

Đề số 1
Những chiếc ấm đất - Đọc hiểu
Những chiếc ấm đất - Đọc hiểu
Tóm tắt "Những chiếc ấm đất".
Truyện ngắn những chiếc ấm đất kể về thú thưởng trà tao nhã của cụ Sáu. Cụ mê uống trà tàu, nước pha phải là nước giếng ngọt trên tận chùa Đồi Mai thì cụ mới chịu uống. Vì mê uống trà, vì nước pha phải là nước giếng trên chùa Đồi Mai nên cụ không thể đi đâu xa, và gắn bó mãi với nơi này. Trong tác phẩm là một xã hội đầy biến động, nơi mà kẻ ăn mày cũng biết thưởng trà, một cụ già rơi vào cảnh bần cùng vẫn đam mê thú thưởng trà, vì trà, cụ nhất quyết không bán đi những chiếc ấm đất mà mình yêu quí, nâng niu dù người ta có ném cho cụ cả cục bạc nén, cuối cùng cũng vì thưởng trà mà cụ sa cơ lỡ nghiệp, cụ lại bán đi những chiếc ấm đất với giá rẻ, giữ lại nắp để mong muốn có người sẽ thực sự yêu quý cái ấm trà ấy sẽ quay lại và bằng lòng trả với giá đắt hơn.. Cái cách bán ấm trà không chỉ là bán để được giá nữa mà trong đó ẩn chứa sự nâng niu, trân trọng từng món đồ của mình..
Đọc đoạn văn sau:
Bóng nắng gần tới đỉnh đầu. Sư cụ chùa Đồi Mai thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu lờ, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:
– Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.
– Vậy chú vẫn đóng cửa chùa đó à? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: Sáng sớm tụng kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương họ kêu đấy.
Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bảy tuổi xúng xính trong chiếc áo dài thâm, chân xéo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái sư cụ:
– Bạch cụ, thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.
Nhà sư già đã quen với những việc biếu và xin mượn này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành thôi.
– Thế cháu đựng nước bằng cái gì?
– Dạ có người nhà quẩy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.
– Ai di đà phật? Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.
– Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.
Sư cụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.
– Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm nay rồi không? Gần mười năm. Uống trà tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là như thế nào. Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ.
Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
– Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang chờ nước về.
Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:
– Chú chạy mau ra vườn, bẻ mấy cành lá đào.
Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:
– Ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.
Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát. Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt của truyện ngắn Những chiếc ấm đất
Câu 2: Nhân vật chính trong truyện Những chiếc ấm đất là ai?
Câu 3: Nêu chủ đề của truyện Những chiếc ấm đất?
Câu 4: Những chiếc ấm đất được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 5: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn ngắn sau:
Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát .
Câu 6: Qua tác phẩm những chiếc ấm đất tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì?
Đáp án tham khảo:
Câu 1:
Phương thức biểu đạt: Tự sự và miêu tả, biểu cảm
Câu 2: Nhân vật chính của truyện ngắn những chiếc ấm đất là cụ Sáu. - Một người đam mê, có thú thưởng trà tao nhã.
Câu 3:
Chủ đề của truyện ngắn: Viết về nghệ thuật thưởng trà, một nét đẹp truyền thống của người dân Việt Nam
Câu 4:
Truyện được kể theo ngôi kể thứ ba, mượn lời sư chùa để kể về cụ Sáu, lời của nhân vật khách kể về cụ Sáu.
Câu 5:
Biện pháp tu từ so sánh: "Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát"
Tác dụng:
Giúp tăng thêm sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt, làm cho câu văn trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
Câu 6:
Những chiếc ấm đất đã khơi dậy một vẻ đẹp văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam- Thưởng trà- Thú vui phong nhã. Vừa đẹp ở cung cách thưởng trà, vừa đẹp ở tâm hồn người thưởng thức. Chúng ta cần biết, nâng niu, trân trọng những giá trị tinh thần tốt đẹp ấy.
Xem tiếp bên dưới đề số 2:
Những chiếc ấm đất trắc nghiệm
Chỉnh sửa cuối: