Tác giả: Chì Đen Thể loại: huyền ảo, tình cảm Độ dài: 15 + chương Tình trạng: Đang tiến hành
*** Lời Mở Đầu 
Có loài hoa chẳng nở vì mùa, Chẳng vì nắng rót, chẳng vì mưa rơi.
Chỉ mọc nơi chờ đợi quá lâu,
Hoa của ký ức, điều quên mà chưa mất.
Cánh mỏng như sương, sáng bạc ánh trăng,
Hương thoảng vị ngọt mong manh,
Vương làn khói trầm xa xưa,
Khiến người bước tới... lại khẽ ngập ngừng.
Người kể rằng:
Ký ức bị bỏ quên nhưng chẳng hề mất
Hóa thành hạt mầm, lặng lẽ chôn sâu.
Chờ một nhịp tim quen thuộc hồi sinh,
Khi ấy... hoa sẽ nở.
Tôi đã từng nghĩ mọi truyền thuyết đều bắt nguồn từ hiện thực, nhưng khi đứng trước những cánh hoa này, tôi không dám chắc mình đang ở hiện thực.
Có những đêm, tôi đã lặng im rất lâu dưới tán hoa ấy, không rõ mình đang ngắm những cánh trắng rung rinh, hay đang tìm một gương mặt đã trôi lạc vào quên lãng.
Và chỉ đến khi hoa tan thành sương mỏng, tôi mới hiểu... có lẽ điều tôi tìm kiếm... không chỉ thuộc về riêng một đời này.
Giữa cái lạnh tê tái của màn sương rừng Đà Lạt, tôi đang cùng Tâm - thằng bạn chí cốt, lết từng bước giữa rừng rậm như hai cái xác sống vừa trồi lên từ nghĩa địa. Nếu ai vô tình bắt gặp lúc đó có lẽ sẽ tưởng hai gã tâm thần đang diễn cảnh rượt đuổi trong phim kinh dị lúc nửa đêm.
Chúng tôi là sinh viên năm ba ngành khảo cổ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM. Chuyến thực địa khảo sát địa tầng cổ ven rừng Tà Nung ban đầu nghe rất hứa hẹn. Đoàn mười lăm người, có giảng viên dẫn đầu, thiết bị đủ loại, cả áo phản quang chói lóa tưởng đâu có rơi xuống vực cũng tìm ra. Ấy vậy mà chỉ sau đúng mười lăm phút tách nhóm đi lấy mẫu đất, tôi và Tâm đã chính thức "xóa sổ" khỏi bản đồ nhân loại.
- Tao nói rồi mà, đi bên trái. Mày cứ cố cãi đi phải, giờ thì sáng mắt ra chưa?
Tâm làu bàu, vừa nói vừa vắt ống quần đầy bùn, hơi thở trắng khói, trông chẳng khác gì mấy ông thầy pháp trong phim cổ trang. Tôi nhăn mặt:
- Cái bảng chỉ dẫn "lối đi nguy hiểm không vào" dựng to đùng vậy mà mày tưởng đồ trang trí à?
Chúng tôi đấu khẩu không phải vì muốn thắng mà vì sợ. Giữa khu rừng âm u, hơn mười một giờ khuya, không tiếng người, không sóng điện thoại, không ánh sáng thì nói nhảm chính là cách giữ bình tĩnh duy nhất.
Không khí đặc quánh. Sương mù dày phủ tấm màn ẩm ướt giăng kín mọi lối đi. Gió thổi rít qua rặng thông nghe như tiếng ai đó đang thở dài rên rỉ. Tâm bỗng khựng lại:
- Nguyên à... tao thấy... không ổn lắm...
- Gì? Mày bị gì? - Tôi hỏi khi thấy hắn run cầm cập, tay chân khua loạn như đang tập thể dục buổi sáng.
- Nơi này u ám quá, trời đã khuya thế này... có khi nào...
Nghe tới đó tôi suýt bật cười. Không biết hồi nhỏ nó bú nhầm sữa gì mà trí tưởng tượng phong phú đến vậy. Tôi chưa kịp dằn mặt hắn thì ánh mắt Tâm trợn trừng, môi nó bật ra mấy từ như vừa bị rút cạn máu:
- Ma... ma... không đầu... không chân...
- Cái quái gì...
Tôi rọi đèn pin vòng vòng, định bụng chọc quê Tâm nhưng toàn thân nổi da gà, tim thót lại. Trong màn sương đặc sệt, rõ ràng có một bóng trắng... lơ lửng... trôi ngang. Không đầu. Không chân. Không tiếng động. Chỉ có cái bóng... trôi như khói.
Tôi và Tâm thét lên cùng lúc. Một tiếng thét nguyên thủy bật ra từ bản năng sinh tồn. Chúng tôi quay đầu bỏ chạy, cắm đầu lao vào bóng tối. Nhưng giữa lúc hai chân tôi bắt đầu muốn nhũn ra, tôi gượng dừng lại. Không lẽ nào. Ma cái quái gì? Tôi là sinh viên khảo cổ, là kẻ không tin vào quỷ thần. Làm sao tôi lại tin được thứ phi lý ấy? Gom hết sự can đảm, tay run rẩy rọi đèn pin về cái bóng trắng... và thở phào.
Đúng như tôi suy nghĩ, ma ở đâu ra mà xuất hiện cơ chứ. Chính cái bóng tối đã làm cho mọi thứ trở nên hư cấu, làm cho con người phải run sợ và hốt hoảng, không ngoại trừ cả tôi.
- Tâm...Tâm.
Tôi gọi hắn, xem tôi thấy được gì từ con ma không đầu, không chân lúc nãy. Nhưng hắn vẫn còn trong cơn hoảng loạn, co mình rúc đầu vào trong gốc cây, miệng không ngừng kêu la ỏm tỏi.
- Tâm... mày ra đây mà xem này.
Tôi quát lên, lúc đó nó mới lấy lại bình tĩnh bước lại cạnh tôi. Cái bóng trắng ban nãy thật ra là một cái áo trắng được ai đó căng trên cành cây khô. Làm chúng tôi một phen hú vía.
- Mày thấy chưa? Tao đã bảo rồi, ma đâu ra? Trí tưởng tượng của mày nên đem đi viết tiểu thuyết kinh dị là vừa.
- Ờ, nhưng lúc nãy ai hét toáng như bị chích điện vậy? - Tâm không quên chọt lại một cú chí mạng.
- Ờ thì nó bất chợt quá nên tao giật mình... là giật mình đó...
Tôi chưa kịp lấp liếm thêm thì Tâm bỗng siết tay tôi cứng ngắc:
- Nguyên... lần này không phải áo đâu...
Tôi quay phắt lại. Giữa màn hơi nước bạc mờ, cách chúng tôi chừng vài mét, một thiếu nữ đang đứng bất động. Dáng người mảnh khảnh, tóc đen dài phủ kín hai vai, làn da trắng đến tái nhợt như vừa được cắt ra từ một tấm ảnh cũ không màu. Cô mặc một chiếc áo dài tối sẫm, vạt áo khẽ lay động khi gió thổi qua.
Đôi mắt cô hướng thẳng về phía chúng tôi, một ánh nhìn không rõ buồn, không rõ oán, chỉ như đang nói điều gì rất cũ... và rất xa vời. Một ánh nhìn như biết hết mọi bí mật trong lòng người, như thể đang muốn lôi kéo ta vào một giấc mộng nào đó, một giấc mộng không có lối quay về.
- Má ơi... Ma! - Tâm hét lên, giọng gần như vỡ ra trong cổ họng, rồi chẳng biết bằng cách nào, nó muốn leo hẳn lên lưng tôi.
Lần này, tôi không còn thời gian cho lý trí. Chân tôi tự động quay đầu và rồi cả hai lao đi, chạy thục mạng. Càng chạy càng cảm thấy rừng đang co lại, như thể chính nó cũng đang thở gấp, sương đặc hơn. Cành cây cứa vào da mặt. Hơi lạnh bám lấy cổ như những bàn tay vô hình. Chưa chạy được mấy bước thì... trượt chân, cả hai té nhào xuống mô đất phủ rêu phong.
Tôi rên rỉ, đầu óc choáng váng. Nhưng khi mắt kịp mở ra, tôi nhận ra nơi mình vừa đập mặt vào là... một ngôi mộ cổ. Lạnh ngắt và vỡ nứt, không có tên. Tấm bia đá phủ rêu xanh, thế nhưng... nó sạch sẽ đến lạ, giống vừa được ai đó lau chùi cẩn thận.
Tôi nuốt nước bọt, một cảm giác gai lưng trườn dọc sống lưng tôi. Bên cạnh lại rú lên một tiếng như bị bóp cổ:
- Nguyên! Má ơi... chỗ này là... là... ma chui lên đó.
Tôi lúc này lại gan lì, bạo dạng. Ma không đầu không chân tôi còn chưa sợ, huống hồ cô gái vừa rồi có thể là người sống. Tôi vội quay lại, nhưng cô gái đã không còn ở đó mà chỉ có lớp khí lạnh đục dày đặc, vây quanh như một bức tường lỏng. Và gió thổi ngược từ phía sau gáy khiến tôi rùng mình.
- Tâm... cô ta đi mất rồi... - Tôi đưa tay vỗ vỗ hắn, ngay lập tức hắn chụp lấy cánh tay tôi bấu chặt.
- Cô ta nào?. là ma đó ba...
Tôi nuốt khan, cố gắng trấn an hắn lẫn chính mình.
- Chắc... chắc ai đi ngang thôi mày, ma cỏ đâu mà lắm thế.
- Mày đừng có xạo... nó biến mất trong chớp nhoáng đó.
- Ờ... thì... cô ta giống mày đó... chạy mất vì sợ, giữ đêm khuya thế này, còn nghe tiếng thét của mày, không chạy mất dép mới là lạ đó.
Tôi nói, Tâm ậm ự cho qua. Tôi nhìn lại ngôi mộ cổ cũ kĩ.
- Tâm... mày có thấy cái mộ này... kỳ không?
Hắn lúc này đang nép sau lưng tôi, tay nắm lấy áo tôi chặt đến mức chỉ muốn xé rách.
- Ờ... như mới được ai lau sạch rêu á... - Giọng hắn lại run rẩy.
- ...ai lại đi lau mộ... giữa rừng hoang?
Một câu hỏi đơn giản nhưng lại khiến tôi bất giác rùng mình. Tôi cảm thấy không khí không chỉ lạnh mà như đang thở. Và tôi thì đang đứng ngay giữa luồng thở đó. Và cả khu rừng đang nín thở cùng tôi, không một tiếng động, chỉ có tiếng tim tôi đập... từng nhịp, từng nhịp như sắp vỡ tung trong lồng ngực.
Tôi cảm giác mình đang bị theo dõi. Không phải bởi một người, mà là hàng chục ánh mắt. Ẩn nấp sau lớp khói mờ. Ẩn trong từng tán cây, từng đám rêu, từng phiến đá, chúng không chớp mắt, có thứ gì đó... đang chờ đợi.
- Chúng ta nên đi nhanh thôi. - Tôi kéo tay Tâm, vừa nói vừa gần như kéo lê hắn khỏi chỗ đó. Linh cảm đã mách bảo tôi phải rời khỏi đây.
Chúng tôi cắm đầu đi trong vô định. Cây cối xẹt ngang mặt. Lá khô lạo xạo dưới chân. Mỗi bước như lún sâu vào đất lạnh. Không biết bao lâu, nửa tiếng? Một giờ? Chỉ biết khi tôi bắt đầu tuyệt vọng thì... trước mặt hiện lên một khối gì đó đen ngòm. Lờ mờ mọc lên giữa sương đêm, bất chợt chui ra từ trong lòng đất...
Không biết bằng cách nào mà chúng tôi lại đến được đây. Trong làn sương dày, một cánh cổng gỗ bỗng hiện lên. Không biển hiệu cũng chẳng có lối đi rõ ràng, hai bên là những vòm cây rậm rạp muốn nuốt lấy cả không gian xung quanh. Gió rít qua khe lá mang theo một mùi thơm lạ, dịu dàng và sâu thẳm đến lạ thường.
Tôi bước lại gần. Những dây hoa leo quấn quanh cánh cổng gỗ trầm cũ kỹ, thân nhỏ như những sợi lụa sẫm màu, nở ra những chùm hoa nhỏ màu trắng bạc, như thể đang phát sáng âm thầm trong sương mù. Cánh hoa mỏng như khói, đung đưa nhẹ khi gió lướt qua. Mùi hương của nó rất khó tả, không ngọt, không nồng, mà thanh thanh, thoảng mùi nhựa cây, xen lẫn chút gì đó giống như mùi sách cũ và áo lụa phơi trong gió. Một mùi hương khiến lòng tôi chùng xuống mà không rõ vì sao.
Tôi chạm tay lên mặt gỗ. Lạnh, nhám, và nặng trĩu năm tháng. Có lẽ đây là... một biệt phủ cổ? Một kiểu nhà thờ tổ hay dinh xưa của một dòng họ lớn nào đó từng ẩn cư nơi rừng núi này?
Tôi ngần ngại. Gọi tên điều mình không chắc luôn khiến người ta thấy trống trải. Nhưng cánh cổng vẫn ở đó, im lìm, chờ đợi. Tôi không hiểu vì sao, nhưng cảm giác có ma lực vô hình nào đó đang kéo tôi bước tới. Như có giọng nói lạ lùng vang lên bên tai, thì thầm không rõ lời, nhưng rót thẳng vào tâm trí. Tôi vừa bước đến thì một bàn tay lạnh ngắt níu chặt tay tôi lại.
- Này. Đừng... đừng vào đó. - Tâm thì thào, giọng hắn run như sắp khóc. Tôi quay lại thấy ánh mắt ấy nhìn tôi như thể tôi đang bị thôi miên. Mà có khi tôi thật sự đang vậy. Tôi cười khẩy:
- Không vào? Mày muốn ngủ với cái mộ lúc nãy à?
Đúng như tôi đoán, vừa nghe nhắc đến cái mộ, Tâm lập tức im re, hắn liền nép đến cạnh tôi. Nhưng ngay khoảnh khắc tôi vừa định đưa tay đẩy cánh cổng thì... nó tự mở ra.
Âm thanh ken két kéo dài vang lên, tiếng sắt rỉ bản lề mục rền rĩ và đứt quãng như tiếng rên của ai đó bị lãng quên trong quá khứ. Tiếng động đó xé toạc màn đêm, nghe như âm thanh của chính thời gian vặn vẹo.
- Cánh cổng... tự... tự mở kìa. - Tâm lắp bắp, mặt tái xanh.
- Gió. Là gió đấy. Không vào thì dựng lều canh mộ nhé.
Tôi nói, thế là hết thắc mắc. Tâm theo tôi bước vào, bám chặt tay như thể tôi là vật cuối cùng còn tồn tại giữa thế giới này. Chúng tôi bước từng bước chậm rãi qua khuôn viên rộng lớn, không gian như một thế giới khác tách biệt hẳn khỏi thực tại.
Lối đi lát đá vụn, sứt mẻ, lấm tấm rêu xanh, dẫn qua những bụi cỏ úa và những bụi hoa lạ đang leo đầy tường rào, quấn quanh tượng đá mòn mặt đứng rải rác hai bên. Có pho như người gác cổng, có tượng giống linh vật, rồng, nghê, hoặc chỉ là hình nhân tròn lặng vô danh, phủ đầy rong rêu và vết nứt. Dây hoa quấn chằng chịt quanh tựa như những xác sống bị bỏ quên giữa rừng.
Tim tôi gõ nhịp tăng dần. Trước mắt, rừng thông dang vòng tay ôm lấy khu nhà từ mọi phía, ánh sáng lấp lánh từ chùm hoa màu bạc rơi rụng quanh sân.
Toà phủ hiện dần ra, cảm giác giống như một đoạn ký ức được chiếu lại. Mái chồng diêm cong vút, đầu đao chạm khắc hình thú, từng cột trụ to bằng vòng tay người ôm, gỗ lim đen bóng, chạm khắc hoa văn rồng phượng đã mờ. Dưới mái hiên, đèn lồng giấy treo lặng lẽ, ánh lửa bên trong lập lòe, không rõ có ai thắp.
Toàn bộ khối nhà ấy... đang thở bằng vết tích của một triều đại đã mất. Và hương hoa kia vẫn không rời khỏi tôi, như thứ gì còn sót lại từ một giấc mộng cổ, vấn vương không chịu tan.
Tâm bất giác kéo giật tôi lại.
- Là... là... cô ta!
Tôi ngẩng lên. Trên tầng hai của biệt phủ, nơi ánh trăng lờ mờ không thể chạm tới, cô gái ấy đang lặng lẽ đứng đó. Mái tóc dài rũ qua vai. Gương mặt tái nhợt. Đôi mắt đen như hồ nước sâu, nhìn thẳng xuống chúng tôi. Không chớp cũng không cảm xúc.
Ánh nhìn ấy không hỏi, cũng không đe dọa mà như gọi về. Như thể tôi đã từng đứng dưới nơi này, vào một đêm khác, dưới một kiếp khác... và từng nhìn lên đôi mắt ấy.
- Chúng ta nên trở lại thôi... cô ta chắc chắn không phải người đâu. - Tâm run như cây sậy giữa bão. Tôi khịt mũi:
- Thế mày nghỉ cô ta là gì? Mày thấy con ma nào... biết thay đồ không hả?
- Nhưng... ánh mắt cô ta... lạ lắm...
Tôi nhìn Tâm, rồi bật cười nhỏ.
- Vậy mày muốn quay lại ôm cái mộ hả?
- Không! Tao đi với mày!
