Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn rồng tiên việt nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi shopoga, 1 Tháng mười một 2023.

  1. shopoga

    Bài viết:
    517
    74. CÂU CHUYỆN NGOẠI GIAO

    Ngày xửa ngày xưa nơi địa cầu gần cuối tiểu kiếp thứ 7 nền văn minh khoa học vật chất đi đến đỉnh cao, thế giới địa cầu nhân loại hình thành hai xu thế.

    Một xu thế tiến lần đến Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị đi vào công bằng bình đẳng loại bỏ độc tài độc trị Phong Kiến Vua Chúa.

    Một xu thế khác đi ngay vào độc tài Đảng Trị, loại bỏ độc tài độc trị Phong Kiến Vua, Chúa. Khi ấy nơi Phương Đông có một đất nước Dương Việt, đến thời kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp sự hưng thịnh của các Đảng Phái ra đời càng nhiều loại trừ nền Phong Kiến độc tài Vua Chúa lạc hậu, tiến lên độc tài Đảng Trị theo Thể Chế một mức cao hơn.

    Đảng nào thủ nhiều thủ đoạn, lắm chiêu bài độc ác thời chiếm nhiều ưu thế loại trừ các đảng phái khác chiếm lĩnh ngôi vị thống lãnh đất nước trở thành Độc Tài Đảng Trị thay cho độc tài độc trị Phong Kiến Vua, Chúa.

    Với Thể Chế Độc Tài Toàn Trị Đảng Lãnh Đạo đưa đất nước tiến tới quốc hữu hóa, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cải cách đổi mới đất nước lên một tầm cao mới hơn hẳn bao triều đại Độc Tài Phong Kiến Vua Chúa đã qua. Nhất là tài quản lý con người theo thể chế Độc Tài Toàn Trị chặt cứng không cựa quậy được vận hành xã hội đi vào quốc hữu hóa.

    Với Thể Chế Độc Tài Toàn Trị cái gì cũng của Nhà Nước sự chỉ đạo sâu sát, đến nỗi quản lý cả ăn, ngủ, đái, ỉa không để phí bỏ. Nói gì đến chuyện làm ăn, thời càng quản lý chặt chẽ cây kim sợi chỉ cũng không lọt, làm gì cũng phải đi vào khuôn khổ cúi xin, còn cho hay không là quyền của lãnh đạo. Với thế thời, thời thế vương quan lắm nhiều tật bệnh nhất là bệnh tham nhũng, quan liêu hách dịch tham quyền cố vị vơ vét của dân lan tràn thành dịch không còn thuốc chữa. Muốn được việc làm ăn chạy bửa thời ra sức van xin nài nỉ đút lót.

    Người dân nào có chút hiểu biết thời hiểu bệnh của quan đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, thời nói nho nhỏ quan cũng nghe, không đồng tiền đi trước dù cho lời nói to như sấm nổ mình nói mình nghe, lộc quan không có cái dè luống công.

    Độc Tài Đảng Trị. Đảng Cải Cách lãnh đạo toàn diện, cao hơn Độc Tài Phong Kiến Vua, Chúa là ở chỗ quản lý sạch bách cái gì cũng của nhà nước, con chim trên trời cũng khó mà được tự do bay nhảy, con cá dưới sông con cua dưới biển, rong rêu, bọt, bèo trôi nổi cũng phải nằm trong sự quản lý. Thuận Đảng thời sống chống Đảng thời chết, nhiều kiểu chết, không sao kể hết đại khái tiêu biểu mà thôi. Chết vì tù, chết không việc làm, chết đói, chết vì sợ hãi, chết vì sa thải, chét bị cô lập, chết sinh bệnh tật mà chết, v. V.. Với tài lãnh đạo tạo ra nhiều cái chết như thế, ai mà không sợ nhứt hô bá ứng dân chúng răm rắp nghe theo phát triển kinh tế theo mô hình lấy sức dân là chính.

    Với sự ra quân ồ ạt dân chúng ra đồng đông nghịt như đàn quạ, đàn ông kẻ cuốc người cày, đàn bà phụ nữ thi nhau trồng ngô cấy lúa, dưới bầu trời nắng chang chang, hơi nóng hừng hực, những giọt mồ hôi nhỏ giọt chảy ròng ngó thấy, lúc mưa dầm cũng phải hăng hái thi đua, với phương châm lao động là vinh quan, trong ba ngày tết cũng xén bớt một ngày mùng một ra quân, không có thời nào đề cao lao động cao ngút trời xanh như thế, xưa nay độc tài Vua, Chúa Phong Kiến mấy ai làm được cổ kim giờ đây mới thấy.

    Một hôm hàng cấp cao Độc Tài Toàn Trị mở cuộc hội họp quy mô mở rộng phương châm làm ăn đối tác với các nước, đồng chí Chủ Tịch kim Bí Thư tỉnh nói.

    Để cho thế giới những nước đi theo con đường Hiến Pháp Trị, mở rộng tầm mắt, với tài lãnh đạo Cải Cách Độc Tài Đảng Trị làm ăn ra phết phát triển kinh tế Dương Việt Ta. Trung Ương lấy tỉnh ta làm nơi đối tác với các nước hôm nay có nhiều nước theo xu thế Hiến Pháp Trị đến tham quan học hỏi trao đổi kinh nghiệm làm ăn, các Đồng Chí chửng bị sự tiếp đón niềm, tiệc tùng mở tiệc tiếp đãi cho thật hoành tráng, những người mẫu, những giọng hát hay phô trương bề thế ca ngợi sự phát triển của đất nước ta.

    Đồng Chí Chủ Tịch Kim Bí Thư phô trương lực lượng tiếp đón ăn nói ra phết, nhất là thông dịch viên nhiều khi thiếu sót đang nói gà chuyển sang qua vịt, người nghe không hiểu nếp tẻ gì cả. Những lãnh đạo cao cấp các nước theo con đường Hiến Pháp Trị đến nước Dương Việt tham quan học hỏi, trong những lãnh đạo cao cấp các nước có Tổng Thống Ma Ghi.

    Tổng Thống Ma Ghi nghe nước Dương Việt dưới sự dẫn dắt lãnh đạo tài tình của Đảng Cải Cách Độc Tài Toàn Trị làm ăn phát triển tiến nhanh, tiến mạnh, tiến bền vững, tiến lên xã hội quốc hữu hóa khó có nước nào theo kịp, theo những lời ca ngợi quảng bá của nước Dương Việt.

    Tổng Thống Ma Ghi dẫn theo các ban ngành chủ lực, các doanh nghiệp hàng đầu trong nước đến nước Dương Việt mở rộng tầm mắt tham quan học hỏi.

    Sự tiếp đón bề thế, tiếp đãi toàn cao lương mỹ vị, nhân viên phục vụ toàn gái đẹp làn da trắng nuốt, áo quần bó sát có tài ca hát, phô trương vòng eo đạt chuẩn. Tổng Thống Ma Ghi không khỏi bái phục sự tiếp đãi đầy lãng mạn cũng như sự tốn kém tiền của sức dân.

    Tổng Thống Ma Ghi cũng thừa nhận rằng không tài nào làm nổi chắc là dân Dương Việt giàu lắm, nên Đảng mới ăn xài cao chín tầng mây như vậy.

    Để được tận mắt chứng kiến sự lãnh đạo tài tình làm ăn kinh tế của Đảng Cải Cách Độc Tài Toàn Trị bằng nói với các ban ngành theo mình các ông phải học hỏi, xem xét cho kỷ, ghi hình cũng như học cách làm ăn.

    Đồng Chí Chủ Tịch Kim Bí Thư cùng đội ngũ kỳ tài lãnh đạo dẫn phái đoàn các nước trong đó có phái đoàn nước Ma Ghi đến tham quan cơ sở phát triển làm ăn theo ngành nông nghiệp, bằng dẫn đến một cánh đồng rộng lớn mỗi mùa thu về vài nghìn tấn thóc.

    Khi đến nơi các phái đoàn tham quan học hỏi sửng sốt. Tổng Thống Ma Ghi thời quá bất ngờ. Vì thấy dân chúng ra đồng nhiều như đàn quạ không khác gì ngày hội, đàn ông trai trán thi nhau cày cuốc xốc phả, đàn bà phụ nữ thi nhau trồng cấy với số đông dẫn đạp lên bùn lầy tung tóe như những dũng sĩ băng sông vượt núi, không một bóng máy cày, máy bừa, máy cấy nào cả.

    Tổng Thống Ma Ghi khen không hết lời, bằng nói sự lãnh đạo tài tình một mô hình làm ăn hiệu quả. Đất nước chúng tôi không bao giờ làm nổi huy động sức dân đông đến dường nầy. Thời cần gì máy cày máy bừa cũng nát bét bùn đất sạch bách cỏ cây, đâu cần chi phí đầu tư tốn dầu tốn xăng cho tốn kém.

    Một vị tham mưu cho Đảng nói. Nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng biến cánh đồng bạc màu trở thành cánh đồng năm tấn trên một héc ta.

    Khi ấy có một vị cấp cao nước Ma Ghi tách đàn đến gặp người dân hỏi nhỏ làm ăn theo kiểu tập thể huy động sức người thế nầy thời khẩu phần được bao nhiêu?

    Người dân thật thà nói đổ mồ hôi sôi nước mắt cũng chỉ đủ ăn, làm ngày làm đêm tối mày tắc mặt, một năm cũng chỉ mua được hai mét vải không đủ che thân, lấy đâu ra dư dả no cơm ấm áo nói xong thời bỏ đi thở dài lắc đầu ngao ngán.

    Vị Chủ Tịch Kim Bí Thư dẫn các phái phái đoàn tham quan các nước đến tham quan các cơ sở công nghiệp nhà máy. Tổng Thống Ma ghi thấy công nhân ở đây hai lỗ mũi tranh nhau mà thở, phần lớn là làm thủ công sức người là chính, sản phẩm làm ra không được bao nhiêu, cung cấp khan hiếm nhỏ giọt không theo kịp nhu cầu xã hội. Xe sắp hàng nối đuôi khác gì toa tàu lửa, chờ cả tháng mà chưa có hàng.

    Cán bộ làm giàu không cần tốn sức, quà cáp nườm nượp người nào cung xe hơi nhà lầu ô tô. Chỉ thua ông vua cung phi mỹ nữ hàng tá mà thôi.

    Tổng thống Ma Ghi nói, ở đất nước chúng tôi những sản phẩm làm ra khó mà tiêu thụ, vì người dân được quyền lựa chọn, nếu sản phẩm làm ra không đạt tiêu chuẩn liền bị tẩy chay đi đến phá sản. Không như ở đây lúc nào hàng hóa cũng khan hiếm cung không đủ cho sự nhu cầu thời làm gì có chuyện thất nghiệp nếu không có sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Thời làm gì có chuyện công nhân hai lỗ mũi tranh nhau mà thở vì làm không kịp cho sự nhu cầu.

    Đồng Chí Bí Thư kim Chủ Tịch cùng cùng các ban ngành tham mưu cho Đảng thấy Tổng Thống Ma Ghi lúc nào cũng khen ngợi thời không khỏi tự hào nói, mô hình làm ăn hiệu quả là nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng, kinh tế phát triển luôn ở mức cao năm sau hơn năm trước. Đi đến chỗ nào Tổng Thống Ma Ghi cũng khen, thời nghĩ rằng sẽ ký hợp đồng giao thương mỏi tay.

    Nào hay đâu khi về đến cơ quan Lãnh Sự Ngoại Giao Tổng Thống Ma Ghi nói lần nầy qua đây chỉ là chuyến đi tham quan học hỏi. Việc ký hợp đồng làm ăn trao đổi hai chiều phải chửng bị kỷ hơn, nhất là hai bên cùng có lợi.

