Bạn được Dngruss@99 mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
5653 2
Kiếm tiền
chiqudoll đã kiếm được 56530 đ
Đắc Nhân Tâm Thuật Ứng Xử Và Thu Phục Lòng Người

Tác giả: Chiêm Trúc

Thể loại: Kỹ năng sống


53734852385_ae5e2b56cd_o.jpg

MỤC LỤC:

ĐỂ CHUẨN BỊ MỘT NHÂN CÁCH


- Kiên nhẫn

- Giản dị

- Làm việc

- Danh dự

- Điều độ

- Đọc sách

- Lời hứa

- Tính can đảm

- Tiền bạc

- Đau khổ

- Bạn bè

- Thành thật

- Nghe

- Nói

- Nét nhìn

- Nụ cười

- Hoạt kê

- Nghi ngờ

- Thành kiến

- Khen chê

- Nóng giận

- Khiêm tốn và khoe khoang

 
Chỉnh sửa cuối:
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
KIÊN NHẪN

Hãy chịu đựng chứ đừng kêu than những gì không thể thay đổi được. (P. Syrus)

Kiên nhẫn là đức can đảm thứ hai của con người. (Antonio de Solis)

Kiên nhẫn là nghệ thuật của hy vọng. (Vauvenargues)

Đường dài trăm dặm, đã đi được chín chục, cũng chỉ một nửa. (Chiến Quốc sách)

Cố công mài sắt có ngày nên kim. (Tục ngữ Việt Nam)

Bất hạnh thay những ai không có tính kiên nhẫn. (Shakespeare)

Không phải là sức mạnh mà là lòng kiên nhẫn đã làm nên những công trình vĩ đại. (S. Johnson)

Sự kiên nhẫn đối với tâm hồn giống như một kho tàng giấu kín. (S. Syrus)

Trong chúng ta ai không trải qua một chặng đường học tập? Từ khi học, a, b, c cho đến khi đọc thông viết thạo chúng ta đã cố gắng kiên nhẫn một cách đáng phục. Nhiều người lầm tưởng "sự đi" là đức tính trời sinh! Không phải! Nếu các bậc phụ huynh không tập trẻ đi thì trẻ sẽ đi bằng "bốn chân" cho mà coi! Đây mới là bài học kiên nhẫn đầu tiên của loài người.

Thế là mỗi chúng ta đã trải qua hai bài thử thách về đức kiên nhẫn rất quan trọng.

Đến nay vẫn có những người không biết chữ i chữ tờ, phần lớn không phải vì bố mẹ họ không đủ điều kiện cho con đi học mà là bố mẹ quá nuông chiều con, không tập con đức tính kiên nhẫn để đến trường. Ngoài ra còn một ý nghĩa khác, những vị đó không coi sự học là quan trọng.

Đức kiên nhẫn không phải dành riêng cho con người. Thiên nhiên cũng có một "tính kiên nhẫn" rất lớn. Các loài động vật sinh trên Địa Cầu có khi phải đợi đến hàng triệu năm. Những loài sinh vật cũng biết phục kích để con mồi đi qua.

Cách đây gần 2500 năm, Liệt Tử viết bài "Ngu Công đục núi" với nội dung: Ông lão họ Ngu ở trong xó núi, mỗi lần muốn ra ngoài phải đi vòng quá xa. Vì vậy Ngu Công quyết định phá núi. Số đất lấy ra từ núi phải đựng vào thúng đội đi đổ, phải mang đến biển Bột Hải đổ. Từ nơi phá núi đến biển Bột Hải khứ hồi phải mất cả năm mới xong một chuyến. Người đương thời cho Ngu Công là ngu dốt. Nhưng Ngu Công giải thích: "Phá núi đâu có chuyện gì là khó? Đời tôi làm dĩ nhiên là không xong, nhưng đời con cháu, đời chắt rồi con cháu của con cháu chắt phải xong". Ý của Liệt Tử muốn nhấn mạnh đến đức kiên nhẫn.

Các bậc danh nhân, vĩ nhân, giáo sư, y sư, học giả.. có ai là không có tính kiên nhẫn? Descartes nói: "Thiên tài là sự kiên nhẫn lâu dài". Tài năng nào cũng kinh qua một sự tích lũy. Cho đến các thương gia, tỷ phú cũng phải theo quy tắc đó. Các vị giáo chủ, chưởng môn cũng không ngoài, các nhà thôi miên, Fakir, pháp sư, võ sư cũng bất ngoại. Chúng ta tại sao không theo gương các vị trên mà tập tính kiên nhẫn. Nhà Phật nói: "Những vị Phật đã trải qua hằng vô lượng kiếp". Không ai mà tự nhiên đạt tới mức thượng thừa. Muốn có một nội lực thâm hậu ai nấy cũng đều đi vào con đường công phu. Lòng kiên nhẫn nén lại thành đực hàm dưỡng. Nhiều công trình phải đòi hỏi thời gian dài cả đời người, nếu không có dức kiên nhẫn để chịu đựng thì làm sao làm việc đến nơi đến chốn. Mọi bà mẹ đều cưu mang nặng hơn chín tháng mới sinh.

Các nhà địa chất nói rằng, lục địa Nam Mỹ nguyên là một vùng đất của Tây Nam Châu Phi (nếu các bạn không tin thì cứ lấy bản đồ thế giới ra cắt vùng đất Nam Mỹ rồi ráp với vùng lục địa đó là vùng lục địa trôi, vận tốc trôi là 2cm/năm! Hiện nay chúng cách nhau trên 10.000km)

Trước năm 1975 ở Phan Thiết có một vị thầy giáo tên là Phạm Văn Thuận có tài viết chữ giống như in. Nếu đưa cho ông một trang sách và một tờ giấy trắng của trang sách đó, ông sẽ viết trang sách ấy, người ta sẽ không phân biệt được trang nào là in, trang nào là viết, nhưng không phải viết tay trong chốc lát là được. Thế mà ông kiên nhẫn sao lại bộ ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ của Huỳnh Tịnh Của (gần 2000 trang) trong 10 năm. Và bộ sách sau này có triển lãm cùng với bộ nguyên bản ở Đà Lạt.

Một ngôi chùa ở Rangoon được coi là kỳ công là do bàn tay của một nhà sư tạo dựng nên từ lúc nhà sư 15 tuổi cho đến năm 85 tuổi (1962) mới tạm coi là hoàn thành! Bạn biết kinh thành La Mã đâu phải xây dựng trong một ngày? Đền Potala ở Lhassa đâu phải xây dựng trong một thế kỷ? Vạn Lý Trường Thành đâu phải riêng công trình của Tần Thủy Hoàng?

Xương của các cổ sinh vật đến nay đã hóa thạch. Tô Thị kiên trinh bồng con lên núi đợi chồng cũng đã.. hóa thạch! Tuy là chuyện cổ tích, nhưng phải hiểu đó là tấm lòng thiết thạch của con người!

Trong vấn đề làm kinh tế ta thấy lòng kiên nhẫn của người Hoa thật đáng nể. Hiện nay có nhiều người đạt "danh hiệu" tỷ phú, thời chế độ cũ, ban ngày họ đi lượm ve chai, ban đêm họ đi bán từng quả cóc. Công phu ấy cũng khó khăn như Trần Huyền Trang đi từng bước sang Tây Trúc thỉnh kinh!

Phải có tấm lòng độ lượng và can đảm mới "chạm mặt" với kiên nhẫn! Bộ mặt của kiên nhẫn thật quái gở, hắn như một tên phù thủy, có lúc đẹp đẽ như một tiểu thư (đó là những công việc ngắn hạn), có lúc gương mặt hắn tua tủa những gai góc, trợn mắt há mồm (đó là những công trình dài hạn), ta phải tha thứ cho chính mình và yêu thương nhiều người và lách vai chen tới! Tập tính kiên nhẫn (kiên trì, kiên gan, kiên quyết, kiên cường, kiên tâm, kiến chí) bắt đầu từ công việc hàng giờ, rồi hàng ngày, hàng tháng dần dần bước qua những công trình hàng năm.

Nhiều nhà toán học ở thế kỷ 17, 18 dám bỏ cả cuộc đời để đi tìm số (pi) chẳng hạn như Ludorff, Mestius, W. Shank, F. Viète chỉ đúng đến vài chục số lẻ thập phân.

Đức kiên nhẫn chẳng những giúp ta khắc phục mọi việc khó khăn, nó còn giúp ta chinh phục được những người khó tính. Lòng kiên nhẫn càng làm tăng thêm tính lịch sự. Có một người nói chuyện rất dở. Nhưng nếu bạn đừng sợ tốn thì giờ quý báu của mình, cứ can đảm nghe họ nói chuyện, trước là tập mình tính kiên nhẫn, sau là giữ phép lịch sự trong việc xã giao, bạn sẽ không mất gì mà còn được lợi nữa là khác.

Tính kiên nhẫn là một trong những đức tính khó luyện nhất, bởi vì nó phụ thuộc vào tính khí của mỗi người. Tính khí của mỗi người thì phụ thuộc vào chất máu của mỗi người. Máu của mỗi người ở vào một trong 4 nhóm: A, B, O, AB. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp các nhóm máu ấy tự thay đổi chứ không phải cố định như ta từng lầm tưởng. Ý chí là quyết định mọi việc. Bạn thường nghe người ta nói: "Tôi không đủ kiên nhẫn để nghe..", "Tôi không đủ kiên nhẫn để chờ..". Xin rỉ tai với bạn, đừng bao giờ sử dụng câu nói trên, mà phải nói ngược lại: "Hôm nay tôi rất hân hạnh được ngồi nghe anh nói..", "Thật là quý hóa, anh đã cho tôi những giây phút hữu ích..".

Muốn tập tính kiên nhẫn điều đầu tiên nhất là không nên nôn nóng. Nôn nóng là tính bốc đồng làm ta mất tính kiên trì, mất tính liên tục. Nếu bạn đang bận việc gì quan trọng lắm, không chiều được nữa, nên chọn một thời gian nào thích hợp cho đôi bên, khéo léo hẹn gặp lại. Muốn tập tính kiên nhẫn bạn nên sử dựng nhiều về tính im lặng. Có những lúc tính im lặng và tính kiên nhẫn như dồng nghĩa với nhau.

Và sau cùng để giúp bạn nắm vững được tính kiên nhẫn là bạn nên "đem sự kiên nhẫn ra để rèn luyện đức kiên nhẫn".

* Chúng ta đã thể hiện được tính kiên nhẫn đầu tiên từ lúc chúng ta tập đi và tập nói. Đó là bài học kiên nhẫn đầu tiên mà thiên nhiên đã ngầm dạy cho loài người.

* Tính kiên nhẫn không độc quyền cho riêng ai. Mọi người đều phải ý thức để rèn luyện lấy.

* Muốn tập tính kiên nhẫn phải can đảm, độ lượng và không được nôn nóng, phải dùng nó để rèn luyện nó, giống như dùng búa sắt để rèn luyện sắt thành những vật dụng hữu ích.

* Đức kiên nhẫn giúp ta khắc phục được mọi khó khăn còn giúp ta chinh phục được những người khó tính.

* Kẻ có đức kiên nhẫn chưa cần làm việc sự thành công đã đến với họ hơn một nửa rồi.
 
Chỉnh sửa cuối:
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
GIẢN DỊ

Chân thành và giản dị là cách cư xử khôn khéo nhất. (La Bruyère)

Giản dị không phải là sự ngu dốt mà nó là mảnh đất của trí khôn và tài năng. (Bonald)

Tích cực - giản dị là điều rất phong vị và rất hiếm có. (E. Bersot)

Ngay trong khoa học cũng cần đòi hỏi đến sự giản dị. (K. D)

Giản Tắc dị tùng (giản dị thì dễ theo). (Kinh Dịch)

Quân tử chi đạo, đạm nhi bất yếm, giản nhi văn (đạo người quân tử tuy đạm bạc nhưng không chán, giản dị mà có văn hóa). (Trung Dung)

Một trong những nết tốt rất quý báu của con người là có một cuộc sống giản dị. Đừng tưởng sự giản dị chỉ dành cho những nhà tu hành. Xưa nay biết bao danh nhân sống trong sự giản dị đến nỗi có người đánh giá.. "Ông ấy là một kẻ thất nghiệp".

Truyện kể đại văn hào L. Tolstoi (1828-1910) một hôm ông đến một đại hí viện để xem người ta diễn về một bản kịch của mình theo lời mời của vị giám đốc đoàn kịch. Tolstoi ăn mặc giản dị theo bản tính cố hữu của mình, người gác cổng không biết ông là Tolstoi, ngăn lại không cho ông vào, nói:

- Bác hãy đi nơi khác, đêm nay có tác giả đến tham dự, lại có những nhà danh giá khác nữa. Âu là bác hãy đợi đêm khác vậy.

Léon Tolstoi không hề phiền, liền bước ra ngồi ở ghế đá bên ngoài.

A. Einstein, Goethe, Tagor.. đều là những bậc vĩ nhân có cuộc sống rất giản dị. Giản dị không phải là tính cẩu thả, ngược lại sống có thứ tự và ngăn nắp.

Giản dị không phải riêng cho cách phục sức, mà nói rộng cho cách sinh hoạt hàng ngày, từ ăn uống, ngôn ngữ cho đến các bộ môn thuộc về văn hóa.

Trong việc ăn uống, giản dị chính là sự đạm bạc, điều độ, trong ngôn ngữ, câu văn, trong lời nói giản dị là tính trong sáng, dễ hiểu, dễ nhớ.. thậm chí trong bộ môn toán học tính giản dị cũng được đánh giá cao.

Tính giản dị đã giúp cho con người thanh thản, nhẹ nhàng xóa bỏ được những ưu tư phiền toái.

Xưa nay người ta tốn nhiều thì giờ cho những cuộc ăn mặc, họ thường trang điểm thân xác, ít ai chịu khó trang điểm tinh thần. Thế nhưng nhờ tính giản dị đó mà tinh thần coi như đã được trang điểm.

Giản dị trong cuộc sống nó còn đồng nghĩa với sự khiêm tốn, đồng nghĩa với sự độ lượng. Người có tính giản dị họ không có để câu chấp bắt bẻ những việc nhỏ nhặt, trái lại họ đủ sức để cảm thông những lầm lẫn vô tình của người khác.

Cũng cần phân biệt, giản dị với lập dị. Lập dị là cái thói cầu kỳ muốn mình khác với mọi người, là tính muốn "làm nổi" cho mọi người chú ý mình là nhân vật đặc biệt. Thật ra, nếu công tâm mà xét, những người mang tính lập dị là bởi họ thèm khát sự nổi tiếng, họ thèm khát một sự "ngạc nhiên có kính trọng" của người khác đối với họ, nhưng họ quên đi một điều rất cơ bản, chính họ là một kẻ rỗng tuếch và họ tự khinh bỉ họ trước.

Người giản dị đã có sẵn một tính tự nhiên, ai phục, ai không phục họ đâu có bận tâm đến? Tự họ đã có đực viên dung vô ngại, tự họ đã đảm bảo một chân giá trị của họ.

Trong thời chiến người ta có kể một câu chuyện rất thú vị. Một vị tướng quân mặc quân phục nhưng không đeo quân hàm, đi bộ đến một đơn vị X để thanh tra. Vị tướng ấy đến bờ sông gặp một thượng sỹ già đi công tác, muốn qua sống nhưng ngại sông sâu, sợ ướt y phục mình. Thượng sỹ thấy anh linh kia mừng quá hỏi:

- Ê! Chú mày đi đâu?

- Về X!

- Ồ! Thế thì may quá! Tớ xuống công tác ở X, trong túi có nhiều giấy tờ, chú mày làm ơn cõng tớ qua sông.

Anh lính kia mỉm cười kê vai cõng anh thượng sĩ qua sông. Sau đó anh lính chào vị thượng sỹ rồi rẽ lối. Mấy hôm sau, vị thượng sỹ mới biết anh lính cõng mình qua sông chính là tướng Nguyễn Chí Thanh.

Nếu gặp một người không có tính giản dị, chắc chắn anh thượng sỹ sẽ bị giảng đạo đức một hồi.

Lại một chuyện khác, một viên sỹ quan trẻ trong nhà ga đi ra, dọc đường muốn gọi điện thoại về nhà nhưng không có đúng loại tiền để bỏ vào hộp điện thoại. Viên sỹ quan thấy một anh lính già bên kia đi lại, liền vội hỏi:

- Anh có tiền đổi tôi 10 pence không?

Người lính nói:

- Chờ chút tôi xem thử có giúp anh được không?

Người lính liền cho tay vào túi. Viên sỹ quan trẻ cau mày tỏ vẻ khó chịu, nói:

- Anh không biết cách nói chuyện với một sỹ quan à? Nào, bây giờ chúng ta thử bắt đầu lại: Này anh lính, anh có tiền đổi cho tôi 10 pence không?

Người lính chào cái "cụp" đáp ngay:

- Thưa ngài, không!

Rồi bỏ đi. Buổi ấy viên sỹ quan tìm được 1 pence để gọi điện thoại thì mọi việc trễ mất! Rất tiếc!

Sự rườm ra nhiều khi có nghĩa là hợm hĩnh, cửa quyền hoặc lố bịch. Có môt chuyện xin chép ra đây để chúng ta rút lấy một chút kinh nghiệm trong phép xử thế.

Hồi ấy ở thị xã QN có những trường trung học lớn, có trường Sư phạm (hai năm). Thể lệ để vào sư phạm là chỉ cần có tú tài I thì thi vào. Năm ấy chúng tôi chuẩn bị thi phần II. Chúng tôi đến sở y tế khám bệnh. Ngoài cửa phòng khám có đề biển "Nơi khám bệnh cho giáo sư, sinh viên, học sinh". Chúng tôi ngồi đợi đến lượt mình, bỗng có ba nàng giáo sinh sư phạm (năm đầu cứ nhìn bảng tên trên áo thì biết rõ tên, trường, lớp) bước vào. Một cô hỏi:

- Này anh, nơi khám bệnh cho bọn giáo sinh chúng tôi đâu?

Tôi đáp:

- Cũng là tại phòng này!

Hồi đó đám sư phạm hách xì xằng lắm! Họ hách xì xằng cũng phải bởi vì kiếm cái tú tài I gay go lắm, huống chi đây họ đã vào sư phạm. Còn bọn này mới đang học lớp Đệ Nhất. Một cô áo hồng khẽ nhíu mày liễu (đẹp thì có đẹp nhưng quá kiêu) nói:

- Không, không! Chúng tôi là giáo sinh chứ không phải học sinh!

Anh bạn ngồi bên cạnh tôi tức mình (nhưng vẫn ôn tồn) nói:

- Vâng! Ba cô đi cuối dãy hành lang này, quẹo phải, đó là nơi khám cho giáo sinh!

Ba cô cảm ơn rồi hớn hở đi ngay. Bạn tôi nói:

- Ai không hiểu họ là giáo sinh sư phạm. Thầy của họ còn khám nơi đây huống gì các cô ấy? Phách và kiêu cũng vừa phải thôi. Nơi đó có một dãy W. C tha hồ các cổ khám!

Người khó tính hầu hết là người thiếu đức tính giản dị. Người khó tính tổ chuốc lấy sự phiền phức.

Ở một chung cư nọ có một cô sinh viên năm cuối, đến mướn một căn phòng yên tĩnh để học, thế nhưng cô lại hay rủ các bạn về đó hát và nhảy. Người trong chung cư thấy cô đẹp và trí thức cũng có phần nể nang. Phòng trên của cô đang ở có một cặp vợ chồng già phải dọn đi vì không chịu được tiếng nhạc và tiếng hát của phòng dưới. Một thanh niên độc thân dọn đến đó ở.

Lúc 3 giờ sáng cô sinh viên giật mình thức dậy vì nghe có tiếng chó sủa của phòng trên. Cô sinh viên tức mình gọi điện thoại lên mắng:

- A lô! Tôi là sinh viên năm cuối cần sự yên tĩnh để nghỉ ngơi và học tập. Nếu ông còn để chó của ông tái phạm nữa thì tôi sẽ nói với ông tổ trưởng tống cổ cô ra ngay.

Cô nói xong tắt máy không đợi bên kia trả lời. Ba giờ sáng ngày hôm sau có tiếng điện thoại reo, cô sinh viên dậy nghe máy:

- A lô! Cô sinh viên thân kính! Mới dọn nhà tới tôi cứ tưởng cô là một ca sĩ. Xin lỗi trên phòng tôi không nuôi chó. Chính tôi cũng cần một sự yên tĩnh như cô.

Chỉ cần ngày hôm sau, cô sinh viên kia nhận ra vị khách trên là một trong những giáo sư đang dạy mình.

Đáng nhớ:

*Tính giản dị giúp người ta được thanh thản, nhẹ nhàng, xóa bỏ được những ưu tư, phiền muộn.

* Giản dị là một cách trang điểm cho tâm hồn cao đẹp.

* Người thiếu giản dị đa phần là khó tính.

* Tính giản dị rất dễ thích hợp với mọi hoàn cảnh.
 
Chỉnh sửa cuối:
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
LÀM VIỆC

Tất cả những ai ăn không ngồi rồi đều là những kẻ ăn cắp. (J. J Rousseau)

Sự làm việc có ba ích lợi lớn: Không buồn nản, không có thói hư, tránh được sự nghèo túng. (Voltaire)

Người bạn tốt nhất của ta vẫn là sự làm việc. (Harleville)

Sự làm việc là món ăn của những tâm hồn thanh cao. (Sénèque)

Đừng hẹn đến ngày mai những gì bạn có thể làm được hôm nay. (Franklin)

Con ong không có thì giờ để buồn. (W. Blake)

Thần nghèo có thể đi qua cửa nhà người siêng năng nhưng không dám vào. (Franklin)

Sự làm việc là chức năng thiên phú của mọi sinh vật. Mọi sinh vật đều có tăng trưởng tất nhiên phải có làm việc. Cho đến cây cối cũng phải làm việc. Hoa hấp thụ ánh sáng và nhiệt độ để tạo màu sắc và mùi hương, lá làm nhiệm vụ hô hấp, rễ hút những chất dinh dưỡng, thân cành có nhiệm vụ chế biến thức ăn.

Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn không một sinh vật nào được phép "lười biếng". So với mọi loài, con người được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều, thế mà vẫn có kẻ thích ngồi không mà hưởng thụ, chứ không chịu làm việc, thế có đáng buồn không?

Chúng ta không nói theo ngụ ngôn, dẫu con gà đứng trên sân lúa, chỉ cần mổ là có lúa ngay, thế mà nó vẫn bươi xới. Hình ảnh tự nhiên ấy đáng để ta suy ngẫm.

Ngay thẳng mà nói, chưa từng có một người nào sống mà không làm việc, nhưng vấn đề làm việc ở đây đòi hỏi một sự tận tâm, một sự cầu tiến. Sở dĩ loài người tiến bộ là do đại đa số làm người có tinh thần cầu tiến, học hỏi.

Bạn làm việc cho chính bạn hay làm công cho người khác, giá trị ở chỗ làm tận tình hay không? Theo kinh nghiệm, ai tận lực tận tâm thì sẽ tìm thấy một sự thú vui và xóa được những ưu tư. Và sung sướng hơn nữa, chính mắt bạn trông thấy thành quả của bạn đã làm ra. Chúng ta lấy sức và óc ra làm việc, nên việc ta làm đó dường như có thần, có hồn. Người ta thường ca ngợi một bài thơ hay, họ nói: "Bài thơ có hồn", "Bài thơ có thần".. Không riêng gì bài thơ, bức tranh hay một tác phẩm nghệ thuật nào khác, sự làm việc bền bỉ với một tấm lòng nhân hậu cởi mở thì thành quả của bất kỳ người nào cũng đều có thần cả. Đại điêu khắc gia Rodin (1840-1917) nói: "Cõi đời này chỉ thật sự sung sướng khi mọi người đều có tâm hồn nghệ sĩ, nghĩa là vui vẻ làm công việc của mình".

Đó là nói chung, còn phân tích hai tiếng "làm việc" thì thiên hình vạn trạng! Trẻ sơ sinh cho đến khi biết đi, "công việc hàng ngày" của chúng là do chức năng thiên phú của thiên nhiên: Bú, cử động, khóc, bài tiết. Từ biết đi đến 6 tuổi, ăn, ngủ, chạy chơi, bắt chước. Sau đó chúng đến trường. Học tập là sự làm việc của các em. Khi vào đời, người nào cũng phải kiếm một vài nghề thích hợp với sở năng của mình. Một nông nhân phải biết cày cấy, vun xới, nghề phụ là đan lát. Một ngư phủ phải biết đánh cá bắt tôm, bơi lội, nghề phụ là việc đan lưới, vá lưới. Một nhà giáo ngoài việc dạy dỗ học trò, giờ rảnh giúp vợ con cho công việc gia đình hằng ngày trôi chảy. Các công nhân viên chức đều theo một thể thức như vậy lại còn tùy theo khả năng và hoàn cảnh mà gia giảm. Ai ai cũng có việc làm. Cũng có lý do, họ có khả năng, nhưng chưa có (chứ không phải không có) nơi nào chịu nhận, còn làm những nghề vụn vặt thì số tiền kiếm được không đủ chi tiêu trong gia đình, hơn nữa nghề họ làm tạm không phù hợp với sở trường.

Ở đây chúng tôi không bàn đến cách "tìm việc làm", nhưng xin giúp cho quý bạn một ý kiến: Cây cối đứng yên một chỗ không có tay chân, không miệng mắt thế mà chúng vẫn sống một cách ung dung tươi tốt, trổ hoa sinh quả truyền tử lưu tôn. Một người khuyết tật còn có việc làm huống gì chúng ta?

Người đời có những thành ngữ về cách làm việc: Chân cứng đá mềm, đổ mồ hôi rơi nước mắt, thức khuya dậy sớm, chân lầm tay bùn, đầu tắt mặt tối.. là những thành ngữ nói về sự vất vả trong lao động, thế sao ở đây lại nói lấy sự làm việc làm vui?

Bạn hãy nhìn kìa, những người tàn tật đi rất nhiều trên các đường phố, nếu họ không làm việc thì lấy gì sinh sống? Chúng ta được lành mạnh mà phung phí sự lành mạnh ấy, không uổng sao? Trên đời này thật sự mà nói không một người nào mà không khổ cả. Dù họ là vị quốc trưởng, dù họ là nhà tỷ phú.. Vị quốc trưởng cũng phải lao tâm lao lực, đem hết khả năng mình ra làm sao cho quốc phú dân cường, nhà giàu họ cũng khổ sở, vì lo của cải của mình có thể bị trộm cắp, con cái vì số tài sản đó mà xung đột lẫn nhau. Những người "đa thê" cũng khổ sở đến điên đầu.. tựu chung, những nỗi khổ chính đáng đó là những nếp nhân bản chúng ta không được quyền trốn tránh. Nếu trốn tránh những nỗi khổ thông thường đó thì sẽ gặp những điều khốn khổ do hậu quả, tấn công ngay.

Bạn thử bước vào đồn công an nào đó, hoặc xem báo hàng ngày hoặc xem ti vi bạn sẽ thấy "lệnh truy nã", đó mới thật sự là khổ! Cái khổ của chúng ta là nhiệm vụ, là bổn phận, là lương tâm, nên qua một ngày làm việc, ta ung dung nghỉ thoải mái hoặc vui đùa với vợ con. Một thằng Vọi hay một thằng Bờm nào đó dẫu nó có ung dung một lúc rồi nó cũng phải lo vác chèo, cầm quạt đi làm công việc của nó, có nghĩa là tuy nó ngờ nghệch chất phác, nhưng cuối cùng nó vẫn sống như ta.

Xem thế, cái khổ vì làm việc và cái khổ vì lo sợ, chắc chắn ta vui vẻ mà chọn cho mình sự làm việc.

Cho đến nay y học vẫn chưa tìm ra loại thuốc chữa chứng ưu tư. Các nhà phân tâm học sau một thời gian dài nghiên cứu đều đồng ý lấy công thức cổ điển: Chỉ có làm việc mới chữa được những chứng bệnh tâm lý.

Chúng ta không phải đợi đến lúc buồn mới làm việc. Hãy khởi sự làm việc bằng những việc gì bạn thích làm, có lợi cho mọi người.

* Ai tận lực, tận tâm sẽ tìm thấy sự vui thú trong việc làm của mình.

* Mọi thành quả của công việc đều "có thần" miễn là có lương tâm tham dự vào việc làm đó.

* Ai ai cũng có việc để làm!

* Cây cối không có tay chân, miệng mắt như người mà vẫn sống được.

* Làm việc là thú vui rất cao quý của người lương thiện.

* Châm ngôn của tôi: Làm việc! Và phải làm nhiều hơn hôm qua.
 
Chỉnh sửa cuối:
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
DANH DỰ

Danh dự là viên kim cương mà nàng "Đức hạnh" đeo vào tay. (Voltaire)

Người ta có thể bắt tôi sống không hạnh phúc chứ không thể bắt tôi sống không danh dự. (P. Corneille)

Người bị ô danh coi như đã chết một nửa. (Heywood)

Ai muốn phá danh dự của người khác coi như tự hủy danh dự của mình. (P. Syrus)

Danh dự là mũi nhọn kích thích đức hạnh, chứ không phải bàn đạp cho lòng kiêu hãnh. (Ch. Cahier)

Ai đã đánh mất danh dự rồi thì không còn gì để mất nữa. (P. Syrus)

Danh dự và đạo đức là đôi bạn thiết cốt luôn luôn song hành. (De Maistre)

Danh dự cũng có một bước lùi lớn nếu ta thay đổi nó. Nên ta phải điều hành cuộc sống của mình như thế nào để hợp với mọi người. (Spinoza)

Tốt danh hơn lành áo. (Tục ngữ)

Danh là khách của thực. (Trang Tử)

Những việc nghĩa đều làm âm thầm. Kẻ tiểu nhân háo danh, nên việc làm của hắn không phải vì nghĩa mà là muốn phô trương. (Mặc Tử)

Hủy hoại thanh danh của người là một tội ác to nhất. (Hérodote)

Khi danh nhơ ra đến biển thì thanh danh chạy vào nhà. (Sauve)

Tâm lý chung của loài người là không ai chịu kết thân với người mất danh dự, dẫu cho kẻ đã từng tự chà đạp danh dự của mình cũng không ra ngoài tâm lý đó. Cho nên tôn trọng danh dự không phải là một nghĩa vụ mà là một trách nhiệm tất yếu. Loài người đi đến một nền văn minh cao là nhờ có một văn hiến chung vượt lên trên những luật lệ của quốc gia. Trọng danh dự là một thành viên của nền văn hiến đó.

Danh dự không thể xin mà có được. Cũng có trường hợp danh dự nhờ tiền bạc mà có! Mới nghe đến đó có người vội quy kết, đó là phi danh dự. Không phải! Có tiền bạc đâu phải chuyện dễ? Đòng tiền gắn liền mồ hôi. Không có lương tâm làm sao có được tiền bạc? Lương tâm chính là cơ sở để hình thành danh dự.

Người ta không thể hình dung danh dự là một hột, một viên, một cái.. mà nó là một chuỗi liên tục kéo dài và luôn song hành với thời gian. Người Arménie cho rằng "thanh danh là một xâu chuỗi ngọc" vừa phát ra ánh sáng dịu dàng vừa phát ra tiếng kêu thanh cao. Hiểu như vậy để tiến thêm một bước: Cũng là ngọc nhưng chia làm hàng trăm loại khác nhau, thì danh dự cũng có thứ bậc của nó. Gọt đá ra để lấy ngọc. Được ngọc rồi vĩnh viễn ngọc không thể hóa đá, mà nó chỉ có thể vỡ đi. Một người bình thường có công tu thân, kết đức kiên trì làm những việc lương thiện tích lũy được tiếng thơm, có khác nào đẽo đá lấy ngọc? Nhưng đột nhiên người ấy trở chứng làm những việc gàn dở, phủi sạch hết uy tín, người ấy không phải trở lại buổi ban đầu, mà anh ta sẽ bị xã hội coi là loại cặn bã chẳng khác nào bụi cám của viên ngọc vỡ. Ai cho phép lấy công chuộc tội? Danh dự không phải là một loại điểm, nó là kết hợp nhãn quan của mọi người được mặc nhiên công nhận.

Danh dự có được là kết tụ những việc làm vô vụ lợi, người đứng ra làm việc với lòng tinh khiết có khác gì một tu sĩ?

"Không gì che chở những đứa con nhỏ nhoi bằng thanh danh của bậc cha mẹ." (Nữ bá tước C. Fée)

Họ tự nguyện làm những việc lương thiện, chăm chút, chuyên cần, chắt mót những thành quả nhỏ nhoi bằng những giọt mồ hôi, và với những nụ cười hồn hậu để góp chút công với láng giềng. Người có căn bản hơn, làm những việc lớn hơn nhưng vẫn với tấm lòng độ lượng vị tha. Những tinh túy ấy chính là chất ngọc, chính là danh dự!

Một thầy giáo đem lương tâm ra giảng dạy học trò của họ trên bục giảng và có thể ho ra máu sau nhiều năm giảng dạy, thầy chỉ lãnh một số lương khiêm tốn do nhà nước quy định không hề phàn nàn, đó là ông thầy có lương tâm, danh dự từ đó mà có. Học trò lẫn phụ huynh đều kính trọng.

Một ông phu trường mưa nắng vẫn có mặt, vẫn thường xuyên nhắc nhở các cháu trật tự, vẫn thường xuyên mang phấn, mang nước cho thầy, vẫn luôn che chở giữ gìn mọi thứ thuộc về nhà trường, ông phu trường ấy không có danh dự sao? Không đáng kính phục sao?

Suy ra một nông phu, một chiến sỹ, cho đến người quét chợ địa vị của họ tuy thấp hèn, nhưng họ làm hết chức trách của mình, thì danh dự từ nơi họ toát ra mà những người đồng nghiệp tận mắt chứng kiến. Đó là chân danh dự, một thứ danh dự cao quý, không ai xin mà có, không ai ban mà được. Bằng cấp để ban khen cho loại danh dự này chỉ là thứ giả mạo, trịch thượng, phi nhân.

Trái lại cũng có kẻ dùng thủ đoạn để mua danh, việc làm của họ hết sức gượng gạo, bỏ ra một ít của phi nghĩa góp vào trong việc bố thí, rồi đánh trống thổi kèn loa rao rùm lên để cho mọi người biết, mọi người trầm trồ, mọi người ca tụng. Mặc Tử một đại triết gia chủ trương thuyết Kiêm Ái trước đây hơn 2300 năm đã nói: "Những việc nghĩa đều làm trong âm thầm. Kẻ tiểu nhân háo danh, nên việc làm của hắn không phải vì nghĩa mà là muốn phô trương."

Có người còn tệ hơn, chưa hề làm một việc thiện có lương tâm tham dự, dựa dẫm vào đâu đó cũng vỗ ngực xưng danh. Đó chẳng qua là loại xôi thịt.

"Khi một thực khách được mời mà tự nói về danh dự của mình, thì người chủ nhà phải đếm lại những cái muỗng nhỏ trong nhà." (Emerson)

Nhưng ta bận tâm làm gì đến những người háo danh đó? Bạn có chút lòng xót thương đến kẻ cùng khổ, cũng có giá trị rồi. Không cần phải thi nhân bố đức, miễn đừng vi phạm những luật lệ đã cấm, những điều mà luân lý và đạo đức không cho phép, cũng đủ đảm bảo cho mình một danh dự lớn rồi! Cổ nhân có câu: "Con gái giữ thân, con trai giữ danh" là cũng có ý như vậy.

Sống lương thiện là sống cho con mình và sống với mọi người. Cố nhiên người đời ai cũng thích kết thân với một người lương thiện. Cho đến một kẻ đại gian ác cũng muốn chơi thân với một người lương thiện.

Trước đây có bộ phim "Le Ciel du Plomb" (Trời khói lửa), nội dung có thể tóm tắt như sau: Một tên đại bịp bợm gian ác ở miền Viễn tây Texas từng gây không biết bao tội lỗi. Hắn đi xứ nào cũng giết người và lường gạt. Một hôm hắn gặp một anh chàng nhà quê, vàng bạc bỏ vào trong túi rách, xuống phố trù mở ra một cửa hàng buôn bán làm ăn. Anh chàng nhà quê bản tính thật thà nên dễ tin người. Tên gian ác kia mon men tới làm bạn. Bao nhiêu vàng bạc của anh nhà quê này hắn đoạt hết. Đến chừng sạch tay rồi anh chàng nhà quê mới biết mình bị điếm, bèn âm thầm rời bỏ tên lưu manh đó về quê. Dọc đường không có tiền nên phải kiếm ăn lần hồi. Gã lưu manh trở lại thui thủi một mình, dẫu có tiền bạc cũng không dám vung vãi vì hắn đang bị truy nã. Lòng hắn vẫn nhớ anh chàng nhà quê này, hắn bèn đi tìm anh ta và gặp được. Hắn năn nỉ chàng nhà quê theo hắn. Chàng nhà quê lắc đầu và nhắm núi rừng mà đi. Bây giờ họ cách nhau một thung lũng. Chợt tên lưu manh khóc và hét lớn "John ơi! Chờ tao với!". Hắn bươn bả chạy theo. John đứng lại chờ. Đến nơi hắn nắm tay John nói: "Xin anh đừng bỏ tôi". Và họ là đôi bạn tốt với nhau.

Câu chuyện này đã nói lên một người có lòng tự trọng, dù họ có sống nghèo chăng nữa nhưng danh dự của họ toát ra như một điệu nhạc êm dịu, ai nghe cũng cảm thấy dễ chịu.

Một người có tài mà thiếu lòng tự trọng thì sẽ tạo cho mình một cuộc sống khó khăn.

Lịch sử nhà Tiền Hán có nói về Hàn Tín. Hàn Tín lúc hàn vi chui qua lỗ háng tên bán thịt ở giữa chợ. Tiếng xấu đồn đến tai mọi người. Hàn Tín là người có tài, thế mà khi ra đầu quân Lưu Bang không ai muốn trọng dụng ông ta, họ cho Hàn Tín là kẻ vô sỉ bất cố.

Con mắt người đời tinh lắm. Chỉ trừ việc ấy ta không làm, đã làm tất nhiên phải có người biết. Danh dự, chính mình phải tự trọng mình trước.

Để nhớ:

* Cuộc sống có lương tâm là có danh dự.

* Những đứa trẻ sống nhờ danh dự của cha mẹ nó.

* Người nào sống có tự trọng, coi như đã góp công sức vào việc xây dựng xã hội.
 
Chỉnh sửa cuối:
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
ĐIỀU ĐỘ

Trong điều độ có sự sạch sẽ và lịch sự. (Joubert)

Ai ăn uống có điều độ, thì sẽ giàu có như một ông vua. (Tục ngữ Ả Rập)

Rút ngắn bữa ăn chiều là kéo dài đời sống. (Franklin)

Sự đạm bạc bao hàm mọi đức tính. (Cicéron)

Điều độ là vị lương y của mỗi người. (J. J Rousseau)

Đông không ấm lắm, hè không mát lắm, ăn không no lắm, ngủ không nhiều lắm.. Sự chừng mực làm tăng tuổi thọ. (Hải Thượng Lãn Ông)

Bớt sắc dục để dưỡng tinh, bớt nói để dưỡng khí, bớt ưu tư để dưỡng thần. (Lão Tử)

Giữa "thời buổi tốc độ" mà bàn đến vấn đề "điều độ" có người cho là nghịch lý, nhưng xét thật chu đáo chúng ta lấy làm thú vị.

Điều độ, không những chỉ cho sự ăn uống có chừng mực, mà là mọi sự sinh hoạt đều có chừng mực.

Ra đường bạn thấy một người đang lớn tiếng với người khác, thái độ giận dữ bất nhã, chắc chắn bạn sẽ không có thiện cảm gì với người ấy. Bởi vì người ấy mất bình tĩnh, không giữ được sự quân bình của tâm tưởng, nên ngôn ngữ không ổn định và tiết độ của lời nói không được thực hiện.

Hàng ngày tai nạn giao thông xảy ra trên đường như là việc hiển nhiên, đáng lý điều ấy phải coi là một việc hiếm thấy! Tại sao? Không nói bạn cũng quá biết, những kẻ gây tai nạn đó hầu hết họ không biết điều độ trong việc sử dụng vận tốc xe, đến khi gặp biến cố họ không tự chủ được. Các bạn tuổi vừa mới vào đời, tính khí cương cường hiếu thắng, họ muốn chứng tỏ một "anh hùng tính" thường có những việc làm rất xốc nổi, nhiều khi đáng gọi là quá khích.

Không riêng gì các bạn trẻ, tôi thấy ngay cả trong các quán rượu bia, những vị đứng tuổi lắm khi quá chén cũng vấp phải "tửu nhập ngôn xuất" làm huyên náo cả một vùng và gây sự bất bình cho người xung quanh.

Việc điều độ không phải là khó thực hiện, bởi vì nó nằm trong khả năng của mọi người. Những điều ước muốn ngoài tầm tay của loài người thế mà nhân loại dần dần thu phục được thay. Bởi vì chúng ta ít nghiêm khắc với chúng ta, chúng ta mãi tự tha thứ cái lỗi của mình, tự thỏa hiệp với sự sai trái.

Có lẽ nhiều vị phản đối với những lời trên đây của chúng tôi: "Con người chứ đâu phải thánh nhân mà không vấp phải những lỗi" hoặc "Nhân sinh quý thích chí" (Cái quý nhất của con người là thích làm gì mình muốn). Cả hai ý tưởng trên đều lầm lạc. Thánh nhân cũng chỉ là những người bằng xương thịt như chúng ta, nhưng óc não họ minh tuệ hơn, họ có những tư tưởng phi thường hơn, còn việc trau dồi đức hạnh thì người nào cũng phải tự sức mình, chứ không ai tự nhiên mà có được. Còn việc ta thích làm cái gì thì ta cứ làm, không có nghĩa là làm mọi thứ ta thích. Thích và làm tất cả mọi thứ đều hợp lý, phải được xã hội công nhận, luật pháp bảo chứng.

Người phương Tây có câu: "Tự do trong bó buộc". Nếu không có sự bó buộc thì sự tự do quá trớn sẽ đưa xã hội đến chỗ hỗn loạn. Đó là điều không thể có ở xã hội loài người.

2.600 năm trước Đức Khổng Tử có nói: "Thái quá như bất cập" : Cái gì quá độ đều coi như không hợp thời. Tục ngữ phương Tây cũng có câu tương tự như vậy: "L' excès en tout est un défaut" : Càng quá độ càng lỗi.

Bộ sách Trung Dung ở bên đạo Nho là một trong Tứ thư (bốn cuốn sách) quan trọng, cũng khuyên chúng ta nên chọn lối "trung dung" (ở giữa) để đối xử với đời (Phu Tử chi đạo kỳ Trung Thứ dã: Đạo của Đức Khổng Phu Tử là Trung và Thứ).

Xem đó đủ biết tính điều độ trong mỗi con người quan trọng. Ăn điều độ tạo thêm sức khỏe cho cơ thể, ngủ điều độ không sinh ra bệnh tật, làm việc điều độ người ta có thể làm lâu dài..

Sự điều độ không phải chỉ ngần ấy công việc, ngần ấy lợi ích. Bạn vào các học đường, các công sở.. bạn thấy số đông như vậy, nhưng sự làm việc của họ không bừa bãi lộn xộn, không ồn ào mất trật tự. Nhờ đâu mà có được đức tính đó? Nó bắt đầu từ sự khởi đầu có nguyên tắc. Người ta tiết kiệm lời nói để giữ im lặng, người ta bớt những việc làm vô ích để giữ trật tự, người ta bỏ bớt cái "tôi" của mình để xây dựng cái chúng tôi, có nghĩa là bỏ bớt cái cực đoan để tìm cái trung dung.