Dĩ nhiên rồi. Tôi biết hắn sẽ thế. Tâm chỉ giỏi cãi miệng và run chân. Với lại nghe tôi dọa vậy hắn mà dám đi mới lạ. Câu nói lúc nãy tôi nói để chấn an Tâm thôi chứ có trời mới biết... ma có biết thay đồ hay không. Còn tôi... tôi cũng chẳng chắc mình có tỉnh táo thật không. Tôi ngẩng đầu lần nữa.
Vào thời khắc này, thời gian ngưng đọng, trái tim tôi cũng dường như không còn đập nữa.
Cô gái vẫn đứng đó, ánh mắt ấy không còn xa xăm. Nó như xoáy vào tận tim gan tôi, như đang gọi thẳng tên tôi, dù không thốt ra lời. Như thể... chúng tôi có một điều chưa hoá giải xong từ một đời nào đó.
Tôi không tin vào ma quỷ... chưa từng. Nhưng đêm đó, giữa rừng thông Đà Lạt, dưới ánh trăng chưa tròn và màn sương mù huyền ảo, tôi bắt đầu tự hỏi... liệu có khi nào... mình đã từng chết rồi, mà đã quên mất?
Cánh cửa gỗ sẫm màu trước mặt chúng tôi từ từ chuyển động, không ai chạm vào cũng không một tiếng gọi. Chỉ là âm thanh ken két nặng nề vang lên trong bóng tối, như thể thời gian đang xoay mình dưới những lớp bụi cổ xưa.
Một làn hương mỏng tang len vào mũi, mùi trầm hương nhè nhẹ, êm ái như khói và đầy ám ảnh. Tôi vươn tay khẽ chạm vào mép cửa, vân gỗ lạnh đến buốt. Tôi bất giác rụt tay lại, cảm giác vừa chạm vào một thứ gì đó như là... ký ức, hoặc thứ gì không còn thuộc về hiện tại.
Cánh cửa mở ra. Một khoảng không tĩnh lặng đón lấy chúng tôi, đó là tiền sảnh rộng lớn, vách gỗ sơn son trầm tĩnh. Sàn lót gạch vuông, nhẵn bóng để biết chúng được bào mòn qua năm tháng. Những chân đèn đồng đặt dọc hai bên, ánh sáng chập chờn ấy khiến mọi thứ hiện ra nửa sáng nửa tối.
Trần cao uốn theo dạng mái cổ hai tầng, chạm khắc hoa văn tứ linh đã phai màu, nhưng vẫn giữ được vẻ trang nghiêm. Những bức rèm lụa dày màu đỏ sậm buông xuống, khẽ lay khi gió len lỏi qua các bức hoành phi, liễn đối treo lặng lẽ trên tường.
Mọi thứ vừa đủ rõ để biết rằng nơi này vẫn có người lui tới, nhưng cũng mờ nhòe đến mức chẳng thể đoán được giới hạn của căn phòng, như không gian này rộng bao nhiêu và sâu đến đâu... là điều mà chỉ bóng tối mới biết.
Và rồi tôi nhìn thấy cô... cô gái ấy ngồi yên giữa gian chính, lặng lẽ như một phần của nơi này. Không còn là ảo ảnh giữa rừng thông ẩm lạnh, hay bóng hình thấp thoáng sau màn sương nơi ban công. Cô đang hiện diện ở đây, rất thật, rất gần... và rất tĩnh lặng.
Cô ngồi đó với dáng vẻ tĩnh lặng như đã đợi chờ từ rất lâu, để đón chào những kẻ lạc bước. Chúng tôi nín thở, ánh mắt dán chặt vào cô không tài nào rời đi.
- Mời hai anh vào, ngoài đó tối và lạnh lắm.
Giọng nói vang ra không lớn nhưng lặng lẽ như gió trượt qua tai. Giọng nói không mang sự sống, cũng không phải tiếng vọng của ai đã khuất, nó nằm ở ranh giới của cả hai.
Bên cạnh tôi, thứ gì đó đang run. Là Tâm, cậu ta siết chặt lấy bắp tay tôi như người chết đuối vớ được cọc. Tôi hất nhẹ vai để hắn buông ra, ghé sát tai hắn thì thầm:
- Có gì mà phải sợ chứ...
Tôi nói nhưng mắt vẫn dán chặt vào người thiếu nữ. Ánh nến khiến khuôn mặt cô hiện lên rõ hơn, trắng nhợt mịn như sáp, nét cổ điển và điềm đạm một cách kỳ lạ. Đôi mắt đen sâu tĩnh lặng đến rợn người, dường như không phản chiếu ánh sáng mà chỉ nuốt lấy nó.
Tôi không thể chắc mình đang nhìn thấy ai. Một người sống hay một linh hồn. Hoặc... một đoạn ký ức xa xôi từng cất giấu trong giấc mơ?
Tôi bất giác siết chặt khủy tay Tâm như thường lệ, mỗi khi cậu ấy sợ đến cứng họng, còn tâm trí tôi thì bắt đầu mất kiểm soát.
- Hai anh ngồi đi, tôi sẽ bảo người mang thêm nến và đốt lò sưởi cho ấm... Cụ Lan...
Giọng cô vừa dứt thì một cánh cửa nhỏ phía hành lang chầm chậm hé ra. Từ trong bóng tối một dáng người thấp lặng lẽ bước ra, tóc bạc cột gọn sau gáy, áo dài màu tro thanh nhã. Không cần một lời, bà lão cúi đầu, châm lửa vào lò sưởi bằng những động tác thuần thục và trầm tĩnh.
Từng tia lửa bén lên, ánh than hồng bắt đầu reo tí tách, chạm vào bầu không khí bằng một thứ âm thanh dịu dàng đến khó tả. Căn phòng bỗng chốc thay đổi nhịp thở, chuyển mình âm thầm sang một bầu không khí khác. Cụ Lan tiếp tục thắp thêm vài ngọn nến rồi lặng lẽ lui vào bóng tối, biến mất hệt chưa từng bước ra.
Ánh sáng từ lửa và nến hòa quyện vào nhau, không xua hết bóng tối mà chỉ nhuộm lên nó một màu vàng ấm mờ ảo. Ánh sáng lan ra như làn khói, bốn bức tường như thu hẹp lại, ôm lấy chúng tôi bằng hơi thở của một thế giới xưa cũ.
- Mời hai anh dùng trà. Ở trong rừng lâu vậy chắc lạnh lắm. - Giọng cô một lần nữa vang lên. Rõ ràng và điều độ, êm dịu tựa một khúc ru ngủ.
Tôi giật mình nhìn xuống. Từ lúc nào trên bàn đã có một khay trà men lam, trà đã được rót sẵn, hương nghi ngút mỏng tang. Tôi không hề thấy cụ Lan mang ra, cũng không nghe tiếng rót, nhưng trà thì ở đó, hoàn hảo và thơm như một lời mời mọc vô thanh.
- Hai anh cứ tự nhiên.
Tôi khẽ gật đầu thay lời cảm ơn, tay nâng ly đưa lên. Trà màu hổ phách sóng sánh dưới ánh nến. Hương thơm rất nhẹ nhưng lạ lẫm, có gì đó giống quế, thoảng chút gừng, hay một thứ lá lạ nào đó mà tôi không biết.
Tâm ngồi bên cạnh, tay cầm ly trà mà vẫn run nhè nhẹ. Nhìn vẻ mặt đăm đăm của hắn, tôi đoán trong đầu hắn lại đang quay cuồng với đủ thứ giả thuyết hoang đường, nào là trà bị bỏ thuốc, hay đây là nghi lễ bắt đầu cho một nghi thức kỳ dị nào đó. Vẻ mặt hắn lúc này như thể đang giằng co dữ dội giữa bản năng sinh tồn và cơn khát lạnh vừa chịu đựng ngoài rừng. Tôi liếc sang, khẽ nheo mắt, truyền đi một thông điệp: Uống đi đồ ngốc.
Tôi nhấp thử một ngụm nhỏ. Vị trà lan nhanh, dịu ấm, như sưởi từng đầu ngón tay, từng đoạn phổi, từng đoạn ký ức. Một cảm giác tỉnh táo kỳ lạ chạy lên óc, không phải kiểu ngọt êm thông thường, mà giống một loại thần dược ngấm qua mạch máu. Lạ lùng và tinh khiết.
Tôi đưa mắt trở lại phía cô gái. Cô ấy thật sự rất đặc biệt, mang nét đẹp đầy chất cổ điển, tựa bước ra từ một giấc mộng xa xưa, lạc nhịp hoàn toàn với thế giới hiện tại. Mái tóc đen dày buông dài qua vai, cô như một bức tranh nghệ thuật được họa bởi một nghệ sĩ nổi tiếng thời xưa. Gương mặt trẻ trung nhưng không non nớt, làn da trắng dưới ánh nến lờ mờ. Nhưng chính ánh mắt ấy... ánh mắt sâu và mờ như phủ một tầng sương mỏng, lại khiến tôi thoáng rùng mình như thể cô đã sống qua nhiều năm hơn gương mặt ấy cho phép.
Cô mặc áo dài gấm màu ngà, cổ cao, tay dài, không đính đá cũng chẳng thêu hoa, chỉ có những nếp gấp mịn màng buông lơi, và sự lặng im quý phái toát ra từ từng đường nét. Lớp vải rơi mềm trên vóc người thanh mảnh, gợi một vẻ đẹp kín đáo mà rung động, giống một bản tình ca cũ, chỉ còn vang lại trong trí nhớ.
Tôi thoáng nghĩ, có lẽ vì cô sống ở nơi biệt lập, xa thành phố, nên mới mang vẻ ngoài nhuốm màu xưa cũ đến thế. Nhưng rồi ý nghĩ đó tan ra, không phải cô giống như người sống ở nơi này mà là cô thuộc về nơi này. Như thể cô chưa từng rời khỏi căn phòng này, cô chưa từng cần phải đi đâu cả.
Tôi đang bị cuốn vào, không thể rời mắt khỏi cô ấy. Có cảm giác giống như vừa bước vào một giấc mơ mà không hề hay biết... và chỉ vì một ánh nhìn, tôi đã lạc mất đường ra.
...
Chúng tôi dùng trà, nói chuyện đôi chút về tình trạng hiện tại. Không khí lạ kỳ nhưng không căng thẳng. Cô chủ nhà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, nhẹ nhàng bảo chúng tôi có thể nghỉ lại qua đêm. Không chút do dự, mọi chuyện cứ như đã được sắp xếp từ trước.
Ngay sau đó, cụ Lan quay lại, dẫn chúng tôi đi dọc theo một hành lang dài hun hút. Ánh đèn lồng leo lét trãi thành những vệt sáng mờ trên nền gạch cũ, bóng chúng tôi kéo dài trên vách tường. Gió len nhẹ qua các lam gỗ, làm khung cửa rung khe khẽ, mỗi khe hở như một con mắt đang lặng lẽ dõi theo. Tiếng bước chân chúng tôi vang lên đều đều rồi tan đi trong tĩnh lặng, có lẽ nơi này không chỉ đang lắng nghe mà còn đang âm thầm ghi nhớ từng nhịp chân ấy.
- Đây là phòng của các cậu.
Cụ dừng lại trước một cánh cửa gỗ sơn đen, hoa văn khảm xà cừ lấp lánh ánh sáng mờ. Cụ không nói thêm gì, chỉ đưa tay ra hiệu. Tôi đưa tay đẩy cửa. Bản lề cọt kẹt một tiếng trầm trầm, cánh cửa mở ra với một hương thơm cổ kính tràn ra, mùi trầm hương, mùi gỗ lim, hay... là mùi của thời gian chắt lọc lại.
Tôi bước vào cùng Tâm, vừa định quay lại hỏi thêm gì đó thì sững người... cụ Lan đã biến mất.
- Bà ấy đi nhanh vậy sao? - Tôi lẩm bẩm, bước ra nhìn về hành lang trống vắng, chỉ còn lại tiếng gió và những chiếc đèn lồng đỏ lặng lẽ lay động.
- Có chuyện gì thế? - Giọng cụ vang lên ngay sau gáy khiến tôi gần như đứng tim.
Tôi quay phắt lại, cụ Lan đứng ngay phía sau, gần đến mức có thể nghe được hơi thở trầm khàn của bà. Tôi không chắc cụ vừa đi đâu bởi không có tiếng bước chân, cũng không có cả dấu hiệu di chuyển. Giống như bà không đi mà xuất hiện. Giống như cụ là một phần của cái bóng phủ khắp căn phủ này, không bao giờ thật sự rời khỏi nơi nào cả.
- À... Cháu... Cháu muốn hỏi về phòng giặt... liệu cháu có thể sử dụng nó?
- Cứ đi hết hành lang rồi rẽ trái là thấy.
Tôi cúi đầu, lắp bắp cảm ơn rồi bước nhanh vào phòng. Tôi đứng tựa vào cánh cửa đã đóng sập sau lưng, thở hắt ra, tự hỏi không biết giờ nhịp tim của mình là bao nhiêu nhỉ? Mồ hôi lạnh ướt trán. Tay tôi vẫn run. Bà cụ cứ như chợt xuất hiện rồi tan vào bóng tối vậy. Tôi lắc đầu tự chấn an bản thân thôi suy nghĩ những việc vớ vẫn, chắc tôi đã bị nhiễm sự hoảng loạn của thằng Tâm.
- Căn phòng đẹp quá, Nguyên à.
Giọng Tâm vang lên, hắn nói mà không giấu được vẻ kinh ngạc. Tôi hít sâu, đảo mắt một vòng.
Phòng rộng hơn tôi tưởng. Tường gỗ lim nhẵn bóng, chạm khắc hoa văn uốn lượn chạy dọc trần cong. Ánh nến từ giá đồng ba chân hắt lên bức bình phong sơn mài vẽ cảnh rừng núi mờ sương, phía trên, đèn lồng giấy dó tỏa ánh vàng dịu như hoàng hôn rớt lại trên giấy thời gian.
Không gian trầm mặc nhưng không lạnh. Tủ, bàn, giá sách đều là gỗ chạm khắc thủ công. Mùi trầm hương âm thầm tỏa ra từ đâu đó, ngấm sâu vào từng thớ gỗ, khiến căn phòng vừa an yên, vừa có gì đó chôn giấu.
Cuối phòng là chiếc giường khảm trai, bốn trụ cong như vuốt rồng. Màn the ngà buông mềm, nệm gấm và gối vuông tinh tươm, sạch sẽ như đã chờ sẵn từ lâu.
Tôi bước lại, buông mình xuống, cảm giác như toàn thân đang trôi trong một cõi mộng.
- Phải... tuyệt thật...
Tâm cũng thả người xuống bên cạnh, rúc trong chiếc chăn lụa, mắt lim dim.
- Thật là thoải mái...
Tôi mở mắt ngước nhìn trần phòng, nơi ánh nến vẽ nên những hình thù run rẩy. Bóng sáng dập dờn như đang thì thầm điều gì mà tôi không thể nghe rõ. Có điều gì đó dâng lên trong lòng, một cảm giác lặng thầm, vừa ấm áp... vừa mất mát.
- Tâm à...
- Ừ? Mày nói đi.
- Tao thấy tiếc thật đó.
Tâm quay sang nhìn khi nghe tôi nói, vẻ mặt ngơ ngác vẫn chưa hiểu tôi muốn nói gì.
- Tiếc gì?
- Chúng ta đang ở giữa một kho báu đó.
Nghe tới đó hắn lập tức chồm dậy, dí sát mặt hơn về phía tôi, đôi mắt sáng rỡ.
- Kho báu gì? Ở đâu?
Tôi thở dài, đưa tay chụp lấy bộ mặt đáng ghét của hắn đẩy ra.
- Ý tao là... căn biệt phủ này. Với dân khảo cổ tụi mình thì nơi này là báu vật. Một nơi sống giữa lằn ranh của các thời đại, mà còn nguyên vẹn đến từng chi tiết thế này... hiếm lắm.
- Thôi đi ba. Tao không ham đâu. Mai tao đi cho lẹ. Ở đây vừa lạnh vừa u ám, đáng sợ thấy bà. Có gì hay ho đâu chứ.
Tôi không đáp, quay mặt đi, để mặc hắn với nỗi sợ vặt vãnh của chính mình. Tôi nhìn giá nến lập lòe ở góc phòng, chẳng hiểu trong lòng vấn vương điều gì? Có gì đó lôi kéo tôi ở lại, vô cùng mơ hồ nhưng đầy sức hút. Có thể là bản năng nghề nghiệp. Có thể là vì ánh mắt của cô gái kia. Một ánh nhìn như rất xa lạ... lại như đã từng quen biết... như thể... tôi đã từng thuộc về nơi này.
Tôi tỉnh giấc khi ánh sáng đầu ngày len qua lớp rèm nhung dày. Ánh sáng ấy không rực rỡ mà dịu nhẹ qua lớp sương sớm, trôi chậm trên từng thớ vải. Căn phòng vẫn đượm mùi trầm thoảng từ tối qua, tĩnh lặng đến mức tưởng như thế giới ngoài kia đã bị giữ lại sau cánh cửa của tòa biệt phủ.
Tâm vẫn còn vùi trong chăn, thở đều như một đứa trẻ. Tôi ngồi dậy, khẽ đẩy cửa phòng và bước ra hành lang. Gió sáng luồn qua những khe cửa hở, mang theo mùi cỏ lạnh, ngai ngái và xanh mướt.
Tôi lần theo hành lang, nơi ánh sáng rọi thành từng dải mỏng trên nền sàn, giống như ai đó đã cẩn thận xếp từng mảnh vàng nhạt xuống để dẫn đường. Ngoài kia, sương sớm mỏng như tơ, phủ một lớp bạc lặng lên mọi bề mặt, từ mái ngói cũ cho đến từng phiến đá rêu phong của lối đi.