    Trước khi về nước Tổng Thống Ma Ghi mời các ban ngành thành phần kinh tế chủ lực qua thăm nước Ma Ghi. Chủ Tịch Kim Bí Thư nhận lời, hứa hẹn sẽ sang thăm quan nước Ma Ghi. Chủ Tịch Kim Bí Thư nói chúng tôi nhân tiện qua bên ấy ký hợp đồng đa phương hóa nhiều lĩnh vực giao thương kinh tế giao kết luôn thể.

    Nhận lời mời nước bạn, ban lãnh đạo cấp cao nhà nước Dương Việt kết hợp nhiều tỉnh thành, nhiều ban ngành một lực lượng hùng hậu, nhất từ xưa đến nay có cả những thành phần dày kinh nghiệm chăn nuôi gia súc đến nước Ma Ghi.

    Chiếc phi cơ vừa đáp xuống sân bay, Tổng Thống Ma Ghi với đoàn xe con đắt giá nhất thế giới tiếp đón phái đoàn Dương Việt làm choáng ngợp phái đoàn cao cấp Dương Việt. Phái đoàn cao cấp Dương Việt được đoàn xe con đắt giá nhất thế giới chở đến nơi lãnh sự quán Ngoại Giao nước Ma Ghi nghỉ ngơi cũng như sự tiếp đãi.

    Một cuộc thiết đãi được mở ra, phái đoàn Dương Việt thật bất ngờ chẳng thấy cao lương mỹ vị nào cả, toàn là những món ăn thường dân, ai cũng có thể mua vì giá cả phải chăng không quá đắc.

    Qua ngày hôm sau Tổng Thống Ma Ghi cùng các thành phần kinh tế đã từng đến Dương Việt. Dẫn phái đoàn đủ thành phần ban ngành cấp cao hùng hậu Dương Việt đến cánh đồng rộng lớn, rộng gấp ba lần cánh đồng năm tấn của Dương Việt để tham quan.

    Các ban ngành hùng hậu nhiều thành phần làm ăn kinh tế Dương Việt đến nơi chứng kiến tận mắt chẳng thấy đôi trâu bò nào cả, cũng không có dân chúng đông như đàn quạ dẫm đạp lầy ruộng. Mà chỉ thấy hơn mười con trâu sắt rìn rịn nghe êm tai xịt khói lên trời mời mây xuống để xem tài cày bừa xốc phả. Mỗi con trâu sắt mang 20 lưỡi cày rượt đuổi xem đã con mắt cỏ xanh bị cày lật vùi lấp, cỏ xanh chưa kịp ngóc đầu xả hơi, thời mấy con trâu sắt theo sau bừa xốc tả tơi, cánh đồng ruộng mới đó chưa lâu màu xanh của cỏ sạch bách thay vào đó là màu đen thẫm bằng phẳng màu mỡ của đất.

    Từ nơi cánh đồng lại xuất hiện thêm mười con trâu sắt trông có vẻ mảnh mai càng gọng múa may, có lẽ những con trâu sắt cái rìn rịn thi nhau cấy, chỉ trong chốc lát cánh đồng rộng lớn chó chạy ngay đuôi màu xanh của lúa trải khắp phủ kín cánh đồng.

    Phái đoàn Dương Việt tưởng như là đang trong mơ đang lạc đến một thế giới khác, trằm trồ không dứt. Tổng Thống Ma Ghi nói đây là mô hình phát triển Tư Nhân, tự do kinh doanh, tự do phát triển những gì Hiến Pháp cho phép, Luật Pháp bảo vệ. Không có cái gọi là nhà nước lãnh đạo tài tình. Cũng không có sự xin, cho, nào cả.

    Tổng Thống Ma Ghi dẫn phái đoàn Dương Việt đến cánh đồng rộng lớn xanh mướt, nhìn thấy những máy bay không người lái phun thuốc trừ sâu. Một người nông dân trông có vẻ thảnh thơi, đứng hứng gió nhấp nháy ngón tay điều khiển. Cánh đồng rộng lớn không đầy tít tắc không bao lâu bướm sâu chẳng còn một con.

    Bên kia là cánh đồng lúa chín, phái đoàn Dương Việt vừa đi tới ai nấy cũng trầm trồ kể gì 10 tấn trên hec ta, người gặt không thấy chỉ thấy những con bò sắt vừa gặt vừa gôm rạ, vừa phun lúa. Theo sau kế bên là những con cào cào sắt vừa õng ẹo vừa hứng no nê thời chạy đi, để cho con khác đến hứng ăn, cánh đồng lúa chín rộng lớn trong chốc lát là hết sạch.

    – Đến lúc nầy đồng chí Bí Thư Chủ Tịch nhìn Tổng Thống Ma Ghi với vẻ khâm phục hỏi, làm ăn kiểu nầy thời đàn quạ ở không bay đến nơi nào.

    Thay cho câu trả lời Tổng Thống Ma Ghi dẫn phái đoàn tham quan Dương Việt đến những khu nhà máy, làm ra những sản phẩm có giá trị. Đồng chí Bí Thư Chủ Tịch thấy người nông dân ở đây đã qua trường lớp làm chủ máy móc, điều khiển máy móc làm ra sản phẩm năng xuất cao ngất ngưỡng, một người làm ra sản phẩm bằng hàng trăm người làm thủ công. Đồng Chí Bí Thư Chủ Tịch không khỏi ngớ ngẩn thì ra là vậy.

    Từ nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp đa dạng, đa ngành nghề không phải dùng sức con người mà dùng sức máy móc do con người điều khiển, thảo nào đất nước Ma Ghi giàu mạnh đến thế đúng là các nước theo mô hình tư hữu hóa phát triển tư nhân đi theo con đường Hiến Pháp trị Luật Pháp bảo hộ họ đã biến trần gian thành thiên đàng cực lạc.

    Một mô hình làm ăn phát triển kinh tế theo con đường sở hữu hóa phát triển tư nhân là một hướng đi đúng. Chỉ cần một tổng giám đốc điều hành cả hàng vạn công nhân cũng không hề thấy mệt dễ không, bộ máy gọn nhẹ không cồng kềnh, mà hiệu quả cao.

    Còn phát triển theo kiểu Cải Cách tập trung lấy sức người làm chính chưa chắc đã hơn kiểu làm ăn Vua, Chúa phong kiến, nói gì theo kịp những nước văn minh không nghị định, không công văn, không cần dài tay chỉ đạo. Chuyên chính một Hiến Pháp nhất quán công bằng bình đẳng ai cũng như ai đi vào cạnh tranh lành mạnh. Của cải làm ra dồi dào cung lúc nào cũng đủ phục vụ cho nhu cầu. Có thể nói là dư thừa xuất khẩu bán qua các nước khác làm giàu cho đất nước mình.

    Sự tham quan bấy nhiêu cũng đủ, khi họ ở trên mây còn mình thời ở nơi đất cái, không nói là quá lạc hậu so với họ. Chuyến đi không có sự ký kết giao thương làm ăn hai bên cùng có lợi nào cả. Mà ký kết mở cửa giao thương, mời những giáo sư, tiến sĩ truyền dạy nền khoa học tuyên tuyến cho Dương Việt.

    Chuyến đi tưởng đâu làm thầy thiên hạ, té ra mời thiên hạ làm thầy cho mình, như bong bóng xì hơi còn lên mặt gì nữa.

    Đồng chí Bí Thư Chủ Tịch dẫn phái đoàn hùng hậu trở về nước như bánh xe xẹp lốp, báo cáo lên trung ương ra sức đổi mới Cải Cách theo hướng làm ăn người ta. Nhưng ngặt nỗi thể chế độc tài độc trị già cỗi xơ cứng.

    Càng Cải Cách đổi mới thời tiền của chảy vào túi tham quan, bầy sâu càng phình càng béo. Hô hào sống theo Hiến Pháp, làm theo Hiến Pháp, nhưng thể chế độc tài Đảng Trị không thay đổi biến thể chế chủ trương trở nên quái dị đầu Gà thân Vịt. Kẻ kéo xuống nước người lôi lên bờ, kẻ níu người trì làm cho đôi chân béo phì trở thành bộ máy cồng kềnh không lương mà trả. Làm không ra của tranh nhau ăn lại quá nhiều, của núi cũng hết nói gì đến nghèo xác nghèo xơ. Ngân sách tiêu hao thâm hụt hàng năm quá lớn, tám đại nạn theo đó cũng ra đời thi nhau tàn phá chế độ.

    1- Quốc nạn tham nhũng xảy ra tàn phá chế độ vô phương cứu chữa.

    2- Chủ nghĩa quái thai đầu gà mình vịt hai xu thế khác nhau kẻ níu xuống nước, người trì lên bờ rốt cùng dẫn tới chia bè rẽ phái triệt hạ lẫn nhau, tàn phá chế độ.

    3- Nạn Thiên Tai khắc nghiệt, dịch bệnh hoành hành bởi chuyển đổi chu kỳ theo luật tuần hoàn cuối Hạ Ngươn Mạt Pháp chuyển sang Thượng Ngươn Thánh Đức những gì không phù hợp đi dần vào loại bỏ tàn phá thời cuộc dẫn đến làm thay đổi chế độ.

    4- Nạn thừa lao động dẫn đến thất nghiệp sinh ra bao chuyện không hay tàn phá chế độ

    5- Nạn học thành tài không đất dụng võ, cái tài bị bỏ ngỏ sanh ra bao điềm dở gây tai họa cho đất nước, chế độ theo đó cũng xuống cấp đi đến hấp hối không nói là chờ ngày ra đi

    6- Nạn ô nhiễm môi trường sống trong độc hại sinh ra nhiều chứng bệnh đã nghèo đói, càng thêm đói nghèo đủ loại giặc ra đời xã hội khó mà bình yên, chế độ cũng theo đó đi tiêu.

    7- Nạn dân quá khổ, sanh ra phỉ báng chế độ, chế độ đàn áp hành dân. Dân ví như nước Chế Độ là Cá nước đã cạn đương nhiên là Cá cũng rồi đời.

    8- Nạn cạnh tranh mạnh được yếu thua, kẻ thắng thế là vua, kẻ thua thế bị bắt cho là giặc. Ruột, Gan, Phèo, Phổi trục trặc sống làm sao được thể chế đột quỵ từ giả thế cuộc trở về khói mây.

    – May thay Nguồn Cội hồi sinh soi đường dẫn lối cứu nguy nước nhà Dương Việt vì thế kiếp nạn tai qua, thoát khỏi nô lệ ngoại bang, sang trang sử mới hiệp theo chu kỳ tạo hóa. Không còn thể chế độc tài độc trị hội nhập chung cùng các nước văn vinh Gà chơi với Gà, không còn cảnh đầu gà mình Vịt. Không bao lâu thời theo kịp Nước Ma Ghi.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. shopoga

    Bài viết:
    517
    75. NHƠN ĐẠO, CÁI GỐC TẤT CẢ ĐẠO

    Vào thời dựng nước nơi thượng viện Quốc Đạo Quốc Tổ truyền giáo cho hàng Vương Quan.

    Quốc Tổ truyền xong căn bản Nhơn Đạo. Để dễ hiểu dễ nhớ Quốc Tổ tóm lại những điều chính yếu cốt lõi cơ bản trong Nhơn Đạo. 1 là có Nhân, 2 là có Nghĩa, 3 là có lễ, 4 là có Trí, 5 là có Tín, 6 là có Trung, 7 là có Hiếu, 8 là biết Thuận Hòa, 9 là biết Liêm Sỉ, 10 là lòng Quảng Đại Bao Dung. Những ai chỉ cần làm được ba điều trong 10 điều căn bản Nhơn Đạo, thời không còn sa đọa vào ba đường ác Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Những ai không vi phạm 10 điều căn bản Nhơn Đạo, lại sống theo đó mà hành sự đối nhân xử thế thời nhất định trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Vì sao lại nói như thế vì Nhơn Đạo là cái Gốc của tất cả Đạo.

    Khi ấy có một vị tên là Cao Tổ.

    Chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng;

    Thưa Chí Tôn Thiên Đế:

    Đã là con người con cái nhà Trời, sao còn phải sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

    Quốc Tổ nói khá khen cho Đạo Sư Cao Tổ, Ông vì Vương Quan, cũng như những thế hệ sau nầy hiểu rõ về sa đọa luân hồi mới hỏi như vậy.

    Quốc Tổ thuyết giảng rằng: Con người chỉ là bộ máy xác thân tiểu thiên vũ trụ do Tổ Tiên Tạo Hóa Như Lai. Thâu Tóm Chơn Âm, Chơn Dương, Tinh Hoa Vũ Trụ hiện thân ra Cha Trời Mẹ Trời. Chánh Thân Chánh Mẫu.

    Rồi từ Chánh Thân, Chánh Mẫu sanh tạo ra con người, con người chỉ là Bộ Máy Xác Thân Tiểu Thiên Vũ Trụ, nên con người không quyết định sự luân hồi, cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hay lên thiên đàng xuống địa phủ, mà chính là Linh Hồn con người quyết định tất cả.

    Linh Hồn con người là Tiểu Linh Hồn vũ trụ do Đại Linh Hồn vũ trụ phân hóa pháp thể Linh Giác tạo ra ví như Nước tạo ra Bọt Nước. Bọt Nước cũng chính là nước. Ví như Lực tạo ra Điện. Điện cũng chính là Lực. Ví như bột làm ra Bánh, Bánh cũng chính là Bột. Vì vậy Đại Linh Hồn Tổ Tiên Tạo Hóa Vũ Trụ bất tử, không sanh không diệt. Thời mỗi tiểu Linh Hồn cũng bất tử, không sanh không diệt. Không khác gì Đại Linh Hồn Tổ Tiên Vũ Trụ.

    Tiểu Linh Hồn đầu thai vào Bộ Máy Xác Thân Tiểu Thiên vũ trụ con người, tu luyện tiến hóa Linh Hồn, cho đến khi thành Đạo Làm Người, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nếu tu luyện tiến hóa chưa thành Đạo Làm Người.

    Có nghĩa là: Linh Hồn đầu thai làm người rồi, nhưng chưa tiến hóa thành Đạo Làm người. Linh Hồn tức là Linh Căn còn ở dạng Súc Sanh, Cầm, Thú, Bò Sát. Khi mất thân người rồi, tái sanh đầu thai làm người trở lại tu luyện cho đến khi nào thành Nhơn Đạo làm người, thành tựu 10 điều căn bản như đã nói trên. Thời trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa siêu sanh lên các tầng trời, cõi trời sanh sống trong thế giới Thiên Đàng Cực Lạc an vui hạnh phúc tự tại.

    Nói cho dễ hiểu;

    Mỗi Tiểu Linh Hồn đầu thai làm người. Tu Luyện chừng nào cho có Lòng Nhân, không còn Bất Nhân.

    Cũng như Tu luyện thành tựu Nhân Nghĩa, không còn Bất Nghĩa.

    Tu luyện đến khi nào biết đối nhân xử thế lấy Lễ làm đầu không còn Vô Lễ.

    Tu luyện đến chừng nào tiến hóa Ý Thức Nhận Thức phân biệt được ác, thiện. Đúng sai, phước, họa, sa đọa, siêu thăng, nói chung là đạt đến cảnh giới trí tri việc gì nên làm việc gì không nên làm ra khỏi Ngu Si. Trở thành người có Trí.

    Tu luyện cho đến khi nào thành tựu lòng tin nơi Cội Nguồn cũng như làm việc gì cũng phải giữ chữ Tín.

    Tu luyện cho đến khi nào đạt đến Lòng Trung Thành, có trách nhiệm đối với Cội Nguồn, non sông, đất nước, dân chúng. Có nghĩa là không phản bội lại Cội Nguồn, Non Sông, Đất Nước, Dân Chúng. Trung thành tuyệt đối với Cội Nguồn, Non Sông Tổ Quốc, Dân Chúng.

    Tu luyện cho đến khi nào thành tựu chữ Hiếu không quên ơn sanh thành dưỡng dục. Chánh Thân Chánh Mẫu, Phụ Thân Phụ Mẫu, công ơn dạy bảo các Bậc Tôn Sư.

    Tu luyện cho đến khi nào thành tựu Nhân Đức trên Thuận dưới Hòa sống biết Liêm biết Sỉ.

    Tu luyện cho đến khi nào thành tựu lòng Quản Đại, cũng như sự Bao Dung sống vì người không vì mình Tánh Khiên Hòa, không Cố Chấp, biết tha thứ tình thương rộng lớn đối với nhân loại anh em.

    Thời nhất định trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trở lại Thiên Đàng Cực Lạc an vui tự tại. Vì sự thành tựu Nhơn Đạo khó khăn như thế nên mỗi Tiểu Linh Hồn phải trả qua không biết bao nhiêu số kiếp. Cứ 16 triệu 800 một tiểu kiếp cho một đại khóa tu luyện tiến hóa Linh Hồn.

    Mười điều căn bản Nhơn Đạo nói trên chính là Phật Tánh, Thánh Tánh, Thiên Tánh, có trong Lương Tâm chính là Lương Tri của mỗi con người. Không cần tìm cầu đâu xa chỉ cần làm sáng mười điều căn bản Nhơn Đạo trong Lương Tâm. Thời trên đầu liền có hào quang. Thậm chí là Vô Lượng Quang.

    Những ai hành động trái ngược lại Lương Tâm thời những người ấy còn ngu si, mê muội. Nói chung là Thiếu Hiểu Biết. Thời coi như chưa đắc đạo Nhơn Luân. Nhơn Đạo chưa thành còn ở tánh Thú, Cầm. Phải chịu luân hồi tùy theo ác, thiện nhận lấy quả báo.

    Không có Tánh người đương nhiên phải chịu đầu thai trở lại kiếp thú, cầm. Đã không có tánh người còn làm ác hại người đương nhiên phải sa đọa xuống các tầng Địa Phủ hoặc biến thành Ngạ Quỉ. Luật Trời phân định hai cảnh giới rõ ràng Thiện thời siêu sanh Thiên Đàng Cực Lạc. Ác phải chịu sa đọa xuống các tầng Địa Phủ Cực Khổ. Vì Trong cõi Âm Phủ có hình thành vô số Địa Ngục hành hình tội nhân.

    Nói tóm lại: Mười điều cơ bản của Đạo Làm Người thành tựu trọn vẹn thời Linh Hồn đã tiến hóa lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nếu thành tựu được bảy tám điều thời khi mãn kiếp trần chết đi liền đầu thai trở lại làm người, thường có uy quyền cũng như sự giàu có thông minh sáng láng. Nếu tiếp tục tu hành đạt đến mười điều cơ bản Đạo Làm Người, Thời trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa siêu sanh về các tầng trời, các cõi trời hưởng phước sống trong sự giàu sang sung sướng muốn gì được nấy an vui tự tại.

    Lúc bây giờ trong pháp hội có vị Đạo Sư tên là Cao Tông chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng, thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế:

    Những người xưa nay lầm đường lạc lối rời ra Lương Tâm của chính mình trở thành những người Bất Nhân, Bất Nghĩa, Vô Lễ, không có chữ Tín, chẳng Trung chẳng Hiếu, thường gây gỗ, không biết Liêm, Sỉ là gì. Tánh Keo Kiệt lại hung sùng ác sát. Nay nghe được lời dạy bảo của Đức Chí Tôn. Ăn Năng sám hối Tu luyện tiến hóa, biết Phân Biệt Thiện Ác, có Nhân, có Nghĩa, có Lễ, có lòng Khoan Dung Độ Lượng, có Trung có Hiếu, Biết Cội Biết Nguồn, nói giữ lời, biết hòa thuận anh em. Khi mãn trần những người nầy có bị sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ cũng như luân hồi trở lại Cầm, Thú không?

    Quốc Tổ nói khá khen cho Cao Tông Ông vì Pháp Hội, cũng như hậu thế về sau mà thưa hỏi như vậy.

    Chí Tôn Quốc Tổ dạy rằng: Những người biết sai thời sửa tự mình lấp cửa sa đọa, lại biết tu hành tiến hóa Linh Hồn được như vậy thời tội ác trước kia đâu còn ác căn tiêu trừ hết thảy. Trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, coi như vĩnh viễn không còn luân hồi trở lại loài Cầm, Thú. Mãi Mãi sống trên quê hương thiên giới. Nghe xong Vương Quan ai nấy cũng chứng quả Nhân Luân thành Đạo Con Người Trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Khi ấy trong pháp hội có vị Đạo Sư tên là Cao Tằng chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng.

    Thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế.

    Những người thành Đạo Nhân Luân trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa có cần phải tu luyện tiến hóa Linh Hồn nữa không?

    Chí Tôn Quốc Tổ nghe xong thời khen rằng. Khá khen cho Cao Tằng ông vì pháp hội, cũng như về hậu thế mai sau mà thưa hỏi như vậy ta sẽ vì Ông mà nói.

    Những người đã đắc Đạo Nhân Luân, thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nhưng muốn gặt hái thành quả Phật, quả Thánh, quả Tiên, quả Thần, quả Chúa. Thời phải ra sức cứu khổ cứu nạn nhân loại con người cũng như dìu dắt nhân loại con người trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa tức thời lên ngôi Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ thành lập cõi nước Trời, cõi nước Phật, cõi nước Thánh, cõi nước Tiên, cõi nước Thần, cõi nước Chúa thành quả viên mãn an vui tự tại.

    Quốc Tổ thuyết giảng xong Vương Quan đều chứng ngộ quả vị Nhơn Đạo cái Gốc thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên đầu phát tỏa hào quang.

    Khi ấy có vị Vương Quan chấp tay hướng về Quốc Tổ thưa rằng. Thưa Đức Quốc Vương: Về sau nếu ai nghe được Kinh Nầy mà không tin có phải là ngu si mê muội đáng tiếc lắm không?

    Quốc Tổ khen, Ông quả thật là người có đức muốn khai mở thật trí thật chứng về cơ duyên nên mới hỏi như vậy.

    Việc khó được hôm nay đã được.

    Việc khó gặp hôm nay đã gặp nhân duyên tốt đẹp như vậy, may mắn được làm người, may mắn gặp Chánh Pháp. Không lo tu luyện tiến hóa Linh Hồn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, sanh tâm hành ác phải chịu luân hồi trở lại loài Cầm, Thú, sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Thời không có gì đáng tiếc cho bằng. Cơ hội hàng vạn ức kiếp đã bỏ qua.

    Những người nầy đã đánh mất tất cả, mất cơ hội thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, mất cơ hội làm chủ vũ trụ. Mất cơ hội làm chủ các cõi thiên đàng cực lạc, tiếc thay tiếc thay. Nơi Pháp Hội nghe Quốc Tổ truyền dạy như vậy ai nấy cũng phát tâm tu theo Nhơn Đạo cái gốc các Đạo, nền tảng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Lúc bấy giờ có vị Đại Văn Quan từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa rằng:

    Thưa Chí Tôn Quốc Vương:

    Những người sống theo Đạo Nhơn Luân, vì do nghịch cảnh xảy ra kìm tâm không nổi, gây ra tội lỗi, khi chết đi có bị sa đọa luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh không?

    Quốc Tổ khen, Ông quả là người có tâm có đức nên mới thưa hỏi như vậy, ta sẽ vì Ông mà nói.

    Những người tu theo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa Đạo Làm Người dù chỉ là một ngày cũng không sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh huống chi tu luyện nhiều tháng nhiều năm. Vì nghịch cảnh nghiệt ngã bối cảnh bức xúc, kìm tâm không được gây ra tội lỗi nếu nặng thời phải vào tù nơi chốn nhân gian, nhưng không bỏ Đạo Nhơn Luân. Khi Mãn kiếp trần cũng được siêu sanh về Hạ Thiên Vũ Trụ Non Tiên Cực Lạc Địa Tiên sống an vui hạnh phúc.