Điều độ chính là cái nết của văn hóa, là cái nền của văn minh. Giữ được điều độ, ta có thể đi nhanh và đi xa được. Chạy theo tốc độ không phải là nhanh, không phải là tiến bộ. Ngay từ nhỏ chúng ta đã từng nghe chuyện ngụ ngôn giữa Rùa và Thỏ. Thỏ dù chạy nhanh nhưng không chuyên cần, hay chơi bời dọc đường, có khi chạy quá nhanh sinh mệt nên nghỉ lâu, cuối cùng đến đích sau chú Rùa.

Ngụ ngôn tuy là chuyện vui nhưng nó mang tính giáo dục cao. Tóm lại chúng ta nên nhớ mấy nét căn bản:

* Người điều độ là người biết tự trọng.

* Điều độ là góp phần trật tự xã hội.

* Điều độ là bảo vệ sức khỏe cho ta và mọi người.

* Dù hoàn cảnh nào ta luôn luôn giữ mình được điều độ.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
ĐỌC SÁCH
Đọc sách đó là sự đối thoại giữa ta với những người trong quá khứ. (Descartes)

Đọc sách không những để nâng cao trí thức mà còn nâng cao nhân cách. (Dr. Guérin)

Đọc sách mà tin hết vào sách thì thà không đọc còn hơn. (Mạnh Tử)

Không phải đọc tất cả là đủ, mà phải biết tiêu hóa. (Boufflers)

Đọc sách phải có đảm thức, có con mắt tinh tường và có nghị lực. (Lâm Ngữ Đường)

Những nhà triệu phú đều là những người đọc sách nhiều. Hỏi họ, họ đáp: "Đọc sách là một trong những nguyên nhân thành công của tôi". (Casson)
Đọc hết một quyển sách hay, ta cảm thấy như từ biệt một người bạn thân. (Voltaire)

Đọc sách đó là cái cửa mở vào cuộc đời vui tươi. (Mauriac)

Có lần tôi nghe một bà rầy con mình: "Đọc, đọc cái gì! Con chạy tìm cho mẹ vài ký gạo cái đã!" Đọc sách là việc làm dài hạn, thường xuyên, đó là cuộc trường kỳ chiến đấu, lợi ích của việc đọc sách tuy rất thiết thực nhưng nó đến rất chậm, một cuộc tích lũy nhiều năm, nó cũng giống như mỗi ngày người ta bỏ vào hũ tiết kiệm một vài hạt gạo. Còn cuộc chiến đấu với giặc đói trước mắt cần thiết hơn.

Trong những hoàn cảnh khốn khổ không ai đủ thời gian và tâm trí để đọc sách thì họ phải chọn lúc thích hợp để đọc, miễn là họ chịu đọc.

Một người ham học ham đọc, có một tinh thần cầu tiến, thì dù có bận rộn cách nào họ cũng dành một ít thì giờ để lật qua vài trang sách trong mỗi ngày.

Những người lao động, việc đọc sách đối với họ trước nhất là để tiêu khiển. Dạng đọc sách ngày nay nhiều lắm. Các cô bán hàng trong khi ngồi chờ khách mua hàng, họ đem mấy quyển tiểu thuyết, võ hiệp hoặc tạp chí ra xem, họ gọi đó là "giết thì giờ".

Một số người vì nghề nghiệp thì họ đọc những loại sách có liên quan đến công việc của họ, chẳng hạn như các bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo.

Ngoài ra thì còn một số người nữa sách gì cũng đọc, rảnh hồi nào đọc hồi đó. Họ là những người viết biên khảo, hoặc những người thích tìm hiểu. Đây là đội ngũ chính trong làng đọc sách.

Dù gì thì dù nhưng sách đối với những kẻ đọc sách là những món ăn tinh thần. Có món ăn người ta cần no, có món người ta cần ngon, có món người ta cần bổ, có món phải dùng đến đường mật, có món phải dùng mắm muối, có món phải dùng với rượu bia... vô số món ăn cũng như vô số dạng sách.

Đọc sách người ta tìm thấy nhiều điểm rất thú vị. Cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều cách giải quyết khác nhau, có khi trái ngược nhau (nhưng không phải sai), nhưng tất cả đều giúp cho độc giả một số tri thức.

Tư tưởng con người càng lúc càng tiến bộ,chiều hướng giải quyết có thể khoáng đạt hơn. Có công lý nào thực hơn công lý không gian ba chiều của Euclide? Vị đại sư sáng giá nhất của 25 thế kỷ phút chốc bị nhóm Nicolas Bourbaky đòi hạ bệ.

Cũng thì hành quân, nhưng người có đọc sách nhất là các sách về lịch sử, binh pháp thì cuộc hành quân có vẻ quy mô và vững tâm hơn.

Đọc sách ta thấy Tôn Tẫn thống lãnh quân Tề đánh nhau với quân Ngụy do tướng Bàng Quyên chỉ huy, Tôn Tẫn đoán được tâm lý của Bàng Quyên là hiếu thắng nên vờ lui quân, cho bớt lò nấu, Bàng Quyên kiểm lò ngầm hiểu quân Tề bỏ trốn liền đem quân đuổi theo bị Tôn Tẫn đem phục binh ra tiêu diệt (đó là chuyện xảy ra thời Chiến Quốc)

500 năm sau (thời Tam Quốc), Khổng Minh chọi nhau với Tư Mã Ý, thấy chiến trận không lợi bèn cho lui quân, nhưng sợ Tư Mã Ý đuổi theo, bèn cho đắp thêm lò nấu. Tư Mã Ý kiểm lò thấy mỗi lúc mỗi nhiều thêm thì đoán là địch có viện quân nên không dám truy kích.

Ta còn thấy, thế kỷ thứ 10, Ngô Quyền ở nước ta chống cự với quân Nam Hán do thái tử Hoằng Thao chỉ huy. Ngô Quyền đánh với quân giặc cắm cọc trên sông Bạch Đằng, kết quả tiêu diệt được địch. Tướng Hoằng Thao bị giết. Ba thế kỷ sau, quân Nguyên sang đánh nước ta, cũng bị thua tại sông Bạch Đằng với thuật cắm cọc như trước. Nếu các tướng lãnh nhà Nguyên chịu khó đọc sách sử chắc phải thấy sự thất bại của quân Nam Hán trước đây mà đề phòng.

Hồi thế chiến thứ I (1914-1918) tướng nước Anh là Allenby đem quân đổ bộ trên đất Palestine, đánh nhau với quân Thổ Nhĩ Kỳ.

Bấy giờ quân Thổ đóng ở Micmas trên ngọn đồi cao bên kia thung lũng. Viên sĩ quan phụ tá của Allenby nghe chữ "Micmas" lấy làm ngờ ngợ. Ông ta ngạc nhiên không biết từ này mình đã gặp ở đâu rồi, bỗng ốc sực nhớ mình đã đọc trong Thánh Kinh (Bible) bèn mở Thánh Kinh ra xem lại, thấy ghi:

"Saul và con là Jouathan cầm đầu toán dân quân Do Thái (Israel) chống nhau với quân Philistins đang đóng ở Micmas. Cha con ông mang đầy vũ khí theo con đường hẹp, ở bên này đầu đường có cụm đá hình yên ngựa tên gọi là Bossets và ở đầu đường bên kia cũng có một khóm đá chen chúc với cây hòe tên gọi là Séné. Cha con ông Saul qua khỏi Séné tiến tới một vùng đất cao diện tích nhỏ hẹp. Nơi này có quân Philistins canh gác. Trời vừa hừng sáng quân Philistins thức dậy, thấy cha con Saul tiến lên ngỡ là quân mình bị tập kích liền bỏ chạy hỗn loạn. Saul thừa cơ đem dân quân truy kích giải phóng được xứ sở Israel.."

Viên sĩ quan phụ tá trình sách ấy cho Allenby xem. Allenby xem xong cho người đi dò đường xác nhận địa thế ấy quả đúng như Kinh Thánh đã ghi, lại có toán quân Thổ đúng vào vị trí của quân Philistins. Tướng Allenby hành quân như Kinh Thánh đã chép và kết quả xảy ra như kinh đã ghi. Quân Anh toàn thắng, phá tan được quân Thổ ở Micmas.

Đọc sách cho ta kiến thức đã đành còn cho ta những kinh nghiệm quý báu có những ích lợi bất ngờ.

Năm 1948 tướng Irael là Yadin đang chống nhau với quân Ai Cập. Quân Ai Cập đang chiếm đóng ở vùng Nesguef. Tướng Yadin mở Kinh Thánh ra xem, thấy nói nơi vùng Mushr - fa có con đường nhỏ dẫn đến Nesguef nhưng hiện tại đã bị cây cối mọc chi chít. Yadin liền cho xe ủi khai hoang con đường đó, rồi bí mật xua quân tiến lên đánh phủ đầu quân Ai Cập. Trận này quân Ai Cập đại bại. 14 ngày sau quân Ai Cập bãi binh.

Trong quyển The Ocean của Magellan (tức là Magalhaens) (nhà hàng hải Bồ Đào Nha) viết về các đặc điểm ở các đại dương: những nơi hiểm nghèo, những nơi bình yên (Magellan là người đặt tên cho biển Thái Bình Dương - Ocesan Pacifique). Đó là quyển sách gối đầu giường cho các nhà hàng hải đời sau.

Ngay phía đông cửa biển Manila có hai hòn đảo, đảo phía ngoài rộng chừng 5 hecta cao hơn mặt nước 3m, bằng phẳng như sân bay tên là Icabra, hòn đảo phía trong cao lớn hiểm trở có doi đất thông với đảo Luzon, tên gọi là Luban. Nước nơi đây nhìn từ xa có màu xanh xanh của đại dương (giữa Icabra và Luban) nhưng sự thật nó chỉ sâu lối 1m. Khoảng cách giữa 2 đảo chừng 1km. Magellan đặt tên cho vùng đảo là Misfortuneland (đảo Định Mệnh). Nhiều tàu thuyền đã chìm nơi này vì mắc cạn.

Thế mà từ khi ngành hàng hải sử dụng máy Diesel tính đến tháng 6 năm 1966 có đến 14 chiếc tàu trọng tải từ 10 ngàn tấn trở lên nạp mạng cho vùng kênh Misfortuneland này, vì các thuyền trưởng không chịu đọc sách, cứ thấy thuận tiện là xông vào!

Nói là nói vậy thôi, đọc sách biết bao nhiêu cho đủ. Sách của năm châu có đến hàng tỷ bộ khác nhau. Từ khi loài người có văn tự đến nay quốc gia nào không sách? Riêng thư viện ở Boston có hằng triệu bộ sách!

Các nhà văn lỗi lạc vẫn còn có chỗ nhầm lẫn. Một giai thoại kể về văn hào Tô Đông Pha sửa thơ của nhà đại cách mạng Vương An Thạch. Trong một bài của Vương có hai câu:

Minh Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm
Tô Đông Pha đến nhà Vương An Thạch chơi, trong lúc Vương đang ngủ trưa, thấy trên bàn có hai câu như trên, ông Tô chép miệng:
- Vương cũng đỗ tiến sĩ nhưng sao mà dốt vậy? Sao lại "trăng sáng hót trên đầu núi, chó vàng nằm giữa lòng hoa?"
Tô cầm bút sửa "khiếu" ra "chiếu" và "tâm" ra "âm" để có nghĩa: "Trăng sáng chiếu đầu núi, chó vàng nằm dưới bóng hoa". Tô đắc ý bỏ ra về. Vương thức dậy biết việc, bỏ bụng cười thầm.
Lúc đó Vương đang làm tể tướng triều Tống, cựu phái phản đối trong đó có Tô Đông Pha. Vương dùng luật pháp đày Tô xuống Hoàng Châu (Hà Bắc).

Khi mới đến, những đêm trăng sáng có tiếng chim hót ríu ríu trên đầu ngọn núi gần đó khiến Tô không ngủ được liền bước ra ngoài xem trăng, hỏi người xung quanh mới hay loài chim đó có tên là "Minh Nguyệt". Và cũng ở nơi này có một loài hoa màu vàng khi nở ra năm nhụy hoa bên trong giống hình năm con chó nằm chụm đầu, được biết đó là hoa Hoàng Khuyển. Giá mà trước đây Tô đi qua xứ này, hoặc đọc các sách địa phương chí thì Tô không bị bẽ bàng.

Nhà thơ Trương Kế đời Đường viết bài thơ "Bạc Phong Kiều" trong đó có câu:

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)​

Đại văn hào Âu Dương Tu đời tống phê: "thi nhân thường có bệnh sáo ngữ, nhưng lý thì bất thông. Làm gì nửa đêm mà lại có tiếng chuông công phu của nhà chùa?"

Về sau ông Diệp Mộng Đắc phê lại lời phê của Âu Dương Tu: "Có lẽ ông Âu chưa hề đến đất Ngô Trung (Tô Châu) nên không biết nơi này có lệ thỉnh chuông vào lúc nửa đêm."

Trong "Đường Thi kỷ sự" cũng thấy ghi: "Ở Cô Tô quả có lệ giộng chuông công phu vào nửa đêm gọi là Vô Thường Chung, ông Trương ghi việc đó là điều thực, còn ông Âu cho là ngữ bệnh thì không phải."

Đầu thế kỷ 20 học giả Hồ Thích phê: "Sách Nam sử có chép một bài thơ có tựa đề "Cảnh Dương lâu" (lầu Cảnh Dương) của Từ Võ Đế, bài ấy có nói đến "Chuông canh ba, chuông canh năm". Khi Ngô Cảnh Trọng làm Thái thú Ngô Trung đã ra lệnh cấm chuông nửa đêm. Các nhà thơ đời Đường như Bạch Lạc Thiên (Bạch Cư Dị), Ôn Đình Quân đều có nói đến "chuông nửa đêm". Ông Âu Dương Văn Trung có lẽ không truy cứu đến..."

Đọc sách nhiều cho ta nhiều kiến thức và cũng rất nhiều thú vị. Lâm Ngữ Đường nói: "Người đọc sách cần phải có một đảm thức."

Cổ ngôn Trung Quốc nói: "Đọc sách để sửa mình", nhưng J.Green lưu ý chúng ta: "Nhiều người đọc sách không phải để mở rộng hiểu biết mà để khuếch đại cái tôi nhỏ bé của mình".

Ta biết, sách vở chính là thân xác của văn hóa. Người đọc sách chẳng những nâng cao kiến thức mà còn tự sửa mình để thích hợp với "con người văn hóa".

Wilde nói: "Những quyển sách mà xã hội gọi là phi luân là những quyển sách cho xã hội tự thấy cái thô bỉ của nó. Rất là vô lý khi người ta đặt ra một quy luật khắt khe về những thứ được phép đọc và những thứ không được phép đọc. Họ đâu có biết được rằng, quá nửa của tri thức hiện nay thuộc về những cái không nên đọc đó."

Văn hóa là sự kết tinh những gì do văn minh đem lại. Văn hóa là phần tinh túy của dân tộc. Đã liệt vào văn hóa tức là đã thừa nhận cái tinh hoa của mọi nền văn minh.

Đọc sách tức là đọc các tiểu phẩm của văn hóa. Sách có quyển hay và có quyển không được hay hoặc không hay, nhưng nó cũng đều là thuốc. Nhà y dược cần phải biết sâu sắc những chất độc, chất bổ đó mới gọi là tinh diệu. Vô số thuốc độc người ta dùng để chữa bệnh.

Người đọc sách còn có thể hòa hợp tâm tưởng của mình vào trong ý và lời của tác giả, tự mình có thể thì thầm với tác giả, có thể phản đối hay khâm phục.

Tóm lại, muốn nâng cao tâm hồn mọi người đều phải cố gắng dành riêng cho mình một khoảng thời gian nào đó để đọc sách. Muốn tiến bộ thật sự, mấy nguyên tắc về cách đọc sách phải nắm vững:

* Chọn loại sách thích hợp với ngành nghề của bạn đang làm.

* Chọn những sách mà bạn thích.

* Những sách trau dồi trí tuệ và kiến thức.

* Chọn thời gian nhất định.

* Trước khi đọc qua những trang mới, bạn tự nghiệm lại hôm qua mình đọc những gì.

* Một điều để tâm niệm: Đọc sách để xứng đáng với chính mình làm được con người hôm nay, chứ không phải để khoe khoang.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
LỜI HỨA

Nếu không bị ép buộc phải hứa, thì lời hứa phát xuất từ trong phế phủ của ta. Kẻ nào phản lại lời hứa là phản lại chính mình. (K. D)

Phải thực hiện câu: "Hứa thì khó và giữ lời hứa thì dễ." (Audrassy)

Lời hứa là một món nợ. (Tục ngữ Pháp)

Một cách giữ lời hứa hay nhất là đừng hứa. (K. D)

Lời hứa là những cái bẫy mà kẻ ngu thường mắc phải. (B. Gracian)

Trong phép giao tế hàng ngày thỉnh thoảng bạn thường sử dụng đến lời hứa. "Chiều thứ 7 tuần này em sẽ đến thăm anh."

"Anh yên tâm món nợ đó tôi sẽ thanh toán vào cuối tháng này."

"Ồ được! Tôi sẽ giao chiếc xế hộp của tôi cho anh để anh chở chị đi chơi."

"Con xin hứa với ba má từ đây con sẽ không bao giờ đến các hí viện nữa."

Đó là những lời hứa hẹn, nhưng có thực hiện hay không còn tùy theo tâm lý và hoàn cảnh của mỗi người nữa.

Lời hứa có tính chất nghiêm trọng và quyết tâm sẽ biến thành lời thề. Dù lời hẹn, lời hứa hay lời thề đều mang một tính chất chung là hướng việc phúc đáp ấy đến một tương lai gần.

Thật tình mà nói, về phương tiện sống ngày nay khác hẳn với ngày xưa. Ngày nay sự việc như những biến cố xảy đến một cách dồn dập. Nếu nhà bạn có điện thoại bạn sẽ nghe những cuộc hẹn hò hoặc những lời xin lỗi "rất tiếc.." xảy ra hàng ngày. Đôi khi ta không muốn thất hứa với ai, nhưng vì tin vào lời hứa của một người khác.. cuối cùng xảy ra một cuộc thất hứa dây chuyền. Nghĩ cũng lạ, ngay trong cơ thể mình có ai biết con mắt sẽ nháy bao giờ?

Cứ bình thản mà nghiệm: Những cuộc hứa hẹn về tình yêu, những cuộc hẹn hò về nợ nần, những lời hứa hẹn về sự giúp đỡ.. xưa nay mấy khi người ta phúc đáp như ý? Bạn cũng như tôi, chúng ta đều không muốn thất hứa, thế nhưng có những biến cố bất ngờ can thiệp vào nên đành "tùy biến nhi quyền" (theo việc biến mà thay đổi).

Tiền nhân chúng ta rất tôn trọng lời hứa, thành ra họ ít dám hứa. Người Tây phương ngày nay vẫn giữ được "phong vị hiệp sĩ" của họ. Họ giữ lời hứa đến nơi đến chốn lắm. Đó là tinh thần văn minh và nhân bản. Không phải chúng tôi cố tình đề cao họ. Chúng ta phải khách quan mà nhận xét mới học được những tinh túy của người.

Những chuyện "thề non hẹn biển" đời nào cũng nhiều, nơi nào cũng nhiều nhưng phần lớn chỉ là sự lợi dụng. Việc yêu đương ngày nay cũng khác với ngày xưa rất nhiều, nên cuộc hứa hẹn "trăm năm" (nếu không có gia đình hai bên đứng ra bảo chứng) chỉ là "tấn tuồng dâu biền" xảy ra trong chớp mắt. Thơ văn bây giờ nói lên nhan nhản những điều đó.

Việc hứa trăng hứa cuội nào phải chỉ trong tình yêu, trong sự giao tế bình thường "trăng gạt cuội" cũng đầy rẫy không đếm được. Nếu bạn là người bị gạt thì không nên trách người kia. Cứ coi đó là chuyện hợp tan "hợp tan".

Thói vui đâu chúc đó của người đời ta còn lạ gì! Chuyện muốn bàn ở đây là chuyện giữa tôi và bạn. Chúng ta tự dặn mình nên thận trọng lời hứa hẹn và cũng nên thận trọng về những lời hứa của người khác. Đã đành mười lời hứa cũng có vài ba lời hứa đúng, nhưng những lời hứa không đúng ai đền bù cho đây?

Đức Khổng Tử là bậc Thánh nhân thế mà vẫn phải "linh động" về lời hứa.

Trong sử ký, sử gia Tư Mã Thiên (Tiền Hán) có chép một đoạn về Đức Khổng Tử:

Khổng Tử đi qua đất Bồ, người đất Bồ vây đánh ông. Học trò ông có người tên là Công Lương Nhụ ra sức chống cự với họ. Hai bên đánh nhau rất hăng. Người đất Bồ kêu Khổng Tử nói:

"Nếu ngài hứa không qua nước Vệ thì chúng tôi thả ngài tự do."

Khổng Tử cam kết với họ là không qua Vệ. Khổng Tử và người đất Bồ uống máu ăn thề (để làm tin). Sau đó, Khổng Tử đi về phía đông sang nước Vệ. Đệ tử của ông là Tử Cống hỏi:

"Thầy có thể bỏ lời thề được sao?"

Khổng Tử nói:

"Nào ý ta muốn thề, họ ép ta thề đấy chứ? Quỷ thần nào chứng lời thề này?"

Trong lúc bị ép uổng thì lời thề, lời hứa nào có giá trị gì! Gặp cảnh đó chúng ta không còn đường lựa chọn thì còn con đường nào từ chối? Cho nên "tùng ngộ nhi an" là thượng sách.