Khuôn viên dần hiện ra rõ hơn dưới ánh sáng buổi sớm, nhưng vẻ rõ ràng ấy không xua được cảm giác thời gian đã ngủ quên ở nơi này. Những pho tượng đá hai bên lối đi vẫn đứng nguyên như tối qua, bị mài mòn qua thời gian, dây leo quấn quanh cổ và chân, trông như thể vừa thoát ra khỏi một giấc mơ bị bỏ dở.
Lối đi lát đá chạy qua thảm cỏ dày, nhiều đoạn đã bị rễ cây đội lên gồ ghề, tạo thành những nhịp gấp khúc như mê cung. Giữa những luống thảo mộc là vài khóm hoa nhỏ nở trắng li ti, không rõ là được chăm sóc hay tự mọc hoang. Cây cối xung quanh cao vút và im lặng, tán lá dày, ánh sáng chỉ lọt xuống thành những vệt loang mỏng.
Không khí trong vườn buổi sáng mát lạnh, không ma mị như đêm, nhưng vẫn lặng đến kỳ lạ, hệt như nơi này được ngăn cách khỏi phần còn lại của thế giới bằng chính lớp sương và ký ức phủ lên mọi thứ.
Tôi nghe một vài tiếng loạt soạt rất khẽ, khi nhìn xuống thấy cụ Lan đang lom khom cắt tỉa một chậu hoa hồng, tay bà thoăn thoắt. Bà ngẩng đầu lên nhẹ nheo mắt, ánh sáng chiếu nghiêng khiến nếp nhăn quanh mắt trông như những đường khâu mềm của thời gian.
- Hai cậu rửa mặt đi, rồi xuống dùng bữa sáng nhé.
Giọng bà khàn nhưng cảm giác nhẹ tênh, nhanh chóng trôi theo gió. Tôi mỉm cười, gật đầu rồi quay vào trong.
- Tâm... dậy, có đồ ăn. Đồ ngon.
- Ừm... ăn thì ăn...
Cậu ta làu bàu, nhưng vẫn lết ra khỏi chăn với tốc độ đáng nể mỗi lần nghe tới ăn uống. Chúng tôi bước xuống hành lang. Phòng ăn hiện ra dưới nắng sớm như một bức tranh ấm áp đã được ai đó cẩn thận dựng lên từ trước. Mọi thứ được sắp đặt chỉn chu, gọn ghẽ đến mức có cảm giác... bữa sáng này đã đợi từ rất lâu.
Cháo gạo lứt bốc khói nhẹ, cạnh bên là lát bánh mì nướng giòn, đặt cùng bơ mềm và mứt đỏ. Trái cây đã được gọt vỏ, cắt thành miếng nhỏ, xếp thành từng vòng trên đĩa. Một ấm trà bằng sứ hoa lam đặt giữa bàn, hương trà mỏng như khói, lan ra từng nhịp thở, dịu dàng và mời gọi.
- Oa, nhìn thịnh soạn quá trời!
Tâm không kìm được, reo lên rồi kéo ghế ngồi như bị bỏ đói mấy ngày. Tôi khẽ kéo tay áo hắn lại và nói nhỏ:
- Này, lịch sự chút đi, phải đợi chủ nhà trước đã chứ.
- Hai cậu cứ tự nhiên. Cô chủ sẽ không dùng bữa sáng cùng các cậu đâu. - Giọng cụ Lan vang lên từ sau lưng, êm như một làn gió.
- À... vậy ạ. Có lẽ cô ấy không quen dùng bữa với người lạ? - Tôi nói, như tự vấn chính mình.
- Không phải đâu. - Cụ Lan lắc đầu nhẹ.
- Cô chủ có thói quen dùng bữa trong phòng làm việc. Một khi bắt đầu rồi thì cô ấy sẽ không rời khỏi đó... cho đến khi trời tối.
Giọng cụ đều đều, không trách móc cũng không bận tâm, như thể đang kể về một quy luật tự nhiên đã quá quen thuộc như mưa sẽ rơi, sương sẽ tan, cô chủ thì sẽ không rời phòng. Nhưng tôi lại cảm thấy có gì đó kì lạ trong cách cụ nói. Không phải chỉ là thói quen... mà là một nhịp sống đã bị rút khỏi dòng chảy thông thường và trôi riêng về một phía.
- Thực ra... chúng tôi định lát nữa sẽ rời khỏi đây, quay về thành phố. Chỉ muốn gặp cô chủ để gửi lời cảm ơn.
Tôi cẩn trọng lựa từ, cảm thấy cần thiết phải nói một điều gì đó cho trọn, nhưng cụ Lan lại trầm ngâm. Bà nhìn tôi rất lâu, như đang cân nhắc điều gì không dễ để nói, rồi nhẹ giọng đáp:
- Không cần đâu. Tôi sẽ chuyển lời giúp. Cô chủ... không thích bị quấy rầy khi đang làm việc.
Lời nói nghe có vẻ đơn giản, nhưng không hiểu sao trong giọng bà lại có một điều gì đó không thể chạm tới, giống như giữa chúng tôi và cô chủ là một bức màn không ai dám vén.
Tôi và Tâm ngồi vào bàn, bắt đầu dùng bữa. Cụ Lan đi lại nhẹ nhàng ở góc phòng, tay thu dọn mấy chiếc khăn trải bàn cũ, lúc thì lau một chiếc bình gốm, lúc lại lặng lẽ đưa mắt nhìn về phía chúng tôi. Không phải dòm ngó hay nghi ngờ, mà như thể đang chắc chắn rằng chúng tôi vẫn còn ở đây. Trong ánh sáng ban ngày, dáng cụ không còn bí ẩn như trong bóng nến tối qua, nhưng có điều gì đó trong đôi mắt cụ như biết nhiều hơn mức cần thiết khiến tôi bất giác giữ khoảng cách trong suy nghĩ.
Tôi không rõ đó là bản năng của người đã quen sống giữa rừng sâu, hay đơn giản là... cụ đang che giấu một điều mà chúng tôi chưa đủ thấu hiểu.
Bữa sáng trôi qua trong im lặng, sau đó tôi và Tâm thu xếp hành lý, sẵn sàng rời đi. Khi ra đến cổng, cụ Lan đã đợi sẵn, vẫn với vẻ điềm đạm đến kỳ lạ.
- Cảm ơn cụ rất nhiều... mong cụ chuyển lời cảm ơn đến cô chủ giúp chúng cháu. Có lẽ... có thể một ngày nào đó, cháu sẽ quay lại.
- Quay lại đây? Mày điên hả?
Tâm khẽ thốt lên, tôi cho hắn ngay một trỏ vào bụng. Quay sang nhìn cụ Lan gượng cười. Tôi không biết vì sao mình lại nói thế. Có thể chỉ vì phép lịch sự, hoặc cũng có thể... một phần trong tôi không muốn rời đi quá dứt khoát.
Cụ Lan nghiêng đầu nhìn tôi không gật, không lắc, chỉ là một cử chỉ rất nhỏ nhưng đầy ẩn ý.
- Nếu cậu quay lại, tôi sẽ đón. Có điều... không phải ai rời khỏi đây cũng thật sự đi xa được.
- Dạ?.
Tôi quay sang định hỏi lại, nhưng cụ đã chầm chậm quay đi, dáng lưng gầy nhỏ khuất dần sau khung cửa cũ. Gió lại bắt đầu thổi, kéo một làn hương trầm rất nhẹ luồn qua vai áo làm như lời nói vừa rồi không chỉ dành cho chúng tôi... mà còn là một điều đã được gửi đi từ rất lâu rồi.
...
Chúng tôi rời khỏi nơi ấy khi nắng còn chưa kịp ấm, bước chân như lún sâu trong lớp sương sớm đặc quánh, lạnh và dày như một tấm màn che mắt. Không có lối mòn, chẳng dấu hiệu chỉ đường, chúng tôi chỉ nhắm hướng mà đi theo bản năng, theo ký ức mơ hồ về con đường đã dẫn chúng tôi đến đây.
Hai bên, rừng thông xoè ra từng tầng lá âm u, những nhánh khô đan chéo như những câu đố mà cả khu rừng đang âm thầm đặt ra.
Tâm bước sát bên, lẩm bẩm:
- Chỉ cần đến được cái cây rễ xoắn hôm nọ là xong. Nhớ không? Rẽ phải là về được đường chính.
Tôi gật đầu, dù trí nhớ lúc này cũng không còn chắc chắn như tôi nghĩ. Chúng tôi đi qua một đoạn dốc thấp, rồi một lùm cây rậm rạp... và sau nửa giờ đồng hồ, điều đầu tiên hiện ra trước mắt... là ngôi mộ cổ đêm qua.
Tối qua, nó chỉ là một khối đen chìm trong sương đêm. Nhưng giờ đây, dưới ánh nắng mỏng xiên qua vòm cây, từng vệt rêu trên mặt đá hiện lên xanh rì, những hoa văn khắc chìm đã mòn lở lộ ra những đường nét cũ kỹ. Một thứ gì đó trong tôi chợt lặng đi, không phải sợ, mà là cảm giác như vừa bước vào ký ức của một ai đó.
- Ê! Đi tiếp chứ? Mày đứng nhìn cái mộ làm gì ghê vậy?
Tâm kéo tay tôi, giọng không giấu được bối rối. Tôi không đáp, chỉ bước đi theo hắn, cây cối giăng dày hơn, âm thanh thưa thớt hơn, và cuối cùng vòng trở về vẫn là nơi ấy. Một lần... lại một lần nữa, ngôi mộ đứng đó như trung tâm của mê cung vô hình.
Tôi mở đồng hồ ra xem... vậy mà đã gần trưa? Không thể nào. Cảm giác chúng tôi mới chỉ đi được vài vòng.
Chúng tôi thử đi theo một hướng khác, rẽ phải, vòng trái, men theo ánh sáng, đi ngược lại bóng râm... nhưng rốt cuộc, mọi con đường đều đưa chúng tôi quay lại đúng ngôi mộ cổ. Mỗi lần đi là một vòng quay lặp lại. Mỗi lần quay lại, ánh sáng dường như nhạt hơn, gió tắt dần, chim không còn hót. Không còn biết mình đã đi bao lâu nữa. Mồ hôi túa ra sau gáy, không phải vì nắng mà vì cảm giác lặng ngắt như đang bị theo dõi.
- Mày thấy cái cây này quen không? - Tôi hỏi, giọng trầm xuống, như sợ làm kinh động điều gì.
Tâm không đáp, chỉ im lặng, ánh mắt bỗng đầy nghi ngờ. Chúng tôi đứng giữa rừng, vậy mà tiếng động gần như tắt lịm. Không tiếng côn trùng. Không tiếng gió. Gương mặt Tâm lúc này cũng bắt đầu tái lại.
- Nguyên... tao nghĩ... cái nơi quái quỷ này không để tụi mình rời đi dễ dàng đâu.
Tôi nhìn xung quanh lần nữa, và nhận ra... không chỉ những lối đi mà hướng gió, thậm chí tiếng xào xạc của lá cây... cũng lặp lại. Như một đoạn phim tua đi tua lại. Không sai một nhịp.
Tôi rùng mình, mặt trời lúc này đã nghiêng về tây. Tâm ngồi phệt xuống đất, rên lên:
- Tao thề, nếu thoát ra được khỏi cái rừng này, tao sẽ hứa trước bàn thờ tổ tao sẽ từ bỏ mọi chuyến đi khám phá luôn.
Tôi nhìn hắn, rồi chậm rãi nói:
- Tạm thời thì... quay lại khu biệt phủ đó đã. - Tôi nói, ánh mắt vẫn dán vào rừng thông trước mặt, nơi những thân gỗ thẳng tắp như đang nhìn lại chúng tôi.
- Không đời nào tao quay lại nơi đó. - Tâm vùng dậy phản đối.
- Vậy thì mày cứ đi tiếp đi, rồi kiệt sức với chết đói trong rừng. Tao sẽ trở về nơi đó chờ sự giúp đỡ.
Tôi nói rồi quay bước. Tâm chửi thề gì đó sau lưng, rồi lẽo đẽo đi theo. Chúng tôi quay lại con đường cũ, và chẳng bao lâu sau, cánh cổng gỗ hiện ra trong ánh nắng nhạt nhòa. Đồng hồ tôi chỉ vừa quá ba giờ chiều.
- Các cậu cũng kiên nhẫn dữ nhỉ. Vào đi, cơm nước sẵn rồi, chắc hai cậu đói lắm.
Cụ Lan đứng chờ sẵn ngay trước bậc thềm, không vẻ gì ngạc nhiên. Bà chỉ lặng lẽ mở cánh cửa gỗ nặng, giọng nhẹ như mùi hương trầm vẫn vương vất trong phòng. Tâm định nói gì đó nhưng thôi, chỉ gật đầu và đi theo tôi vào trong. Sau khi rửa ráy, chúng tôi ngồi xuống bàn ăn. Đồ ăn đã dọn sẵn, không thừa, không thiếu, như thể chúng tôi chưa từng rời đi.
- Cô chủ... vẫn chưa xong việc ạ? - Tôi hỏi.
- Trước sáu giờ cô ấy sẽ không ra khỏi phòng đâu. Hai cậu cứ yên tâm ăn đi.
Cụ Lan trả lời, mắt không rời khỏi mấy chậu cây đang tỉa tót bên cửa sổ. Tay bà thoăn thoắt, nước nhỏ giọt đều đều xuống rễ. Mọi cử chỉ của bà như được lặp đi lặp lại qua hàng chục năm, đều đặn đến mức không còn phân biệt được ngày nào với ngày nào.
Tôi chần chừ một chút rồi hỏi:
- Cụ... có biết chúng cháu sẽ quay lại không?
Bà ngưng tay trong thoáng chốc. Ánh mắt già nhưng sáng như thuỷ tinh soi vào tôi.
- Không rõ. Nhưng... ai đã bước chân vào nơi này thường khó mà rời đi thật sự. Có người nghĩ là mình đi xa rồi nhưng cuối cùng vẫn quay về.
- Ý cụ là sao?
- Đừng hỏi tôi. - Cụ nói khẽ.
- Cũng đừng quá lo lắng, có lẽ cô chủ sẽ có cách giúp các cậu.
Tôi không nói gì nữa. Ở nơi này, mọi câu hỏi đều dẫn đến một người mà chúng tôi hầu như chẳng được gặp. Và những câu trả lời nếu có... luôn đi kèm một khoảng lặng dài, như một ngăn kéo chưa bao giờ mở ra.
Chúng tôi dùng bữa trong im lặng. Tâm thì cắm cúi ăn, ánh mắt vẫn đảo quanh, có lẽ những suy nghĩ quỷ quái đang đâm xuyên não của hắn. Nhưng tôi cũng không để tâm đến hắn nữa, bởi đầu óc tôi đang bận nghĩ về ngôi mộ cổ, khu rừng, những lối đi mờ ảo và những món đồ cũ kỹ tại nơi đây.
Sau bữa ăn, tôi giúp cụ Lan thu dọn, còn Tâm đi tắm trước. Khi tới lượt mình, tôi ngâm mình trong bồn nước ấm. Lưng tựa vào thành bồn, tôi để mặc hơi nước mờ cả gương kính. Mọi mỏi mệt trong người như đang bị bóc tách từng lớp, để lại một trạng thái trống rỗng, vừa thảnh thơi, vừa cảnh giác. Tôi thấy tâm trí mình trôi lững lờ giữa một cơn mê, giống như tôi đang sống trong giấc mơ của ai đó.
Trời đã chạng vạng. Tôi khoác áo ra ban công, hơi gió luồn qua lạnh ngắt. Phía dưới, khu vườn chìm trong lớp sương màu tím nhạt. Những chiếc ghế gỗ đã sờn màu, những bức tượng đá nhuốm rêu như đang lặng lẽ quan sát mọi thứ.
Tôi không nhìn vào vẻ cũ kỹ của chúng, mà nhìn vào giá trị thời gian của từng vật. Không vật nào thừa, cũng không gì bị quên lãng. Thời gian ở đây dường như không trôi, mà chỉ lắng lại, từng giọt, từng khoảnh khắc, tích tụ thành một không gian không còn tuân theo quy luật thông thường.
Tôi còn đang ngẫm nghĩ thì giọng nói ấy vang lên phía sau:
- Anh đã thử hết mọi lối trong rừng chưa?
Tôi giật mình quay lại, là cô chủ nhỏ, cô ấy đứng đó không một lời báo trước, không tiếng bước chân. Chỉ là... đúng lúc ấy, khi đồng hồ tôi vừa điểm sáu giờ... và cô ấy xuất hiện không sai một phút.
Cô ấy đứng ở ngưỡng cửa ban công, ánh hoàng hôn vẽ một vệt sáng mỏng trên tà áo lặng gió. Rồi không rõ gió từ đâu thổi qua mái tóc cô, nhưng tôi biết khi ấy... mọi tiếng động đều đã không còn. Không khí xung quanh cũng ngưng đọng, cả thế giới đang nín thở nhìn theo.
Tôi đứng đó giữa làn hơi lạnh mỏng như khói, chỉ biết lặng lẽ nhìn người con gái mà tôi đã chờ từ rất lâu... dù chưa từng được hứa hẹn.
Hoàng hôn đã rút dần sau tán rừng thông tím sẫm, chỉ còn một vệt sáng loang mỏng như dải lụa bị gió kéo qua ban công. Tôi và cô chủ nhỏ vẫn đứng ở đó, lặng lẽ như thể thời gian cũng đang do dự.
