phù hiệu sau đây:

    · Binh chủng hợp thành bộ binh: Hình thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

    · Bộ binh cơ giới: Hình xe bọc thép trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

    · Đặc công: Hình dao găm đặt trên khối bộc phá dưới có mũi tên vòng.

    · Xe tăng, xe bọc thép: Hình xe tăng.

    · Pháo binh: Hình hai khẩu pháo đặt chéo.

    · Hóa học: Hình tia phóng xạ trên hình nhân benzen.

    · Công binh: Hình cuốc, xẻng trên nửa bánh xe.

    · Thông tin: Hình sóng lượn.

    · Bộ đội biên phòng: Hình móng ngựa trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

    · Quân chủng không quân: Hình sao trên hai cánh chim.

    · Bộ đội nhảy dù: Hình cánh máy bay trên dù đang mở.

    · Quân chủng phòng không: Hình hai khẩu pháo đặt chéo.

    · Tên lửa: Hình tên lửa trên nền mây.

    · Cao xạ: Hình khẩu pháo cao xạ.

    · Ra-đa: Hình cánh ra-đa trên bệ.

    · Quân chủng Hải quân: Hình mỏ neo.

    · Hải quân đánh bộ: Hình mỏ neo trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

    · Ngành Hậu cần - Tài vụ: Hình thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo, dưới có bông lúa.

    · Quân y, thú y: Hình chữ thập đỏ trên hình tròn.

    · Ngành kỹ thuật: Hình com-pa đặt trên chiếc búa.

    · Lái xe: Hình tay lái trên díp xe.

    · Ngành Quân pháp: Gồm cơ quan điều tra hình sự, tòa án quân sự. Viện kiểm sát quân sự, cơ quan pháp chế, và các lực lượng kiểm soát quân sự: Hình mộc trên hai thanh kiếm đặt chéo.

    · Quân nhạc: Hình chiếc kèn và sáo đặt chéo.

    · Thể công: Hình cung tên.
     
  6. Đoản Nhất Thiên

    Bài viết:
    177
    Trang phục trẻ em xưa


    [​IMG]

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thông thường người mẹ có thai vài bốn tháng đã nghĩ đến việc may mặc cho đứa con bé bỏng của mình, dù chưa biết nó là con trai hay con gái, dù gia đình có của ăn của để hoặc là còn nợ nần, thiếu đói. Đứa trẻ là niềm vui của người mẹ, của gia đình. Do đó khi đứa trẻ ra đời, ngoài tã lót, thường đã có ngay những chiếc áo, chiếc mũ xinh xắn đợi chờ...

    Thời kỳ này, trẻ sơ sinh có mũ thóp, thường làm bằng các loại vải nhẹ, mềm, đẹp, khâu thành hình tròn ống bề ngang khoảng 3 - 4cm, đội vào đầu đứa bé để bảo vệ thóp. Ít tháng sau, có các loại yếm dãi hình tròn, hình bầu dục...

    Trẻ ba bốn tuổi, con trai mặc áo cánh ngắn buộc dây bên cạnh (thay cúc). Quần liền yếm, ở cổ yếm có hai dải nhỏ buộc ra sau gáy, còn hai dải bên cạnh buộc ra sau lưng. Thường là quần khoét đũng. Con gái mặc váy liền yếm cũng có vải dài buộc như quần con trai. Loại váy, quần liền yếm có tác dụng che bụng, che ngực, khi trời nóng không cần mặc áo nữa.

    Tóc con trai thường để hai bên hai mảng tóc (gọi là trái đào), một mảng dài hơn ở giữa đỉnh đầu chải ra sau (gọi là chỏm hoa roi). Tóc con gái để một mảng ở chỗ thóp (gọi là cút trước), một mảng ở phía sau đầu để dài đến gáy (gọi là cút sau). Trẻ em được đeo các vòng tay, vòng chân, vòng cổ, khánh bằng bạc, có gắn quả nhạc, vừa để trang sức vừa có ý nghĩa giữ "vía" cho trẻ (theo quan niệm thời đó). Lên bảy, lên tám tuổi: Em gái đã mặc yếm, áo cánh ngắn, ngoài mặc áo dài bốn thân màu nâu hay đen. Thắt lưng buông dải phía trước. Mặc váy hoặc quần thâm. Đầu vấn khăn, tuy tóc không có bao nhiêu, chít khăn vuông. Mùa rét mặc thêm chiếc áo bằng loại vải thô mở ngực, không dùng cúc mà có dây nhỏ buộc hai vạt vào với nhau khi cần thiết. Chân đi dép da hay guốc gỗ. Đeo khuyên (mấm) bạc.

    Em trai thường mặc áo cánh và quần trắng. Đi đâu cũng mặc áo dài the thâm hoặc vải trắng. Cắt tóc ngắn, cũng có khi đội khăn xếp. Đi guốc gỗ, hoặc đi chân đất. Có em đi giày Gia Định. Ở tuổi này tóc nhiều em vẫn còn để trái đào hoặc để cút thường là con nhà nghèo.

    Con nhà giàu ở thành thị, nữ mặc áo dài trắng bằng lụa hay gấm, sa tanh các màu, cài cúc cạnh sườn. Quần trắng. Đi guốc gỗ quai ngang hay giày cườm. Tóc để cút sau dài, buộc lại cho gọn hoặc cắt theo kiểu tóc Nhật Bản (phía trước cắt ngang bằng, hai bên dài hơn ở giữa nhưng cũng cắt ngang bằng, khoanh ra phía sau), hoặc dùng lược bờm gài ngược tóc lên cho khỏi xõa xuống mắt. Đồ trang sức có hoa tai đầm, kiềng vàng, vòng tay hoặc lập lắc (plaque) vàng. Các em trai cũng mặc như ở nông thôn nhưng dùng chất liệu vải quý hơn. Rất ít em mặc theo kiểu trang phục trẻ em châu Âu. Trang phục trẻ em, kể từ khi các em đi học, phụ thuộc vào tình hình kinh tế gia đình. Qua trang phục các em, người ta thấy được hoàn cảnh gia đình, bố mẹ các em. Nói cách khác, trong xã hội cũ, tính chất giai cấp đã có sự phơi bày trên bình diện trang phục của cả trẻ em. Dù cha mẹ thương con mấy đi nữa, nhưng vì nghèo, ít khi có thể cho con em ăn mặc xênh xang được.

    Nhìn chung, thời gian này dù trẻ em ở tầng lớp giàu hay nghèo, quần áo và cách ăn mặc của các em không phù hợp với lứa tuổi mà giống y hệt trang phục người lớn, do đó trông các em cằn cỗi, già đi trước tuổi rất nhiều.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...