Cho đến những đại danh nhân trong lịch sử vì danh lợi mà phải bán đứng cả danh dự mình, nuốt lời hứa như nuốt thuốc bổ. Chẳng hạn tay thuyết khách lỗi lạc Trương Nghi nói với vua Sở Hoài Vương trước sân triều: "Nếu nhà vua tuyệt giao với Tề, thì nước Tần sẽ tặng cho Sở 600 dặm đất Thương Ô!"

Sở Hoài Vương nghe lời. Trương Nghi quịt!

Lịch sử chính trị thế giới cũng đầy rẫy những kẻ bội tín!

Trong chữ tín, chúng ta cần phải nghiêm khắc với chính mình càng ít thất hứa càng tốt. Điều quan trọng là đừng bao giờ hứa với trẻ nhỏ mà không làm. Chúng ta lấy gương bà Mạnh mẫu mà soi.

Bà Mạnh mẫu một hôm nói đùa với con: "Nhà bên làm heo để lấy thịt cho con ăn đấy."

Mạnh Kha đi học. Mạnh mẫu chợt nhớ lại lời đùa, bà không nỡ để con phải nghe lời không thật, liền đem con heo nhỏ của mình ra giết đi để lấy thịt cho Mạnh Kha dùng. Về sau Mạnh Kha thành một đại nho, tư cách không kém gì Đức Khổng Tử, người đời tôn ông là bậc á thánh.

Ngoài tài năng chúng ta cần phải trau dồi đức hạnh. Một trong những hạnh kiểm lớn là sự thủ tín. Bởi vì sự thất tín cũng gần giống như sự lừa đảo.

Chúng ta không đóng vai một ngụy quân tử, cũng không nên nói theo kiểu bi quan: "Đời bây giờ có ai thủ tín đâu mà bảo ta thủ tín."

Bởi vì người đoàng hoàng bao giờ cũng bị thiệt thòi. Nhưng thà chúng ta cam chịu sự thua thiệt về vật chất (mà thật ra không chắc gì có sự thua thiệt), nhưng chúng ta đừng đánh mất thanh danh. Chúng ta cần có gương tốt cho con em chúng ta. Chúng ta giàu lòng vị tha, thì việc giữ tròn lời hứa cũng là đức vị tha đó.

Cần ghi nhớ:

* Phải đắn đo trước khi hứa.

* Đã hứa rồi nên cố mà thực thi lời hứa.

* Đối với trẻ em đừng bao giờ sai lời hứa.

* Thà muộn chứ đừng nuốt lời.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
TÍNH CAN ĐẢM

Bạn sẽ là kẻ thù ghê gớm nhất của mình nếu bạn là một tên hèn nhát. Nhưng nếu bạn là người can đảm, bạn sẽ là người bạn tốt nhất của chính mình. (Franklin)

Trên thực tế, can đảm là yếu tố tồn tại hiệu nghiệm hơn là sự hèn nhát. (Toynbee)

Sự can đảm ấy là đức tính, vì nó khiến mình nghĩ đến công việc phải làm, nghĩ đến sự thống khổ phải đương đầu, nghĩ đến điều trở ngại, hoạn nạn cần phải kham nhẫn mà không hề sợ hãi. (Poignet)

Thật sự can đảm là thật sự bình tĩnh trong con nguy cấp. (Cousin)

Liều, chỉ là cái gan nhất thời mà kiên nhẫn mới là can đảm. (Saint Piere)

Tính can đảm không thể giả mạo. (Napoléon)

Thật can đảm không phải là liều chết, mà là chống chọi với tai nạn. (Sénèque)

Trong cơn nguy biến người ta mới thấy được tính can đảm. (Regnard)

Can đảm là đức hạnh số một của con người, vì nó bảo đảm cho mọi đức hạnh khác. (W. Churchill)

Lòng can đảm gia tăng khi người ta dám liều, hoặc nỗi sợ hãi gia tăng khi người ta do dự. (P. Syrus)

Kẻ hèn nhát thì trốn chạy sự nguy hiểm, sự nguy hiểm trốn chạy kẻ gan dạ. (D' Houdetot)

Lòng can đảm đưa người ta đến vinh quang, tính hèn nhát dẫn người ta đến cái chết. (Sénèque)

Can đảm hoặc hèn nhát, bản thân anh chọn cái nào? (K. D)

Tính can đảm không phải dùng để đánh ai, mà dùng nó để bảo vệ cho mình và cho người. Tính can đảm cần phải được rèn luyện, tập sự và thử thách. Mọi lứa tuổi đều rèn luyện được.

Người lớn tuổi rèn luyện bằng cách nào? Dễ lắm! Bạn hãy ôn lại quãng đời của bạn, bạn thật sự nhút nhát hay can đảm? Nếu bạn thấy mình không nhút nhát mà cũng không can đảm, đó chính là bạn nhút nhát đó.

Và hãy xem, trong việc nhút nhát ấy bạn thấy có ích gì? Hay là thấy thiệt thòi về danh dự? Thiệt thòi về mọi mặt? Không! Bạn hãy thành thật với lương tâm bạn đi. Đừng chống chế, đừng viện lẽ. Phải nhớ một điều tối quan trọng: Người đủ đức dũng mới đủ sức tha thứ cho người khác, mới đủ sức nhường nhịn người khác mà không hề có sự nóng giận, còn người hèn nhát thì "cam chịu nhục" mà lòng vẫn còn uất ức. Hèn hay dũng không ở chỗ nhịn mà ở chỗ nóng giận hay không nóng giận.

Cổ nhân có câu: "Nhẫn được mới là đại dũng". Khi bạn thừa sức đối đầu với người kia, nhưng bạn vẫn mỉm cười với họ, chịu nhường nhịn cho họ một bước mà lòng không hề có sự bực tức, lại cảm thấy thích thú vì đã làm được việc thiện, đó mới là can đảm.

Xin nói một lời: Cuối cùng rồi ai cũng phải chết, chỉ có can đảm mới là bất tử!

Can đảm chứ không phải liều mạng. Can đảm là lòng ung dung tự tại, đối với kẻ nghịch thì tha thứ, đối với thú dữ thì dùng mưu trí mà diệt, đối với nghịch cảnh thì bình tĩnh đem trí tuệ ra đối phó, đối với nỗi oan dẫu biện bạch cũng vô ích, thì tốt hơn nên lặng thinh! Bạn cho rằng đây chỉ là lý thuyết suông?

Năm 1963, trên Bán nguyệt san Phổ thông ở miền Nam, ông Nguyễn Văn Ba có ghi lại một truyện nội dung như sau: Tại thị trấn Bồng Sơn (tỉnh Bình Định) có một nhà sư vào khất thực một nhà dân nằm ven quốc lộ I, lúc ấy chủ nhà là một thiếu phụ đang ở trong phòng tắm, chỉ có đứa bé gái 6, 7 tuổi đang chơi trước sân. Nhà sư đứng đợi chủ nhà ra. Chủ nhà tắm xong bước ra chào nhà sư rồi cấp cơm tiền cho nhà sư, chợt bà hỏi đứa bé: "Chiếc nhẫn của mẹ đâu?"

Đứa bé ngơ ngác một lúc rồi chỉ nhà sư. Thiếu phụ chắp tay nói: "Khi tôi tắm có giao chiếc nhẫn hai chỉ cho cháu giữ, thầy có nhặt được xin cho lại."

Nhà sư để tay lên ngực nói: "Mô phật! Bần tăng không hề nhặt được!"

Chủ nhà làm dữ, nhà sư vẫn "Mô Phật". Lúc ấy, Phật giáo bị chính phủ đàn áp. Người lối xóm và đám "Thanh niên cộng hòa" chạy đến, họ đánh đập dã man nhà sư đó, bình bát cơm bị đổ, họ lột tấm nạp y của nhà sư lục vẫn không có nhưng họ vẫn đánh nhà sư đến bầm dập!

Người mẹ nhiều lần hỏi lại con mình, đứa bé vẫn nói "ông thầy lấy". Sân nhà bằng đất thịt nện chắc, dĩ nhiên chiếc nhẫn không hề lún dưới sân. Lúc bấy giờ viên cảnh sát cũng vừa đến, đòi đưa nhà sư về đồn. Lúc đó chiếc xe nhà binh chạy qua cán chết một con ngỗng đực, còn con ngỗng mái tránh khỏi. Nhà sư bấy giờ mới nói:

"Chiếc nhẫn ở trong bụng con ngỗng kia, tôi thấy nó xớt chiếc nhẫn trên tay cháu gái, nhưng tôi chụp lại không kịp."

Người ta mổ diều con ngỗng ra quả có chiếc nhẫn. Ai nấy đều ngậm ngùi. Có người hỏi: "Sao khi nãy thầy không chịu nói sớm để người ta khỏi đánh thầy?"

"Mô Phật! Thà bần tăng chịu hình phạt, nếu chỉ cho con ngỗng thì người ta sẽ làm thịt nó mất!"

Chuyện này thấy đăng trên báo nước ngoài có tựa đề "Un bonze" dịch từ báo Phổ thông. Đức tính của nhà sư đã vượt qua sự can đảm. Thiên nhiên vẫn có tính công bằng. Chỉ có lòng dũng cảm thật sự mới chiến thắng được mọi nghịch cảnh. Nếu bạn chưa thật can đảm, khi gặp một người hung dữ hay một nghịch cảnh bạn sẽ sợ sệt hoặc mất bình tĩnh, hoặc nóng giận, uất ức mất đi phần sáng suốt để đối phó với vấn đề.

Xin kể thêm một chuyện:

Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa từng chôn sống 460 nho sĩ, từng ra lệnh "tàn sát" những kẻ tài ba trong thiên hạ. Dân chúng sáu nước đều căm giận nhà Tần. Nước nào cũng ngầm tính toán chống lại nhà Tần nhưng chưa dám khỏi sự.

Bậc anh tài chết nhiều như lá thu rụng. Hàn Tín là bậc hiền tài kiệt xuất nhất thời đó. Tên bán thịt ở chợ thấy Hàn Tín đói khổ mà lại hay mang kiếm đi rong ngoài đường, hắn tức khí muốn làm nhục Hàn Tín, liền kêu Hàn Tín nói:

"Tín! Mày mang kiếm, mày có dám giết tao không? Nếu không dám giết thì luồn dưới trôn tao mà đi qua."

Một thoáng suy nghĩ, Hàn Tín ung dung luồn trôn tên bán thịt đó rồi bỏ đi. Người ở chợ cười rộ, khinh bỉ Hàn Tín là tên bất cố vô sỉ. Về sau Hàn Tín làm nguyên soái cho Hán Lưu Bang diệt được Hạng Vũ, được nhà Hán phong vương. Hàn Tín gọi tên bán thịt trước kia làm nhục mình đến phong chức cho hắn, nói:

"Ngươi xem, Hạng Vũ oai võ thế kia quân cả trăm vạn ta còn trừ được huống gì một kẻ tầm thường như ngươi? Ta dư sức giết ngươi mà không thèm giết chỉ vì ngươi không đáng giết. Vả lại ta muốn giấu ta, giấu tấm thân hữu dụng này để ngày sau còn giúp cho đời."

Hàn Tín là bậc hiền tài, mình mang tuyệt học đã thỏng tay vào chợ chả khác gì một thiền sư. Hàn Tín là bậc đại dũng cổ kim ít có người sánh bằng. Đó đáng gọi "nhẫn là đại dũng".

Chắc bạn nghĩ rằng: "Mấy người kia họ có võ nghệ nên họ mới can đảm!"

Nghĩ vậy là lầm! Võ nghệ chỉ yểm trợ phần nào cho sự can đảm mà thôi! Võ nghệ không thể sánh với lòng can đảm được. Biết bao người sức trói gà không chặt mà thừa lòng can đảm, đến nỗi những kẻ đầy võ nghệ, đầy uy quyền cũng vẫn khuất phục.

Xin dẫn ra ví dụ khác:

Tần Thủy Hoàng sai người đến bảo An Lăng quân: "Vua ta muốn đem 500 dặm đất để đổi lấy đất An Lăng, mong ngài hãy bằng lòng."

An Lăng quân không chịu nói: "Cảm ơn nhà vua đã gia ân. Đất tôi dù có 50 dặm nhưng vẫn là đất của tổ tiên để lại, không thể vâng mệnh!"

Vua Tần nổi giận, sửa soạn cất quân đi đánh. Bấy giờ có một người áo vải (bần dân) già nua tên là Đường Thư vào xin An Lăng quân để đi sứ sang thuyết vua Tần.

Vua Tần nói: "An Lăng quân khinh ta chăng mà không chịu đổi 50 dặm để lấy mảnh đất rộng gấp mười? Cỡ như Hàn, Ngụy ta còn diệt huống gì đất An Lăng?"

Đường Thư nói: "Không phải! An Lăng quân nhận đất của tiên vương nên phải giữ, dẫu nhà vua đem ngàn dặm cũng không đổi chứ đừng nói 500 dặm."

Vua Tần nổi giận trợn mắt hỏi Đường Thư: "Tên già ngu ngốc kia, ngươi có biết thiên tử giận thì sao không?"

"Thì sao?"

"Thiên tử mà giận một cái thì thây phơi trăm vạn, máu loang ngàn dặm."

Đường Thư ôn hòa hỏi lại: "Đại vương có biết hạng áo vải nổi giận thì sao không?"

Vua Tần lồng lộn lên đáp: "Tụi áo vải mà giận thì chỉ lột mão cởi dép dập đầu mà lạy!"

Đường Thư nhếch mép cười:

"Cũng có thật! Nhưng đó chỉ là bọn thất phu! Chứ kẻ sĩ giận thì khác. Lúc Chuyên Chư đâm Vương Liễu thì sao chổi lấn át mặt trăng, lúc Nhiếp Chính đâm Hiệp Lũy thì cầu vồng trắng vắt ngang qua mặt trời, lúc Yếu Li đâm Khánh Kỵ thì chim ưng xanh đá nhau trên điện. Ba vị đó đều kẻ sĩ áo vải, lòng nén uất nên trời mới hiện lộ những điềm như vậy. Nay sắp có thêm tôi nữa là bốn. Kẻ sĩ mà nổi giận thì thây nằm hai cái, máu loang năm bước, thiên hạ để tang, tức là hôm nay!"

Nói rồi tuốt gươm đứng lên. Vua Tần sợ quá nhũn người quỳ xuống tạ lỗi: "Thôi, thôi! Mời tiên sinh ngồi! Làm gì đến nỗi vậy! Quả nhân hiểu rồi! Hàn, Ngụy bị diệt mà An Lăng quân chỉ có 50 dặm đất mà vẫn giữ được chính là nhờ có tiên sinh đó!"

Quả như lời Cousin nói: "Kẻ can đảm là kẻ bình tĩnh nhất trong lúc nguy cấp."

Đạo Phật chủ trương từ bi. Châm ngôn của Phật tử là bi, trí, dũng.

"Dũng" chính là gan dạ. Tuy rằng không đánh ai nhưng không sợ ai ức hiếp mình. Trong phép bố thí của nhà Phật có hạnh "vô úy thí" (không sợ khi phải hy sinh) dẫu trong lúc ngặt nghèo vẫn coi xác thân là vật tạm bợ, sẵn sàng hy sinh xác thân để "cúng dường Tam Bảo".

Hồi tiền bán thế kỷ 20, ở ẤN Độ có phong trào tranh đấu bất bạo động của Thánh Gandhi giành độc lập cho nước nhà. Gandhi đem xác thân đặt trước lưỡi lê và họng súng của kẻ thù, mặc cho kẻ thù muốn đâm muốn bắn tùy ý. Dũng là chỗ đó. Không phải dùng vũ lực đàn áp họ gọi là dũng.

Chết là điểm cuối cùng của con người mà vẫn không sợ thì còn sợ gì?

Đó là chúng ta nói đến sự thể cuối cùng như vậy. Sự thật trên đời không ai công nhiên dám giết ta, dẫu kẻ đứng trước mặt ta là một tên sát nhân chăng nữa. Trường hợp đó nếu ta có thái độ rụt rè do dự, van xin lạy lục là chúng ta rước lấy cái tai vạ.

Không bút nào thuật lại cho hết lòng can đảm của con người. Chúng ta cần ghi nhớ mấy điều:
* Kẻ can đảm bao giờ cũng giành lấy sự chiến thắng sau cùng.

* Không ai tự nhiên mà giết người vậy không nên sợ chết bởi lời hăm dọa. Không sợ chết tức là can đảm.

* Can đảm là đức tính lớn nhất và quý báu nhất trong mọi đức tính, ta nhờ nó mà bảo vệ danh dự lẫn sinh mệnh cho mình và cho người.

* Can đảm là thần hộ mệnh của TÌNH YÊU và SỰ SỐNG.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
TIỀN BẠC

Người ta không khóc một người chết không để lại tài sản. (T. De Mégare)

Tiền bạc là bàn tay thứ ba. (P. J Toulet)

Ngay cả người mù cũng thấy được tiền. (Tục ngữ Trung Hoa)

Với một túi tiền đeo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo. (Tục ngữ Nga)

Khi tiền bạc đi đầu mọi cửa đều rộng. (Shakespeare)

Ít ai tiếp nhận những lời khuyên, nhưng ai cũng đều tiếp nhận tiền bạc, đủ biết tiền bạc có giá trị hơn lời khuyên. (J. Swift)

Hiểu biết giá trị tiền bạc và nên biết hy sinh nó vì bổn phận hoặc vì lòng cao thượng đó là một đức hạnh thật sự. (Sénancourt)

Tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ nhà xấu. ()

Vị thần lớn nhất của chúng ta là tiền bạc.

Chúng ta tự hào là đã chinh phục được vật chất, nhưng chúng ta quên rằng chính vật chất đã bắt chúng ta làm nô lệ. (Okakura Kakuzo)

Kẻ nào tin rằng vàng bạc làm được mọi sự, thì chính kẻ ấy đã làm được mọi sự để có vàng bạc. (Dante)

Bạn muốn biết giá trị của tiền bạc không? Cứ đi mượn đi sẽ biết. (Franklin)

Tiền bạc và đàn bà cần phải lưu tâm đến, nếu không thì nó sẽ trở thành hạnh phúc của kẻ khác. (E. Bourdet)

Tiền bạc là vị sứ giả làm trung gian trao đổi các vật giùm cho mọi người, đó là ý nghĩa ban sơ của nó.

Khi loài người phát triển sinh hoạt về mọi mặt thì ý nghĩa của tiền bạc thay đổi theo một cách tích cực hơn, tinh vi hơn. Chính tiền bạc đã phân chia xã hội ra làm nhiều đẳng cấp và hầu hết mọi người đều bị nó chi phối, và nó chi phối đến tận cùng của tâm tưởng!

Do đó tiền bạc luôn đồng nghĩa với với địa vị, danh vọng, quyền thế.. Nó đồng nghĩa với mọi thứ có khả năng "làm nên cuộc đời". Tiền bạc có khả năng tạo dựng nên một nền văn minh vật chất, nhưng nếu người ta không tự kiềm chế lấy tâm hồn mình, không để tinh thần hướng thượng, thì tiền bạc cũng có khả năng hủy hoại tâm hồn trong sáng của con người.

Với cái tâm vọng động dù bạn đem tiền bạc ra bố thí cho người nghèo thì cũng không có nghĩa là bạn đã làm được một điều thiện.

Tâm lý người đời có nhiều điểm thật khó hiểu. Cũng thì đem tiền cúng chùa, nhưng nhiều người thích đem tiền đến những chùa to lớn mà cúng, mà những chùa nhỏ nghèo nàn dù ở gần bên cạnh nhà họ không bao giờ để mắt đến. Họ dùng ngay cả tiền bạc để đầu tư cho kiếp sau!

Nên đến với người bằng cái tâm vô phân biệt mới thật sự xúc động. Bởi vì tiền bạc tự nó phân chia được xã hội thành nhiều đẳng cấp, thì hình ảnh nó bên trong mỗi người là một sự chấp trước.

Henrik Issen nói: "Tiền bạc có thể cho chúng ta rất nhiều về cái bì phu bên ngoài, chứ không ở trong nội tâm. Nó cho ta nhiều thức ăn chứ không phải ngon, cho ta nhiều thuốc men chứ không phải sức khỏe, cho ta nhiều người quen biết chứ không phải là thân thiết, cho ta nhiều người hầu hạ chứ không phải trung thành, cho ta nhiều cuộc vui chứ không phải hạnh phúc."

Sự trọng vọng do đồng tiền mang đến không dành riêng cho một ai, nó chung cho tất cả mọi người. Người ta dùng tiền bạc để làm ra vẻ đài các. Tiền bạc là vật vô thức mà có sức sai khiến loài hữu tình như chúng ta phải quay tít như một cái vụ, đến nỗi phải đối xử tệ bạc với nhau, giết chóc nhau!

Người ta dùng tiền vì tiện nghi thì ít, mà dùng tiền để làm se sua để hơn người, để khinh miệt người, để đày đọa người thì nhiều. Đó là sự chấp ngã.

Chấp ngã vì sự cô đơn, vì sự thua thiệt về thể diện, sợ bị coi thường. Đó là sợ hãi. Chính sự sợ hãi đã đưa con người tìm đến một sự cảm thông nơi kẻ khác để kết thành phe cánh, bằng nhiều phương tiện, mà phương tiện dễ dàng nhất là tiền bạc! Người ta yếu đuối đến thế. Một người có hình vóc, có suy tư mà bị yếu đuối trước tiền bạc, mới nghe như một nghịch lý, nhưng thật ra đó là việc nhan nhản trước mắt mọi người, nhiều đến nỗi người ta không thấy được.

Bạn đã từng thấy có ai dùng tiền bạc mà xóa hết sự phiền não không? Có ai dùng tiền bạc mà giữ thời gian lại được không? Có ai dùng tiền bạc kéo ngược tuổi già trở lại thời trai trẻ xuân xanh không?