Cô tựa khẽ vào lan can gỗ, bàn tay mảnh đặt lên đầu chạm hoa văn đã xỉn màu. Ánh mắt cô phóng về khu vườn xa xa, nơi những chiếc lá khô rụng xuống không gây lấy một tiếng động. Sương chiều dày lên thành lớp, phủ mờ cả rìa hoa cỏ, tạo ra một khung cảnh nửa thực nửa mộng.
Tôi khẽ cất lời, cố giữ sự điềm tĩnh trong giọng nói:
- Cô có biết... lối nào ra khỏi khu rừng không?
Một cơn gió thổi qua, nhẹ chạm vào làn tóc cô. Sợi tóc rối khẽ vắt ngang gò má, nhưng cô không buồn gạt đi. Cô quay sang nhìn tôi, không mỉm cười, cũng không nghiêng đầu. Ánh mắt ấy đậu lên tôi, lặng đến mức tưởng như không hề tồn tại, nhưng chính vì vậy mà tôi càng cảm nhận được nó rõ hơn.
- Nếu tôi nói là không... liệu anh có ở lại đây?
Giọng cô lạnh mà không buốt, nhẹ mà không hờ hững, cảm giác rằng cô đã từng hỏi ai đó điều này.
Tôi thoáng lặng người. Không phải vì sợ. Mà vì câu hỏi ấy làm tôi nhận ra... tôi không biết mình thực sự muốn gì. Một phần tôi nghĩ đến những người thân và bạn bè, có thể đang lo lắng vì không gọi được cho tôi. Một phần khác, vô lý hơn, lại có cảm giác nếu tôi bước đi khỏi nơi này, tôi sẽ đánh mất điều gì đó mà chính tôi cũng chưa kịp nắm bắt. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn nói thật.
- Tôi sẽ phải quay về. Có thể... người thân và bạn bè đang tìm tôi. Họ sẽ lo lắng.
Cô gật nhẹ, không có biểu cảm nào rõ ràng. Nhưng rồi, sau một giây rất dài, khoé môi cô khẽ nhếch lên, một nụ cười lửng lơ không ở lại trên gương mặt quá một nhịp thở.
- Đùa thôi. Anh không cần nghiêm trọng như vậy.
Tôi cười gượng, nhưng lòng không hề nhẹ nhõm. Bởi không có gì trong ánh mắt hay giọng nói của cô khiến tôi tin rằng cô vừa đùa. Một lúc sau cô nói, có vẻ như đang hồi tưởng lại lịch trình đã được định sẵn.
- Nếu tính cả hôm nay, thì khoảng bảy ngày nữa sẽ có người từ thành phố chuyển lương thực, vật dụng thiết yếu vào đây. Họ quen đường. Anh có thể đi cùng họ nếu muốn.
Tôi nhẹ thở ra. Cảm giác như vừa được tháo khỏi một sợi dây vô hình vẫn quấn quanh ngực suốt từ sáng. Nhưng niềm an tâm ấy chẳng kéo dài được lâu, vì sâu thẳm trong tôi, vẫn có một điều gì đó chưa muốn rời đi. Một điều mà chính tôi cũng không lý giải được.
- Vậy... nếu được, xin phép cô cho tôi và Tâm ở lại đến lúc đó.
Cô gật đầu. Không một chút ngạc nhiên, điều đó như đã nằm trong dự tính của cô từ trước. Tôi ngập ngừng một lát, rồi bất chợt thấy mình cần nói điều này, nếu không nói ra thì tôi sẽ đánh mất cơ hội.
- Thực ra... tôi học ngành kiến trúc cổ. Nếu được, tôi rất muốn tìm hiểu, quan sát một chút về mọi thứ nơi này. Cô không phiền chứ?
Cô không phản ứng gì trong thoáng chốc. Chỉ nhìn tôi, ánh mắt dài như bóng đổ của ánh đèn sáng dần trên bậc thềm đá. Điều đó làm tôi có chút ân hận khi đưa ra lời đề nghị như vậy. Làm gì có ai thích bị người khác soi mói nơi ở của mình cơ chứ.
- Tôi chỉ là... muốn tìm tòi và học hỏi thêm về những hoa văn cổ. Tôi sẽ cẩn thận, không làm hư hỏng hoặc lấy bất cứ thứ gì... thật đấy...
- Không sao. Anh cứ tự nhiên. - Cô ngắt lời, giọng nhẹ như hương trầm.
Tôi gật đầu, nhẹ nhõm. Nhưng chưa kịp nói gì thêm, cô đã chuyển giọng.
- Chúng ta vào dùng cơm tối thôi, cụ Lan đã chuẩn bị xong rồi.
Cô chủ nhỏ lại mời dùng cơm, tôi hơi bối rối. Chúng tôi vừa mới dùng bữa chiều chưa lâu. Nhưng không hiểu sao, tôi không thể từ chối. Có lẽ vì phép lịch sự hoặc có lẽ vì... ánh mắt cô khi nói ra điều đó không phải là lời mời. Nó giống như một nghi thức. Một phần trong chuỗi những việc phải xảy ra.
Bữa tối được dọn trong phòng ăn quen thuộc. Ánh đèn trầm hắt xuống mặt bàn như một bức tranh thủy mặc cũ kỹ. Thức ăn vẫn là những món thanh nhã, trình bày vừa đủ, không thừa một chút nào. Cô chủ nhỏ đã ngồi sẵn ở đầu bàn. Áo dài nhung xanh thẫm ôm sát, mái tóc buông thẳng, gương mặt dưới ánh đèn như phủ một lớp sương mỏng.
Tôi và Tâm vừa ngồi xuống thì hắn đã rướn người nhìn khắp mặt bàn, mắt sáng như trẻ con được dắt vào nhà hàng tiệc cưới.
- Ây, nay ăn gà hấp táo đỏ hả? Bữa chiều tao mới nghĩ về em nó xong.
Tôi nháy mắt cảnh cáo, nhưng cô chủ nhỏ chỉ hơi nghiêng đầu nhìn Tâm, khóe môi khẽ nhếch lên không rõ là cười hay chỉ là phản ứng máy móc. Tâm lúng túng gắp một miếng, rồi thì thào bên tai tôi:
- Mày biết không, tao chỉ giả vờ nói vậy thôi, chứ món này cũng thường thôi.
Tôi dằn tiếng thở dài, cúi đầu ăn để tránh tiếp tục làm không khí lạ lùng hơn. Nhưng rồi tôi phát hiện một điều khiến tôi nín thở, cô không đụng vào bất cứ thứ gì. Không ăn. Không uống. Không nhìn đồ ăn. Cô chỉ đưa mắt nhìn tôi.
Tôi thử nâng mắt lên, giả vờ như đang tìm đôi đũa, nhưng thực ra là để nhìn lại phía cô chủ nhỏ. Ánh mắt ấy vẫn ở đó, không hề né tránh. Không chớp. Không lảng đi như người ta thường làm khi bị bắt gặp.
Cái nhìn đó không hề lạnh lùng, cũng không thân thiện. Nó như một bản nhạc không lời được chơi bằng âm sắc lặng, đủ khiến người ta nghe rõ cả khoảng trống giữa các nốt. Tôi cúi đầu xuống, cắm cúi ăn. Không phải vì đói. Mà là vì không biết làm gì khác với ánh mắt ấy đặt lên mình suốt bữa.
Tâm thì vẫn ăn ngon lành, không nhận ra không khí lặng như mặt hồ trước giông bão. Hắn vừa nhai vừa lẩm bẩm.
- Không biết bữa sáng mai có món trứng lòng đào không. Tao thích trứng lòng đào...
Nói rồi hắn bỗng khựng lại. Đôi đũa trên tay hắn ngừng giữa không trung, tôi đoán hắn đã bắt đầu cảm nhận được điều bất thường. Ánh mắt Tâm liếc về phía tôi, rồi nhanh chóng nhìn sang cô chủ nhỏ. Không ai nói gì.
Cô chủ nhỏ vẫn nhìn tôi, vẫn im lặng và tôi chẳng dám ngẩng lên lần nào nữa. Đây không phải là sợ, mà là không biết phải đối diện với điều gì trong ánh mắt đó. Nó như đang chờ tôi nhớ lại một điều gì đó rất cụ thể, rất quan trọng. Nhưng tôi thì hoàn toàn trống rỗng. Tôi chưa từng có một bữa ăn nào căng thẳng đến vậy.
...
Đêm thứ hai tại biệt phủ. Tĩnh lặng hơn, nhưng cũng lạ lẫm hơn. Tâm đã ngủ trước, lăn quay ra như thể cả ngày hôm nay chỉ là chuyến dã ngoại có phần rắc rối. Tôi nhìn hắn, thoáng ghen tị với khả năng trút bỏ thực tại nhanh như gió ấy.
Trong phòng, ánh đèn vàng mờ thả xuống sàn nhà những vệt sáng mềm như hơi thở. Tôi nằm trên giường, mắt mở trừng, không chớp. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường đều đặn vang lên, nhưng mỗi tiếng nghe như xa thêm một chút, có lẽ thời gian cũng đang chùn lại, không dám bước tiếp.
Ngoài hành lang, có tiếng bước chân rất nhẹ, đều đều giống đang lặp lại một hành trình cũ. Tôi không rõ là thật hay ảo giác. Cũng không chắc mình có muốn bước ra ngoài để kiểm chứng hay không.
Cuối cùng, tôi nằm yên. Bởi tôi sợ rằng nếu mở cửa, tôi sẽ không gặp ai cả. Hoặc tệ hơn là thấy điều mà tôi không muốn thấy.
Sương đêm đặc dần bên khung cửa sổ. Tôi kéo chăn lên ngực, mắt vẫn mở, tiếp tục nằm đó, chờ giấc ngủ đến như một chuyến tàu đã trễ giờ. Trong đầu, chỉ lặp đi lặp lại một câu hỏi mơ hồ, không lời giải rõ ràng: Bảy ngày này... sẽ dài đến mức nào? Hay đúng hơn là... liệu tôi sẽ thực sự rời khỏi đây?
...
Tôi không nhớ mình đã thiếp đi từ lúc nào. Chỉ biết rằng khi mở mắt ra, tôi đang bước qua một khuôn viên lát đá.
Dưới chân là những viên đá xám, mát lạnh, hơi ẩm thấm qua đế giày. Trên cao, ánh trăng mỏng rơi lặng lẽ qua từng vòm gỗ phủ đầy dây leo. Những đóa hoa trắng đang nở, đan vào nhau, quyện với ánh trăng bạc, lấp lánh như những câu chuyện chưa kể.
Không gian lặng đến mức tôi nghe rõ cả hơi thở của chính mình, và cả... một thứ âm thanh mơ hồ của hương thơm.
Hương hoa ban đêm không nồng cũng không ngọt. Mà là thứ hương thanh khiết, như tiếng nói của ai đó từng thì thầm rất khẽ vào một đêm xa xưa. Không hiểu vì sao mùi hương ấy khiến tim tôi chùng xuống, có điều gì đó chạm vào ký ức mà tôi không thể nhớ được.
Tôi khẽ đưa tay lướt nhẹ qua một cánh hoa đang rung rinh trong gió.
- Loài hoa này...
Tôi gần như nhớ ra điều gì đó, nhưng rồi cảm giác ấy lại lùi vào sương mờ, chênh vênh.
Một giọng nói dịu dàng vang lên phía trước, như vọng qua tầng hoa:
- Bán Linh Hoa. Loài hoa chỉ nở khi trong lòng còn lưu lại bóng hình một người...
Tôi giật mình. Giọng nói ấy không phải lạ, mà là như đã nghe qua ở một nơi rất xa, trong một đời rất cũ. Tôi đảo mắt nhìn về cuối con đường, có một bóng dáng quen.
Nơi đó, cô đứng nghiêng người khẽ tựa vào lan can gỗ, mái tóc dài thả xuống vai như ánh trăng bị gió chạm nhẹ. Chiếc áo choàng mỏng màu sữa khẽ lay trong gió, không phải thứ gì quá lạ lẫm mà trái lại, thân thuộc đến khó hiểu, như tôi từng thấy nó... trong một khung cảnh nào đó cũng đầy trăng và hương.
Mỗi lần tôi tiến lại gần, cô lại bước thêm một chút. Không vội cũng không tránh. Chỉ là giữ lấy một khoảng cách mơ hồ, như chính cô cũng không chắc liệu mình nên tiến lại gần hay tan vào gió.
Tôi gọi, không biết mình đang gọi ai:
- Đợi đã...
Không có hồi âm.
Tôi đi nhanh hơn. Tay gần như chạm vào vạt áo mỏng kia. Nhưng rồi một cơn gió chợt kéo ngang, cuốn theo vô vàn cánh hoa trắng rơi trên mặt đá. Khi tôi ngẩng lên, bóng dáng ấy đã khuất sau khúc quanh.
Tôi đuổi theo. Bước chân vang lên nhè nhẹ trên mặt đá ướt sương. Tiếng vọng nghe như vọng lại từ một giấc mơ khác, không phải của tôi nhưng có tôi trong đó.
Cuối cùng, tôi dừng lại trước một cánh cửa gỗ mở hé. Ánh trăng đổ dài qua kẽ hở, sáng như một dòng suối lặng.
Tôi đưa tay đến gần, nhưng chưa kịp chạm vào tay nắm cửa. Dưới chân, một cánh hoa vừa rụng, trắng tinh khiết, mỏng như lụa, còn khẽ lay động trong gió. Tôi cúi xuống, nhặt lấy...
Ngay lúc ấy, một làn hương khác dâng lên, không còn là hương hoa mà là hương trầm. Nhẹ, sâu, miên man, không giống đến từ nơi đây, mà từ một ký ức đã ngủ quên trong ngực tôi.
Bầu trời bị xé đôi. Tôi giật mình choàng tỉnh. Hơi thở gấp, tim đập mạnh. Mồ hôi dính trên thái dương như ai vừa chạm vào da bằng một bàn tay lạnh.
Ngoài cửa sổ, trăng vẫn treo yên như chưa từng đổi chỗ. Gió đêm lùa qua rèm, thoảng một mùi rất nhẹ... và rất quen.
Mùi hương của Bán Linh Hoa, loài hoa chỉ nở khi trong lòng vẫn còn nhớ một người, dù đã quên tên.
Tôi nhìn xuống tay mình, không có gì cả. Nhưng trong lòng bàn tay, vẫn còn nguyên cảm giác mềm ẩm của một cánh hoa đã tan biến từ rất lâu.
...
Một ngày mới bắt đầu trong sự yên tĩnh tuyệt đối. Không còi xe, không tiếng rao, cũng chẳng có âm rung quen thuộc từ chiếc điện thoại. Chỉ còn ánh sáng nhàn nhạt lùa qua khe rèm, đủ khiến tôi biết mình đã thật sự tỉnh giấc.
Tôi mở mắt. Trần gỗ, chiếc đèn treo hoa văn mờ... tất cả quen mà lạ, cảm thấy tôi đã sống ở đây từ rất lâu, chỉ là sáng nay mới thực sự cảm nhận.
Tôi chớp mắt vài lần, cố nhớ lại xem mình đã mơ thấy gì. Có cảm giác đêm qua đã đi đâu đó, rất xa, nhưng cũng rất gần. Một thứ gì đó từng hiện hữu ngay dưới ngưỡng ý thức, giờ đã trôi đi như hạt sương tan mất trước khi tôi kịp chạm vào.
Tôi nhớ khi tỉnh dậy giữa đêm, mọi thứ đều vô cùng rõ ràng. Vậy mà giờ đây, thứ còn đọng lại chỉ là một dư vị nhàn nhạt, như hương hoa thoảng qua lòng bàn tay, đủ để khiến tôi thấy trống rỗng vì không giữ lại được.
Tôi khẽ ngồi dậy, tay vô thức đặt lên ngực áo, như muốn tìm lại chút cảm giác nào đó còn sót lại. Nhưng xung quanh chỉ có tiếng thở đều, tiếng gỗ giãn mình khe khẽ, và ánh sáng đầu ngày đang dần lan lên khung cửa gỗ, đổ bóng chéo lên nền phòng.
Tâm vẫn ngủ say. Hắn nằm xoay nghiêng, tay chân vắt chéo, miệng há nhẹ như đang nói mớ dở dang. Tôi nhìn hắn, bất giác bật cười thầm. Ở thành phố, chẳng bao giờ có giấc ngủ nào được buông thả như thế. Chúng tôi luôn bị cuốn vào vòng xoáy như lịch học, đồ án, deadline, quán cà phê mở thâu đêm. Ở đây, tôi có thể nghe thấy tiếng kim đồng hồ chuyển động, có thể nghe thấy cả... bản thân mình nghĩ gì.
Tôi dậy rửa mặt rồi ra ghế ngồi lấy ba lô. Những vật quen thuộc vẫn còn nguyên vẹn, nằm im như những người bạn thầm lặng. Một sấp giấy A4 đã nhàu nhẹ ở mép, vài cây bút chì, một thước gấp gỗ, chiếc compa và con dao rọc giấy nhỏ. Từng món đồ mang theo ký ức của những ngày miệt mài giữa thư viện và công trường khảo cổ, gợi nhắc rằng tôi vẫn là chính tôi, một sinh viên kiến trúc cổ, đắm chìm trong những đường cong và vết tích, đang sống những ngày kỳ lạ như một giấc mơ... được xây trên nền vật liệu thật.
Còn sáu ngày, sáu ngày để lắng nghe, để nhìn thật sâu vào từng vết nứt, từng hoa văn, và có thể... để chạm tay vào điều gì đó mà tôi chưa thể biết đến.
Tâm lồm cồm bò dậy, tóc tai dựng ngược như vừa vật lộn với gối cả đêm.
- Ê, sáng nay có món gì mà thơm thế mày... Tao thề là biệt thự này có ma, mà ma chắc cũng biết nấu ăn, hắn vừa ngáp vừa cười toe, tay vẫn còn đang mò khẩu trang đâu đó làm như sắp đi chợ.