    Quốc Tổ thuyết giáo truyền dạy xong trong pháp hội hầu hết đều chứng quả Trí Huệ trên đầu phát tỏa hào quang, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nơi chốn trần gian.
     
  3. shopoga

    Bài viết:
    517
    76. ĐỊNH LUẬT CHU KỲ, LUÂN CHUYỂN TUẦN HOÀN

    Ở vào thời Dựng Nước nơi Thượng Viện Quốc Đạo Quốc Tổ truyền dạy Quy Luật chu kỳ Định Luật Tuần Hoàn Huyền Cơ.

    Chu Kỳ Định Luật Tuần Hoàn một tiểu kiếp. 16 triệu 8 trăm nghìn năm, được phân chia ra làm ba giai đoạn như sau.

    Thượng Ngươn Thượng Kiếp, chia làm hai giai đoạn, cuối kiếp tăng bốn trăm nghìn năm, đầu kiếp giảm bốn trăm nghìn năm.

    Trung Ngươn Thượng Kiếp, một triệu năm

    Hạ Ngươn Mạt Pháp Thượng Kiếp, một triệu năm.

    Thượng Ngươn Trung Kiếp, một triệu năm

    Trung Ngươn Trung Kiếp, một triệu năm

    Hạ Ngươn Mạt Pháp Trung Kiếp, một triệu năm

    Thượng Ngươn Hạ Kiếp, một triệu năm

    Trung Ngươn Hạ Kiếp, một triệu năm

    Hạ Ngươn Mạt Pháp Hạ Kiếp, một triệu năm

    Còn tính theo Chu Kỳ: Trong vòng một nghìn năm.

    Thượng Ngươn Thánh Đức, Trung Ngơn Nhơn Đức, Hạ Ngươn Mạt Pháp.

    Có nghĩa là:

    Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm.

    Cơ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm.

    Cơ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm chu kỳ trong vòng một nghìn năm.

    Nghìn năm nào cũng như nghìn năm nào tam Ngươn đều y như vậy. Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn.

    Khi ấy trong Pháp Hội có vị Tôn Sư Dương Nghệ từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa rằng:

    Thưa Đức Chí Tôn Quốc Tổ: Sao gọi là Thượng Ngươn Thánh Đức, ai tạo ra Thượng Ngươn Thánh Đức. Sao gọi là Trung Ngơn Nhơn Đức, ai tạo ra Trung Ngơn Nhơn Đức, Sao gọi là Hạ Ngươn Mạt Pháp ai tạo ra Hạ Ngươn Mạt Pháp, xin Chí Tôn Quốc Tổ chỉ dạy cho.

    Quốc Tổ khen rằng Ông quả là Thiện Nhân Trí Đức nên mới hỏi Ta những câu hỏi như vậy. Ta vì Ông mà giảng giải trả lời.

    Nói đến Cơ vận Hóa, thời không có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nào làm ra cả. Mà do Bộ Máy Huyền Vi Càn Khôn Vũ Trụ luân chuyển theo phương vị ngũ hành luân phiên tạo ra theo Định Luật Thiên Ý.

    Ví Dụ: Cơ vận hóa chuyển đến Đông thuộc Hành Thủy thời trời lạnh. Cơ vận hóa chuyển đến Xuân thuộc hành Mộc thời ôn hòa. Cơ vận hóa chuyển đến Hạ thời trời oi bức nóng nực. Cơ vận hóa chuyển đến Thu thời trời mát mẻ.

    Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Xuân thời thiên hạ sống theo Xuân.

    Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Hạ thời con người sống theo Hạ.

    Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Thu thời con người sống theo Thu.

    Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Đông thời con người sống theo cách sống mùa Đông.

    Không mấy ai sống theo kiểu mùa Hạ.

    Nói tóm lại: Chu kỳ của Ngươn, của Ngơn không phải do Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa tạo ra. Mà do Pháp Thân Tổ Tiên Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Luân chuyển tạo ra chu kỳ Tuần Hoàn. Chu Kỳ một tiểu kiếp. Chu Kỳ một triệu năm. Chu Kỳ một nghìn năm. Mỗi Chu Kỳ đều theo định kỳ chuyển hóa phân định của Tạo Hóa Tổ Tiên.

    Thời Kỳ đầu của mỗi chu kỳ, là chu kỳ Thượng Ngươn, hay Thượng Ngươn, chân khí Thuần Dương Hưng Thịnh. Nên phần đông con người hướng thiện theo Huyền Cơ Tạo Hóa Cha Ông. Những Linh Hồn hướng Thiện, hành Thiện sẽ được Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước theo luật tự nhiên, hễ hướng Thiện hành Thiện là tự mình độ cho chính mình, không cần ai đưa mình về trời, cũng được Pháp Thân Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên Vũ Trụ.

    Để cho dễ hiểu của mỗi chu kỳ, như chu kỳ một nghìn năm chẳng hạn. Được phân chia làm ba giai đoạn, chu kỳ đầu của một nghìn năm, chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm.

    Ở vào thời kỳ nầy chân khí Chơn Dương Hưng Thịnh. Nên phần đông con người hướng thiện khế hiệp với chân khí Chơn Dương. Những Linh Hồn hướng Thiện hành Thiện sẽ được Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước, hễ hướng Thiện hành Thiện là tự mình độ cho chính mình, không cần ai đưa mình về trời, cũng được Pháp Thân Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên vũ trụ.

    Hết chu kỳ Thượng Ngơn Thánh Đức, đến chu kỳ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm thời kỳ khí hóa Âm- Dương bình hòa là thời kỳ kế hiệp Đạo Con Người. Đầu đội Trời chân đạp đất Trung Dung, Trung Hòa Âm Dương, là thời kỳ Trung Ngơn Nhơn Đức. Những thập niên đầu phần đông con người, gần mực thời đen gần đèn thời sáng hễ gần Chính Pháp thời hành thiện siêu sanh về trời. Hễ gần mực thời đen sa vào Ác Đạo con người hành ác sa đọa xuống các Tần Địa Phủ. Nói cho dễ hiểu, hễ hướng tâm theo ác hành ác thời Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển sa đọa xuống các Tần Địa Phủ chịu nhiều sự khốn khổ theo Định Luật Tự Nhiên Vũ Trụ.

    Hễ hành Thiện thời Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước, không cần ai đưa mình về trời, cũng không ai có quyền đọa mình xuống các tầng Địa Phủ. Mà chính do mình hành ác bị Pháp Thân Linh Giác Thiên Ý Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về các tầng Địa Phủ, cũng như luân chuyển các Linh Hồn hành thiện siêu lên thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên, Thiện Siêu, Ác Đọa.

    Nhưng thập niên cuối Trung Ngơn Nhơn Đức con người phần đông ngả hẳn về ác, đi vào Hạ Ngươn Mạt Pháp.

    Chu kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm, chân khí Âm Khí Hưng Thịnh. Nên phần đông con người xu thế hành ác hiệp với Âm Phí những chủ thuyết ác Đạo vì thế mà ra đời dẫn dắt con người đi vào ác đạo tàn sát lẫn nhau. Những Linh Hồn theo ác hành ác sẽ bị Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển sa đọa xuống các tầng Địa Phủ theo Định Luật Tự Nhiên khốn khổ vô biên. Hễ hướng ác hành ác là tự mình đọa mình chứ không phải nào ai khác. Bị Thiên Luật hành xử sa đọa theo Định Luật Tự Nhiên Vũ Trụ. Ai hành ác làm ác đều phải chịu chung số phận như nhau, không ai khác ai đều bị Thiên Luật Huyền Cơ xoay chuyển sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ nhận lấy sự khốn khổ vô cùng.

    Như vậy chu kỳ các Ngươn, các Ngơn, không phải là do ai đặc ra mà do Định Luật Thiên Ý luân chuyển theo chu kỳ Tuần Hoàn theo Luật Tự Nhiên, Định Luật Vũ Trụ. Trời Chuyển Xuân thiên hạ sống theo Xuân. Trời chuyển hạ thiên hạ sống theo Hạ. Trời chuyển đông thiên hạ sống theo Đông. Không ai ngăn cản hay làm chi khác được. Cũng như không ai có quyền đày Linh Hồn xuống Địa Phủ, cũng không ai có quyền đưa người lên Thiên Đàng. Tất cả đều do họ chính họ. Ai muốn sa đọa xuống các tần Địa Phủ. Thời phải làm ác hành ác. Ai muốn lên Thiên Đàng thời phải hướng thiện hành Thiện.

    Không ai thoát khỏi Thiên Ý Định Luật Vũ Trụ Nhân nào Quả nấy. Không có kiểu làm ác hành ác rồi nhờ Ông nầy Bà nọ đưa Linh Hồn về trời. Họ muốn về Trời thời phải biết nghe lời Trời dạy lìa bỏ cái Ác đi vào cái Thiện. Nhất là quy hướng Cội Nguồn thời Pháp Thân Tối Cao Vũ Trụ Thiên Ý Định Luật luân chuyển những Linh Hồn hành Thiện ấy siêu sanh về Trời sống trên Thiên Đàng Cực Lạc.

    Nơi Pháp Hội Thượng Viện Quốc Đạo ai nấy lắng nghe Quốc Tổ thuyết giảng cũng đều chứng ngộ Chu Kỳ Huyền Cơ Thượng Ngươn Thượng Kiếp. Trung Ngươn Thượng Kiếp. Hạ Ngươn Thượng Kiếp kéo hàng triệu năm. Thượng Ngươn Trung Kiếp. Trung Ngươn Trung Kiếp. Hạ Ngươn Trung Kiếp kéo dài hàng triệu năm. Thượng Ngươn Hạ Kiếp. Trung Ngươn Hạ Kiếp. Hạ Ngươn Mạt Pháp Hạ Kiếp kéo dài hàng triệu năm.

    Chu Kỳ Huyền Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm. Chu Kỳ Huyền Cơ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm. Chu Kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm, sự chuyển vận là do Định Luật Thiên Ý. Không phải do Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa. Cũng không ai có thể thoát khỏi Thiên Ý Định Luật Vũ Trụ. Làm Ác Hành Ác nhất định sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ. Làm Thiện Hành Thiện nhất định siêu lên Thiên Đàng Cực Lạc hưởng phước sống an vui tự tại. Tự Mình Độ Cho Chính Mình Theo Lời Trời Dạy.
     
  4. shopoga

    Bài viết:
    517
    77. AI MỚI LÀ ĐẤNG TỐI CAO

    Ở vào thời dựng nước nơi Thượng Viện Quốc Đạo, Quốc Tổ truyền dạy rằng. Văn Hóa Cội Nguồn. Văn, Kinh, Thơ, Triết, Truyện, không thể ra đời, chỉ truyền khẩu tự ngôn từ Ngôn Ngữ Văn Lang mà thôi. Chữ viết còn quá thô sơ nên không lưu chép lại được.

    Các Vương, Quan, Tôn Sư, Đạo Sư, Pháp Sư, chú ý lắng nghe, nhớ nhiều chừng nào hay chừng đó, các Vương, Quan, Tôn Sư, Đạo Sư, Pháp Sư được quyền thưa hỏi những gì chưa rõ trong lòng. Ta vì Pháp Hội các Ông mà giảng giải.

    Khi ấy nơi Pháp Hội có vị Đạo Sư Tịnh Giác từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa hỏi rằng.

    Thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế;

    Nơi vũ trụ ai là Đấng Tối Cao?

    Quốc Tổ khen rằng: Ông Thật là người khéo hỏi, làm sáng tỏ ai là Đấng Tối Cao. Với câu hỏi nầy Ông thành tựu vô lượng vô biên phước đức, Ta sẽ vì Ông mà nói.

    Chí Tôn Quốc Tổ nói có một Đấng Tối Cao mà ai ai cũng phải đội trên đầu. Kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khắp mười phương cũng như tam thiên đại thiên thế giới khắp. Các ông có biết Đấng ấy là ai Không?