Lời tục: "Có tiền mua tiên cũng được" hoặc nói: "Nhất chơi tiên nhì giỡn tiền", có ý nói đến mãnh lực của đồng tiền, lại cũng có ý nói đến những kẻ thô tục, ngạo mạn.

Vâng, tiền bạc có thể mang đến sự vui thích có giới hạn theo khả năng cạn cợt của những kẻ nhẹ dạ. Họ không thể có được những tư duy bùng nổ như một người chợt tỉnh.

Họ bị tiền bạc nhấn chìm đến tận cùng của hố tội lỗi. Cái khổ của những người thiếu tiền bạc là nỗi khổ của sự chấp nhận và càng khổ hơn nữa khi những kẻ giàu có cố tình gây nên cái đạo ải cho người nghèo.

Nhưng hóa công cũng rất công bình, kẻ giàu có càng khổ tâm nhiều hơn nữa. Những kẻ giàu có định hướng cho tiền bạc có đến hàng chục con mắt: Con mắt bóc lột những kẻ vốn đã nghèo, con mắt trèo cao để làm quen với những nhân vật đầy quyền thế, con mắt của sự xa hoa làm ra vẻ nhà quý tộc mà tâm hồn họ là cả một sự rỗng tuếch, con mắt của sự keo bẩn..

Nếu họ có bố thí ai một đồng tiền, thì khi đứng trước bàn thờ cầu nguyện họ nhắc lại việc bố thí ấy cho quỷ thần biết, để quỷ thần giúp đỡ họ nhiều hơn của thừa họ đã bố thí.

7 năm khổ hạnh nơi rừng già, Thái tử Tất Đạt Đa nào biết mua bán với ai? 49 năm thuyết pháp của Đức Thích Ca là 49 năm không nhà, đầu trần chân đất cũng không có lấy một đồng trong tay, nhưng thế gian phải kính Ngài như là Thần Phước Điền.

Trong tập hồi ký của cụ Phan Bội Châu có viết về một vị thầy tu ở Nam bộ, dân lục tỉnh gọi thầy là: Đạo Rau.

Thầy muốn đi Thiên Trúc "thỉnh kinh" nhưng nghĩ rằng mình không có tiền thì không làm sao đi tới nơi được, thầy bèn tập ăn rau, ăn lá để thay cơm. Sau khi luyện quen rồi thầy một mình đi thuyền tới Thái Lan và gặp cụ Phan ở đó. Sau đó thầy đi Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc rồi trở lại Thái Lan và gặp lại cụ Phan. Thầy vẫn ăn rau, không ăn cơm, không dùng tiền. Tuy là người thoát tục, nhưng thầy cũng là một thành viên hoạt động cứu nước ở hải ngoại.

Chúng ta là một người trong cộng đồng xã hội, có gia đình chúng ta không thể không dùng đến tiền bạc. Chúng ta rất cần tiền trong mọi sinh hoạt, có nó chúng ta mới làm ra của cải, góp sức với xã hội để tạo nên sự ổn định, nhưng chúng ta quyết không để nó chi phối, mà chúng ta phải điều khiển nó theo ý muốn của mình.

Muốn được vậy hãy nên đối xử bình đẳng với mọi người. Tự coi lương tâm mình là một vị quan tòa. Giàu hay nghèo là do tài năng của mình thêm vào đó cái lương tâm và cơ hội.

Lắm người có tài mà vẫn nghèo chớ vội than trách hoặc cay ghét những kẻ giàu có xung quanh, mà phải xem lại tư cách của mình. Cuối cùng mặt sinh hoạt vẫn túng kém, thì phải dùng đến biện tiết kiệm. Người Tây phương có câu: "Tiết kiệm chính là sản xuất" (l'Economie c'est la production), phải lấn tới từng bước khó khăn như những người chèo thuyền trên dòng nước ngược, đừng bao giờ "kết tội" tiền bạc. Đừng cho là tiền bạc có linh hồn, và cũng đừng khinh rẻ tiền bạc, vì đó là thói chửi đời, đó là thói phản tiến bộ và ích kỷ.

Tôi thấy trong những tiệm buôn lớn của người Hoa, khi họ đếm tiền gặp tờ 200 đồng (VN) hơi rách thì họ dán lại, nhàu thì họ vuốt đi vuốt lại cho thẳng để vào từng cọc thật thứ tự. Đừng tưởng làm vậy là hèn, là keo kiệt, không đâu dù 200đ cũng là tiền và có luật pháp bảo chứng, năm tờ 200đ đổi được tờ 1000đ. Và họ là những nhà tỷ phú. Người Hoa có tinh thần sinh hoạt xã hội rất tích cực. Cộng đồng người Hoa rất đoàn kết. Người Hoa nào nghèo túng thì cộng đồng người Hoa giúp phương tiện cho người nghèo kia để ăn nên làm ra.

Lời tục nói: "Đồng tiền nối liền khúc ruột" là có ý dặn ta biết kiếm được đồng tiền khó lắm, nên phải tiêu thật cẩn thận. Tiêu tiền đúng cách là tránh cái tội lạm phí, không có ý bảo ta bo bo giữ tiền như tên "mọi giữ cửa", mà phải ung dung sử dụng nó như một cộng tác viên đắc lực của mình phải có chút máu nghĩa hiệp và nhân đạo.

Chúng ta là những người giàu có hoặc khá giả thì không nên phung phí tiền một cách vô tội vạ và cũng không nên keo kiệt như những tên bá hộ thời phong kiến.

Vậy thì khi chúng ta là những kẻ nghèo không nên giấu số phận, mà cứ sống vui vẻ, thản nhiên sống, sống tích cực sống cố gắng.

Tản Đà, Trần Tế Xương, Vũ Trọng Phụng có lần "van nợ lắm khi tràn nước mắt", còn Nguyễn Công Trứ thì: "Đến bữa chưa sẵn bữa trẻ con khóc dường ong, qua kỳ lại hẹn kỳ nhà nợ kêu như ó". Những vị đó tuy nghèo nhưng vẫn sang, vì họ biết cách "vong bần lạc đạo" (quên cái nghèo để vui với đạo). Họ chính là những danh nhân của nước ta.

Thế giới biết bao nhiêu người nghèo khổ mà trở thành vĩ nhân, bởi vì họ rất tự tin, thương người và yêu đời.

Đại thi hào Đỗ Phủ bần hàn từ thuở sơ sinh cho đến ngày tạ thế, ông vẫn an nhiên mà vui sống. Văn hào Phạm Trọng Yêm (Tống) đói đến nỗi phải giành một khúc xương khi con chó lôi trộm của mình, triền miên ăn cháo nhưng vẫn học tập.

Đại văn hào H. Balzac có khi nhịn đói cả mấy ngày vẫn tiếp tục sáng tác và làm việc. Văn hào Dostojevsky (Nga) tuy nghèo nhưng vẫn thương người nghèo, thường nhịn ăn để giúp đỡ kẻ đói.

Văn hào Mark Twain sống trôi nổi đây đó, cái nghèo vẫn ở chung với ông bằng chu kỳ của sao chổi Halley.

Thế giới vẫn có vô số nhà giàu mà nhân hậu, thậm chí có người cao hứng phân tán tài sản của mình để nếm mùi vị của người nghèo.

Nói chung giàu hay nghèo ta nên sống bình tịnh ung dung. Khinh rẻ tiền bạc hoặc keo bẩn, hận thù tiền bạc đó là thói khinh đời. Phải chấp nhận nó như chấp nhận một kẻ trợ tá của mình, hãy đối xử với người trợ tá ấy có đạo lý. Được vậy tiền bạc mới ở với bạn một cách bền bỉ và trung thành.

Luận về tiền, chúng ta ghi nhớ mấy điểm:
* Chúng ta làm chủ tiền bạc đừng để tiền bạc làm chủ chúng ta.

* Lấy tính điều độ, giản dị và trung dung để điều khiển tiền bạc.

* Châm ngôn chúng ta là tiết kiệm. Dùng tiền bạc vào việc nhân đạo với tấm lòng vô vụ lợi còn hơn sự tiết kiệm. Hãy tin tưởng điều này.

* Thanh danh mới là bất hủ, còn tiền bạc chỉ có giai đoạn.

* Đừng sợ nghèo khó. Chỉ sợ mình không xứng đáng để được hưởng giàu sang.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
ĐAU KHỔ

Một người cục mịch có thể đi khắp nơi tìm lấy những điều vui thú, nhưng những tâm hồn tế nhị thì đau khổ nhiều. (Louis Philippe)

Lòng trắc ẩn tự nhiên của con người ở những kẻ thô lỗ thì ít, mà ở trong những con người được đào dưỡng thì nhiều. Chính sự đào dưỡng đó lại làm cho họ đau khổ hơn. (Euripide)

Cõi nhân thế này đau khổ nối tiếp đau khổ, ngày nối tiếp ngày, phiền muộn nối tiếp phiền muộn. (Lamartine)

Đời là một cõi để cười và buồn. (A. Einstein)

Người ta nghe trời mưa chứ không nghe tuyết rơi, người ta lớn tiếng than van những ưu phiền nhỏ nhặt nhưng lặng thinh về nỗi đau lớn lao. (B. Auerbach)

Có người khóc vì hạnh phúc, nhưng không có nước mắt trong những tai họa lớn lao. (Doudeauville)

Phải chăng chính sự đau khổ đã làm con người trở thành cao quý, tốt đẹp nhất? Con người phải hãnh diện vì được đau khổ. Con người bất diệt bởi vì con người đau khổ. (Phạm Công Thiện)

Không gì làm cho ta được cao thượng bằng một niềm đau khổ lớn lao. (A. Musset)

Tôi yêu quý sự cao cả trong nỗi đau thương của con người. (A. Vigny)

Thế giới này là một nơi đầy gian nan mà con người sinh ra là để chịu sự đau khổ như những tia sáng để bay trong không gian. (E. Rostand)

Sự đau khổ chỉ giết những kẻ yếu đuối và những kẻ ấy không đáng sống. (Phạm Công Thiện)

Những ai chưa từng đau khổ không xứng đáng với hạnh phúc họ đang hưởng. (Ugo Foscolo)

Muốn được hạnh phúc đến độ nào, người ta phải đau khổ đến độ đó. (Edga Poe)

Con người vốn cam chịu mọi thứ áp đặt của thiên nhiên và của con người. Một đứa bé vừa mới sinh ra đời cũng đã có sự tranh đấu gay go, tranh đấu để biết lật, biết ngồi, biết bò, biết đứng, biết đi, biết nói.. tranh đấu để thoát khỏi mọi chứng bệnh tật, tranh đấu mãi mãi để cho hòa hợp với cộng đồng loài người.

Mọi tôn giáo, mọi triết thuyết, mọi vĩ nhân đều nói: "Con người sinh ra là để chịu những đau khổ."

Điều ấy hiển nhiên như một công lý, như một định đề. Nhiều người im lặng mà chấp nhận, bởi vì có nói cũng bằng thừa! Nhưng.. cái đau khổ ấy mới là ý nghĩa của cuộc sống.

Một đời hoạt động như Césa, Alexandre, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon.. họ không có tiếng rên siết, nhưng nỗi đau đã ẩn ước trong mỗi cử chỉ, trong cách nhìn, trong cách suy nghĩ, cách lo toan.

Đồng tiền của Césa đúc ra không được người Israel thừa nhận. Quân đội của Alexandre đến phía Tây Ấn Độ gặp sự kháng cự mãnh liệt và sự biến động ở quê nhà đành phải rút về.

Thành Cát Tư Hãn lúc còn trẻ bị các bộ lạc khác áp chế, người yêu bị cướp đoạt. Hoàng hậu Joséphine đã phản bội Napoléon dẫn đến cuộc thất bại liên tục, cuối cùng sống lưu vong cơ khổ trên đảo Sainte Héleine..

Những con người có sức vá trời lấp biển càng gặp nhiều trở ngại và càng thấm thía. Sự đau khổ đeo đẳng con người như bóng với hình.

Nhưng.. chả lý chúng ta khoanh tay bó gối để chấp nhận sự đau khổ giày vò? Chúng ta phải cố gắng vươn vượt.

"Đời là một trường tranh đấu."

"Chiến đấu không gian nan thành công không vinh quang."

Từ người bình dân cho đến những vị quyền quý cao sang cũng đều phải đem hết tâm lực của mình ra để chiến đấu với nghịch cảnh.

Sự đau khổ đối với tâm hồn mẫn cảm nó có một thú riêng, bởi vì họ đã đạt đến một nghệ thuật sống cao siêu, họ tuy quằn quại nhưng không rên siết, tuy xót xa bức xúc nhưng không chạy trốn.

Chạy đâu và trốn đâu, trong khi đau khổ là nỗi tràm thống ở nội tâm?

Họ đau khổ là nhận thấy kiếp nhân sinh có nhiều "trái tai gai mắt", có nhiều điều phiền ý.

Có thể họ đau khổ vì tình yêu, đau đớn vì một cuộc nội chiến, đau xót vì thấy nhiều gia đình thiếu ăn thiếu mặc, đau thương vì thấy một xã hội bất công..

Chúng ta là những người hẹp hòi hơn nhưng cũng vướng mắc những đau khổ bất thường: Trong gia đình có một đứa con hư hỏng, cảnh nhà sa sút khó khăn, có một số nợ không trả được đang bị người ta nhiếc móc, con cái học không đến nơi đến chốn, bệnh tật.. Vô số việc bất như ý.

Nhà Phật gọi đau khổ là phiền não, sự ngu tối là vô minh, những gì thuộc bất hạnh tội lỗi là địa ngục. Nhà Phật chủ trương dùng trí tuệ để kiến giải những u uất đó, dùng việc làm nhân chánh để giải trừ nghiệp chướng. Dù sao đó cũng là phương pháp tranh đấu? Còn chúng ta?

Phải chấp nhận rằng cuộc sống mà không nếm mùi vị của đau khổ thì vô vị biết bao?

Người ta kể rằng một người Mỹ nào đó từ hồi nào sống trong cảnh dư dả sung túc, chuyện gì cũng được như ý nên không biết đau khổ là gì, anh ta liền gọi vài bạn thân đến cừu giùm anh khi anh thắt cổ tìm cảm giác chết!

Một bức tranh mọi nét đều chân phương, đều chính xác thì những bức tranh ấy không còn có vẻ nghệ thuật nữa. Cho nên họ vẽ cái gì đó phải khiếm khuyết một chút: Mặt trời không tròn, mặt nước không có sóng, nhánh cây không khúc khuỷu.. suy ra đời sống con người cũng vậy.

Bởi vậy có một triết gia nói: "Kẻ nào vượt qua được mọi trở lực trong đời là phi thường đã đành, kẻ nào giữ được sự bình thường trong đời cũng là bậc phi thường."

Cái phi thường của loại người trên ta thấy rất nhiều, cái phi thường của loại người dưới tựa hồ như không ai.

Ai trong đời không tao ngộ một vài khó khăn? Không có một vài biến cố trọng đại?

Không chạy loạn thì cũng bị cướp đến nhà, không thì cũng gặp tai nạn. Đời này biết bao nhiêu là tai nạn? Gặp đau khổ chúng ta có dịp thử thách chính mình, mới thấy cái "phong vị của đau thương" mà có người cho đó là cái thú.

Nhờ khổ đau mà con người được tôi luyện thêm dạn dày. Chính đau khổ đã tạo con người thêm tính cao thượng.

Cao thượng là một trong những đức tính có giá trị, vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có giá trị đạo đức. Tình yêu, tình bằng hữu được xây dựng trên tính cao thượng.

Cụ Phan Bội Châu nói: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai."

Hoặc nói: "Bốn mùa ví phỏng xuân đi hết, góc núi ai hay sức lão tùng."

Biết bao gương danh nhân kim cổ từ trong cảnh khổ ải lầm than đã cố gắng đem hết sức mình ra chiến đấu với nghịch cảnh không một chút nản lòng cuối cùng cũng đạt đến cái đích như ý.

Cái tinh lực vô cùng thượng thừa của con người là dám đương đầu với mọi trở ngại. Với thiên nhiên họ dám lấn từng tấc đất, với bờ biển, bờ sông, bìa rừng vách núi, họ dám tấn công với dã thú để tìm lấy một sự yên ổn.

Hiện nay trên địa cầu chưa có một thước vuông đất nào mà con người chưa đặt chân đến. Sự thành tựu ấy là nhờ con người chiến thắng được đau khổ.

Để kết luận bài này, chúng ta tâm niệm mấy điều:

* Phải chấp nhận sự đau khổ luôn có mặt ở mỗi con người, nhưng phải xem đó là một thứ trò chơi trong cuộc cút bắt, một bài toán tầm thường trong cuộc thi tuyển, không nên sợ hãi chạy trốn (vì chạy trốn nó sẽ đuổi theo), mà phải bình tĩnh đương đầu với nó.

* Đau khổ là chất xúc tác làm cho tinh thần chúng ta sung kiện, hăng hái để chiến đấu và chiến thắng.

* Chỉ có đau khổ mới thấy tinh thần lạc quan của mỗi người. Và chỉ có đau khổ làm cho cuộc sống của mỗi cá nhân càng thêm giá trị
.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
BẠN BÈ

Tình bằng hữu là một linh hồn trong hai thân thể. (Pythagore)

Tình bằng hữu là cái gì kiên cố và bền vững đến mãn đời, nếu ta không kêu gọi đến nó trong lúc túng thiếu. (Mark Twain)

Ai có được một người bạn lớn là có một kho tàng. (Rigaud)

Ngoài sự khôn ngoan, điều quý nhất mà Thượng Đế đã ban cho con người là tình bằng hữu. (Le Rochefoucauld)

Hạnh phúc lớn nhất trong tình bạn là có một người để gửi gắm tâm tình. (Manzoni)

Muốn được một người bạn thì chính mình phải là một người bạn. (Emerson)

Tình bằng hữu ví như phẩm tước xưa càng lâu càng quý. (Goethe)

Lạc dương bằng hữu như tương vấn

Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

(Lạc dương có kẻ còn thương nhớ

Rằng: Đây hồ ngọc tấm lòng băng)

(Vương Xương Linh)

Có nhiều bạn là chẳng có người bạn nào cả. (Aristote)

Nên có nhiều bạn và nhiều sách, nhưng phải bạn tốt và sách tốt. (Tây Ban Nha)

Bạn bè giống như xe taxi gặp lúc trời mưa tìm đỏ con mắt không có lấy một chiếc. (Tướng Revers)

Người bạn thành thực là người chỉ những lỗi lầm cho mình mà không sợ mích lòng. (Doudeauville)

Nghi ngờ bạn còn xấu hơn bị bạn gạt. (Rochefoucauld)

Gặp bước gian nan mới biết lòng bạn bè. (Saint Piere)

Có ai trong đời mà không có bạn? Đoàn thể phải có hội viên, tôn giáo phải có tín đồ. Ngay trong gia đình còn có cha mẹ anh em giúp đỡ, nếu bạn ra ngoài xã hội bạn biết cậy nhờ ai nếu không có bạn bè?

Theo Nho giáo, tình bằng hữu là một trong năm thứ tình để ràng buộc nhau (quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu). Có tình bạn bè mới có sự đoàn kết. Trong hàng xóm đó là tình láng giềng. Đi nhiều nơi thỉnh thoảng ta bắt gặp một vài người bạn tâm đầu hợp ý, từ đó ta kết giao làm bạn bè với nhau.

Bạn bè cũng có nhiều loại, có kẻ thì diệu giao, có kẻ thì tâm giao. Những người kỹ lưỡng hoặc khó tính họ chọn lấy một vài người bạn để làm của quý trong đời. Những người dễ tính hơn, họ trải lòng ra chơi với bạn bè một cách chân thành, do đó họ có nhiều bạn bè.

Làm thế nào để chúng ta có được bạn bè tốt? Điều này tùy thuộc cơ duyên của mỗi người, nhưng trong đó ta đóng vai trò chủ động. Trước nhất chúng ta phải biết tin người, bỏ đi cái tính thường tình là nghi ngờ.

Tục ngữ có câu: "Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn."

Bạn hãy công bình một chút để thấy điều này: Có một người nào đó mà gia đình mình không nuôi họ, mình được kết bạn với họ không tốn một đồng nào, tại sao ta không dám đối xử với họ một cách chân tình và bình đẳng?

Trên đời này hiếm có hạng người ở vào trạng thái cực đoan tức là ít có người cực xấu hoặc cực tốt, nếu có chăng nữa phần gặp đó chưa hẳn ta gặp và có gặp chăng nữa với tinh thần bình đẳng và cởi mở của ta vị tất người cực xấu đó đã đối xử xấu với ta?

Huống chi, chúng ta đã có tính can đảm thì có sợ gì mấy chuyện vụn vặt kia?

Chúng ta không mong gì có bạn nhiều, nhưng nếu có được nhiều bạn tốt thì càng hay. Đừng đòi hỏi sự tuyệt đích như đôi bạn Rimbeau và Verlain (hai đại thi hào Pháp), như Bá Nha và Tử Kỳ (người biết chơi đàn và người biết nghe đàn).

Kinh Pháp Cú (Padasutra) dạy chúng ta: "Không nên kết bạn với một kẻ hơn mình", không phải đó là tư tưởng bất bình đẳng, đây chỉ là phần dè dặt. Những kẻ giàu có hơn, giỏi giang hơn, trí thức hơn chỉ sợ mình có mặc cảm và không được tự do.

Nhà hiền triết Pythagore cũng nói như vậy: "Chọn bạn không nên chọn người cao hơn mình quá, thấp hơn mình quá."

Mục đích sự chọn bạn là để gởi gắm những nỗi niềm cho nhau. Nếu gặp một nghịch cảnh nào đó thì bạn bè có thể giúp đỡ nhau.

Tục ngữ có câu: "Buôn có bạn, bán có phường."