Tôi bật cười, lắc đầu. Không khí buổi sáng ở đây khiến cả giọng nói lẫn nỗi nghi ngờ của tôi cũng chậm lại, lắng xuống như bụi mịn đang lơ lửng trong ánh sáng đầu ngày.
Sau bữa ăn đơn giản mà ngon đến lạ thường, chúng tôi giúp cụ Lan dọn dẹp. Sau đó tôi bắt đầu công việc của mình, để mặc Tâm loay hoay với những phát hiện thú vị trong vườn như tìm được tổ ong hay nghe tiếng mèo kêu không rõ từ đâu.
Có vẻ đêm qua cụ Lan đã nghe được tiếng lòng của hắn thật. Sáng nay có món trứng lòng đào đúng như hắn mong ước, khiến hắn có vẻ bắt đầu yêu quý bà cụ hơn, và cũng chủ động lui tới gần gian bếp mỗi khi có thể. Mà cũng có thể là vì... bà cụ hay có món ngon.
Tôi không hiểu thế lực nào đã đẩy hắn vào ngành này. Mỗi lần nhìn hắn hí hửng bưng tô cháo trứng lên, tôi lại thầm nghĩ: Thật là không có một chút tiền đồ nào.
Tôi chọn bắt đầu từ một gian nhà phụ nằm sâu về phía sau bên trái biệt phủ, nối liền qua một hành lang gạch nhỏ. Từ hôm qua, tôi đã để ý đến nó, cánh cửa gỗ xám tro với tay nắm đồng xỉn màu, bảng tên nhỏ treo lệch ghi "Khu lưu tích".
Khu lưu tích mở ra một gian nhà ngang, không đóng kín hoàn toàn mà nối liền với hành lang ngoài bằng các cột gỗ và mái hiên lợp ngói âm dương. Bên trong rộng rãi, đồ đạc được sắp đặt ngay ngắn, bao quanh là vô số cổ vật: hộp gỗ, lư đồng, bình gốm, tranh lụa, quạt giấy, sách cũ... như một đoạn thời gian được giữ nguyên trong lồng kính.
Một vách tường dài là hàng cửa sổ lá sách, dạng xoay trục giữa, gỗ đã bạc màu, bản lề kêu khẽ khi tôi bước tới. Việc đầu tiên tôi làm là xoay mở từng cánh cửa, để ánh sáng len qua, soi vào từng tầng không khí đã ngủ quên từ lâu.
Và rồi... một điều kì dịu xảy ra.
Ánh sáng cắt thành những vệt xiên giữa lớp bụi lơ lửng. Kỳ lạ là mỗi tia như dừng lại đúng chỗ, rọi lên bức bình phong sơn son, hắt sáng nhẹ trên lư trầm đồng khắc long ẩn vân. Mỗi tia nắng đều như đang gọi tên món cổ vật của riêng mình.
Tôi đứng lặng vài giây, rồi mới bước chậm vào không gian ấy, có cảm giác như vừa đi vào một cuộc triển lãm không dành cho số đông, mà chỉ dành cho người biết lắng nghe.
Đang đắm chìm trong không gian nghệ thuật thì một cái đầu thò qua cửa phòng, gọi với:
- Mày chưa bắt đầu nữa hả, hay mày thiếu mẫu, cần tao làm mẫu khỏa thân không?
Tôi đảo mắt nhìn hắn, tay cầm dao rọc giấy đưa lên, bình thản đáp:
- Tao dùng nó nhé.
- Ờ... tao đi pha trà cho mày nha!
Tôi bật cười khẽ, rồi quay lại với thực tại. Nhờ thằng Tâm mà tôi nhớ ra mình đến đây không phải để mộng mơ.
Tôi rút bút chì, bắt đầu phác lại những thứ mắt tôi không thể bỏ qua. Không phải là các hoa văn song long quen thuộc, chúng đã nằm sẵn trong sách xưa mà là những đường chạm tay đã phai, những ký hiệu nhỏ xíu khắc nông ở mặt sau tay nắm cửa, nơi ánh sáng thường không chạm tới.
Khi đang dò từng đường nét trên các mặt gỗ, tôi chợt khựng lại. Trên cột cái, nơi trụ gỗ lớn dựng ở giữa gian có một vết khắc rất mờ. Không phải hoa văn trang trí, cũng chẳng phải dấu vết vô tình, mà là một ký hiệu tròn, viền gãy khúc, ở giữa có hình như đóa hoa đang khép nụ. Tôi rùng mình, ký hiệu ấy quen thuộc đến mức trí nhớ tôi lập tức khẽ rung lên.
Tôi đã từng thấy nó trong một cuốn cổ thư ở thư viện trường, chỉ lướt qua một lần, nhưng đủ để lại một vết hằn trong trí nhớ. Bên dưới hình vẽ ấy khi xưa còn có một ghi chú mơ hồ: "Ấn ký của một nhánh thuộc họ Lê..."
Vậy mà giờ đây, nó đang hiện diện ngay trước mắt tôi, khắc trên cột trụ của gian nhà này, một vết khắc cũ kỹ nhưng rõ ràng, như có ai đó cố ý để lại cho hậu nhân tìm thấy.
Tôi áp tay vào dấu khắc, lòng dâng lên một cảm giác mơ hồ. Vừa như gặp lại một điều gì thân thuộc, vừa như vô tình chạm phải tầng ký ức chưa từng thuộc về mình. Từ bao giờ, những chi tiết tưởng chừng ngẫu nhiên nơi đây lại gợi nhắc về một gia tộc? Một gia tộc mà những ghi chép tôi từng đọc đều rời rạc, đứt đoạn, và chưa ai lý giải trọn vẹn.
- Dòng họ Lê... - Tôi thì thầm. Nhưng ngay cả khi nghĩ đến cái tên ấy, trong tôi vẫn là một khoảng trống lớn không thể lấp đầy.
Tôi tiếp tục vẽ lại ký hiệu cùng những vết chạm khác, và trong lúc bút chì miết lên trang giấy, tôi chợt hình dung ra bàn tay người thợ năm xưa. Họ không khắc để phô trương, mà như muốn gửi gắm một thông điệp cho ai đó ở tương lai. Một người. Một đời. Một kỷ nguyên. Họ đã sống, đã yêu, đã chết, và để lại những dấu vết chờ được thấu hiểu.
Rồi càng ghi chép, tôi càng bị kéo trở lại bởi một câu hỏi dai dẳng: Sáng nay... cô chủ nhỏ không xuất hiện.
Không một tiếng chân, không một lời hỏi han, không cả ánh nhìn kỳ lạ như đêm qua. Tôi ngẩng lên khỏi tờ giấy, nhìn qua hành lang trống rỗng. Cụ Lan nói cô ấy "đang làm việc", trong căn phòng trên tầng hai, cánh cửa đen bóng vẫn đóng kín như bị khóa từ bên trong.
Làm việc? Tôi lặp lại câu ấy trong đầu, rồi bất giác bật cười khẽ. Làm việc gì cơ chứ? Nguyên ngày? Không nghỉ trưa, không rời khỏi phòng dù chỉ vài phút? Không phát ra bất kỳ tiếng động nào, như thể... cô ấy không hề tồn tại vào ban ngày.
"Không tồn tại..."
Ý nghĩ ấy làm tôi chững lại. Một cơn rùng mình nhẹ chạy dọc sống lưng.
Tôi... đang nghĩ cái quái gì vậy? Không khoa học. Không logic. Hoang đường một cách đáng xấu hổ. Tôi lắc đầu, thở hắt ra một hơi thật dài, rồi tự rủa thầm mình trong đầu. Không thể tin mình vừa tưởng tượng ra thứ ngớ ngẩn như thế. Chắc chắn là do thằng Tâm. Kể từ khi quen hắn, tôi đã luôn gán cho hắn là một kẻ "truyền nhiễm". Và giờ, tôi bị nhiễm thật.
Tôi hít sâu, quay lại với bản vẽ, cố dứt khỏi những suy nghĩ mông lung. Nhưng tôi biết, ngay cả khi bàn tay tôi vẽ hoa văn cổ trên giấy, thì trong đầu, mọi chi tiết vẫn xoay quanh ánh mắt đêm qua, và khoảng trống nơi đáng lẽ ra sáng nay cô nên xuất hiện.
Tôi vẫn tiếp tục làm việc, đo đạc, ghi chú. Nhưng nơi này... và cô... đã trở thành một thứ mê cung không thể lý giải. Tôi càng đi sâu, lại càng lạc vào trong.
Chiều dần buông. Nắng nghiêng hắt qua khung cửa sổ, trải dài trên mặt sàn những vệt màu như nước trà loang. Không gian trầm xuống một cách tự nhiên, như một hơi thở được nén lại sau một ngày quá dài. Tôi gác lại mọi thứ, gấp cuốn sổ quay về gian nhà chính. Và rồi, đúng sáu giờ, như một nhịp điệu lặp lại không thể tránh khỏi...
Tôi thấy cô.
Cô đứng ở hành lang tầng hai, nơi ánh hoàng hôn đang lọc qua khung lam gỗ, đổ lên người cô một lớp ánh sáng mơ hồ khói mỏng. Trên nền bóng nắng đang mờ dần, tà áo dài màu kem phủ lấy vóc dáng cô một vẻ mềm mại, thanh thoát giống như cô vừa bước ra từ một bức tranh lụa cổ. Một dải khăn voan mỏng, dài chạm sàn, khẽ lay theo làn gió từ khu vườn sau lùa vào, khiến dáng cô mờ đi giữa ranh giới thực và ảo.
Tóc cô buông dài, đổ nghiêng sang một bên vai. Gương mặt nghiêng về phía cửa sổ, nửa sáng nửa tối, phủ bởi ánh chiều tà một lớp hoài niệm.
Tôi chợt nhận ra mình đã nín thở. Không phải vì ngỡ ngàng, mà vì một thứ gì đó ở cô khiến thời gian chững lại. Sự tồn tại của cô đang làm lệch đi nhịp đập của thế giới xung quanh... và cả trái tim tôi.
Cô quay đầu lại. Ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Không lời chào, nhưng một nụ cười rất khẽ chạm qua môi cô mong manh như gió thoảng. Ánh nhìn ấy mềm, trầm, và xa xăm đến mức tôi thấy mình nhỏ bé hẳn đi, như một đứa trẻ đứng lạc trong khu vườn lạ.
Tôi bước về phía cô, cố giữ giọng thật bình thản.
- Tôi... định hỏi cô về một chuyện.
Cô không đáp lại. Nhưng ánh mắt không rời khỏi tôi, như vừa lắng nghe, hoặc cô đã biết tôi sẽ nói gì tiếp theo.
Tôi siết nhẹ cuốn sổ ghi chép trong tay. Vì sao cứ đứng trước cô, tôi lại thấy mình vụng về đến vậy?
- Hôm trước, tôi và Tâm có thấy một ngôi mộ trong rừng. Cũng không xa nơi này lắm. Hình dạng hơi khác thường... Tôi nghĩ... có thể nó liên quan đến lịch sử khu này không?
Tôi ngừng lại, chờ phản ứng từ cô. Nhưng gương mặt ấy vẫn không đổi sắc. Chỉ có đôi mắt là chuyển động rất nhẹ như vừa lướt qua một vùng ký ức đã bị phủ bụi. Một thoáng im lặng rồi cô lên tiếng:
- Đó không phải điều anh nên bận tâm lúc này.
Lời cô nhẹ tênh, không hề lạnh lùng, cũng chẳng có gì gay gắt. Nhưng nó khép lại mọi cánh cửa một cách kín đáo, lịch thiệp, không một khe hở để tiếp tục. Không phải từ chối, mà sau câu nói ấy là một thế giới riêng, tĩnh lặng và bất khả xâm nhập.
Cô quay đi, không vội cũng không phải né tránh. Chỉ là bước chậm dọc theo hành lang như đang trôi, không phát ra một tiếng động nào. Tấm khăn choàng chạm sàn, lướt nhẹ trong hơi gió cuối chiều. Bóng cô kéo dài, nhập vào ánh hổ phách giống như thời gian tự đóng lại phía sau.
Tôi vẫn đứng đó, tay vẫn nắm chặt sổ ghi chép. Mắt không rời bóng lưng cô cho đến khi khuất hẳn sau khúc quanh. Có gì đó vừa vụt qua tôi. Hoặc... chính tôi vừa để lỡ điều đó.
Không hẳn là sợ hãi. Không phải bối rối. Mà là một nỗi băn khoăn râm ran dưới đáy lòng. Một niềm khát khao vừa khẽ lay động.
Khát khao được hiểu cô. Và khát khao được biết... điều gì đang âm thầm ngủ yên dưới lớp vỏ bình yên của ngôi biệt phủ này.
Bữa tối kết thúc sớm hơn thường lệ. Cụ Lan thu dọn chén đĩa trong lặng lẽ, bóng lưng khom nhẹ như một chiếc bóng đã quen với từng viên gạch trong gian bếp, không để lại một tiếng động nào. Cô chủ nhỏ hôm nay cũng không ăn. Cũng không nhìn tôi. Suốt bữa ăn, cô ngồi yên như một vệt sáng nhạt trong góc tối.
Nhưng đến khi tôi định đứng dậy theo Tâm lên phòng thì một giọng nói nhẹ như tơ khẽ vang sau lưng.
- Nếu anh không quá mệt... đi dạo một chút nhé.
Câu nói ấy nhẹ như một hơi thở, nhưng đủ khiến nhịp tim tôi muốn ngừng đập. Tâm cũng quay đầu liếc nhìn tôi, đôi mắt như nói thầm: "Mày tự rước họa đấy, tao không can." Hắn khẽ gật đầu chào tôi như muốn tiễn đưa, rồi bước lùi khỏi phòng bằng những bước chân nhẹ nhất mà tôi từng thấy ở hắn.
Tôi hơi khẽ cười, có phần ngượng, rồi quay sang cô nhẹ gật đầu. Không hỏi thêm gì và cũng không cần biết sẽ đi đâu.
Chúng tôi bước ra khỏi hành lang, qua cửa hông của gian nhà chính. Đêm tháng mười hai ở rừng lạnh hơn tôi tưởng. Không khí có mùi đất ẩm và nhựa thông. Trăng lên cao, chưa tròn hẳn, nhưng đủ sáng để bóng cây in xuống lối đá, hằn lên bóng những nhánh khô trơ trọi vặn vẹo.
Cô đi trước tôi vài bước, chậm rãi nhưng dứt khoát. Khăn voan trắng dài lướt nhẹ trên thảm rêu non. Mỗi bước chân cô giống như đã được đo từ trước, đúng vị trí, đúng nhịp, đúng thời gian.
- Anh thấy thế nào rồi? - Cô hỏi, không quay lại.
- Tôi... ổn. Có vẻ tôi đang quen dần với nơi này.
Cô dừng lại. Trăng nghiêng về phía cô, vệt sáng hắt lên xương gò má, làm nổi bật làn da nhạt và bờ môi gần như không màu.
Tôi cúi nhìn mũi giày lấm bụi đất, rồi nhìn ra khu vườn đang tắm trong ánh bạc. Những khóm dây leo đung đưa nhẹ theo gió.
- Ở thành phố... không bao giờ có những buổi tối thế này.
- Anh tiếc vì đã đến đây à?
Câu hỏi bất ngờ khiến tôi hơi giật mình. Nó không hẳn là thử thách, có thể cô đang thật sự quan tâm.
- Không. Tôi... không biết nữa. Có lẽ tôi đã chờ một khoảnh khắc thế này... từ lâu mà không nhận ra.
Cô lặng nhìn tôi. Ánh mắt cô khác với những lần trước, không dò xét, không rào chắn. Chỉ là một sự yên tĩnh. Một khoảng lặng mà tôi không hiểu được, hay chính cô cũng đang tìm kiếm điều gì đó trong tôi mà bản thân cô chưa biết đến.
- Anh biết không, nhiều người... khi rơi vào một nơi quá tĩnh lặng, họ bắt đầu nghe thấy những điều mà họ muốn nghe.
- Ý cô là sao?
Cô không trả lời. Chỉ nhẹ nhàng quay người bước tiếp. Tiếng chân cô không vang lên trên đá. Tôi đi bên cạnh, chẳng còn nhìn bóng lưng cô nữa. Gió đêm khẽ lướt qua hàng thông già, phát ra thứ âm thanh như lời thì thầm từ xa xăm.
Một làn hương nhẹ thoảng qua, khẽ chạm vào thế giới quanh tôi. Hương thơm dịu dàng đến mức tôi gần như không phân biệt được nó đến từ đâu... không gian, hay từ chính ký ức mình. Tôi ngẩng đầu. Từ giàn hoa trên cao, những cánh hoa trắng đang rơi xuống, xoay chậm trong không khí như gió đêm đang lặng lẽ rải hoa lên giấc mộng.
Cảnh tượng ấy khiến tôi sững lại. Một phần rất sâu trong tôi bất chợt bị đánh thức. Tôi đã từng thấy khung cảnh này, đâu đó trong một giấc mơ, mờ nhạt và mỏng manh. Cũng là khu vườn này. Cũng là làn hương ấy. Cũng là bóng người con gái trong tà áo trắng lướt đi giữa lối hoa rụng.
- Đẹp quá... chúng như đang phát sáng vậy. - Tôi khẽ nói, gần như không để ý mình đã thốt ra thành lời.
- Anh đang nói về những cánh hoa? - Cô chủ nhỏ hỏi.
- Đúng vậy. Tôi để ý... dường như chúng mọc quấn quanh toàn bộ biệt phủ. Tôi chưa từng thấy loài hoa nào như vậy trước đây cả.