    Cả Pháp Hội đồng nói; Chúng con không biết xin Chí Tôn Quốc Tổ chỉ dạy cho.

    Quốc Tổ truyền dạy rằng; Đấng Tối Cao Ấy không xa lạ gì với chúng ta cả vì lúc nào chúng ta cũng đội Đấng ấy trên đầu. Đó chính là Pháp Thân Linh Giác Khai Hóa Tổ Tiên, Đại Linh Hồn Vũ Trụ Cội Nguồn của tất cả muôn loài vạn vật trong đó có Nhân Loại con người.

    Pháp Thân Khai Hóa Tổ Tiên, Đại Linh Hồn Vũ Trụ rộng lớn như hư không chỗ nào cũng có. Khai Tạo lập lên Tam thiên đại thiên thế giới, năm non bảy núi, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà, ngân hà 28 tần trời 18 tần địa phủ, bảy biển hương thủy, bốn cõi trần gian, biển khí nước mặn, đều nằm trong lòng pháp thân Linh Giác Khai Hóa Tổ Tiên Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Ví như các lớn cá nhỏ đều sống trong lòng nước. Cá nghĩ gì nước cũng biết, cá làm gì nước cũng hay, một niệm chưa khởi tưởng nói ra nước đều nghe, thấy, hay biết rõ.

    Như vậy chúng Ta đã biết ai là Đấng Tối Cao Vũ Trụ. Chính là Khai Hóa Tổ Tiên hiện thân ra Cha Trời Mẹ Trời, Chánh Thân, Chánh Mẫu của nhân loại con người kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khắp cả mười phương tam thiên đại thiên thế giới.

    Cha Trời cai quản thế giới Linh Hồn chuyển hóa Linh Hồn, Tận Độ Linh Hồn, Cứu Khổ Linh Hồn những ai biết nương tựa Cội Nguồn. Không xa rời Cội Nguồn thường là những người gặp nhiều điều may mắn. Thường làm đâu được đó tai họa ít xảy ra, vì lúc nào cũng được bản thể Linh Giác Tổ Tiên, cũng chính là Bản Thể Linh Giác của Cha Trời chỗ nào cũng có che chở, và ban cho nhiều sự may mắn.

    Những ai lạc Cội lạc Nguồn thường là những Linh Hồn lạc lõng bơ vơ không có sự che chở của Cha Trời. Thường là sa đọa vào Ác Đạo chịu nhiều sự khốn khổ vô biên.

    Mẹ Trời cai quản thế giới Vật Chất, những ai ca ngợi Mẹ Trời Cha Trời thường là những người có uy quyền giàu sang bậc nhất, vinh hoa phú quý tột cùng. Ở đời ai cũng biết Mưu Sự Tại Nhơn, Thành Sự Do Thiên. Những mưu sự trái ngược lại Thiên Ý thường là dẫn đến thất bại làm nhiều mà chẳng được là bao. Mưu Sự Hợp Thiên, thường làm đâu được đó, bỏ công sức ít mà thành tựu nhiều.

    Quốc Tổ nói: Như vậy các Ông cũng đã rõ nơi vũ trụ ai là người có quyền năng nhất.

    Cả Pháp Hội đồng nói người có quyền năng nhất vũ trụ chính là Cha Trời Mẹ Trời.

    Quốc Tổ nói: Đúng Vậy đúng vậy không ai có quyền năng hơn Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải nương tựa vào Cội Nguồn Cha Trời Mẹ Trời mới thanh tựu được phước báo vô tận, quyền lực vô biên.

    Quốc Tổ nói: Nơi vũ trụ ai là người giàu nhất?

    Cả Pháp Hội đồng nói, không ai giàu hơn Cha Trời Mẹ Trời Đấng Tạo lập lên tất cả cũng như cai quản toàn vũ trụ.

    Quốc Tổ nói: Đúng vậy đúng vậy vì thế Cha Mẹ giàu thời con cái thừa hưởng. Những ai trở về Cội Nguồn Tôn thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời, chính thức trở thành con Trời. Sẽ được ba ngôi tối cao vũ trụ Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời bảo bọc chở che Đại Phú do Thiên.

    Trời sẽ ban cho những gì mà Trời đã tạo ra. Như làm chủ tam thiên đại thiên thế giới, làm chủ 28 tầng trời, làm chủ hạ thiên vũ trụ năm non bảy núi, Thất Sơn Châu Báu, làm chủ Nhật, Nguyệt, Tinh, Tú, Thiên Hà, Ngân Hà, làm chủ bảy biển Hương Thủy, làm chủ bốn cõi Trần Gian, làm chủ Ngũ Đại Chuyên Luân, làm chủ vàng, bạc kim cương, ngọc ngà châu báu, sắt, thép, kẽm, chì, nhôm, nhựa, đồng, thau, làm chủ cai quản 18 tầng Địa Phủ.

    Ban cho những ai biết Tôn Thờ Nguồn Cội cõi nước ngọc ngà châu báu làm Vua làm Chúa các cõi nước trời. Trường sanh bất tử an vui tự tại vân. V.. Trời muốn cho ai thời người ấy hưởng.

    Quốc Tổ nói: Những ai rời bỏ Cội Nguồn không tôn thờ ba ngôi tối cao vũ trụ, thường hay nghịch Thiên Ý làm nhiều điều ác trái ngược Lương Tâm. Phải chịu sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Nếu may mắn đầu thai trở lại làm người, thời phải chịu sự tật nguyền, nếu không tật nguyền thời chịu sự thấp hèn nghèo khổ, cũng như tai họa triền miên.

    Cả pháp hội nghe Quốc Tổ giảng dạy như vậy liền giác ngộ cây còn Gốc nở cành xanh ngọn, người không mất Cội Nguồn, người tốt đẹp biết bao đồng niệm Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời. Hướng về Cội Nguồn Nam Mô – A Men thành tựu vô lượng vô biên công đức, chính thức con Trời, thừa kế những gì Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời để lại tạo ra. Nói chung là làm chủ Vũ Trụ. Nhất là làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc, muốn gì được nấy an vui tự tại.
     
  5. shopoga

    Bài viết:
    517
    78. LINH VỊ THỜ TRỜI

    Ngày xửa ngày xưa ở vào thời Thượng Hùng Vương, đến đời Hùng Cao Lang Quốc Vương đời thứ 6 trị vì thiên hạ.

    Ở vùng Giao Châu có một chàng trai tên là Đơn Côi. Cha mất sớm Mẹ có chồng khác, không còn ai thân thích bên nội Đơn Côi phải đành theo Mẹ về ở với Bố Ghẻ tên là Tàn Bạo. Tàn Bạo tánh tình hung dữ coi mẹ con Đơn Côi như tôi tớ thẳng tay mà đánh.

    Ngoài làm mấy sào ruộng ra Tàn Bạo thường bắt Đơn Côi lên rừng đốn củi, còn Tàn Bạo thời ở nhà đem củi ra chợ bán. Cha ghẻ thời no cơm ấm áo còn mẹ con Đơn Côi thời bửa đói bửa no.

    Không may gặp năm trời làm mất mùa, cuộc sống gặp lúc khó khăn cho cái ăn cái mặc. Tàn Bạo nhìn Đơn Côi như nhìn một gánh nặng, đôi lúc muốn vứt đi cho rồi nhưng vứt đi bằng cách nào Tàn Bạo chưa nghĩ ra.

    Cho đến một hôm Tàn Bạo dẫn Đơn Côi lên rừng đốn củi, viện lý do rừng núi ở đây nhà nước quản lý cấm đốn củi nên dẫn Đơn Côi đi rất xa. Tàn Bạo nói đốn củi xong ngồi đây đợi ta đến rồi cùng về.

    Đơn Côi chặt xong hai bó củi ngồi đợi Cha Ghẻ đến rồi về chờ chờ mãi không thấy người Cha Ghẻ đến, mặt trời sắp lặn non tây. Đơn Côi kinh hãi không biết chuyện gì xảy ra bằng đi tìm người Cha Ghẻ Tàn Bạo, tìm khắp nơi nhưng không thấy người Cha Ghẻ đâu cả. Chỉ thấy một ngôi miếu đá trong đó không có ai, chỉ có một Linh Vị hình quả tim có họa hình thập tự giá. Đơn Côi không biết là Linh Vị thờ ai.

    Mặt trời đã lặn màn đêm buông xuống nhìn nơi đâu cũng thấy chập chờn sự rình mò ăn nuốt, tiếng hổ gầm rung chuyển núi non, tiếng sói, beo, tru lên nghe thấy mà rởn óc. Đơn Côi sợ quá bằng chui vào Am Đá để trốn. Nào ngờ bầy hổ đánh hơi tìm tới chúng nhe nanh, múa vuốt thấy mà phát khiếp, một con hổ định vồ Đơn Côi. Nhưng con hổ hốt hoảng khiếp sợ bỏ đi con nào nhìn thấy Linh Vị cũng vậy đều sợ hãi bỏ đi.

    Đơn Côi sợ quá ngất đi hồi nào không biết đến khi tỉnh dậy thời Ông Mặt Trời đã lên cao.

    Đơn Côi thấy mình còn sống mừng quá la lên ta còn sống, Đơn Côi nghĩ đàn cọp tha cho mình sao, chuyện gì đã xảy ra, Đơn Côi hồi tưởng lại tất cả như chợt nhớ ra linh vị quả tim trong lúc mình không biết gì nữa thời thấy Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá phát tỏa hào quang có lẽ đàn cọp sợ Linh Vị nầy.

    Đơn Côi không biết ý nghĩa thờ Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá là thờ ai mà Linh Hiển như thế. Bằng cầm lấy Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá làm bùa hộ mạng không sợ đàn hổ ăn thịt nữa. Đơn Côi đi đi mãi nơi đâu cũng là rừng núi khác thời uống nước suối, đói thời ăn lá cây hoa quả, tối thời ngủ trên cây cứ như thế mười ngày đã trôi qua mà cũng chưa tìm được đường về.

    Nói về người bố ghẻ ác độc dẫn Đơn Côi vào núi sâu rừng thẳm làm mồi cho cọp, còn mình thời trở về nhà không may trên đường đi gần đến nhà thời bị rắn cắn, nhưng hắn ráng chịu đau lê lết cái chân sưng tím vừa về đến sân thời hắn gào thê thảm ngã quỵ xuống sân lăn đùng ra chết.

    Sau khi chôn cất người chồng sau Mẹ Đơn Côi khóc lóc kể lể cả tháng, đôi lúc ngồi một mình nhớ đến Đơn Côi có lẽ bị hổ báo ăn thịt rồi, trời ơi là trời sao đời tôi khốn khổ thế nầy. Người chồng trước chết bỏ tôi ở lại một mình, tuổi còn trẻ đường đời còn dài nỗi cô đơn không nơi nương tựa, đi thêm bước nữa nương nhờ cây tùng cây bách, nào hay đâu không khác gì đầy tớ. Tuy thế không trách gì ông chồng an phận chí thú làm ăn, tuy đời sống khó khăn nhưng thuyền có lái, nhà có nóc, nay Ông ấy đã chết thời tôi biết trông cậy vào ai. Còn đứa con thời biệt tăm vô âm tín không biết chết sống ra sao.

    Lại nói về Đơn Côi cuối cùng cũng tìm được về nhà nhìn thấy mẹ ngồi ngoài xó hè gầy ốm trông có vẻ hốc hác ôm mặt than khóc kể lể mới hay người Cha ác độc đã chết.

    Đơn Côi cũng không cầm được giọt nước mắt, dù sao cũng là người Cha kế của mình. Mẹ Đơn Côi đang ngồi than thở cho số phận của mình chợt nhìn thấy Đơn Côi trở về lao nhanh tới ôm Đơn Côi như sợ Đơn Côi biến mất, miệng thời nói con của Mẹ con sống cảm ơn Ông Trời. Bà nhìn Đơn Côi tuy hơi ốm nhưng thần khí vẫn tươi tốt. Hai mẹ con đi vào nhà, bà như muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Đơn Côi liền hỏi.