Rất dỗi trong việc buôn bán còn có bạn bè thay. Nếu ta không có bạn rủi ra đường, gặp cơn hoạn nạn thì biết nhờ ai? Sự sinh hoạt ngày nay rất phức tạp, không phải có tiền là có tất cả đâu (mà chưa chắc chúng ta đã có sẵn một nguồn tài chính dồi dào).

Người ta thường nói: "Giàu vì bạn sang vì vợ." Có một người bạn tốt, ta có thể noi theo đó để mà tiến lên hoặc nghe theo khuyên giải của bạn để làm việc có hiệu quả hơn.

Xin tâm sự với các bạn một điều, những ngày tôi còn nhỏ mẹ tôi thường nhắc nhở rằng: "Ở đời có ba cái giàu: Giàu tiền bạc, giàu nhân nghĩa, giàu bạn bè. Giàu tiền bạc, các con không thể so với người được. Giàu nhân nghĩa các con không thể so với những bậc hiền đức được. Dẫu có nhiều nhân nghĩa cũng ít ai thấy. Các con nên giàu bạn bè. Có nhiều bạn bè tốt, tức là có nhân nghĩa vậy."

Đức Khổng Tử tuy rằng ít có bạn đồng tuế, nhưng với đám 72 học trò hiền và 3000 đệ tử kia, Ngài quả là giàu bạn bè. Đừng nói theo kiểu bi quan:

Vô nhân tín cao khiết

Thùy vị biểu dư tâm

(Đời này cao khiết ai tin

Vì ai bộc bạch chân tình lòng ta)

(Đường Thi, Trần Trọng San dịch)

Hoặc:

Khi vui thì vỗ tay vào

Đến khi hoạn nạn thì nào có ai? (Ca dao)

Việc này đời nào cũng có. Một ví dụ đơn giản và trước mắt, nhiều bạn thấy vui tính và khá giả, một chiều thứ bảy họ đề nghị mở tiệc ca hát và khiêu vũ. Bạn bè xúm lại đông, rượu chè trái phép, ca hát nửa chừng cảnh sát ập vào, bạn bè lén lén rút lui hết, anh X nai lưng ra chịu.

Ai giàu bạn bằng Mạnh Thường Quân? Thực khách trong nhà luôn luôn có hơn 3000 người, đến khi Mạnh Thường Quân bị đuổi ra khỏi nước Tề không có một ai đi theo để chia sẻ nỗi buồn với ông, gánh vác hoạn nạn cùng ông. Sau Mạnh Thường Quân trở về lại cố quốc, đám thực khách hay tin rủ nhau kéo đến. Đàm Thật Tử ra tận ngoài cõi đón Mạnh Thường Quân hỏi:

"Ngài có oán đám tân khách của ngài không?"

"Oán!"

"Có ý giết họ không?"

"Giết!"

Đàm Thập Tử nói: "Có những sự thể tất phải đến, có những tình lý tất nhiên bất biến, việc đó ngài có hiểu không?"

"Không!"

Đàm Thập Tử giảng: "Ai cũng phải chết, đó là sự thể tất nhiên phải đến. Mình giàu sang người ta bu lại, mình nghèo hèn người ta lảng ra, đó là một tình lý bất biến. Xin lấy ví dụ, chợ buổi sáng thì đông người, chiều tối thì vắng vẻ, không phải vì lẽ buổi sáng người ta yêu chợ, buổi chiều ghét chợ, chỉ vì có nhu cầu mua bán thì người ta còn tới chợ, hết nhu cầu thì người ta trở về. Xin ngài chớ oán."

Mạnh Thường Quân bèn bỏ ý định giết những kẻ kia.

Mạnh Thường Quân biết chơi mà không biết cách chọn bạn. Ông ta vì giàu có và sẵn lòng hảo tâm cứ bỏ tiền của ra đãi khách, trước nhất là để cầu vui, để được tiếp những người hào hiệp, sau nữa đó là đòn phép chính trị của ông.

Trong ba ngàn thực khách chỉ chọn được vài người. Phùng Huyên là một trong những người hữu dụng đó.

Thuở Huyên gia nhập không ai biết ông ta là người thế nào, ăn cơm không ăn cá, không có thịt ông cũng kêu nài, được cá thịt rồi nài đến chuyện đi không xe. Có xe rồi ông kêu nài đến việc không có đồ gửi về nhà. Những lời kêu nài ấy được Mạnh Thường Quân chu tất, từ ấy ông hết kêu nữa.

Mạnh Thường Quân sai Phùng Huyên đến ấp Tiết thu tiền nợ, Huyên đến đó thu được một ít nợ của nhà giàu, còn bao nhiêu đốt sổ nợ và tha hết. Mạnh Thường Quân giận mà không dám nói ra. Nhưng Huyên nói: "Huyên này mua cái đức cho ông."

Về sau Mạnh Thường Quân bị vua Tề đuổi, Phùng Huyên đưa Mạnh Thường Quân về ấp Tiết, dân ấp Tiết nghe vậy đi đón ông chật đường. Uy tín Mạnh Thường Quân vang dội. Vua Tần muốn dùng Mạnh Thường Quân, vua Tề hay được, sợ Tần dùng Mạnh Thường Quân bất lợi cho mình, nên dùng lại Mạnh Thường Quân. Đó là nhờ công Phùng Huyên.

Kết bạn được một người như Phùng Huyên thì thật là thú vị.

Trong lịch sử nước ta lẫn thế giới có nhiều mối tình tri âm tri kỷ thật cảm động. Chính vì có sự ảnh hưởng cao cả trong tình bạn đó nên người ta chỉ thích có một vài người bạn quý.

Chúng ta cũng không lạ gì cái thói "giàu đổi bạn, sang đổi vợ". Thời nay vì không khó khăn như thời trước, nên việc phản bạn một cách trâng tráo cũng ít có vẻ nghiêm trọng. Xin kể ra đây vài câu chuyện về tình bằng hữu ở nước ta.

Ngô Thời Nhiệm (1745-1803) là một nhà nho lỗi lạc ở Bắc Hà nhiều người rất kính trọng ông ta, trong đó có Đặng Trần Thường (1759-1819) là một người tài kiêm văn võ, tuy hai bên có số tuổi chênh nhau đến 15 tuổi, nhưng họ vẫn làm bạn với nhau rất thân. Khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất (1786) Ngô Thời Nhiệm sớm biết thời thế liền ra đầu Tây Sơn, được Nguyễn Huệ phong chức tả Thị lang.

Khi Nguyễn Huệ trở về nam giao Ngô Thời Nhiệm ở lại làm việc ở miền Bắc, Đặng Trần Thường lâu nay mang tư tưởng "ngàn năm văn vật" không chịu theo Tây Sơn, nhưng thấy thanh thế Tây Sơn mỗi ngày một mạnh, Đặng Trần Thường liền đến phủ Ngô Thời Nhiệm xin làm việc.

Ngô đem lẽ thiệt ra giảng cho Đặng, mong bạn tiến bộ trên đường tư tưởng. Đặng nghĩ rằng Ngô khinh mình liền trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh.

Khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn (1801) Đặng Trần Thường được vua Gia Long phong làm Đô thống chế, Thường bắt Ngô Thời Nhiệm, sai quân lính đánh cho đến chết (1803). 16 năm sau Đặng Trần Thường cũng bị vua Gia Long giết về tội tham nhũng.

Một chuyện khác, Cao Bá Quát nhỏ hơn Nguyễn Văn Siêu 9 tuổi, khi hai bên kết bạn với nhau Cao 16 tuổi, ông Nguyễn 25 tuổi, hai người từ đó thân thiết với nhau, giúp đỡ cho nhau để học tập. Cả hai đều thông chữ, người đời tôn là Thần Siêu, Thánh Quát. Từ đó đến năm 1854, Cao khởi binh chống lại nhà Nguyễn (lúc đó Cao 47 tuổi), Cao bị bắt và tử hình. Nguyễn Văn Siêu vẫn không sợ mình bị liên lụy, vẫn làm thơ văn, đối để ai điếu ông Cao.

Có thể rằng, vấn đề đạo đức ta không theo kịp người xưa, nhưng hôm nay phương tiện dồi dào và gia cảnh của mỗi người cũng "thường thường bậc trung" nên đã làm bạn với nhau chắc không ai nỡ làm phiền nhau về tài chính nhiều lắm. Chúng ta hãy cố gắng giữ tình bạn cho được nguyên vẹn, khỏi uổng công rèn các đức kiên nhẫn, can đảm.. Các bạn hãy thực hiện các điều sau đây:

* Không một người nào là không có bạn.

* Bạn bè có một sợi dây liên lạc về tình cảm, vậy hãy lấy tình cảm chân thành mà nuôi dưỡng nó.

* Bạn bè nhiều khi bất đồng ý kiến với nhau, nên nhường nhịn nhau rồi tìm cách gỡ rối. Nếu cắt đứt rồi nối liền thì vết nối vẫn còn.

* Bạn bè không luận ít hay nhiều, miễn là chân thành đối xử với nhau, thương yêu nhau, đó là điều quý.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
THÀNH THẬT

Sự thành thật là sự mở rộng của trái tim. (Rochefoucauld)

Sự thành thật mà không có lòng từ thiện cũng giống như sự từ thiện mà không có lòng thành thật, cả hai đều bất lương. (S. Fracois des Sales)

Điều quan trọng nhất là sự hăng hái. Hăng hái do lòng chí thành mà ra. (Emerson)

Không gì thu phục nhân tâm dễ bằng sự thành thật. (E. Psichari)

Lời thành thật thì ít duyên dáng, lời duyên dáng thì ít thành thật. (Lão Tử)

Trung ngôn nghịch nhĩ. (Nói thẳng chói tai) (Cổ ngôn)

Thành thật là gì?

Thành thật là đóa hoa đầy hương sắc của đức tính, là bản chất tự nhiên của loài người từ thuở khai sinh lập địa.

Nhờ đức thành thật con người mới có được xã hội, đoàn thể tôn giáo, từ đó nảy sinh sự tha thứ thương yêu..

Theo kinh tế gia Malthus "dân số tăng theo cấp số nhân, thực phẩm tăng theo cấp số cộng", tuy những nước đông dân, các chính phủ lo kế hoạch hạn chế sinh sản nhưng vẫn không ngăn chặn được sự bùng nổ trên lĩnh vực dân số, và chính vì thế cuộc sống của con người càng lúc càng khó khăn.

Không nói theo lời bi quan, ngày nay muốn sống dễ kiếm ăn người ta phải "tùy thời", có nghĩa là tạm quên đi sự thành thật cố hữu của mình, phải gật đầu theo xuôi để giữ vững địa vị hay thiện cảm của người đối với mình!

Nhưng chúng ta hãy nhớ một điều, dù hoàn cảnh nào mặc lòng, không ai trong chúng ta thích kẻ khác thiếu thành thật với mình. Họ xem sự thiếu thành thật là sự lường gạt, là lừa dối. Khó xử thật! Cổ nhân có câu: "Vi nhân nan! Vi nhân nan!" (Làm người khó thay! Làm người khó thay)

Ta giải quyết sao? Có người phỏng vấn ông giám đốc một công ty dệt nổi tiếng ở Việt Nam: "Ông có nghệ thuật gì mà công ty ông càng lúc càng thịnh đạt như vậy?"

Vị giám đốc mỉm cười trả lời: "Ngay từ nhỏ bố tôi có dạy rằng, người càng lúc càng đông, thì những mánh khóe để lừa nhau càng nhiều. Con cần phải có tài và quan trọng nhất là trải lòng mình ra để thù tiếp người, thì không lo gì không có người đầu tư vào công sức lẫn của cải!"

Quý hóa thay lời khuyên vàng đó!

Hồi đầu thế kỷ này cụ Phan Tây Hồ thốt lên:

"Bát canh nấu với máu gan

Dâng trời cũng thấu lời than của mình

Mũi tên dồn hết tâm thành

Bắn vào đá cứng tan tành như chơi!"

Về mặt đạo đức, lòng thành thật chính là sự nhân bản. Đứng về phương diện nghệ thuật lại càng không thể thiếu nó. Các nhà thôi miên nếu không có lòng chí thành làm sao điều khiển được đối tượng?

Không ai có thể mạo hóa được sự thật, nên không ai có thể nhấn chìm hay phủ kín nó bằng sự ngụy trá; bởi vì "lấy thúng mà úp mình voi, có úp đằng trước nó lòi đằng sau".

Người đi vào đời bằng lòng thành thật cũng giống như người đi qua sông qua biển bằng thuyền, đó là phương tiện duy nhất để cứu mình và giúp người.

Cho nên: "Muốn được hưởng sự thành thật của người, trước tiên ta phải thành thật với người."

Từ thành thật đến thành công chỉ cách nhau một chiếc cầu đã xây sẵn.

SỰ HẠN CHẾ.

Vì sự thành thật từ lương tâm và đạo đức mà ra, tất nhiên nó bị ràng buộc bởi lương tâm và đạo đức. Có những trường hợp vì sự thật mà không nên nói.

Một bệnh nhân bị bệnh khá nặng hỏi bác sĩ: "Thưa bác sĩ, bệnh em có thể cứu được không?"

Bác sĩ biết bệnh này khá nguy kịch, mười phần sự sống chỉ được đôi ba, nhưng bác sĩ đành phải an ủi: "Em hãy cố gắng tịnh dưỡng thì bệnh gì cũng qua cả. Vả lại bệnh này đâu có gì là nguy hiểm?"

Bởi vì thầy thuốc nào cũng biết rằng, làm cho bệnh nhân bi quan, sợ sệt thì dẫu thuốc thánh cũng không chữa hết bệnh.

Một người hàng xóm đến mách em bé về tội phá phách, nghịch ngợm nhưng ba má bé là người ít học, nóng nảy thô lỗ, khách không nên hài tội bé ra, mà chỉ nên nói rất khéo, với mục đích để ba má bé răn dạy bé cho nên người, chứ không phải để đánh bé cho hả lòng mình.

Một kỷ niệm khó quên. Hồi nhỏ tôi là một đứa trẻ nghịch nhất ở xóm. Trong sân nhà ông B có cây xoài tượng trái đã vàng đít lại rất cao. Tôi và vài đứa bạn lối xóm rủ nhau trèo lên cây xoài ấy để hái trộm. Chủ nhà nghe thấy thì thầm trên cây (vào giữa trưa mọi người đang ngủ trưa) liền nhẹ nhàng hé cửa ra nhìn, chứ không xông ra đột ngột, vì ngại chúng tôi sợ mà nhảy ào xuống sân. Chúng tôi thấy động lật đật tuột xuống, chạy ra khỏi sân chủ nhà mới xuất hiện.

Cha mẹ chúng tôi nghe được và hỏi thì ông ấy nói: "Trẻ con đứa nào không vậy? Chỉ răn cho chúng bớt nghịch, chứ không thể làm chúng hết nghịch."

Những sự thật được coi là bí mật, thì không ai điên gì phải tiết lộ bí mật ấy ra để bị lương tâm, đạo đức, luật pháp lên án.

Trong công việc giao tế, lòng thành thật cũng giống như nước mắm nguyên chất ai dùng cũng thấy ngon mà không cần phải thêm đồ gia vị.

Giữa cuộc sống đầy phức tạp, ai cũng biết rằng, ngày nay "giả nhiều hơn thật", kẻ nào chuộng lấy sự thật, là chuốc lấy sự thất bại, bởi vậy mới có những câu rất bi quan: "Mua lầm chứ không bán lầm".

Tại sao có việc lầm trong mua bán? Bởi vì trong mua bán ấy có điều không thành thật; câu "xanh vỏ đỏ lòng" tức là nói một đàng làm một nẻo, tức là sự thiếu thành thật.

Các tôn giáo, các hội đoàn luôn luôn kêu gọi sự thành thật, thế nhưng chính họ - những bậc đạo đức ấy cũng có sự hạn chế bởi những lý do khách quan. Nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain (1835-1910) đã kẻ một "mẫu chuyện tình thời trung cổ" A Mediaeval Romance:

Ngày xưa dưới thời trung cổ, đông phương cũng như tây phương đều sống trong chế độ phong kiến. Các công khanh, đại thần, chia làm năm bậc: Công, hầu, bá, tử, nam.. vị công tước xứ Branden Burgh là Ulrich không có con trai. Bá tước Klugensten là em của vị công tước này rất biết điều lệ của triều đình: "Bất kỳ vị tước nào không có con trai nối dõi, thì khi lâm chung, lãnh địa của vị đó được giao cho con của anh hay em ruột mình; nếu những người kia cũng không có con trai, thì lãnh địa đó trả về cho triều đình."

Các vị lãnh chúa ấy, theo đạo đức và tôn giáo phải là người thành thật, đối với quốc vương, họ lại càng phải thành thật hơn nữa.

Bá tước Klugensten thấy ông anh già nua của mình chỉ có một mụn con gái là công nương Constance, trong khi đó ông cũng có một cô con gái ngay từ mới lọt lòng, ông đã nam trang cho bé gái đó, để chuẩn bị một âm mưu về sau. Klugensten ngầm sát hại sáu người trong nhà đã biết con ông là con gái! Ông đặt tên "cậu con trai" ông là Conrad. Conrad nghiễm nhiên sau này sẽ là công tước Branden Burgh. Nếu tội "khi quân" này vỡ lở ra cả giòng họ sẽ bị xử tử!

Công chúa Constance đến tuổi yêu đương bị tên hiệp sĩ sở khanh lường gạt, chừng nào thức ngộ lại thì gặp ngay "công tước tập sự Conrad" (gái giả trai). Công chúa yêu ngay Conrad một cách tha thiết! Hỡi ơi! Conrad là con gái, mà cũng là chị em chú bác! 7, 8 tháng sau công chúa sinh con, ra tòa, công chúa chỉ Conrad đã ăn nằm với mình!

Đến càng là ngõ cụt. Công chúa vẫn không biết Conrad là gái, công chúa thù Conrad không yêu mình nên mới khai bậy như vậy. Conrad nếu chứng minh mình là con gái thì chết cả dòng họ, còn chấp nhận sự vu khống cũng chết mà mang tiếng loạn luân. Đó là sự tai hại của sự lừa dối để chuộc lợi!

Xem vậy đủ biết sự thiếu thành thật trở thành một sự lừa đảo tuy có lợi trong nhất thời nhưng lòng không ngớt lo sợ luôn luôn khổ tâm để đối phó, chừng ấy cũng là một hình phạt rồi, đến khi bị phát giác ra thì xấu hổ đến chết đi được. Đó là chưa nói sự làm việc của luật pháp, và những tai hại dây chuyền khác nữa.

Lòng thành thật khiến con người can đảm, sáng suốt, yêu lao động, tôn trọng sự công bình, đóng góp cho xã hội một trật tự.

Lòng thành thật chiến thắng mọi trở ngại, sẽ không bao giờ bị thiệt thòi.

Tóm lại, lòng thành thật có những điều lợi sau:

* Muốn được hưởng sự thành thật của người, trước tiên ta phải thành thật với người.

* Từ thành thật tới thành công chỉ cách nhau một chiếc cầu xây sẵn.

* Lòng thành thật chiến thắng mọi trở ngại, sẽ không bao giờ bị thiệt thòi.

* Ai có lòng thành thật là có được bảo vật vô giá.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
NGHE

Tạo hóa cho con người hai tai và một miệng, là có ý dạy cho chúng ta biết nên nghe nhiều mà nói ít. (Zénon)

Người nói là vãi ra, người nghe là nhặt lấy. (Plutarque)

Lời nói như mũi tên đã buông, đã lọt vào tai ai không thể rút ra được. (Lục Tài Tử)

Miệng ngậm thì tai mở. (Tục ngữ Anh)

Người ta hối hận vì đã thốt ra lời, chứ không phải vì lặng nghe. (Simonide D'Amotrgos)

Lúc đáng nói thì mới nói, người nghe không chán. (Luận ngữ)

Nghe là bản năng hằng hữu của mọi sinh vật. Ngay cả cỏ cây cũng có khuynh hướng vươn đến tiếng động và ánh sáng. Chức năng "nghe" còn cao thâm hơn nhiều.

Đối với con người, sự nghe đến trước tiếng nói. Đối với một trẻ sơ sinh mà mất đi sự nghe, thì trẻ sẽ không bao giờ nói được. Nên có thể nói, có nghe là bậc thầy của nói.

Các nhà tâm lý học phân tích cho thấy, tuyệt đại đa số nhân loại thích nói hơn là thích nghe. Sở dĩ như vậy là vì họ muốn chứng tỏ họ là nhân vật quan trọng, họ muốn phô cái hiểu biết của họ cho người ta khâm phục; nếu không thì họ muốn khoe của cải hay quyền lực gì đó. Nói tóm lại, đó là chứng bệnh về "chấp ngã", đề cao cái "ta" của mình lên.

Nếu ta dứt ngang lời nói của họ trong lúc họ cao hứng thật là nguy hiểm và rồ dại. Người lịch sự không nên làm như vậy.

Trước nhất chúng ta phải hiểu rằng "nghe tức là học".

R. W Emerson nói: "Bất kỳ người nào cũng có một điểm gì đó hơn mình, nên ta có thể học ở họ được."

A de Vigny cũng nói như vậy.

Cách đây hăm lăm thế kỷ Liệt Tử đã nói: "Lời nói của một kẻ cuồng, thánh nhân còn nhìn được thay." (Cuồng phu chi ngôn thánh nhân trạch yêu).

Nghe người đối diện nói chúng ta có được mấy điều lợi:

Ta học khôn ở họ một điều gì.

Chân thành nghe họ nói tức là giúp cho họ một niềm vui.

Giúp cho ai được điều gì chúng ta cảm thấy có một niềm vui sướng.

Và tuyệt hảo nhất là chúng ta đã gây được mối thiện cảm với họ. Đời này có gì quan trọng hơn là thiện cảm? Người ta hy sinh cho nhau, giúp đỡ nhau là nhờ ở thiện cảm đó.