Nghe tôi nói, cô đưa tay ra hứng lấy một cánh hoa đang rơi. Cử chỉ của cô nhẹ như sợ làm vỡ đi một điều gì đó mong manh. Trong giây lát, nét mặt cô thay đổi, ánh mắt hoài niệm, lặng lẽ thu giữ từng chi tiết của khoảnh khắc.
- Bán Linh Hoa. - Cô nói khẽ, như gọi tên một người quen cũ.
- Có người kể rằng, đây là loài hoa chỉ mọc ở những nơi từng có một nỗi đợi chờ quá lâu. Cũng có người nói, nó là loài hoa của ký ức... mọc ra từ những điều đã quên nhưng chưa từng mất.
Cô cười nhẹ, một nụ cười không rõ là tiếc nuối hay chỉ đơn thuần là thừa nhận sự bất lực của con người trước những bí mật đã thành huyền thoại.
- Bán Linh Hoa... - Tôi lặp lại trong đầu cái tên ấy. Như là chỉ cần gọi nó lên, một điều gì đó đã bị lãng quên sẽ tìm đường quay trở lại.
- Có một câu chuyện...
Cô nói tiếp, giọng chậm lại, trầm như một dòng suối ngầm chảy dưới những viên đá ký ức.
- Về một chàng trai từng ghé qua nơi này, rất lâu rồi, đến mức không ai còn nhớ rõ tên anh... Anh ta đến, mang theo ánh nhìn xa xăm và trái tim không ở lại. Nhưng có một cô gái nơi đây đã yêu anh, sâu sắc và lặng lẽ. Sau khi anh đi, cô vẫn chờ, đêm này qua đêm khác, dưới vòm hoa này. Có lẽ... chính lòng chờ đợi ấy đã khiến những dây leo kia nở rộ quanh năm, không bao giờ tàn. Hoa trắng như sương, mỏng như mộng... giống như tình cảm cô dành cho người đã rời xa.
Tôi lặng im. Trong tôi, có điều gì đó vừa rơi xuống, nhẹ như cánh hoa, nhưng lại khuấy lên mặt nước sâu thẳm.
- Và rồi... anh ta không bao giờ quay lại ? - Tôi hỏi khẽ.
Cô không trả lời ngay. Hương thơm nhẹ trôi qua khoảng lặng giữa hai bóng người.
- Tôi không chắc... - Cô chậm rãi.
- Anh ta chỉ để lại một lời hứa rằng sẽ quay lại... và hoa thì vẫn còn ở đây... mỗi đêm.
Cô ngước lên nhìn những cánh hoa đang rơi. Ánh trăng trượt nhẹ qua từng kẽ lá, rơi xuống gương mặt cô, chạm vào đường nét thanh mảnh ấy với sự dịu dàng đến ám ảnh.
Gió đêm lại khẽ đưa, mang theo hương thoảng ngang giữa chúng tôi một sự im lặng. Và trong đôi mắt ấy... tôi thấy một nỗi buồn đẹp đến nghẹn thở.
Một thứ gì đó vừa thức dậy trong lồng ngực tôi, không ồn ào, không vội vã, nó dịu dàng như một cơn rung nhẹ bên dưới lòng ngực, khiến cả thế giới quanh tôi như ngừng chuyển động, chỉ còn lại cô và ánh sáng mờ nhạt từ trên cao.
Tôi không nói gì. Chỉ đứng đó bên cạnh cô, cứ như cả đời này tôi đã đợi đúng khoảnh khắc này, đợi một người có thể im lặng cùng tôi, mà không khiến tôi thấy cô đơn.
Gió tiếp tục thổi. Hoa tiếp tục rơi. Và tôi, lần đầu tiên trong đời, thấy mình không còn muốn lý giải bất kỳ điều gì nữa. Chỉ cần đứng đây bên cô... thế là đủ.
...
Khi chúng tôi quay lại, mặt trăng đã lùi sâu sau rặng đồi, để lại khoảng trời nhàn nhạt. Bóng tối đậm dần, tràn xuống từng lối nhỏ, từng khoảng sân im vắng, khiến không gian giãn nở ra thành một cõi khác, rộng hơn, thẳm sâu hơn, và tĩnh mịch đến mức khiến người ta quên cả thở.
Tôi không nhớ rõ mình đã đi bao lâu, chỉ biết khi về tới phòng thif Tâm đã ngủ. Hắn ta cuộn tròn trong chăn, hơi thở đều đặn, lưng quay về phía tôi. Tiếng ngáy nhẹ vang lên từng chặp, lúc trầm lúc bổng, như tiếng sóng vỗ nhẹ vào vách gỗ.
Tôi nằm xuống. Khác với đêm hôm trước, lần này giấc ngủ đến nhanh như có người dẫn lối.
Có lẽ là do câu chuyện của cô chủ nhỏ, người con gái mang vẻ yên lặng của cổ thư. Cũng có thể là do dư hương của Bán Linh Hoa vẫn còn phảng phất trong tâm trí. Đêm ấy, tôi đã có một giấc mơ rất kỳ lạ. Và trong giấc mơ ấy, tôi không còn là tôi của hiện tại, mà là một học giả trẻ... người lần đầu đặt chân đến cao nguyên lạnh giá này để truy tìm những manh mối thất lạc về dòng họ Lê và tòa biệt phủ cổ.
Tôi thấy mình đang đứng giữa một khu vườn cổ, lặng lẽ như một bức tranh. Cảnh vật xung quanh quen thuộc mà xa xôi, như được tái hiện lại từ một thời đại khác, khi nơi này còn nguyên vẹn trong ánh huy hoàng cuối cùng của nó.
Biệt phủ không còn dáng vẻ trầm mặc của hiện tại. Gỗ sáng màu, đèn treo lung linh, những nét khắc rồng phượng trên khung cửa hiện lên rõ ràng đến mức như vừa chạm hôm qua. Mỗi chi tiết đều như đang thầm kể một phần câu chuyện đã bị lãng quên. Và tôi, bằng cách nào đó, chính là người được chọn để ghi chép lại.
Rồi cô xuất hiện, nơi ban công tầng hai, dáng đứng lặng lẽ, chiếc bóng dài rơi xuống bậc thềm. Vẫn là cô chủ nhỏ, nhưng trong giấc mơ này, cô mang một cái tên: Linh San.
Linh San - người gác giữ những bí ẩn của một gia tộc đã chìm vào dĩ vãng. Cô là phần ký ức cuối cùng còn sót lại giữa những bức tường gỗ cũ. Không cần danh phận, không cần danh xưng. Chính sự tồn tại của cô trong căn phủ này là minh chứng rằng quá khứ vẫn chưa thực sự chết đi.
Cô mặc áo dài trắng, viền gấm, nhẹ như khói phủ lấy dáng người mảnh mai. Mái tóc đen thả xuống vai. Đôi mắt cô trong như nước giếng cổ. Lần đầu chạm mắt một chút ngạc nhiên xen lẫn bối rối.
Khi cô bước xuống, tôi cũng bất giác bước về phía cô. Trong giấc mơ ấy, tôi hiểu rằng mình mang vai trò của một người tìm hiểu và ghi chép lại, không phải sử của triều đại nào, mà là ký ức của một dòng họ, được truyền bằng lời, bằng hình ảnh, bằng những điều không bao giờ có trong sách vở.
Còn cô là người lưu giữ ký ức ấy, người gác cổng quá khứ, người biết đến tận cùng bí mật của huyết mạch họ Lê. Không ai trao cho cô chức danh ấy. Cô không cần quyền lực. Chính sự tồn tại của cô giữa phủ cổ này đã là bằng chứng rằng ký ức chưa chết.
Chúng tôi đi qua hành lang lát gỗ, dưới những tấm rèm lụa lặng bay. Không ai nói. Không cần nói. Không cần hỏi lý do. Không cần đặt tên cho giấc mơ.
Rồi cô đưa tay ra. Tôi nắm lấy giống như đã từng làm vậy trước đây. Bàn tay cô thật. Nắm chặt tay tôi, không run rẩy. Cảm giác ấy khiến tôi quên mất đây chỉ là một giấc mơ. Hay là không? Chúng tôi dừng lại bên dưới tán Bán Linh Hoa. Cô nhìn tôi, nụ cười thoảng như một ký ức chưa từng tan biến.
Lúc đó, tôi không cần ai nói rằng đây là mộng. Tôi cũng không cần tỉnh lại để biết rằng mình đã yêu cô, không phải bằng ánh nhìn đầu tiên, mà bằng nỗi hoài nhớ của một đời đã từng trải qua.
Tôi tỉnh giấc trong âm thanh rả rích của mưa. Không phải tiếng gió thì thầm giữa rừng thông hay tiếng chim gọi bạn nơi thẳm sâu, mà là tiếng mưa gõ nhẹ lên mái ngói hòa cùng mùi gỗ thấm ướt. Ánh trăng lẫn bóng vườn phủ mờ đêm qua đã biến mất, chỉ còn sót lại một lớp không khí màu xám nhạt lơ lửng, giống như buổi sớm còn chưa kịp tỉnh.
Mùi mưa sớm len vào qua khe cửa sổ khép hờ, mang theo hơi ẩm dịu nhẹ và mùi đất ướt nồng nàn. Ánh sáng trong phòng mờ nhòe giữa xanh và xám khiến mọi thứ vô cùng hư ảo.
Tôi nằm yên hồi lâu, cố tách mình ra khỏi giấc mơ vừa rồi... nhưng dư âm vẫn bám chặt lấy tôi. Nó không trượt đi như thường lệ mà còn lưu lại trên da, trong lồng ngực hoặc một phần tôi vẫn còn mắc kẹt ở nơi nào đó chưa rõ.
Tôi nhìn sang bên thấy Tâm vẫn còn ngủ. Gương mặt hắn chìm trong bóng râm, hơi thở đều đặn. Tất cả như chưa từng có gì xảy ra trong đêm. Nhưng tôi thì biết bản thân vừa đi qua một điều gì đó không thể giải thích bằng những ghi chú khảo cổ hay lý thuyết về giấc mơ.
Một điều gì đó vượt khỏi giới hạn thời gian. Tôi ngồi dậy, lặng lẽ bước lại gần cửa sổ nhìn ra ngoài. Những giọt mưa quấn quýt trên những mái ngói phủ rêu. Cảm giác ấy vẫn còn, có thứ gì đó đã chạm qua và để lại dấu vết trên thân thể tôi. Mơ hồ nhưng thật hơn bất kỳ điều gì tôi từng trải qua.
Tôi tự hỏi đó liệu chỉ là một giấc mơ hay là một ký ức? Một ký ức không thuộc về hiện tại... mà thuộc về một đời khác?
Tôi trở lại bàn, kéo cuốn sổ nghiên cứu của mình lại gần và mở ra một trang trắng. Tay tôi cầm bút mà tâm trí vẫn còn đắm chìm trong dư chấn của giấc mơ.
"Có những giấc mơ không phải là mộng. Mà là đoạn đời của một ai đó từng sống qua..."
Tôi dừng bút. Mọi câu chữ tiếp theo bỗng trở nên vô nghĩa. Trong đầu chỉ còn lại một cái tên.
"Linh San..."
- Ô hô...
Giọng Tâm vang lên, ngái ngủ nhưng vẫn đủ sức trêu.
- Tỉnh dậy là cầm bút triết lý rồi. Đêm qua mơ thấy ai dắt đi ngắm trăng đấy? Lại là cô chủ nhỏ à?
Tôi khép sổ lại sau đó quay sang nhìn Tâm. Hắn đang vươn vai, lười nhác như con mèo con vừa tỉnh ngủ. Gương mặt vẫn vô tư với nụ cười nhàn tản. Tôi cũng khá bất ngờ với thái độ của hắn.
- Qua nay thấy mày thoải mái ghê ha. Không còn sợ cái "phủ ma" này nữa hả? - Tôi buột miệng hỏi.
Tâm bật cười, ngáp một cái rõ dài, giọng thì vẫn còn ngái ngủ.
- Thì cũng phải sống cho đàng hoàng chứ sao. Ở đây nệm ấm, chăn thơm, buổi sáng có trà, buổi tối có người đẹp thoắt ẩn thoắt hiện... Tao mà còn than phiền nữa chắc tổ nghiệp đánh.
Tôi nhìn hắn thêm một lúc. Khuôn mặt vừa sáng sủa vừa vô tư, lại không vướng bận chút gì. Làm như mọi điều xảy ra trong những ngày vừa qua đều chỉ là một chuyến đi chơi dài ngày, không để lại dấu vết. Có lẽ Tâm vô tri nên dễ an.
- Mày thích nghi nhanh thật. - Tôi lẩm bẩm.
- Không nhanh thì sao mà sống? - Nó nhún vai đáp lại tỉnh rụi.
- Chỉ còn năm ngày, với đồ ăn ngon và cảnh đẹp miễn chê. Chưa kể có khi bị đuổi lúc nào không hay, nên tận hưởng được chút nào hay chút đó.
Tôi khẽ gật đầu, cảm thấy mọi việc nhẹ nhàng hơn qua góc nhìn của hắn, có lẽ tôi cũng nên như hắn, không nên quá bận tâm đến những chuyện chỉ nằm trong giấc mơ.
....
Mưa vẫn rả rích, thời gian cũng lười nhác không muốn trôi. Không gian bị bao phủ bởi thứ âm thanh đều đều ấy, khiến mọi chuyển động trong phủ chậm lại giữa lưng chừng tỉnh và mê.
Tôi trở lại phòng lưu tích, tiếp tục phần công việc còn dang dở từ hôm qua. Những trang ghi chép, vài món đồ cũ phủ bụi thời gian, những vết tích mơ hồ nằm rải rác trong căn phòng cất giữ ký ức... tất cả mở ra một cánh cổng kì bí, vừa lôi cuốn, vừa khiến tôi bối rối.
Dù cố lý giải bằng kiến thức khảo cổ, vẫn có những khoảng trống không thể chạm tới bằng lý trí.
Tâm thì loanh quanh đâu đó ngoài hành lang rồi biến mất một lúc lâu. Tôi không để ý. Tiếng mưa ngoài kia đang nhỏ dần nhưng chưa dứt, phủ lên thực tại khiến tôi chìm sâu vào công việc mà chẳng nhận ra ngày đang dần trôi hết.
Mãi đến khi trời khẽ chuyển sáng, tiếng mưa cũng ngưng hẳn. Tôi gấp sổ lại, đứng dậy và duỗi người. Một làn gió mát lướt ngang khe cửa hé mở, mang theo mùi của đất vừa tạnh lẫn với hương cỏ non vừa bừng tỉnh.
Tôi bước ra hiên. Ánh sáng rửa sạch khoảng sân bằng một thứ trong trẻo và nhẹ. Có lẽ là ánh nắng hoặc là một đoạn cầu vồng mong manh vắt nơi chân trời. Tôi nhìn ra khuôn viên. Những khóm Bán Linh Hoa sau mưa trỗi dậy. Chúng vươn cao, trắng muốt, không rực rỡ nhưng có sức hút khó giải thích.
Tôi men theo lối đá dẫn ra vườn. Gió lùa qua tay áo, cổ áo lạnh âm ẩm. Một cái lạnh không rõ đến từ thời tiết hay từ chính những điều đang ngấm ngầm thức giấc.
Bán Linh Hoa vẫn nở rải rác dọc giàn cổ. Những giàn gỗ phủ rêu xanh, có thể đã ở đây từ rất xa xưa, nâng đỡ những dây leo mong manh. Vài cánh hoa rơi vương trên nền đất ướt, nhẹ đến mức tôi có cảm giác... đêm qua chưa hề khép lại.
Tôi dừng lại,ngẩng đầu lên. Trên tầng hai, nơi căn phòng của cô chủ nhỏ, ô cửa sổ khép hờ. Nhưng... tôi bỗng thấy tim mình khựng lại một nhịp.
Chỉ trong khoảnh khắc đó thôi, tôi chắc chắn mình vừa thấy bóng ai đó đứng sau tấm rèm. Một dáng người mảnh mai, yên lặng, đã ở đó từ lâu dõi theo tôi qua khe cửa mờ tối. Dưới ánh sáng nhòe của cơn mưa vừa tạnh, hình bóng ấy hiện ra mờ ảo nhưng quen thuộc.
Tôi nhìn chăm chú không chớp mắt, đến khi lấy lại nhịp thở và muốn nhìn rõ hơn, thì nơi ấy chỉ còn lại cánh cửa đóng im lìm. Không bóng dáng lẫn chuyển động.
Nhưng tôi biết... đã có người đứng đó.
...
Tôi đứng thật lâu dưới giàn hoa, mắt vẫn không rời ô cửa trên tầng hai, dù biết rõ... mọi dấu vết đã lặng lẽ khép lại. Chỉ có gió sau mưa lướt qua vai, mang theo hơi lạnh chạm khẽ vào sống lưng. Tôi quay bước theo lối cũ trở lại gian nhà chính. Tâm đang ngồi ở hiên, nhấm nháp ly trà nóng do cụ Lan pha, tay cầm quyển sách gì đó lật chơi cho qua giờ. Hắn liếc nhìn tôi, hỏi bâng quơ.
- Thời gian ở đây trôi chậm một cách kỳ lạ mày nhỉ?
Tôi gật đầu không đáp. Đầu óc vẫn còn mải quanh quẩn bên khung cửa tầng hai. Một khoảng trống không định hình, nhưng lại nắm giữ tâm trí tôi và chờ đợi... một điều gì đang dần hé lộ.
Trời bắt đầu xuống sắc, mây xám đổ dài xuống khu rừng xa. Sương từ tán cây tràn xuống bãi cỏ, khiến căn biệt phủ lạc giữa một miền nào đó không còn thuộc về thời gian thường nhật.
Và rồi, đúng như hôm trước, khi kim đồng hồ điểm sáu giờ, cánh cửa sau lầu hai lại mở. Tiếng bước chân khẽ vang nhẹ trên cầu thang gỗ, mỗi nhịp lại gõ vào bầu không khí bao quanh lại khiến cả ngôi nhà rung lên một nốt trầm gần như thinh lặng.
Tôi đứng lên. Dù đã chuẩn bị nhưng tim vẫn khẽ nảy một nhịp khi thấy cô từ cuối hành lang.
Cô xuất hiện trong bộ áo dài lụa màu khói chiều, tan vào ánh sáng đang lịm dần sau rặng thông. Mái tóc buông mềm theo vai. Ánh sáng yếu ớt làm nổi bật đôi mắt, thứ duy nhất trên gương mặt ấy khiến tôi không bao giờ rời được ánh nhìn. Nơi đó sâu thẳm, tĩnh lặng, và sáng đến mức có thể soi được một tầng khác của thế giới.
Tôi đứng yên như bị giữ lại bởi một sức hút vô hình. Trong lòng những cảm giác kỳ lạ lại dâng lên, không phải bối rối cũng không hẳn say mê, chỉ biết rằng tôi vừa bước vào một mê lộ không lối thoát, nhưng lại bằng lòng tiến sâu, vì tôi tin... ở tận cùng nơi đó, có một câu trả lời mà tôi đã tìm kiếm từ rất lâu.
...
Buổi tối trôi qua yên tĩnh đến lạ. Không có tiếng động nào mà chỉ còn gió nhẹ lướt qua mái ngói. Cả biệt phủ chìm trong một sự tĩnh lặng ngỡ như không có thật, quá hoàn hảo để là yên bình, quá lặng để không khiến người cảnh giác.
Tâm vẫn pha trò như thường lệ, buông vài câu lảm nhảm rồi ngáy đều đặn sau đó chưa đầy mười phút. Tôi cố đọc lại vài trang ghi chép khảo cổ, nhưng mắt cứ trôi dần, ý thức nhòe đi trong lớp sương mỏng đang len vào qua song cửa, cuộn quanh những hàng cột gỗ ngoài ban công.
Không có gì lạ xảy ra mà chỉ là... tôi không ngủ được.
Đã quá nửa đêm. Tâm ngáy nhẹ bên cạnh, tiếng thở lúc gần sát bên tai, có lúc lại giống như đến từ phòng bên cạnh. Tôi nằm trân trân nhìn lên trần. Những vân gỗ trên đó như đang chuyển động, uốn lượn và đan vào nhau thành vô số hình thù hỗn loạn.
Có một lúc, tôi nhận ra trong mớ hình thù hỗn loạn ấy... một khuôn mặt của ai đó. Không rõ là ảo giác hay chỉ là trò chơi của bóng tối. Tôi nhắm mắt lại rồi mở ra lần nữa... mọi thứ vẫn còn đó. Không khí trong phòng đông đặc. Tạo cho tôi một áp lực vô hình đè nén nơi lồng ngực. Những thứ tồn tại mơ hồ đang dần tụ lại, hiện hình qua làn không khí ẩm và đậm hương gỗ cũ.
Và tôi... nghe thấy tiếng bước chân.
Rất khẽ bên ngoài hành lang. Lúc gần, lúc xa. Như ai đó đang lần dò từng nhịp chân theo trí nhớ, không phải để đi đến đâu mà chỉ để quay lại điều gì đó đã từng.
Lần này tôi không nằm im nữa, không hiểu can đảm từ đâu mà tôi bật dậy, sau đó lặng lẽ bước về phía cửa. Bàn tay tôi đặt lên tay nắm. Tim đập nhanh đến mức tôi cảm thấy từng mạch máu trong tai... rồi tôi xoay nhẹ.
Cửa mở ra. Lạnh. Không một âm thanh, hành lang trống trơn.
Nhưng tôi biết mình không tưởng tượng. Tôi đã nghe thấy bước chân ấy. Đã nghe thấy nó những đêm hôm trước. Lúc mơ hồ, lúc rõ ràng, nhưng đêm nay nó đến gần hơn bao giờ hết.
Ánh đèn lồng đỏ nơi đầu hành lang vẫn cháy leo lét. Thứ ánh sáng nửa sống nửa tàn, chẳng đủ soi đường, chỉ như một đoạn ký ức cố chấp chưa chịu lịm tắt.
Tôi bước ra, làn gió lạnh luồn qua những khung cửa, phả vào da thịt hơi thở từ một căn phòng bị bỏ quên. Cây cối trong vườn đen sẫm, bóng cây trơ trọi. Mây che đi trăng, bầu trời mờ mịt. Chỉ có mùi đất sau mưa vẫn còn thoảng trong không khí.
Rồi lần nữa, tiếng bước chân vang lên phía trước. Rõ ràng hơn. Tôi không suy nghĩ và cứ thế bước theo. Mỗi bước chân không còn thuộc về tôi nữa, như bị kéo đi bằng một sợi dây vô hình, vừa dịu dàng lại vừa không thể kháng cự.
Cuối hành lang, tôi rẽ phải... không có ai mà chỉ có một cánh cửa. Cánh cửa tầng áp mái... hé mở.
Một vệt sáng mỏng manh lạc lõng tràn qua khe cửa, rọi xuống sàn như đang cố thoát ra khỏi một nơi quá sâu hoặc quá xa để gọi là hiện thực.
Tôi đứng im. Nhìn chằm chằm vào khe sáng ấy. Tim vẫn đập dồn dập như ai đó thúc ép. Cơ thể bị giữ lại bởi chính cảm giác đang thôi thúc tôi bước đến.
Tôi đứng đó. Lâu đến mức thời gian ngừng thở.
Rồi tôi quay đi, bước thật nhẹ trở lại phòng. Không đánh thức Tâm. Không kiểm tra gì thêm. Không phải vì tôi sợ.
Mà là vì... tôi muốn ngày mai. Tôi muốn tiếp tục thuộc về nơi này thêm một ngày nữa.
...
Tôi tỉnh dậy với cảm giác lưng chừng, có vẻ như đêm qua vẫn chưa thực sự khép lại. Không gian trong phòng vẫn đượm một thứ ánh sáng mờ chẳng rõ từ đâu hắt vào, không khí còn vương hơi ẩm sót lại sau một giấc ngủ không trọn.
Trần gỗ phía trên uốn cong thành những đường vân xoắn xuýt, chúng đang thì thầm điều gì đó bằng ngôn ngữ của năm tháng. Tôi đưa tay lên che mắt trong chốc lát rồi thả xuống. Cái cảm giác ấy vẫn còn đó, về một vệt sáng hẹp bên trong cánh cửa hé mở, tiếng bước chân dần xa trong hành lang... và căn phòng tầng áp mái.
Tôi nằm bất động thêm vài phút như chờ một tín hiệu nào đó từ chính mình, trong lòng hiểu rõ rằng bản thân mình muốn quay lại đó. Không phải để xác minh điều gì mà để bước tiếp một phần câu chuyện mà tôi biết chắc rằng nó không chỉ thuộc về tôi.
Tôi rời khỏi phòng. Bậc cầu thang gỗ dưới chân kêu lên những tiếng cọt kẹt nhỏ, một lời than thở khi trời còn chưa sáng hẳn, từng âm thanh cứ thế vang đi rồi vọng lại.
Phòng trà dưới lầu đã sáng đèn, bên trong bếp chiếc lò đất đỏ rực ánh than hồng. Ấm nước đặt ngay ngắn trên bếp, nghi ngút hơi nóng, toả ra mùi trà xanh thoảng nhẹ, thứ hương thơm mang theo cảm giác ấm áp và... kỳ lạ. Tạo cảm giác nơi này vừa mới có ai đó đi ngang qua, để lại dấu vết dịu dàng đến vậy.
Nhưng không một bóng người. Cụ Lan không có ở đó. Mọi thứ đều đã được chuẩn bị sẵn, bàn ăn gọn gàng, bộ tách trà men cũ đã rót sẵn nước, ngay cả bữa sáng cũng được bày biện chỉn chu như ai đó biết chính xác thời điểm tôi bước xuống.
Tâm cũng vừa lù lù xuất hiện, tóc tai tổ quạ, mắt chưa mở hết nhưng miệng đã hoạt động.
- Hôm nay mày lên đồng hay sao mà dậy sớm dữ vậy?
Hắn bước lại gần bàn ăn, vừa ngáp vừa ngó quanh:
- Ủa? Cụ Lan đâu rồi? Mới sáng sớm mà đồ đạc như khách sạn năm sao, có hơi quá tay không?
Tôi đáp hờ hững:
- Tao cũng không thấy cụ. Có khi đang dọn dẹp đâu đó...
Tâm cúi xuống ngửi ly trà rồi nhướn mày, vẻ mặt nửa cảm thán nửa nghi ngờ.
- Cụ Lan đúng không phải người thường mày nhỉ? Sáng sớm tinh mơ, trà rót đúng độ, cháo nóng hổi, khăn thì gấp mép như sách giáo khoa. Hay cụ có một đội quân ninja giấu dưới hầm?
Tâm nói rồi cười toe, vẫn cái kiểu tỉnh queo giữa những điều bất thường. Tôi im lặng. Không biết trả lời ra sao. Câu nói đùa của Tâm nghe ra lại hợp lý đến lạ.
Biệt phủ rộng lớn thế này, từ phòng trà đến bếp, từ hành lang chính đến lối nhỏ dẫn ra hiên, đều không vướng một hạt bụi. Sạch sẽ đến lạ lùng. Giống như mỗi sáng có ai đó lặng lẽ đi qua mọi ngóc ngách, lau từng thanh gỗ, phủi từng góc tường. Nhưng nếu chỉ một mình cụ Lan... thì điều ấy không thể.
Nhưng rồi tất cả những thắc mắc của tôi đều nằm yên trong lòng. Dù mọi thứ có vô lí đến thế nào thì chúng vẫn đang diễn ra, và tôi là người chứng kiến nó.
Cả buổi sáng, tôi gần như chẳng làm được việc gì. Chồng giấy lưu tích vẫn nằm nguyên trên bàn, cạnh cây bút chưa viết nửa chữ. Mỗi lần đặt tay lên giấy, trong đầu tôi lại vang lên tiếng bước chân ấy, khẽ, đều, và lạnh đến mức khiến tôi rút tay lại. Dù trước mắt có bao nhiêu điều cuốn hút, tất cả cũng chẳng níu nổi tôi ra khỏi cơn mơ hồ đang dần kéo mình rời xa thực tại.
Tôi từng bước đi qua khắp căn biệt phủ này, từng dãy hành lang, từng bậc thềm đá dẫn ra vườn, nhưng riêng căn phòng trên tầng áp mái ấy, tôi chưa bao giờ đặt chân tới.
Trong bữa ăn trưa, tôi thử gợi chuyện với cụ Lan:
- Cuối hành lang gian phải tầng hai, cháu thấy có một lối dẫn lên tầng áp mái. Nơi đó là gì vậy ạ?
Cụ ngước mắt lên, tay vẫn thong thả rót trà. Không nhìn tôi, cụ đáp nhỏ:
- Là phòng đọc cũ. Từ thời cô chủ nhỏ còn đi học, hay ngồi viết vẽ linh tinh.
Nói xong, cụ liền chuyển sang nhắc chuyện bánh hạnh nhân mà cô chủ từng thích, làm như câu hỏi của tôi chưa từng tồn tại.
Sau bữa trưa, trời bỗng ửng sáng sau buổi sáng không nắng. Nhưng trong tôi lại có cảm giác một luồng gió lạnh âm thầm thổi qua. Không chờ thêm được nữa, tôi rẽ vào hành lang sau rồi men theo cầu thang phụ hẹp dẫn lên tầng hai.
Ở cuối bậc thang, cánh cửa ấy vẫn ở đó. Màu gỗ cũ sậm lại, bạc đi ở những chỗ tay thường chạm. Cửa hé đúng một khe nhỏ, vừa đủ để khiến người ta tin rằng ai đó mới rời đi chưa lâu.
Tôi đặt tay lên và đẩy nhẹ. Một tiếng rít khẽ vang lên. Cánh cửa mở ra để lộ một khoảng không khí khác hẳn những gian phòng còn lại. Mùi giấy cũ hòa với hương mực khô, xen lẫn một thoáng gì đó rất nhẹ... rất nữ tính... còn vương lại từ một cô gái mà tôi đang muốn tìm hiểu.
Căn phòng áp mái nhỏ, trần nghiêng dốc theo mái nhà. Ánh sáng lọt qua ô cửa nhỏ, những giá sách cao kê sát tường, đầy ắp những cuốn sách dày có gáy bạc phếch.
Một chiếc ghế bành đặt bên cửa sổ, trên bàn gỗ nhỏ là chồng giấy viết tay buộc bằng sợi dây thừng mảnh. Bên cạnh đó là một quyển sổ bìa da cũ, khóa đồng đã mờ xỉn, khép im lìm.
Tôi bước lại gần, trong lòng bất chợt hồi hộp. Cảm giác như quyển sổ ấy đã chờ tôi từ lâu.
Ngón tay lướt nhẹ qua lớp da sần, ẩm mốc lẫn mùi thời gian nhưng vẫn chắc chắn. Khóa đã không còn chốt. Tôi mở ra... Trang đầu tiên với nét chữ mềm hơi nghiêng sang phải. Dòng chữ nhỏ như rướn mình khỏi trang giấy, và rồi không gian căn phòng áp mái bỗng như mờ dần... nhường chỗ cho một ngày rất xa, nhưng chưa từng biến mất.
"Từ khi còn bé, tôi đã được nuôi dạy không giống những đứa trẻ khác. Trong ánh sáng mờ đục của những ngọn nến đêm, bà kể cho tôi nghe về Ngọc Tỉ, về từng đời người canh giữ trước, những con người sống cả đời trong im lặng và cảnh giác, để giữ trọn một lời thề của dòng họ Lê. Từ sâu trong tim, tôi biết sớm muộn gì vận mệnh ấy cũng sẽ tìm đến.
Và hôm nay ngày đó đã đến. Cha trao cho tôi chiếc Ngọc Tỉ. Không còn là câu chuyện trong lời kể, không còn là một hình dung xa xăm... mà là vật thật, lạnh buốt và nặng trĩu trong tay. Nó không đơn thuần là khối bạch ngọc chạm khắc tinh xảo, mà là dấu ấn cuối cùng của hoàng triều, là hơi thở còn sót lại của cả một dòng họ đã trải qua bao biến loạn.
Cha nói dưới đáy Ngọc Tỉ khắc một mật lệnh, chỉ hiện ra khi lời thề máu bị phá vỡ. Mật lệnh ấy, theo lời truyền, dẫn tới nơi cất giữ "Quốc Thư" và "Long Mạch Đồ". Những tấm bản đồ và thư tịch mà các vị tiên triều đã giấu đi, để phòng khi cơ nghiệp đổ nát, vẫn còn một kẻ hậu nhân biết đường dựng lại.
Kho báu mà người đời vẫn đồn đoán không chỉ có vàng bạc, mà là tri thức và quyền lực, thứ có thể làm thay đổi vận nước trong một đêm.
Có lẽ vì vậy mà các dòng tộc lớn khác, nhất là những kẻ từng thề trung thành nhưng đã phản bội, vẫn chưa bao giờ từ bỏ ý định chiếm đoạt nó. Bao thế hệ... lần lượt ngã xuống chỉ để Ngọc Tỉ không lọt vào tay kẻ khác. Giờ thì... chỉ còn tôi.
Tôi không biết mình có đủ sức hay không. Tôi chưa từng đối diện với cạm bẫy giăng trongtrong bóng tối, chưa từng nghe tiếng bước chân sát sau lưng mà vẫn phải giả vờ bình thản. Nhưng tôi hiểu, khi đã cầm Ngọc Tỉ, tôi không còn đường lùi. Đây là máu, là lời thề của họ Lê... và giờ là số phận của tôi.
Linh San"
Tôi khép hờ cuốn sổ, mắt vẫn còn dán vào trang giấy. Đây không hẳn là nhật ký... mà là một thông điệp gửi ngược dòng thời gian, một lời thề còn vươn mùi máu, được niêm phong trong từng thớ giấy ố vàng. Bàn tay tôi khẽ run, không biết vì hơi lạnh của căn phòng áp mái hay vì mình vừa vô tình chạm vào một số phận không thuộc về mình.
Cái tên Linh San ấy không hề xa lạ, đã từng len lỏi vào những giấc mơ, ở nơi những khoảng ký ức tôi không dám chạm tới. Giờ nó nằm đây, rõ ràng đến mức tôi tưởng có thể nghe thấy tiếng mực khô nứt ra trên giấy, như một linh hồn đang thì thầm dưới ngón tay mình.
Lý trí tôi ra sức gạt bỏ, không muốn tin vào những điều hoang đường. Nhưng từng dòng chữ và hơi thở còn sót lại trong căn phòng này đang thì thầm vào tai tôi, dồn dập và nhấn nhá rằng những điều phi lý ấy có thể vẫn đang tồn tại... ngay trong căn biệt phủ này.
Tôi hít một hơi thật sâu, định lật tiếp trang sau thì một cảm giác kỳ lạ dâng lên, giống như có một ánh nhìn vô hình đang lặng lẽ trườn theo từng chuyển động của tôi từ phía sau lưng, lông tơ trên gáy chậm rãi dựng lên trong một phản xạ mà tôi không kịp kiểm soát, và bầu không khí vốn im ắng của căn phòng đột nhiên trở nên ngột ngạt, khiến từng nhịp tim tôi vang rõ trong khoảng tối.