    Con đi đâu hơn cả tháng mới trở về. Đơn Côi liền kể lại tất cả đầu đuôi, Đơn Côi thở dài nói người Cha Ghẻ muốn giết con cho đở tốn cơm nên dẫn con đến một nơi rất xa núi non trùng điệp rừng rậm bạt ngàn, nơi có cọp, beo, sói, bỏ con ở lại đó một mình làm mồi cho cọp, sói, báo. Cũng may con nhờ Linh Vị nầy cứu mạng. Bà mẹ Đơn Côi nghe xong không cầm được nước mắt nói mẹ đã hại con. Mẹ thề không đi bước nữa dù cho khổ đến đâu cũng ở vậy cùng con. Bà nhìn Linh Vị cứu Đơn Côi là một miếng gỗ hình Quả Tim có chạm khắc hình Thập Tự Giá, có những nốt tròn, nhất là nốt tròn ở dưới chót quả tim, có hình vuông. Bà thường nghe Cha Mẹ Ông Bà kể Trời Tròn, Đất Vuông. Bà chỉ hiểu có vậy thôi còn không hiểu gì nữa.

    Từ khi Đơn Côi lập bàn thờ để thờ Linh Vị thời Đơn Côi trở nên thông minh khác thường khỏe mạnh hẳn ra, làm đâu được đó tính gì được nấy không bao lâu thời dư ăn dư để không nói là giàu. Xóm làng ai cũng khen là tài giỏi tiếng đồn xa đến tai Quan Phủ. Phong cho chức Lạc Điền quyền thế một vùng Giao Châu.

    Một hôm Đơn Côi gặp một Đạo Sĩ thời vô cùng mừng rỡ mời về nhà. Đạo Sĩ nhìn khu vườn rộng nhưng địa cuộc thời không được tốt ai ở khu vườn nầy thời phải chịu cảnh nghèo đói. Thế mà Đơn Côi giàu có nhà cửa bề thế lấy làm lạ hỏi Ông Bà Cha Mẹ có tu phước thiện gì không? Đơn Côi nói không có chỉ là người bình thường không nói là không mấy thiện. Vị Đạo Sĩ làm thinh không nói gì. Đơn Côi nói tôi mời Đạo Sĩ là nhờ Đạo Sĩ xem cho tôi một quẻ không hiểu vì sao công chuyện làm ăn thời trôi chảy nhưng đường vợ con thời trắc trở liên miên.

    Đạo Sĩ nghe xong nói dẫn tôi đến nơi bàn thờ Ông Bà Cha Mẹ để tôi làm phép thời quẻ mới ứng linh, Đơn Côi liền dẫn Đạo Sĩ đến bàn thờ, thờ Linh Vị. Đạo Sĩ vừa nhìn thấy Linh Vị Hình Quả Tim có chạm khắc Thập Tự Giá, có nhiều nốt tròn cũng như hình chữ S cốt lõi Âm Dương. Trời tròn Đất vuông thời giật cả mình, Linh Vị nầy không phải Linh Vị thờ Trời sao? Đạo Sĩ hỏi quan Lạc Điền làm sao có được Linh Vị nầy. Không lẽ Ông Bà để lại, Đơn Côi kể lại tất cả Linh Vị nầy là tôi thỉnh ở nơi miếu đá trên núi, cũng như những sự Linh Thiên đã xảy ra.

    Đạo Sĩ nghe xong ngẫm nghĩ thảo nào ở khu vườn tử địa mà vẫn bình yên lại giàu có, là do Linh Vị thờ Trời nầy. Đạo Sĩ nói Linh Vị nầy là Linh Vị thờ Trời. Có lẽ các vị Tu Tiên lập lên để thờ, người trần phàm không ai có thể hiểu được.

    Đạo Sĩ hỏi quan có biết ý nghĩa của Linh Vị kia không? Đơn Côi nói tôi không rõ.

    Đạo Sĩ nói Linh Vị nầy chính là biểu tượng Nam Mô- A Men Linh Ấn Vũ Trụ Uy Danh Của Đức Cha Trời. Linh vị nầy không những linh thiêng mà còn làm cho gia chủ thông minh, muốn gì được nấy. Nhưng Gia Chủ ở khu vườn không được tốt có thể nói là khu vườn tuyệt hậu. Muốn có vợ con suông sẻ thời phải tìm mua một khu vườn khác. Mẹ đơn Côi nói tôi có một khu vườn cũ nhỏ hơn khu vườn nầy, khu vườn đời chồng trước của tôi.

    Mẹ Đơn Côi dẫn vị Đạo Sĩ đến xem. Đạo Sĩ nhìn khu vườn bỏ hoang nhưng lại là khu vườn đắc địa phong thủy rất tốt. Không nơi nào tốt bằng nơi nầy hãy về đây mà ở thời con cháu đầy nhà.

    Trước khi từ giả Đơn Côi Đạo Sĩ để lại bài thơ

    Thờ Trời phước đức, chuyện bình thường

    Nghịch Trời, tai họa khó nghĩ lường

    Chỉ cần thất kính bằng sợi tóc

    Chúa Vua cũng phải, chịu tang thương

    Thành tâm quy kính, nương Cội Gốc

    Còn hơn châu báu, chất đầy rương

    Linh Vị thờ Trời, Linh đệ nhất

    Vạn kiếp nghìn đời trổ hoa hương

    Đơn Côi nhìn theo Đạo Sĩ khuất dần khuất dần trên đường đi lòng cảm thấy bâng khuâng như rời xa người thân. Đơn Côi dời nhà đến nơi chôn nhau cắt rốn quê Cha nơi sanh ra mình. Từ đó Đơn Côi cưới được một cô vợ xinh đẹp con đàn cháu đống sống cuộc đời an vui hạnh phúc.
     
  6. shopoga

    Bài viết:
    517
    79. SO TÀI – ĐẤU PHÉP

    Ngày xửa ngày xưa có một đất nước tên là Vạn Xuân, nhưng thật ra chẳng có chút xuân nào. Bởi một tên Vua độc tài độc trị tôn thờ ngoại bang, coi dân như cỏ rác thi hành nhiều chính sách bạo ngược làm cho dân căm hận đến tận xương.

    Nơi vùng Tô Châu có một gia đình không may Ông Bà mất sớm chỉ còn lại người con duy nhất tên là Kỳ Nhân vì miếng ăn Kỳ Nhân quần quật suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời không có được một ngày rảnh thế mà sự khốn khó mãi đeo bám, bao nỗi bất công cứ mãi đeo theo. Với chính sách hà khắc không có việc ác nào mà không làm. Nhất là quan các cấp cơ sở địa phương không những vừa ngu vừa tàn bạo.

    Kỳ Nhân từ nhỏ vốn đã thông minh, càng lớn càng thông minh một cách kỳ lạ phải nói ít ai sánh bằng. Nhất là đối đáp tài tình hóa giải tất cả những lời buộc tội của đối phương.

    Kỳ Nhân thấy nước Vạn Xuân cứ mãi lao đao khốn khó nguyên nhân là chạy theo ngoại bang tôn thờ ngoại bang, dẫn đến cây mất Gốc héo cành rũ ngọn, Kỳ Nhân không thể lặng im chịu cảnh mất nước nhà tan, bằng thức tỉnh dân chúng Vạn Xuân yêu Cội mến Nguồn tôn thờ truyền thống. Dân Vạn Xuân thấy Kỳ Nhân nói phải nên theo nghe mỗi ngày mỗi đông.

    Nói về các cấp địa phương thấy dân chúng càng ngày càng mến mộ Kỳ Nhân, tức thời mời lên cơ quan hãm hại nhổ phứt cây gai trong mắt, với giáo điều chính sách độc tài độc trị chỉ tôn thờ duy nhất một thể chế dù đó là thể chế tôn thờ ngoại bang không được tôn thờ bất cứ ai.

    Vào hôm ấy trời đang trong xanh bỗng mây đen hiện ra che kín bầu trời, báo hiệu điềm chẳng lành sắp xảy ra

    Kỳ Nhân nhận được giấy triệu tập mời lên cơ quan, bạn bè Kỳ Nhân lấy làm kinh sợ, Kỳ Nhân nói có gì phải sợ khi mình hướng về Nguồn Cội tôn thờ Ông Cha.

    Ở địa phương xưa nay ai cũng biết quan bây giờ không phải là quan vì nước vì dân mà vì tiền vì lợi vì bè đảng, đầy thủ đoạn gian manh.

    Kỳ Nhân được giấy triệu tập tâm hồn định tĩnh như không có chuyện gì xảy ra nghĩ thầm không ngờ mình có giá béo bở như thế, có lẽ mình đã tu vô lượng kiếp chúng tranh nhau mà táp. Nếu có chết cũng phải ăn một bữa thật no, tội gì chết đói.

    Nói về những tay chuyên nghiệp xét hỏi tên nào tên nấy nanh vuốt dài thoàng súng ống đao kiếm sáng ngời. Nhất là mưu mô xảo quyệt đạt đến cảnh siêu đẳng thậm thâm, chỉ cần phun ra một lời, nhẹ thời cũng phải đi tù, nặng thời bỏ mạng, nhất là Tên Cáo quan địa phương nổi tiếng xưa nay là tay sát thủ chưa ai thoát khỏi nanh vuột của tên Cáo quan địa phương nầy.

    Vừa đến cơ quan thật bất ngờ Kỳ Nhân thấy dân chúng có mặt rất đông, cũng như đủ các phần ngành trong huyện, trước khi chúng muốn hại một ai đó thường là đi đến đóng tuồng đấu tố hãm hại, hoặc buộc tội trước công chúng làm gương thị chúng làm cho dân chúng khiếp sợ. Chúng tin tưởng là chúng ghép tội cho Kỳ Nhân một cách dễ dàng trước dân chúng. Chúng ung dung Kỳ Nhân là con mồi chỉ biết cúi đầu nhận tội, như bao người khác, nồi nước sôi đã sôi sùng sục chúng chỉ cần ném con gà vào nồi là xong.

    Với bộ mặt ác quỷ xảo trá lão luyện khi ra đòn của Cáo quan, xưa nay khi Cáo quan ra đòn thời con chim bay trên trời cũng phải rớt xuống. Con cá lặng dưới sâu cũng phải toi mạng đi đời.

    Cáo quan nhìn Kỳ Nhân với bộ mặt ăn tươi nuốt sống nói với dân chúng xưa nay không một tội phạm nào có thể lọt lưới. Cáo quan ra chiều đắc ý xưa nay mọi chuyện, trắng Cáo hóa thành đen, không tội Cáo biến thành có tội như trở bàn tay. Chúng nào ngờ mọi chuyện ngoài sự dự định của chúng.

    Hắn làm ra vẻ kính trọng nhìn con heo trước khi bị thọc cổ. Hắn nói mời Ông Kỳ Nhân ngồi. Kỳ nhân vừa ngồi hắn liền ra chiêu phóng chưởng ra đòn.

    Nầy Ông Kỳ Nhân Ông biết tội chưa Ông Kỳ Nhân, với chiêu chưởng buộc tội nầy nhất định con cừu non bị trúng chưởng đi tiêu. Kỳ Nhân nói thưa quan trên cái tội quên Cội quên Nguồn thật đáng ăn đòn, tôi rất ăn năn hối hận vì tôn thờ Cha Ông có công dựng nước cũng như tôn thờ những người có công giữ nước quá muộn. Đáng lý ra tôi phải tôn thờ sớm hơn nữa.

    Tên Cáo quan bất ngờ với lối trả lời Kỳ Nhân hóa giải độc chưởng của y như vậy. Tên Cáo quan không còn trầm tĩnh hùng hổ quát lớn ta đang hỏi chuyện khác sao ngươi lại nói chuyện nầy.

    Kỳ Nhân bình tỉnh trả lời chuyện khác là chuyện nào tôi không rõ. Tôi chỉ biết tôi đang tôn thờ Cội Nguồn Ông Cha mà thôi. Cáo quan bị một đòn giáng trả cứng họng.