Sách vở kể một giai thoại khá thú vị. Năm 1773 Nữ hoàng Nga Catherine II mời Diderot (nhà văn, nhà khoa học cùng với Rond d'Alembert viết bộ Bách Khoa Toàn Thư Encyclopédie) qua Nga diễn thuyết. Nữ hoàng hội đàm với Diderot, bà lắng tai nghe Anghe Diderot nói, một cách say mê.

Sự chăm chú của bà khiến Diderot càng cao hứng, những lúc như vậy ông chồm tới vỗ đùi bà "đét, đét". Sau buổi nói chuyện đó cặp đùi nõn nà của bà trở nên bầm tím! Năm năm sau nữ hoàng lại mời Diderot qua Nga lần nữa. Bà vẫn chịu trận như lần sơ kiến mà không hề than phiền. Bà viết thư cho một người bạn nói: "Vị thiên tài ấy thật lạ lùng! Mỗi khi nói chuyện ông ấy cứ vỗ vào đùi tôi sưng tím cả lên, lúc ấy tôi không hề biết đau."

Địa vị của một hoàng đế nghiêm cẩn say mê nghe nhà văn nói chuyện như vậy, huống gì chúng ta.

Thà ngay từ đầu chúng ta đã không có chuyện ngồi lại với nhau thì thôi. Biết cách nghe và gợi ý cho người ta nói là một nghệ thuật thu phục nhân tâm càng được nhiều người yêu mến, ta càng thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa, nhất là tránh được sự khổ tâm vì cách đối phó.

Bậc thánh như Đức Khổng Tử còn phải thốt: "Chín mươi chín người thương vẫn chưa đủ, một người ghét đã là nhiều."

Bớt lời để nghe nhiều, đó là những người có đức độ. Thiện chí và thiện cảm được nảy sinh từ đó.

Người phương Tây nói: "Sự Thấy lên đường đã mười năm, sự Nghe nửa buổi đường đã theo kịp."

Tin tức góp nhặt từ bốn phương là ở nghe chứ không phải thấy.

News (tin tức) = N: North (Bắc), East (Đông), West (Tây), South (Nam).

Câu chuyện Bá Nha, Tử Kỳ cũng nói về cái Nghe đó. Ngày xưa có một người chơi đàn đã đến mức tuyệt kỹ đó là Bá Nha. Bá Nha may mắn kết bạn với một người rất giỏi về nghe đàn đó là Chung Tử Kỳ. Qua tiếng đàn Tử Kỳ hiểu ý của Bá Nha trong lúc đó. Về sau Tử Kỳ qua đời, Bá Nha liền đập đàn, không hề gảy nữa, cho rằng thiên hạ không còn ai là chỗ tri âm (biết nghe tiếng đàn). Cứ cho rằng đây là huyền thoại, nhưng huyền thoại ấy dùng để nói lên điều gì? Đó là giá trị của sự Nghe hay Lắng Nghe.

Trong Sử Ký của đại sử giá Tư Mã Thiên viết về nhân vật Thuần Vu Khôn được tóm tắt như sau:

Thuần Vu Khôn là người nước Tề, nghe rộng nhớ nhiều, ông rất giỏi về việc du thuyết. Nhờ im lặng nhìn và lắng nghe mà đoán biết được ý của người đối diện. Ông vào gặp Lương Huệ Vương hai lần, chỉ nghe nhà vua nói mà không phát biểu gì cả. Cuối cùng nhà vua trách: "Quả nhân không đáng nói chuyện với khanh sao?"

Bấy giờ Thuần Vu Khôn mới nói: "Lần trước tôi yết kiến nhà vua, nhà vua tuy đang bàn việc nước, nhưng óc lại nghĩ đến chuyện cưỡi ngựa rong ruổi. Lần sau tôi gặp nhà vua, nhà vua vẫn nói chuyện, nhưng óc lại nghĩ đến thanh âm. Vì thế tôi không dám nói gì cả."

Nhà vua cả sợ nói: "Ôi, Thuần Vu tiên sinh thật là thánh nhân vậy! Lần trước có người cho ta một con ngựa hay, ta chưa kịp xem nó thì phải bận tiếp tiên sinh, lần này người ta cho ta một con hát rất hay chưa kịp thử cũng bận tiếp tiên sinh. Lúc ấy quả nhân thật đang nghĩ về những thứ đó."

Sự lắng nghe mang đến sự thành công to lớn, làm phát triển thêm những đức tính tốt trong mọi lĩnh vực.

Trong quyển Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentale) Claude Bernard nói: "Hãy lắng nghe thiên nhiên đọc cho viết."

Một tác giả nổi tiếng trước nhất phải biết nghe "tiếng lòng" của mình, phải biết nghe tiếng thì thầm của tạo vật, và nghe được tiếng lòng của tha nhân.

Cổ ngôn có câu: "Xưa nay thánh hiền đều tịch mịch." (Cổ giai Thánh Hiền giai tịch mịch).

Không phải thánh hiền tịch mịch đâu, các vị ấy đang nghe đó! Sức nghe của họ rất sâu xa. Ta thấy đó, lòng không thành thì sức nghe chưa tới.

Ở đây chúng ta không dám mong cầu có một sức nghe cao diệu như vậy, chỉ muốn xin bớt nói để chú nghe.

Bạn chỉ cần nhịn năm phút thôi, chỉ năm phút thôi mà!

Bạn nhịn nói trong năm phút là bạn toàn thắng. Có thể bạn không tin? Nhưng hãy thực hành mới thấy cái diệu dụng của nó.

Các điều đáng nhớ:

* Không nên ngắt lời trong lúc người đang nói.

* Nghe là học khôn ở người nói.

* Biết nghe là giúp cho người nói chuyện một niềm vui.

* Biết cách nghe và gợi ý cho người ta nói là một nghệ thuật thu phục nhân tâm.

* Có lý nào người ta chỉ nghe mà không nói?
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
NÓI

Lời nói là y phục của tư tưởng. (Rivarol)

Tiếng nói là hình ảnh của tính tình. (Disraeli)

Tiếng nói là bông hoa của sắc đẹp. (Lénon d'Elée)

Lời nói là gương mặt của tinh thần. (Sénèque)

Lời nói là hơi thở của tâm hồn. (Pythagore)

Người hạnh kiểm cái miệng nơi tim, kẻ mất nết thì tim ở miệng. (A. Wydeville)

Lời nói là bộ mặt thứ hai. (G. Bauer)

Câu nói là tiếng của trái tim. (Châu Hy)

Ý kiến con người giống như cái đinh, càng đóng càng khuất dần. Vậy chớ bao giờ tranh cãi. (A. Dumas père)

Nói ngọt lọt tới xương. Ngọt mật chết ruồi. (Tục ngữ)

Lời nói phải làm đã khát hơn nước mát. (G. Herbert)

Ngàn vàng dễ kiếm, lời tốt khó tìm. (Tử Du)

Nói nhiều không phải là trí thức. (Thalès)

Muốn điều khiển phải biết người; muốn biết người phải nghe người nói. (Detoef)

Nói nhiều lỗi nhiều. (Trung Hoa)

Hãy dùng lời nói như tiền bạc. (Lichtenberg)

Lời nói thật là lối xã giao tốt nhất, vì nó không hại người kia. (Tourguenev)

Ngôn ngữ là phương tiện để diễn đạt ý nghĩ của mỗi người. Không người nào không dùng đến nó hàng ngày cả. Người câm không nói được thì dùng cử chỉ để thay cho lời nói. Nếu xét một cách thận trọng sẽ thấy ngôn ngữ là cái phát minh lớn nhất và sớm nhất của loài người. Về khoản này ngôn ngữ được coi là thứ tài sản riêng của mỗi người. Người ta dùng nó trong việc giao tiếp cẩn thận không kém gì trong việc sử dụng tiền bạc (Lichtenberg).

Có hiểu như vậy mới thấy, ai biết tiết kiệm tiền bạc là biết tiết kiệm lời nói. Thế nhưng trên đời này vô số người vung vãi tiền bạc và lời nói một cách thả cửa! Dù sao đó cũng là cái quyền của họ.

Thái độ của chúng ta sẽ như thế nào khi gặp những người ham nói đó?

Như những bài trước đã nói, đa ngôn ngữ cũng là một trong những bản tính tự nhiên của con người. Đó là bản tính thô sơ chưa được rèn luyện kỹ, nên còn nhiều tính háo thắng. Đối diện với họ, chỉ cần bình tĩnh một chút ta sẽ thu nhiều kết quả. Có nghĩa là chúng ta quay lại vấn đề "nghe" và "nhìn" như đã trình bày ở đây.

Đặt trường hợp chúng ta là người đang nói chuyện, tức là giao thiệp một cách thông thường, chứ không phải nói chuyện trước công chúng (vì đó là thuật hùng biện khác nữa).

Sau đây là vài nguyên tắc cơ bản và rất đơn giản:

1. Không nên tỏ ra mình là kẻ hiểu biết nhiều hơn tất cả mọi người. Nếu bạn thích trình bày một vấn đề gì đó mà không có sự yêu cầu của kẻ khác, thì đối với người nghe sẽ không có bổ ích gì cho họ, như vậy có phải nhàm chán cho đôi bên không? Giữa lúc đó bạn cứ thao thao bất tuyệt thì còn tệ hơn người hùng biện trước một bụi cây. Bởi vì trong số người nghe sẽ có người ghét bạn. Bạn tuy biết vậy nhưng cứ nghĩ rằng: "Ta giúp cho họ ý này biết đâu sau này họ sẽ có lợi."

Không được!

Sẽ không ai tin điều đó, vì bạn không phải nhà tiên tri. Không chừng đó là cái vạ nữa là khác. Chắc bạn không quên một chuyện khá đau lòng đã xảy ra.

Cách đây hơn trăm năm, ông Bùi Hữu Nghĩa đang làm tri huyện Trà Vinh, dưới quyền Bố chánh Truyện. Bố chánh ăn của đút lót của bọn Hoa kiều, để cho bọn đó chiếm Láng Thé. Láng Thé là vùng đất đặc ân của triều đình miễn thuế cho dân ở đây. Nguyên trước đây Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) bị quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Vương đã chạy qua vùng này được dân địa phương giúp đỡ, nên sau mới được ân huệ đó. Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa nổi tiếng là thanh liêm, liền tập hợp dân vùng Láng Thé lại nói:

"Nếu ai lớn hơn vua phê giấy tờ bán rạch Láng Thé cho người Hoa kiều thì các ngươi đành xuôi tay. Còn nếu ai nhỏ hơn vua mà ra lệnh ấy các ngươi chặt đầu nó cũng không sao!"

Bọn Hoa kiều vẫn cậy thế làm ngang, bị dân Láng Thé giết đi mấy mạng. Thế là Tổng đốc và Bố chánh làm lệnh gửi ra triều đình Huế và Bùi Hữu Nghĩa bị kết tội tử hình!

Một vị quan thanh liêm toàn quốc ai cũng biết tiếng, vì tấm lòng tốt mà phẫn uất nên có những lời tâm huyết và thiết thực như vậy, kết quả bị kết tội tử hình. Cũng may cho ông Nghĩa, án ấy đã bất thành.

Tóm lại khi cần thiết phải nói (mặc dù không ai đề nghị) bạn nên nói vài câu tóm gọn là đủ, bởi vì không nói cũng không thiệt hại gì cho ai kia mà.

2. Lời nói phải dịu dàng, cử chỉ khiêm tốn. Giọng nói của mỗi người biểu lộ được ý nghĩ thầm kín bên trong. Thông thường lúc giận thì giọng nói có vẻ hằn học gắt gỏng. Vì một nguyên cớ gì đó mà chúng ta cần nói chuyện trước tiên là giữ thái độ ôn hòa, dù lúc ấy có một sự trái lòng ghê gớm, nhưng hãy cố NHẪN.

Cổ nhân nói: "Nhẫn là đại dũng."

Chiết tự chữ "nhẫn", kẻ cầm đao muốn chém người khác mà dằn lại được, đó là nhẫn. Huống chi lời dịu dàng bao giờ cũng làm mềm lòng người khác hơn là sự phẫn nộ. Một bằng chứng hùng hồn của loài người bao giờ cũng thương mẹ hơn cha, vì mẹ bao giờ cũng có nét êm ái dịu dàng.

Một thế kỷ rưỡi trước đây, một nhà thơ tài hoa là ông Cao Bá Quát, tính tình bất khuất, thường có ý khinh thị những người quyền chức mà bất tài, dẫu vua chúa ông cũng khinh ra mặt. Ông Cao chứng kiến hai vị quan triều đình ẩu đả với nhau, vua Tự Đức đòi ông vào khai rõ sự việc. Ông Cao miệng thuật, tay chỉ chỏ:

"Bên này nói chó (chỉ tay về mình)

Bên kia nói chó (chỉ tay về nhà vua)

Hai bên đều chó (chỉ tay cả mình lẫn vua)

Họ túm lấy họ (ra bộ)

Thần thấy thế nguy, thần chạy!"

Vua Tự Đức biết Cao chơi xỏ mình nhưng không thể bắt bẻ gì được. Những chi tiết nhỏ nhặt tuy không thấy đâu, nhưng tích tụ lâu ngày cũng đủ thành một án tử hình!

Cho nên khiêm tốn nhã nhặn không phải là sự hèn hạ mà ngược lại.

Nhà thơ Nga, Maiakovski cũng vì sự không tế nhị, ưa kích bác thiên hạ, cuối mình tự bỏ rơi mình. Những năm tiền cách mạng 17, nếu ai công kích chủ nghĩa xã hội thì ông vu cho người đó là ăn cắp, dù đối tượng là một phụ nữ, là một nông dân. Lúc nào ông cũng cho ông là hơn người. Một hôm có một người phê bình thơ ông, nói: "Thơ ngài mang nhiều chất thời sự quá nên khó để đời."

Maia đốp chát liền: "Anh hãy cố sống đến ngàn năm, chúng ta lúc đó sẽ thảo luận."

Một lần khác, có người chất vấn: "Maia! Ông cho chúng tôi là một lũ ngu sao?"

Maia nói: "Tại sao lại lũ? Trước mặt tôi chỉ có một đứa thôi!"

Có một người bất bình thái độ của Maia nên kêu ông ta nói: "Anh Maia! Napoléon nói rằng từ cái vĩ đại đến cái lố bịch cách nhau chỉ một bước!"

Maia ướm đo giữa khoảng cách từ người ấy đến mình rồi nói: "Đúng! Từ cái vĩ đại (lấy tay chỉ về mình) đến cái lố bịch (chỉ về người kia) chỉ một bước thôi!"

Trong y học người ta chứng minh người có tính khí hòa hoãn bao giờ vẫn thọ hơn người nóng nảy. Đức tính nhã nhặn khiêm tốn có lợi đủ mọi điều.

4. Tránh sự cãi vã. Cãi vã khác với tranh luận. Cãi vã mang tính chất cục bộ, lố bịch, mạnh ai nấy nói không có kẻ nghe, luôn giành phần phải cho mình nhiều khi bất công trong ngôn ngữ.

Có lẽ ai cũng chứng kiến một lần cãi vã vô ích. Cứ nhường cho họ thắng ta không thiệt thòi gì cả. Nếu lý của bạn càng đúng, bạn càng nên nhịn. Sau này người kia nhận ra cái sai của họ, thì lúc đó bạn càng thấy mình có giá trị hơn.

Tranh luận là một sự "cãi vã" có "trí thức". Cả hai đối thoại trong một tinh thần hiểu biết. Tuy vậy, nhiều nhà tâm lý học phương tây cho rằng không nên tranh luận.

Dale Carnegie trong quyển "How to win friends influence people" có nói một câu chuyện đại khái câu "mỗi chúng ta đều có một vị thần nắm vận mệnh" là của Shakespeare (trong Hamlet), thế mà một người nào đó nói, câu đó trong Thánh Kinh. Thế là hai bên cãi nhau. Sau này Dale Carnegie lấy làm ân hận, tại sao lại phải tranh luận? Theo ông, họ nói sao mặc họ, không nên đính chính!

Xuyên qua câu chuyện đó, chúng ta có ý kiến thế nào?

Dale Carnegie là nhà tâm lý lỗi lạc của thế kỷ này. Nhận xét sau cùng của ông có tính cách thực dụng hơn, vì có chút máu Ăng-lê. Đối với người Đông phương thì khác hơn.

Cách đây mấy năm, trong buổi tiệc họp mặt bạn bè, một nhà thơ cao hứng đọc:

"Cuộc phù sinh có bao lăm

Nỡ đem ngày bạc mà lầm tuổi xanh."

Và ông ta tuyên bố đó là hai câu trong Kiều. Nhưng ông thi sĩ ấy nhầm.

Một anh bạn ngồi bên cạnh khều nhỏ ông, nói: "Anh hình như nhầm ấy. Hai câu đó trong Nhị Độ Mai."

Nhà thơ nhún vai nói lại: "Vậy là anh nhầm đến bình phương."

Anh bạn lặng thinh không nói nữa. Cuối bữa tiệc anh gặp riêng nhà thơ, nhỏ nhẹ nói: "Thưa anh, không phải tôi vô lễ dám sửa sai anh. Tôi biết anh là nhà thơ nổi tiếng lại có tính lãng đãng. Trong đám anh em có mặt đây ít ra cũng có vài người biết anh nhầm, nhưng họ ngại mếch lòng nên không chịu góp ý."

Qua mấy ngày sau hai người đó lại gặp nhau, nhà thơ xuýt xoa cảm ơn ông bạn rối rít. Ông nói: "Quả hai câu đó trong" Nhị Độ Mai ", nếu anh không chỉ giáo, tôi lại tiếp tục làm trò cười cho thiên hạ."

Ta biết đó! Nếu là Dale Carnegie thì ông không điên gì nhúng môi để đính chính việc này, cứ sẵn sàng cho là đúng, trước để lấy lòng, sau dễ kiếm việc làm.

Nhưng với chúng ta, tất nhiên theo tinh thần Á Đông, với lòng vô vụ lợi, ta góp ý một cách tế nhị kín đáo, tránh giọng lên lớp hay giọng kẻ cả, và đó là lòng thành thật đối đãi với nhau.

Nếu đối tượng thẳng thừng khước từ, thì ta đành nhận lỗi và làm thinh vậy. Chưa có gì thật hơn bằng "quả đất tròn", thế mà Galilée đành "rằng vâng thì cũng vâng lời rằng vuông".

6. Trong khi nói phải biết mình nói gì. Vấn đề này mới nghe tưởng như nghịch lý. Thật ra việc đó rất thường xảy đến cho những người nói nhiều. Họ nói một hồi đi xa trọng tâm vấn đề, cũng bởi họ tìm nhiều câu chuyện để minh họa, và khi giật mình thì lại quên mất "thuở ban đầu".

Cổ nhân thường nhắc chừng: "Hãy tự nghe mình trong khi nói", có ý khuyên ta nên kiểm soát trong lúc mình đang nói. Muốn làm được điều đó, ta phải nói chậm và nói ít.

"Nên đề phòng lúc sướng miệng." (Uông Thụ Chi) Câu nói đơn giản đó không phải chỉ cho việc nói mà thôi, mà còn chỉ cho việc ăn uống nữa. (Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng ngôn xuất).

Ai biết nghe được những lời mình đang nói, mới đáng gọi là người biết nói. Hiểu được lời người khác nói mới gọi là người biết nghe. Thậm chí người ta còn nghe được lời của người câm nói.

Có lần nhà bác học lỗi lạc A. Einstein nói nhà kịch câm Chaplin Charlot: "Ngài! Tôi nói rất nhiều mà thiên hạ không nghe được, ngài không nói lời nào mà thiên hạ nghe đến khóc được!"

Cho nên không phải nói nhiều người ta mới hiểu đâu.

Câu nói không rắc rối, trong sáng và chân thành, nên tránh thái độ châm biếm cợt nhả, được như vậy bạn đã thành công hơn một nửa trong việc thuyết phục.

Chúng ta để ý những câu tục ngữ mà ta thường gặp: "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe."

Không ai sợ bạn hay trọng bạn về những lời đao to búa lớn cả. Thậm chí trong việc dùng mưu trí, lời nói đơn giản người ta càng dễ tin. Một chuyện trong sách xưa kể:

Tôn Tẫn và Bàng Quyên cùng học thầy Quỷ Cốc. Tiên sinh muốn biết đức hạnh và mưu trí của học trò mình, liền bắc ghế ngồi trước cửa rồi nói: "Trò nào mời ta ra được ngoài cửa trò ấy sau này có khả năng làm đến tướng quốc."

Bàng Quyên xin mời trước. Quyên nói: "Bạch tổ sư! Bên ngoài kia có rồng chầu phượng múa đẹp lắm!"

Tiên sinh mỉm cười: "Hôm nay là hung nhật (ngày xấu), không có việc đó!"

Quyên nói: "Có Bạch Hạc đồng tử đến mời thầy đi đánh cờ!"

Tiên sinh nói: "Bạch Hạc đồng tử đã mời ta hôm qua rồi."

Quyên lại nói: "Mời hoài thầy không ra, tôi phải nổi lửa đốt động, xem thầy có chịu ra không."

Một câu đó chứng tỏ rằng Bàng Quyên có tâm địa bất nhân lại còn ngoa ngôn và khinh người.

Đến lượt Tôn Tẫn mời tiên sinh, Tẫn quỳ xuống nói: "Bạch tổ sư! Đệ tử không có tài mời tổ sư từ trong ra ngoài được. Nhưng nếu tổ sư ở ngoài động, đệ tử sẽ mời được tổ sư vào trong."

Tiên sinh nghe nói lấy làm lạ liền sai đem ghế ra xa để Tôn Tẫn mời vào. Khi tiên sinh an vị, Tôn Tẫn vỗ tay reo: "Đệ tử mời được thầy ra ngoài động rồi!"

Tiên sinh phục Tôn Tẫn là cao kiến. Về sau Tôn Tẫn cầm quân nước Tề, bách chiến bách thắng.