Giữa lúc ấy, một âm thanh khe khẽ len vào, mỏng đến mức tưởng chừng là ảo giác nhưng lại đủ ghi vào thính giác, gợi cho tôi liên tưởng đến tiếng bước chân nơi hành lang xa, chậm chạp, kéo dài. Tôi đặt cuốn sổ xuống, đứng dậy và từng bước một tiến về phía cửa. Cánh cửa phòng đang mở hé, vệt sáng ngoài hành lang hắt vào thành một vết cắt mảnh.
- Là mày hả Tâm? - Tôi buột miệng với giọng cố giữ bình tĩnh. Tôi tự nhủ có lẽ là thằng Tâm, hắn đang đùa giỡn như mọi khi, nhưng không có tiếng trả lời.
Tôi đẩy cửa mở rộng hơn. Hành lang dài và tĩnh lặng, không một bóng người mà chỉ có ánh sáng cuối ngày đang rút dần qua ô cửa sổ nhỏ ở cuối hành lang. Trên trần gỗ, bất chợt vang lên một tiếng cọt kẹt khe khẽ, nhẹ đến mức giống như tiếng thở ai đó vừa lướt qua ngay trên đầu.
Tôi nuốt khan, cổ họng có chút khô rát. Không khí mang mùi ẩm của gỗ và trộn lẫn với một thoáng hương kỳ lạ, vừa ngọt vừa lạnh, giống như mùi của thời gian bị bỏ quên trong một góc tối mà không ai dám mở ra.
Tôi quay trở vào phòng, tự thuyết phục mình rằng chỉ là ảo giác. Nhưng khi bàn tay chạm lại vào cuốn nhật ký, tôi lập tức nhận ra có điều gì đã thay đổi. Ánh sáng vốn còn vương trên ô cửa sổ đã biến mất hoàn toàn, không gian xung quanh tối sẫm lại một cách đột ngột, như ai đó vừa kéo phăng bức màn dày phủ lên cả căn phòng. Trước mắt tôi, mọi vật méo mó và văn vẹo, lay động như tấm gương đang bị bóp cong.
Vài âm thanh hỗn loạn tràn đến không rõ từ đâu. Tôi xoay người theo bản năng, và chính khoảnh khắc ấy, một chiếc bóng từ khoảng tối lao thẳng đến, bàn tay lạnh lẽo tóm lấy tôi nhanh đến mức tôi chưa kịp thở. Cả bầu trời sập xuống trong tầm mắt, căn phòng bị nuốt chửng vào một khoảng đen. Tôi giơ tay lên nhưng không còn nhận ra mình đang nắm lấy thứ gì, chỉ thấy tất cả vụn vỡ tan thành những đốm sáng nhỏ... rơi xuống vô tận.
Chiều hôm ấy, bầu trời nhuốm một màu xám ngọc trai, nhẹ phủ lên rặng núi xa. Trận mưa vừa dứt từ buổi trưa còn để lại những giọt nước long lanh trên lá thông, như mảnh pha lê vụn đọng lại từ một giấc mộng vỡ. Không khí ẩm lạnh nhưng vẫn mang hương đất non ấm áp, thứ hương chỉ tìm thấy trong những ngày cuối đông, khi đất trời vừa rửa sạch bụi bặm của một biến cố dài.
Đà Lạt khi ấy như vừa hồi sinh sau cơn bão, nhưng dưới làn sương và mùi cỏ ướt vẫn phảng phất dấu vết thời loạn. Khói súng cũ chưa tan hết, quyền lực từng lung lay vẫn chưa kịp bồi đắp, và những bí mật xưa chưa kịp vùi sâu.
Ẩn mình giữa rừng thông và dòng suối đá, tổ tiên dòng họ Lê đã dựng nên ngôi biệt phủ từ hàng trăm năm trước. Nơi ấy không chỉ để ẩn cư mà còn là chốn lưu giữ những cổ vật, thư tịch và vật chứng của một triều đại đã tàn. Dòng họ Lê vốn được giao trọng trách bảo vệ di vật triều đình, những thứ không thể để rơi vào tay kẻ khác, cũng không thể để thời gian xóa nhòa. Cha tôi vẫn thường nói: Từng bức tường đá và vệt rêu cũ đều mang ký ức của người đi trước, là tấm bia âm thầm cho lòng trung trinh của một gia tộc bị lãng quên.
Sau bao đời gìn giữ, giờ đến lượt thế hệ chúng tôi lại tiếp bước. Rời khỏi vùng đồng bằng biến động tìm đến vùng cao nguyên nhiều đời trước đó ẩn trú, tin rằng giữa rừng thông và đá núi, những bí mật của dòng họ Lê sẽ được bảo toàn. Cha gọi nơi đây là "tộc ấn ký ức", linh hồn của một huyết mạch không được phép đứt đoạn.
Tôi đang đứng bên lan can tầng hai của biệt phủ, tay vuốt nhẹ lớp vải rèm lụa mềm, mắt dõi theo con đường lát đá xanh, một đoàn khách đang tiến lại gần cổng. Ba người đàn ông, hai người phụ nữ, cùng một người hầu gánh hành lý phía sau.
Tôi đã được dặn từ sáng rằng hôm nay sẽ có khách quý, một nhóm học giả từ Sài Gòn đến để khảo cứu một số thư tịch cổ mà cha tôi đang giữ. Từ nhỏ, tôi vốn quen gặp những vị khách kiểu ấy, áo dài the hoặc complet sẫm màu, nét mặt nghiêm nghị, mùi mực tàu và giấy cũ phảng phất trên từng câu chào. Nhưng cha cũng thường nhắc tôi, trong thời buổi này, những vị khách ấy không chỉ mang theo giấy bút và những câu hỏi về lịch sử... đôi khi họ còn mang trong lòng lời thề cũ, tham vọng mới... hoặc những điều đen tối ẩn dưới dáng vẻ học giả.
Lớn lên trong những lời dặn đó, tôi học cách nhìn sâu vào ánh mắt người khác để đoán họ đến vì chữ nghĩa... hay đến vì kho báu và quyền lực. Và lần này... ánh mắt tôi dừng lại ở người đi cuối hàng.
Anh trẻ hơn hẳn so với những học giả mà tôi từng biết. Áo khoác vải đen giản dị, cổ quàng khăn len màu tro, tay cầm chiếc cặp da sẫm. Ánh mắt anh lặng lẽ lướt qua từng mái hiên, từng khóm cây, như muốn thu nhận mọi chi tiết vào trí nhớ. Trong cái nhìn ấy vừa có sự tò mò, vừa cẩn trọng, nó khiến tôi bất giác quên rằng mình đang là người quan sát.
Họ vào sân, những bụi Bán Linh Hoa ven lối đi đã kịp nở thêm vài chùm mới, trắng như sương, nhuộm chút tím như hoàng hôn. Khi nhóm khách tạm dừng trước bậc thềm để chờ người mở cửa, anh không nhìn ngay vào biệt phủ. Thay vào đó, anh đứng yên dưới một khóm Bán Linh Hoa, ngửa nhẹ mặt lên, có vẻ như đang lắng nghe điều gì đó ẩn trong hương thơm nhè nhẹ đang tan vào không khí.
Khoảnh khắc anh ngẩng lên, ánh mắt ấy tìm thấy tôi.
Khoảng cách từ tầng hai xuống sân chẳng xa, nhưng một lớp sương mỏng dường như chen giữa. Chúng tôi nhìn nhau qua sương chiều mờ ảo, qua những cánh hoa run rẩy, và qua sự im lặng riêng tư chưa từng chia sẻ với ai. Tôi không tránh như mọi khi, chỉ khẽ nghiêng người để tấm rèm buông thêm một chút, vừa đủ che nửa khuôn mặt. Ánh mắt anh không vội vã nhưng chắc chắn. Giống như anh đã tìm thấy điều mình chờ đợi từ trước khi đặt chân vào biệt phủ này.
Tôi nghe tiếng cha từ dưới sân cất lời mời khách vào. Mọi người bước lên bậc thềm, tiếng giày hòa trong tiếng nước nhỏ từ mái hiên xuống máng xối. Anh là người lên cuối cùng. Khi ngang qua khóm Bán Linh Hoa, anh dừng lại thoáng chốc, đưa tay chỉnh lại cổ khăn. Một cánh hoa rơi lướt qua vai, vương trên lớp vải tối màu. Anh khẽ gạt nó ra, ánh mắt dừng lại giây lát rồi rời đi, như chôn lại nơi đó một điều chưa kịp nói.
Tôi đứng yên, dõi theo cho đến khi bóng anh khuất sau khung cửa gỗ lớn. Trong lòng tôi biết, hương hoa và cái nhìn vừa nãy... sẽ còn vương lại lâu hơn bất kỳ lời chào xã giao nào.
...
Đêm biệt phủ sáng ngập ánh nến, cha tôi bày tiệc trà nhỏ trong thư phòng, mời các vị khách ngồi nghe giảng và trao đổi sách cổ. Tôi ngồi một góc, chỉ rót trà và ghi chép. Ánh nến mờ soi lên những trang sách cũ, chữ Hán chằng chịt như những đường gân lá khô. Mọi thứ quen thuộc, ngoại trừ có một ánh nhìn kiên nhẫn bám theo mình suốt buổi.
Người học giả trẻ ấy không nói nhiều. Anh chỉ lật sách, ghi chú, thỉnh thoảng cúi đầu hỏi cha tôi đôi câu. Nhưng mỗi khi tôi đi ngang qua rót thêm trà, tôi cảm nhận rất rõ ánh mắt ấy vẫn theo mình, không gấp gáp, không xâm phạm, mà chỉ một cảm giác vô hình chạm khẽ vào da thịt.
Khi tiệc trà tàn, khách tản về phòng nghỉ. Tôi nán lại thu dọn bàn trà. Nhìn theo bóng anh trong ánh sáng le lói, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ vô tình rơi xuống. Trên mảnh giấy đó là một nét vẽ vô cùng tinh tế, hình ảnh một cánh hoa đang khép nụ... là tộc ấn họ Lê.
Tim tôi bất giác đập nhanh hơn. Có lẽ không phải sự ngẫu nhiên, nó giống một tín hiệu lặng lẽ, một lời nhắn gởi vào đêm tối rằng... anh không chỉ đến vì sách cổ.
...
Từ hôm ấy, tôi bắt đầu chú ý đến anh nhiều hơn. Những vị khách khác vẫn như thường lệ, chỉ chăm chăm vào sách, vào cổ vật, vào những bản chép tay cha tôi gìn giữ. Nhưng riêng anh, sau mỗi buổi nghiên cứu, bao giờ cũng tìm cách nán lại ở thư phòng lâu hơn một chút, khi thì hỏi thêm về một đoạn chữ Nôm khó đọc, khi thì nhờ tôi tìm thêm tập sách bổ sung.
Ban đầu tôi nghĩ đó chỉ là thói quen cẩn trọng của một học giả. Nhưng càng tiếp xúc, tôi càng nhận ra những câu hỏi của anh thường vòng vèo, nhiều khi chạm vào những điều vượt ra ngoài phạm vi học thuật. Một lần, anh ngồi im lặng rất lâu trước án thư, rồi chậm rãi hỏi, giọng thấp như sợ làm vỡ cái yên tĩnh trong phòng sách.
- Tiểu thư có biết, ngọc tỉ trong sử sách không chỉ là ấn tín của vua... mà còn là chìa khóa mở ra một bí mật lớn hơn?
Câu hỏi ấy như một giới hạn chạm đúng vào sợi dây đã căng trong lòng tôi từ thuở nhỏ. Trong thoáng chốc, tôi nghe vang lên trong trí óc mình cả một cơn thác lũ ký ức. Những câu chuyện gia tộc tôi truyền lại, những bóng đêm lặng lẽ quây quanh một chiếc hòm lim khảm đồng, những lời thề máu còn ngân vang trong tai.
Ngọc tỉ... người đời chỉ thấy nó là một khối bạch ngọc, biểu tượng của quyền lực. Nhưng trong ký ức của tôi, nó không đơn thuần là ngọc. Một vật từng nằm trong tay những bậc đế vương, chứng kiến bao lần cơ nghiệp dựng rồi sụp, nghe tiếng máu đổ để giữ lấy một khối đá tưởng chừng như vô tri.
Khi Nhật vừa rút lui, đất nước chao đảo trong khoảng trống quyền lực. Triều đình Huế khi ấy chỉ còn là cái bóng nhạt nhòa trong cung điện rực sáng mà lạnh lẽo. Buổi chiều tháng Tám, vị vua cuối cùng đứng trong sân Ngọ Môn, tay trao lại long bào và ngọc tỉ cho chính phủ mới. Người ta nói khi ấy bàn tay ngài run run, không phải vì sợ hãi, mà vì cảm giác trăm năm cơ nghiệp tổ tiên giờ đã tan thành mây khói.
Ít lâu sau, khi giặc Pháp quay trở lại, những đoàn quân lê dương từ Sài Gòn ngược ra Bắc. Kinh thành run rẩy không phải bởi tiếng pháo hay tiếng súng, mà bởi hơi thở của một vận mệnh đổi thay. Quyền lực xô dạt như thủy triều, chẳng ai dám chắc ngày mai thuộc về ai. Trong cái xoáy hỗn loạn ấy, giữa những bí mật bị chôn vùi, gia tộc họ Lê lặng lẽ gánh lấy một phần hồn cốt của quốc gia.
Người ngoài vẫn nghĩ ngọc tỉ chỉ có một, và cái ấn mà nhà vua trao đi hôm ấy chính là biểu tượng cuối cùng của một triều đại. Nhưng sự thật, mọi thứ thuộc về ngai vàng luôn có hai mặt. Ngọc tỉ ấy, thứ ánh sáng mà thiên hạ trông thấy chỉ là ấn chính, dùng để truyền chiếu và hợp thức hóa quyền lực của triều đình.
Còn một ngọc tỉ khác, ẩn trong bóng tối của đêm dài, được khắc cùng thời, nhưng không bao giờ được mang ra ánh sáng, được tạo nên để phòng khi triều chính lung lay, khi ấn sáng bị cướp đoạt hay quyền lực rơi vào tay kẻ ngoại bang.
Và khi những dấu hiệu suy tàn của triều Nguyễn dần hiện rõ, vị vua cuối cùng đã âm thầm trao chiếc ấn bóng đêm ấy cho một gia tộc trung nghĩa, đó là hậu duệ họ Lê, những người từng nhiều đời cống hiến cho triều đình, lại không vướng vào tranh quyền đoạt vị. Vì họ không còn ngai vàng để giữ, nên họ được chọn làm người canh giữ ngai vàng của bóng tối.
Ngọc tỉ ấy được niêm phong bằng huyết thệ, cất trong hòm lim khảm đồng đen, khắc lời nguyền cổ.
- Ấn này không truyền cho kẻ ngồi, chỉ gửi cho kẻ giữ. Ấn còn, quốc mạch còn. Ấn mất, hồn nước đoạn.
Từ đó dòng họ Lê mang một trọng trách âm thầm đó là giữ lại hơi thở cuối cùng của hoàng triều, để nếu một ngày quốc vận nghiêng ngả, ngọc tỉ sẽ lại được giao cho người xứng đáng dựng lại giang sơn.
Tôi nhớ mãi những đêm trăng mờ, cả nhà tắt đèn, chỉ còn ngọn nến leo lét. Người lớn quỳ thành vòng quanh một hòm gỗ lim khảm đồng đen. Trên nắp hòm, hình rồng ẩn trong mây, đầu rồng không ngẩng lên trời mà cúi xuống đất, như muốn che giấu bí mật khỏi ánh nhìn phàm tục. Bà nội ngồi ở giữa, tay ôm quyển gia phả, giọng bà trầm và nặng như tiếng trống gõ vào lòng đất:
- Ngọc tỉ này không thuộc về vua chúa, không thuộc về triều đình. Nó là gốc, là chứng nhân, là sợi dây ràng buộc quốc gia với đất và máu. Ai giữ được nó, kẻ đó không chỉ cầm quyền, mà còn giữ lấy mệnh.
Rồi từng người trong họ, từ cha tôi, chú tôi, đến các bậc trưởng lão, đều rạch máu tay nhỏ vào thau đồng đặt trước hòm gỗ. Lời thề máu nối tiếp nhau:
- Ngọc tỉ mất, máu dòng họ phải trả. Ngọc tỉ còn, hồn nước còn.
Ngọn nến khi ấy chập chờn, soi rõ những gương mặt căng thẳng, ánh mắt sáng rực trong bóng tối. Qua khe hở trong lớp vải điều, tôi thoáng thấy một khối bạch ngọc, khắc những nét chữ triện cổ mà tôi chẳng đọc được. chỉ biết có mùi kim khí, lạnh, nặng nề, u uẩn, như thể cả một triều đại đang ngủ vùi trong đó.
Cha từng cúi xuống dặn tôi:
- Con hãy khắc vào tim. Chúng ta giữ ngọc tỉ không phải để hưởng vinh hoa, mà để chờ ngày đất nước có người xứng đáng. Khi ấy, nó sẽ trả về cho quốc gia. Trước lúc đó, ngọc tỉ chỉ được ở lại trong máu họ Lê.
Từ đó, tôi hiểu vì sao chúng tôi phải rời bỏ đồng bằng, lên tận cao nguyên sương phủ này. Không phải để tránh loạn, mà để giấu đi một mạch máu, một ngọn lửa chưa được phép lộ ra.
Và chính lúc người học giả trẻ kia khẽ thốt lên hai chữ "ngọc tỉ", trong tôi bỗng vang dội tiếng tim đập của khối ngọc, hòa cùng tiếng gió rít qua rừng thông ngoài cửa sổ, một âm vang vừa linh thiêng lại vừa đe dọa.