Lời nói đánh giá được con người. Nói càng khiêm tốn càng được việc. Có hai người xin việc làm vào buổi tối để kiếm tiền thêm. Một người là sinh viên trường Luật, còn một người nữa thường nhật không có việc làm.

Ông chủ nhà hàng gọi một trong hai người đến hỏi: "Lâu nay cháu làm nghề gì?"

"Cháu là sinh viên trường Luật!"

"Cháu học năm thứ mấy?"

"Năm cuối của bậc đại học."

Ông chủ tán thưởng: "Vậy là cháu có tương lai lắm. Làm nghề chạy bàn ban đêm đâu kiếm được bao nhiêu tiền? Sao cháu không viết báo?"

Cậu sinh viên trả lời: "Cháu có viết nhưng người ta không đăng. Đời bây giờ không quen khó mà đăng cho lọt."

Ông chủ cười nhẹ nói: "Không phải vậy đâu cháu ạ. Điều cháu nói đó có thể có nhưng hiếm lắm. Ai cũng muốn báo mình bán chạy tất nhiên báo phải chọn đăng những bài hay. Ví dụ ở đây, đâu cần phải quen lớn, chỉ cần người thành thật, lễ phép, nhanh nhẹn."

Vừa lúc ấy ở phòng trong có một cô gái chạy ra, hơi ngạc nhiên chào anh sinh viên: "Ủa, anh Dũng! Sao anh lại đến đây? Bộ anh uống la-de hả?"

Cô quay sang giới thiệu với ông chủ: "Ba! Anh Dũng là bạn học một lớp với con!"

Lúc ấy Dũng hơi ngượng nghịu, nói xã giao vài câu rồi ra về. Bạn có biết sao không? Là vì con gái ông chủ đang học năm thứ hai trường Luật.

Không nói các bạn cũng biết, người thứ hai kia xin được việc.

Qua việc này, nói năng càng khiêm tốn thì phẩm hạnh càng cao.

Người xưa nói: "Năng lực của mình được mười, thì nên bớt lại vài phần."

Trong việc chạy bàn cần gì phải khoe trí thức? Ở những nơi cần chữ nghĩa, bằng cấp to cũng nên nói thật trình độ của mình, còn những nơi không cần, tốt hơn hết không nên khoe chữ, có khi bị hố!

Mấy nét chính nên nhớ:
* Tiết kiệm lời nói như tiết kiệm tiền bạc.

* Không nên tỏ mình biết nhiều hơn người.

* Nếu không nói mà không gây thiệt hại cho ai, thì đừng nói hay hơn.

* Lời nói nên ngắn gọn, trong sáng, không nên châm biếm.

* Lời nói dịu dàng dễ chinh phục hơn sự phẫn nộ.

* Không nên có những lời quá sức mình.

* Nên tránh sự cãi vã đôi chối.

* Đừng ham nói nhiều mà lạc đề.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
NÉT NHÌN

Đôi mắt chứa đựng cả tinh thần, tâm hồn và thể xác. (J. Joubert)

Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn. (Pháp)

Nhìn một lần để thấy đẹp, nhưng muốn thấy đúng phải nhìn đến lần hai. (H. F Amiel)

Đối với người minh mẫn, cặp mắt là một thứ ngôn ngữ. (P. Syrus)

Người Trung Hoa nói: "Trong cái nhìn có cái nghe." (Mục trung hữu thính, mục trung hữu nhĩ), tưởng có lý lắm vậy.

Một vị thầy giáo giảng bài cho học sinh, hôm nào mà các trò giữ im lặng, những ánh mắt đen lay láy, thiết tha chăm chú theo dõi từng lời của thầy, tưởng chừng như uống, như nuốt những lời đó thì thầy giảng rất hay.

Ta nghe một người nói chuyện, nhất là người ấy thích nói chuyện, tuy ta giữ im lặng nghe, nhưng ánh mắt có vẻ lơ đãng, thì người nói không còn cao hứng nữa.

Ánh mắt chăm chú thì sức nghe mới hội tụ. Nghe giả là một sự thiếu thành thật.

Người đang nói về "đề phòng hỏa hoạn", người nghe lại nghĩ đến "sắp đến giờ coi trận bóng đá", tự nhiên ánh mắt khác đi. Sự chú tâm với người đối diện mới là cần thiết.

Trong kinh Phật có ghi một chuyện gần như ngụ ngôn như thế này:

Một pháp sư đang "tụng kinh phát chẩn cho cô hồn". Cô hồn đã về đông đủ. Pháp sư vẫn tụng đúng lời kinh, nhưng lúc đó pháp sư chợt nhớ đến chiếc chìa khóa ở đâu không rõ. Thế là cô hồn nuốt toàn chìa khóa không thôi!

Cho nên nghe, nhìn với sự chú tâm phải gắn bó với nhau một cách nhất quán.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng có một vài lần "buổi hôm ấy mình nói chuyện rất hay". Nếu bạn hình dung lại buổi nói chuyện có duyên đó là do người nghe có cặp mắt say sưa, thán phục, chăm chú.

Nên có thể nói, qua cách nhìn người ta có thể đánh giá được tâm hồn của bạn, ít ra cũng trong thời điểm đó.

Người ta thường diễn tả "đôi mắt đẹp" là đôi mắt trong sáng, hay đôi mắt xanh với phần phụ là hàng lông mi dài, hoặc dài và cong vút, mày liễu, mày tằm mắt phụng.. rất nhiều mỹ từ cực tả trong việc này.

Quả tình nếu bạn có cặp mắt đó thì cũng đáng mừng. Nhưng nếu một người bình thường với cặp mắt bình thường biết chăm chú lắng nghe người khác nói, tự khắc đôi mắt bình thường kia sẽ đẹp hẳn lên, đẹp hơn "đôi mắt đẹp" kia nhiều lắm.

Ngày nay thuật hóa trang về "đôi mắt đẹp" đến chỗ tinh vi, gần như thật, nhưng trong mắt họ bật lên nét kiêu hãnh trong lúc nói chuyện với nhau, thì cuộc nói chuyện sẽ không đem lại kết quả gì.

Nét nhìn cũng biểu lộ được tính thông minh nhiều khi có hiệu quả hơn lời nói. Nhìn một cách chăm chú có sức thuyết phục không khác gì thuật thôi miên (Hypnotism). Bạn hãy vui vẻ mà thực hiện sẽ thấy nhiều kết quả bất ngờ khiến bạn có nhiều hứng thú không khác gì đọc một tác phẩm hay.

Như trên đã giới thiệu, khi ta nghe và nhìn một cách chăm chú ta sẽ được những kết quả bất ngờ. Những lời nói hay khiến ta mau thuộc và nhớ dai, người nói chuyện với ta dẫu là lần đầu, ta cũng khó quên tên, quên mặt họ. Việc gọi đúng tên một người trong trường hợp sơ ngộ khiến người khách cảm thấy sung sướng.

Không gì bứt rứt bằng có một người gọi được tên mình trong khi mình không phải là một danh nhân, và người kia không phải kẻ vô lại, thế mà mình quên bẵng đi tên của người ấy. Trường hợp này rất nhiều. Nếu gặp trường hợp như vậy ta phải xử trí cách sao cho người kia khỏi buồn? Không gì hiệu nghiệm hơn là lòng thành thật.

Ví dụ ta thử nói: "Thưa anh! Dường như chúng ta được gặp nhau ở đâu một lần rồi chứ?"

"Đúng vậy! Hôm ấy tôi được tiếp chuyện anh ở trong tiệm sách."

Nếu bạn vẫn chưa nhớ được tên thì nên nói: "Thật là tôi quả có lỗi! Có lẽ lúc đó vì quá bối rối hay bận rộn mà quên mất đi tên anh. Xin anh tha cho cái bệnh lãng đãng của tôi một lần. Nếu có dịp gặp lại, tôi sẽ gọi đúng tên anh."

Nếu thành thật và cạn lời đến thế, chắc chắn người ta không nỡ trách.

Sự chú ý nghe và có nét nhìn chăm chú, nếu bạn là sinh viên, học sinh, chắc chắn bạn rất mau thuộc bài. Nếu bạn là chủ cửa hàng, thì hàng hóa của bạn ngày càng dồi dào và tinh xảo thêm.

Tóm lại, một người biết nghe, nhìn tự khắc rút được nhiều ý kiến hay, và người đối diện với bạn có càng nhiều thiện cảm về bạn.

Có lẽ bạn cũng từng biết, một em bé chưa biết nói, nhưng ánh mắt của bé nói được rất nhiều đến nỗi khi bạn đi xa cũng sẽ nhớ thắt nó.

Bởi đâu?

Bởi vì ngôn ngữ của bé là tất cả mọi cử động, mà cử động quan trọng nhất của đứa bé là ánh mắt.

Qua nét nhìn ta nhớ mấy điểm chính:
* Sự chú tâm với người đối diện là vấn đề cần thiết.

* Qua cách nhìn, người ta có thể đánh giá được tâm hồn bạn.

* Nét nhìn biểu lộ được tính thông minh nhiều khi có hiệu quả hơn lời nói.
 
33,928 ❤︎ Bài viết: 2573 Tìm chủ đề
NỤ CƯỜI

Cười là đặc tính của loài người. (Rabelais)

Biết cười và chọc cười là hai đặc tính của loài người. (H. Bergson)

Khả năng cười tươi là sự chứng minh cho một tâm hồn tuyệt hảo. Nên dè dặt với những kẻ tránh cười, với những kẻ thiếu cởi mở. (J. Cocteau)

Ngày nào không cười, ngày ấy đã bị phung phí. (Chamfort)

Những kẻ nghèo khó thỉnh thoảng được cười tươi, quý như mùa đông thỉnh thoảng có mặt trời soi chiếu. (A. Dumas)

Thấy miệng cười mà mắt không cười, thì chớ tin. (A. D'Houdetot)

Bạn cười, thiên hạ cùng cười vui với bạn, bạn khóc thì chỉ khóc một mình. (Tục ngữ Anh, Ấn) Yiddish

Hài hước là sự sung sướng của kinh nghiệm. (Ch. Charlot)

Cười có nhiều thái độ. Điều muốn nói ở đây là nụ cười quan tâm, phải có tấm lòng ôn hòa độ lượng thì nụ cưới mới duyên dáng được.

Người ta thường nói: "Người có nụ cười tươi chẳng khác nào có đóa hoa gắn trên môi."

Biết cách cười cũng là một nghệ thuật.

Hồi đầu thế kỷ này, nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh có viết bài: "Gì cũng cười", trong đó ông có phê phán những cái cười vô ý thức. Bài viết đó có phần khắt khe: "An Nam ta có một thói lạ, gì cũng cười.. Hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang!"

Xét cho cùng, đất nước ta kinh qua không biết bao nhiêu nỗi đau đớn, mà vẫn tồn tại đến hôm nay, đó cũng là nhờ ở "nước lề quê thói". Và nụ cười có sức truyền cảm bí mật, có sức đoàn kết ngấm ngầm, có một nỗi thiết tha và độ lượng, khó nói đến cùng.

Trong bài thơ "Ngồi từ Quảng Đông" có câu:

"Mở miệng cười tan cuộc oán thù!"

Cụ Phan Bội Châu đã tỏ ra là bậc đại nhân quân tử. Một tâm hồn độ lượng, khiến nụ cười phải rộn rã như tiếng pháo đầu xuân đuổi xua những hắc ám và u khí.

Nụ cười và tiếng nói đều hiện trên môi, nhưng cử động của đôi môi rất khác nhau cho mỗi trường hợp. Nụ cười lắm khi không có tiếng, nhưng đối tượng thấy mát rượi hay ấm áp còn tùy theo hoàn cảnh lúc đó.

Nụ cười có khi biến đổi một cảnh ngộ hiểm nghèo thành bình yên. Trong một chuyến tàu đêm từ Phú Quốc về Rạch Giá, hôm ấy nhằm lúc biển động mạnh. Sóng và gió mỗi lúc mỗi mạnh, thỉnh thoảng có vài đợt sóng phủ qua "sa quạ" (boong tàu), tàu chao đảo hành khách nhốn nháo, viên tài công không hiểu sao cũng mất bình tĩnh, biển tối đen. Đèn trên tàu không hiểu sao cũng tắt ngấm, chỉ còn một chút sáng yếu ớt của chiếc hải bàn phát ra. Bỗng một nữ hành khách nói:

"Bác tài cứ bình tĩnh! Mấy lần trời bão là mấy chú hải âu thích lắm, vì nó có dịp đọ sức với gió. Tôi xin ra ngoài trấn an mấy người kia."

Lúc đó anh thợ máy làm sáng lại mấy ngọn đèn. Thiếu nữ đi một hồi trở lại nói: "Bác tài giỏi quá, tàu mình sắp đến Hòn Tre rồi!"

Sóng gió ầm ào như vậy, ai nấy đều xanh mặt, nhiều người đọc kinh cầu, riêng nữ khách ấy vẫn giữ trên môi một nụ cười an trường, khiến bác tài thêm phấn khởi tự tin. Vào tới bờ trời vừa sáng. Viên tài công nói với nữ khách gan dạ:

"Bảo này rất lớn, các em bảo không chính xác nên mới" dương "vậy đó. Cảm ơn cô đã giúp sức cho chúng tôi."

Anh cao hứng đọc hai câu thơ cũng khá hợp:

"Dù đời ta còn đôi cành lá

Xin vì người trổ hết mùa bông!"

Trong sự xã giao một cách tự nhiên, thì nụ cười cũng phải tự nhiên để khỏi mất tính ban đầu của nó.

Người ta nói: "Chỉ có con người mới có nụ cười."

Trên vấn đề thân thiện nụ cười có ý nghĩa theo từng thời kỳ (hay giai đoạn) : Nụ cười cảm thông, nụ cười khích lệ, nụ cười tán đồng.. và cũng nên tránh những nụ cười có ý nghĩa tương phản: Cười mỉa mai, cười châm biếm, cười mát, cười gượng..

Dễ hiểu, người đang đối diện với ta không phải kẻ đối đầu, không phải kẻ thù.

Giả như bạn là người đi xin việc làm, đang nghe ông giám đốc nói chuyện, nếu thỉnh thoảng thì cứ nở một nụ cười tự nhiên, còn không cười được cũng phải cố gắng giữ nét mặt hòa hoãn, tránh những cái cười gượng, cười nịnh.

Đối diện với người bạn gái, nếu cô bạn quá nghiêm trang, thì bạn không nên "nghiêm trang hơn", vì như vậy dễ trở thành một không khí cục bộ nặng nề, bạn phải tinh ý, tìm một vài câu nói hay cử chỉ vui nhộn, khôi hài tất cả đều cởi mở để không khí đó còn được sống động.

Nếu cô bạn quá náo nhiệt, sôi nổi, còn bạn thì thầm lặng, dĩ nhiên bạn không thích cái quá trớn ấy phải làm sao?

Bạn khoan lên tiếng phản đối, cũng đừng nhíu mày nhăn mặt, cố gắng giữ một thái độ thản nhiên. Vì nếu người đối diện là một bạn mới chắc chắn nàng không sôi nổi quá đáng. Nếu nàng là bạn cũ thì bạn đâu có lạ gì tính nết của nàng?

Cả hai trường hợp trên bạn có cùng một cách xử sự để lấy lại sự quân bình cho không khí lúc đó: Nụ cười đằm thắm và ôn hòa!

Không ngày nào ta không thấy nụ cười của người chung quanh, nhưng nụ cười hồn nhiên nhẹ nhàng chỉ có được ở những con người nhân hậu vô tư nên tránh những tiếng cười "hô hố", vì nó biểu lộ tính tự mãn, đắc thắng. Nụ cười ấy dành riêng cho các vị tướng quân thời cổ, hoặc dành cho những buổi tiệc của đám cường đạo, hải tặc..

Bạn có thể khó tính, nhưng đừng tưởng kẻ khó tính không có nụ cười dễ dãi. Cần một nụ cười đó không khó đâu. Trước nhất bạn nên tạo một nụ cười trong gia đình. Mỗi buổi sáng trước khi bước xuống giường, bạn chịu khó suy nghĩ một câu nói vui (dù lúc đó gia đình không có tiền ăn điểm tâm) cho dù người thân như vợ con, hoặc cha mẹ hoặc anh, chị em.

Làm hiền làm lành với người thân đâu có gì xấu hổ? Tại bạn chưa quen đó thôi.

Không riêng gì người phương tây có câu chúc vào mỗi buổi sáng, mà từ ngàn xưa người Đông phương cũng có phong tục đó. Câu: "Thần tĩnh mộ khan" (sớm thăm tối viếng) không hẳn chỉ bổn phận con cái đối với cha mẹ, anh chị em trong gia đình cũng thăm hỏi được vậy. Đây, chúng ta tập lấy những nụ cười trong sáng, thư thái, hỉ xả.

Nếu bạn hỏi: "Sao các nhà sư ít cười họ lại nhiều tín đồ?"

Đó là một trường hợp khác. Đạo hạnh của những vị ấy trang nghiêm. Họ không cười ra tiếng, nhưng họ cười qua ánh mắt, qua thần thái, qua tấm lòng hoan hỉ. Sự ung dung và độ lượng là nụ cười của họ.

Vui tính là một cách cười. Khôi hài là cách làm cho người khác vui và cười. Trong tuồng cải lương hay hát bội cũng có vai mấy anh hề. Vai trò của họ không liên hệ gì với tuồng, nhưng rất quan trọng đối với khán thính giả.

Một nụ cười tươi nhiều khi đáng giá tỷ tiền. Đọc truyện cổ Trung Quốc, chúng ta không quên nụ cười của Bao Tự. Và những câu: "Nhất tiếu thiên kim", "nhất tiếu khuynh thành".. không phải nụ cười của người đẹp mới giá trị.

Lại có một chuyện khó quên. Hồi ấy bạn tôi tham gia dự giải vô địch quyền tự do hạng nặng. Bạn tôi sở trường về môn Aikido-Aikido mà đi đấu với Vovinam, Thái cực đạo Thiếu Lâm.. cầm bằng "bầm giập như chơi".

Buổi tối hôm ấy bạn tôi bị đối thủ đánh tơi bời. Đến hiệp thứ tư mắt bạn tôi sưng lên. Hồi lúc bắt đầu lên đài, tôi cố chen ngồi phía trước mục đích là cho bạn thấy sự có mặt của mình để cổ động tinh thần, nhưng có lẽ bạn tôi ngay từ đầu không thấy tôi.

Khi lần "cho nước" thứ tư, bạn tôi thảm hại quá, tôi đứng gần đó, bạn tôi thấy kịp, tôi bật cười thật "ngon lành" vừa gật đầu vừa đưa ngón tay cái lên. Hai đứa thân với nhau, nghệ nghiệp cũng suýt soát, qua nụ cười "tin tưởng" ấy, bạn tôi như linh hoạt hẳn lên.

"Một sức mạnh rất bí mật và một tuyệt chiêu bất ngờ." Đối thủ của bạn tôi bị đo ván, sau chín tiếng đếm! Đó là lời nói của bạn tôi. Nụ cười trong lúc này chẳng khác gì liều thuốc kích thích. Đừng nói chi con người, kể cả loài vật cũng vậy.

Nhà bác Hai Ngữ thường gầy giống gà chọi, một dạo có một trứng gà sinh đôi. Cả hai cùng lớn theo thời gian, đặt tên chúng là Ô-Anh, Ô-Em. Bác Ngữ săn sóc chúng rất cẩn thẩn. Nếu so sức đấu thì Ô-Em đá chính xác và thế thần hơn Ô-Anh, Ô-Anh lấn xác và lấn sức hơn Ô-Em. So với gà trường, anh em Ô nhỏ xác hơn chúng. Tuy vậy anh em Ô chưa hề bại, mỗi con đã từng ăn hai ba độ đáng giá,

Có một điều ít người chơi gà để ý, bác Ngữ ôm gà đi đá, không bao giờ ôm chặt một con. Vì vậy mà khi Anh hoặc Em vào vòng chiến, con còn lại đứng ngoài vòng nhảy nhót cổ động. Có người mở trường gà ở quận khác nghe tiếng liền mang gà đến thách bác Hai đấu.

Cuộc đấu này cáp độ rất lớn. Ô Em ra trận, Ô Em lớn chỉ 8/10 so với đối thủ! Đến hiệp thứ sáu, Ô Em chịu đòn như hết nổi. Ô Anh ở ngoài muốn tung nhảy vào. Bất ngờ nó gáy lên một tiếng thật oai vệ, Ô Em như được hồi sinh! Ô Em trổ đòn đá dồn dập vài tuyệt chiêu nữa. Đối phương nằm gục xuống!

Trận đó Ô Em thắng. Ô Em về đến nhà thì chết. Sau năm ngày Ô Anh buồn bã chết theo. Từ đó bác Hai Ngữ không nuôi gà chọi nữa.

Nụ cười đẹp là giúp người một niềm vui, giúp mình một thiện cảm ở người. Nụ cười vốn dĩ hồn nhiên và vô vụ lợi. Dẫu có người hiểu mình qua nụ cười, mời mình hợp tác làm ăn và dĩ nhiên nếu bạn thích thì cứ làm ăn chân chính với họ. Có nhiều bạn trẻ đã đẹp trai, học khá, lại có nụ cười rất có duyên. Với sự hấp dẫn bên ngoài ấy, nếu như không có chút đạo đức dễ biến mình là.. kẻ bạc tình nước Sở.

Dù sao ta cũng nên ghi nhớ mấy điều:
* Nụ cười có thể biến đổi một cảnh ngộ hiểm nghèo thành bình yên.

* Để tập có một nụ cười hồn hậu, cần làm việc với nó ngay ở những người thân.

* Nụ cười một thoáng gây sự cảm mến lâu dài.

* Chỉ có loài người mới có nụ cười. Đừng đánh mất nó!

Để phụ họa với nụ cười cho hữu hiệu, chúng ta nên có tinh thần hoạt kê.
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back