    Thấy Cáo quan thua lý. Báo quan nhảy vào ra đòn những cú đấm hắn cho là tuyệt vời. Ai khiến ông làm điều nầy?

    Kỳ Nhân nói, chuyện tôn thờ Nguồn Cội Cha Ông, nhớ ơn những tiền nhân giữ gìn đất nước ai khiến mới làm hay sao, phải tự Lương Tâm của mình có bổn phận trách nhiệm tôn thờ gìn giữ truyền lại cho con cháu. Quan hỏi như thế thời quan là người ngoại quốc không phải là người Vạn Xuân mới hỏi tôi câu hỏi vừa kém hiểu biết vừa ngớ ngẩn chẳng hiểu gì về bổn phận và trách nhiệm của mỗi ngời dân Vạn Xuân đối với Ông Cha đối với non sông đất nước.

    Báo quan bị Kỳ Nhân phản đòn tới tấp đòn nào đòn nấy trúng phốc không sai một ly, Báo Quan đỏ mặt hét lớn định chém cho Kỳ Nhân một đao gở gạt chút đỉnh vì mất mặt trước dân chúng.

    Beo quan cản lại nói để tôi. Beo quan nhìn Kỳ Nhân như nhìn một đối thủ đáng gườm, múa chân múa tay đi tới đi lui rồi tung ra một đòn chí tử ai cho phép ông tuyên truyền lôi kéo dân chúng làm mất trật tự an ninh xã hội? Với chiêu quỷ trảo nầy đối thủ khó mà chống đỡ chỉ còn chờ chết mà thôi.

    Kỳ Nhân nhờ tu luyện chiêu Trung Can Hiếu Nghĩa cao trở thành mình đồng da sắt, nói thờ cội thờ Nguồn thời ai có quyền ngăn cấm cần chi cho phép ai cũng có bổn phận trách nhiệm đối với Cha Ông đối với những người có công dựng nước, giữ nước. Uống nước nhớ Nguồn ăn quả nhớ người trồng cây. Tôi cũng thế mà quan cũng thế đều là con cháu Vạn Xuân không lẽ làm dân như tôi lại nhớ, còn làm quan như quan lại quên không có bổn phận trách nhiệm gì đối với Cha Ông. Ông Cha ta thường nói với hạng người quên Tổ, quên Tiên, bất nhân, nghĩa, bất trung, bất hiếu, là người không có đức. Cổ nhân thường dạy người không có đức còn thua cục cứt bỏ cho cây. Dân chúng cười ô lên hay quá, lối phản đòn thật là hấp dẫn.

    Beo quan định rút súng ra bắn, Heo quan cản lại nói để đó cho tôi. Heo Quan ủn ỉn sờ cái bụng phệ của mình bốc mùi rượu bia thịt quay gà nướng hích hai lỗ mũi lên trời như lấy sức bất ngờ tung đòn sấm sét. Ai cho phép ông cấu kết với những thành phần xấu, cũng như lôi kéo dân chúng đi theo con đường mê tín, chống phá lại nhà nước chính quyền, ông còn gì để nói nữa không. Với lời buộc tội nầy thời Kỳ Nhân coi như con cá đã nằm trên thớt chỉ cần ấn nhẹ con dao là rồi đời hồn du địa phủ.

    Kỳ Nhân bình tỉnh trả lời chẳng cần né tránh ăn miếng trả miếng chưởng đối chưởng nhìn Heo Quan rồi nói. Tin theo chủ trương, làm theo chủ trương nhà nước, quan hệ mật thiết với trung ương ủng hộ những người có tâm vì đất nước làm như thế là cấu kết với những thành phần xấu hay sao? Đoàn kết dân tộc giúp đỡ cùng nhau vượt qua gian khổ, lá lành đùm bọc lá rách, nhường cơm xẻ áo trong lúc gặp khó khăn, tắt lửa tối đèn tình làng nghĩa xóm, bầu thương lấy bí sự quan hệ như thế có tội gì?

    Đồng cùng một dân tộc Vạn Xuân đồng hướng về Cội Nguồn tôn thờ Cha Ông nhắc nhở nhau phải có trách nhiệm bổn phận gìn giữ những gì tốt đẹp nhất của Dân Tộc Vạn Xuân, làm như thế mà lôi kéo chúng dân vào con đường mê tín sao?

    Không có cán bộ nào trả lời Kỳ Nhân nói tiếp đã là người dân sống theo Hiến Pháp, Pháp Luật, những gì Hiến Pháp, Pháp Luật không cấm thời người dân có quyền làm, Huống chi là Hiến Pháp, Pháp Luật cho phép. Người dân có quyền tham gia phản biện những gì đúng sai cũng như cống hiến những gì tốt đẹp cho nhà nước, làm như vậy là chống phá nhà nước hay sao?

    Làm theo Trung Ương mà là xấu, theo chủ trương nhà nước mà là sai.

    Người phạm tội không phải là tôi mà chính là các Ông, không coi chủ trương ra gì, xem thường Hiến Pháp, coi thường Luật Pháp hành sự ngược lại chính sách của Nhà nước. Theo kiểu phép Vua thua lệ làng, muốn làm gì thời làm. Độc tài theo kiểu thời Phong Kiến, muốn ai sống thời sống, muốn ai chết thời chết, cậy chức cậy quyền quan là trên hết muốn hại ai thời hại.

    Đã là người dân Vạn Xuân thời mỗi người dân có bổn phận tôn thờ Nguồn Cội cũng như có trách nhiệm đối với quê hương đất nước, người dân có tôn thờ gì tôi đâu chẳng qua họ đến với tôi là vì họ muốn nghe những gì tốt đẹp của Ông Cha Họ. Tôi thấy họ có Nhân, có Nghĩa, có Trung, có Hiếu đâu như những thứ tôn thờ ngoại bang, bất Nhân, bất Nghĩa, bất Trung, Bất Hiếu. Đối vối Cội Nguồn Cha Ông của mình.

    Những kẻ có tội không phải là tôi, mà là những kẻ phản bội Ông Cha ngăn cản không cho người dân hướng về Cội Nguồn. Trù dập tấm lòng tốt của người dân có bổn phận và trách nhiệm đối với quê hương non sông đất nước kẻ có tội chính là các Ông, không phải là Tôi. Tôi cũng như bao nhiêu người dân luôn hướng về Cội Nguồn tôn thờ Cội Nguồn những người có công dựng nước giữ nước, đó là bổn phận và trách nhiệm của người dân Vạn Xuân, kế thừa những gì tốt đẹp của Cha Ông để lại, phát huy và gìn giữ. Tôi thừa nhận là dân chúng có mến mộ đức độ của tôi, ca ngợi sự hiểu biết của tôi. Nhưng họ không đi theo tôi, mà đi theo chủ trương của nhà nước hướng về Nguồn Cội ca ngợi Truyền Thống Anh Linh dựng nước giữ nước.

    Dân tôn thờ Nguồn Cội dân có tội gì, dân mến mộ người có tài có đức không lẽ là dân làm sai. Tóm lại người có tội là người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, đi ngược lại chủ trương của nhà nước, cậy chức ỷ quyền muốn làm gì thời làm không phải là tôi. Kỳ Nhân với những tuyệt chiêu ra đòn hùng hồn cú nào cú nấy lả lướt.

    Mẻ lưới của tên Heo quan lão luyện bủa ra đã bị Kỳ Nhân xét nát còn ghép chúng vào tội phản bội lại Cha Ông, đi ngược lại chủ trương tội chồng lên tội, hơn mười tên quan ngơ ngác. Dân Chúng thời vui mừng tài quá như mở cờ trong bụng nhưng chẳng ai dám hở môi.

    Với tài nghiệp vụ mấy mươi năm không lẽ thua Kỳ Nhân nhất là mất mặt trước dân chúng, Cáo quan, Báo quan, Beo quan, Heo Quan, nhìn Sói quan. Sói quan như hiểu ý bằng ra nói để đó cho cấp trên bằng ra đòn tung mẻ lưới ngón nghề điêu luyện hơn mấy mươi năm luyện tập trong nghề chưa có lần nào là con mồi thoát khỏi.

    Nầy Ông Kỳ Nhân ông nói dân mến mộ đức độ của Ông, đức độ của Ông là cái gì mà dân mến mộ, Ông nên thành khẩn khai thật ra đây. Dân chúng nín thở không biết Kỳ Nhân trả lời thế nào, thoát khỏi mẻ lưới của bọn tà quan ác bá, lắm thủ đoạn nhiều mưu kế. Cọng với nanh vuốt dài thoàng nhọn hoắt thấy mà khiếp vía.

    Kỳ Nhân trả lời Ông Cha ta thường dạy uống nước nhớ Nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, nên tôi lúc nào cũng tôn thờ Ông Cha, ca ngợi Ông Cha, nên dân cảm mến tôi. Ông Cha ta thường dạy sức yếu thời làm việc nhỏ miễn là có ích cho đời cho xã hội. Trước kia tôi thấy mẻ chai giữa đường tôi không bao giờ lượm, nhưng nay thời lại khác tôi không những lượm mẻ chai bỏ đi mà con khuyên những người khác lượm bỏ đi. Trước đây tôi không biết kính trọng người già nhưng từ khi tìm hiểu qua lịch sử Ông Cha học theo gương sáng Ông Cha, tôn kính người già, nhường đường cho người già đi nếu đó là con đường nhỏ. Trước đây tôi ít đóng góp ngày công cho xã hội, nay thời tôi hăng hái xung phong đi đầu. Xưa kia tôi hay nói láo đâm thọc thêu diệt, nhưng nay tôi nói cái gì cũng thật, nói lời có ích cho xã hội, Kỳ Nhân kể hết chuyện làm lành nầy đến chuyện làm lành khác. Bầy ác quan nghe như sấm sét đánh xuống đầu.

    Có lẽ Sói quan chịu không nổi vỗ xuống bàn cái rầm thịnh nộ quát Ông khai kiểu gì lạ vậy khai như thế làm sao xét xử. Kỳ Nhân trầm tỉnh trả lời quan biểu tôi thành thật khai ra đức độ của tôi, tôi đã khai đúng những gì tôi đã làm cũng như quan đã hỏi.

    Sói quan tức điên lên rút súng ra định bắn. Kỳ Nhân nhìn khẩu súng nói tôi cũng muốn chết từ lâu. Không lẽ nhảy xuống sông tự tử thời bị thiên hạ cho là ngu, còn uống thuốc độc tự tử thiên hạ cho là dại, tự mình đập đầu chết thiên hạ cho là điên. Nên tôi luôn nghĩ đến cái chết như thế nào là chết xứng đáng, chết tuyệt vời nhất. Chính là cái chết vì Cha Ông, chết vì làm lành, chết để rồi được hiển Thánh, người tu ai chẳng mơ ước như thế. Bây giờ không chết thời già cũng chết, quan cứ ra tay. Quan cứ nổ súng.

    Mười mấy tên quan ai nấy cũng lấy làm kinh dị. Những tên ác quan xầm xì bàn tán với nhau rồi đi đến kết luận chưa kết tội được thời tạm tha, khi nào có kế mới thời mời đến làm việc. Dân chúng thở phào nhẹ nhỏm qua khỏi kiếp nạn rồi thật tội nghiệp cho Kỳ Nhân sanh ra nhằm thời Mạc Pháp bè phái tranh nhau cai trị đất nước theo ngoại bang không mấy ai vì dân vì nước mới sản sanh bọn ác quan. Cáo quan, Báo quan, Beo quan, Heo quan, Sói quan.

    Nói về Kỳ Nhân trở về nhà bạn bè đến thăm hỏi nói, Nhân thoát khỏi nanh vuốt của chúng là phước ba đời xưa nay chưa có ai thoát được đâu.

    Kỳ Nhân nói chế độ nào đi theo ngoại bang, thường hay nói đến chuyện yêu nước thương dân, ca ngợi truyền thống ông cha, che đậy sự phi nghĩa của mình.

    Những gì Chế Độ nói, Chế Độ không làm thời mình làm. Ví Dụ Chế Độ Nhà Nước ca ngợi Cha Ông nhưng không tôn thờ Cha Ông. Còn Mình thời tôn thờ Ông Cha bọn ác quan chống phá mình có nghĩa là chống lại Nhà Nước chống lại chủ trương. Bất lợi thuộc về bọn ác quan không phải là tớ. Nên tớ mới thoát được nanh vuốt của chúng.

    Bạn bè nói ai bày cho Nhân những đối kháng hay như vậy. Kỳ Nhân nói không ai bày cả mình là người Vạn Xuân, phải có bổn phận và trách nhiệm tôn thờ Nguồn Cội Cha Ông, yêu mến truyền thống anh linh dựng nước giữ nước.

    Chỉ có Nguồn Cội Cha Ông là muôn năm, truyền thống anh linh dựng nước giữ nước muôn năm, còn những Chế Độ Thể Chế chỉ là nhất thời. Nhất là Chế Độ Thể Chế tôn thờ ngoại bang chỉ là chế độ thời vụ theo mùa nhanh chóng sẽ đi qua, hết đông, rồi sang xuân. Cách mạng mùa chỉ là sân khấu trường đời, khói mây rồi cũng trở về khói mây. Lời nói của Kỳ Nhân làm cho một số bạn thức tỉnh nguyện đi theo con đường của kỳ Nhân trở thành người Công Dân tốt của đất nước Vạn Xuân.
     
  7. shopoga

    Bài viết:
    517
    80. CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU VÀ HẠNH PHÚC

    Cô Giáo Đào cái tên thật thân quen cũng như sự kính mến những em học lớp 12 thị xã Tịnh Hà.

    Cô Giáo Đào thường ngồi trầm lặng không hiểu cô đang nghĩ gì, chỉ thấy Cô chăm chú nhìn những em học sinh với lứa tuổi đi vào trưởng thành đang cặm cụi viết bài. Cô cảm thấy lòng mình hạnh phúc vì đã làm một nghề có ích cho đời, nhất là truyền cho các em những kiến thức tinh hoa xã hội. Những gì có lợi cho cuộc sống cũng như đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình. Cô Giáo nhìn các em hầu như các em đã viết xong bài Cô liền nói, để làm rõ thêm nội dung trong bài học hôm nay Cô sẽ kể về mẩu chuyện tình yêu và hạnh phúc cho các em nghe, cả lớp reo lên chúng em rất thích nghe Cô kể chuyện.

    Cô Giáo Đào kể rằng:

    Câu chuyện cách đây không lâu nơi đền thờ Mẫu Mẹ Âu Cơ có vị Tôn Sư tên là Nhân Duyên, nhiều cặp vợ chồng đến dâng hương cúng Mẹ cũng như nhờ Tôn Sư Nhân Duyên làm lễ thành hôn.

    Tôn Sư Nhân Duyên nhìn mười cặp kết hôn cặp nào cũng xinh đẹp gái thời như hoa mùa xuân, trai thời như các chàng dũng sĩ phi ngựa trên đồng cỏ mênh mông thảo nguyên xanh rì, thật là xứng đôi vừa lứa áo quần lộng lẫy như tiên đồng ngọc nữ ai cũng muốn nhìn.

    Tôn Sư Nhân Duyên làm lễ kết hôn xong rồi nói. Các con đã đến với nhau yêu thương nhau thề non hẹn biển trăm năm hạnh phúc trọn đời. Nhưng thời nay nhiều cặp vợ chồng nửa đường gảy gánh không phải vì kẻ mất người còn mà là ly hôn với nhau, gia đình tan nát, con cái nheo nhóc vô cùng bất hạnh thương đau.

    Ai là kẻ gây ra, xưa nay không mấy ai hiểu rõ nay Thầy chỉ cho các con biết mà đề phòng. Những tên hung thần phá nát hạnh phúc đôi lứa chính là thói hư tật xấu trong tâm hồn các con, nói ra thời rất nhiều khó mà kể cho hết Thầy chỉ nêu ra vài tên hung thần tiêu biểu mà thôi.

    Những cặp vợ chồng ít thói hư tật xấu, hoặc kìm hãm được thói hư tật xấu thường là đi hết đoạn đường đời trăm năm hạnh phúc. Những cặp không rõ những thói hư tật xấu ẩn núp trong tâm hồn mình không làm chủ được Lương Tâm thường hành động theo nó thời sự chia tay không sớm thời muộn mà thôi.

    Có cặp vợ chồng hỏi, thưa Tôn Sư những thói hư tật xấu ấy là gì? Mà ghê gớm vậy phá nát sự yêu thương thề non hẹn biển của chúng con.

    Tôn Sư Nhân Duyên nhìn mười cặp vợ chồng nói các con hãy lắng nghe thầy chỉ rõ những tên hung thần ấy ở trong mỗi tâm linh các con.

    Đã là con người trần tục thời ai ai cũng có tánh Tự Cao Tự Tự Đại, Tự Phụ thường dẫn đến cái Ta quá lớn, trái ý Ta là sanh chuyện, ai nói gì cũng không nghe, chính là hung thần trong tâm hồn các con. Khi các con không làm chủ được những hung thần nầy, thời các con sẽ bị những hung thần nầy làm hại các con dẫn đến tan nát gia đình phá tan hạnh phúc. Đã là Đạo vợ chồng Nghĩa Phu Thê thời tuyệt đối không được Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướng không lắng nghe nhau, thậm chí xem thường nhau. Vợ cũng thế mà chồng cũng thế, dẫn đến không còn nhường nhịn nhau, nhẹ thời bất hòa nặng thời đi đến ly hôn. Tánh Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướng không lắng nghe nhau, thậm chí xem thường nhau chính là những Hung Thần phá nát Đạo Vợ Chồng, Nghĩa Phu Thê. Trong Đạo Vợ Chồng Nghĩa Phu Thê. Những Hung Thần nầy nổi lên cái lợi chẳng được bao nhiêu mà cái hại thời nhiều các con phải đề phòng chúng.

    Chồng Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướn không lắng nghe, thậm chí còn xem thường Vợ. Vợ cũng thế Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ, ương bướn không lắng nghe Chồng, thậm chí xem thường Chồng. Ở đời với nhau làm sao lâu bền cho được thường đụng độ không lỗ đầu thời cũng mẻ tráng, nhẹ thời còn giữ được êm thấm nặng thời dẫn đến ly thân, nặng hơn nữa là li dị tan vỡ hạnh phúc chẳng còn.

    Những tên hung thần thứ hai là tánh không Bằng Lòng lại hay Tự Ái. Những tên hung thần nầy phá nát sự Hòa Hiệp không còn gắn chặt vào nhau. Trong Đạo Nghĩa vợ chồng luôn luôn cởi mở tháo gỡ những khó khăn cho nhau, chén trong sóng còn động huống chi là con người. Sự sống ở đời chuyện hợp với người nầy không hợp với người kia là chuyện bình thường. Tôn trọng sự cá biệt nhau thông cảm cho nhau. Không vì sự Khiếm Khuyết thiếu sót không làm vừa lòng nhau dẫn đến đoạn tiệt lẫn nhau, Khiếm Khuyết về lời ăn tiếng nói cũng là chuyện bình thường vì Nhân vô thập toàn. Khiếm Khuyết về cư xử, ứng xử là chuyện Hiển Nhiên vì còn Phàm Tánh. Khiếm Khuyết về Phẩm Hạnh Đạo Đức là chuyện thường xảy ra nên mới nói tu nữa tu mãi. Trong công ăn việc làm. Thường là dẫn đến không vừa lòng nhau, nói qua nói lại chạm lòng tự ái, chê bai bất cần nhau, nhẹ thời còn giữ được ấm êm nặng thời ly thân dẫn đến li dị đường tơ duyên gãy gánh tan vỡ hạnh phúc gia đình. Phải đề phòng những Hung Thần trong tâm hồn của mình những Tánh Bất Lợi trong Đạo Vợ Chồng mà phải thông cảm cho nhau, sự Khiếm Khuyết ai cũng có, ít với nhiều mà thôi.

    Tánh Không Bằng Lòng, lại hay Tự Ái Chê Bai bất cần nhau là đều cấm kị trong Đạo vợ chồng, lòng Tự Ái luôn trôi dậy cái ta quá lớn thời dù có trói buộc nhau mười lớp xiềng xích cũng bứt đứt mà rời ra. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Chê Bai, Bất Cần Tự Ái chuyện nhỏ sẽ biến thành chuyện to dẫn đến phát nát hạnh phúc lứa đôi. Trăm năm hạnh phúc chẳng thấy đâu mà chỉ thấy tương lai một màu đen thẳm.

    Những tên hung thần nhóm thứ ba là tánh Nghi Ngờ. Ganh Ghét, Đố Kị, tánh Nghi Ngờ càng lớn thời niềm tin vợ chồng càng rạn nứt, Ganh Ghét càng cao thời giết chết tình yêu, Đố Kị bao nhiêu, thời bấy nhiêu đổ vỡ. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Nghi Ngờ, không được Ganh Ghét, không được Đố Kị. Vì sử dụng sự Nghi Ngờ, tánh Ganh Ghét, hay Đố Kị. Mà phải Tin nhau mới đến với nhau còn Nghi Ngờ làm gì nữa. Thương yêu nhau mới đến với nhau Ganh Ghét để làm chi. Nào ai khác Đố Kị làm gì, chồng của mình, vợ của mình trông cho chồng vui, trông cho vợ sướng. Đằng nầy Ganh Ghét, Đố Kị nhau sao ông thế nầy, sao bà thế kia, thời không đi đến chia ly sao được. Tánh Ganh Ghét, Đố Kị Nghi Ngờ nhau đối với người ngoài còn không ổn huống chi là trong Đạo Nghĩa vợ chồng.

    Nhóm hung thần thứ tư, là Thất Tín, Lừa Dối không Thật Lòng. Nói một đường hành động một nẻo, đánh mất dần lòng tin với nhau đào sâu lần hố ngăn cách dẫn đến tan vỡ hạnh phúc. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Thất Tín, không được Lừa Dối mà phải Thật Lòng, Trung Trực đối với nhau. Thất Tín, Lừa Dối không Thật Lòng đối với người ngoài còn không đem lại kết quả tốt huống chi trong Đạo Nghĩa vợ chồng.

    Để giảm bớt về sự đổ vỡ hạnh phúc, vợ chồng cần phải nắm rõ những hung thần ác tánh trong tâm linh của chính mình. Để kìm hãm bớt những hung thần nầy vợ chồng phải đi trên một con đường. Chẳng hạn như con đường anh linh truyền thống Cha Ông, con đường Văn Hóa Cội Nguồn, sẽ được Cha Ông phù hộ, Cha Mẹ Trời che chở. Thời các con mới an vui hạnh phúc trăm năm được.

    Vừa giảng giải vừa quan sát Tôn Sư Nhân Duyên thấy có ba cặp vợ chồng là không lắng nghe. Còn lại không ít nhiều lắng nghe. Tôn Sư nói tương lai hạnh phúc các con tự mình quyết định rồi 70 phần trăm là trăm năm hạnh phúc, còn 30 phần trăm còn chờ phần phước bản thân Ông Cha thời mới vượt qua.

    Cả lớp lắng nghe câu chuyện Tình Yêu và Hạnh Phúc càng làm sáng tỏ thêm cho nội dung bài học, sự nhận thức các em vụt lớn lên trưởng thành về con đường Tình Yêu và Hạnh Phúc.

    Cô Giáo Đào nhìn sắc mặt các em sáng lên một cách kỳ lạ, thời cũng hiểu được phần nào cốt lõi cơ bản nội dung của bài học. Sau nầy đóng góp cho đời những bông hoa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc.
     
  8. shopoga

    Bài viết:
    517
    81. TRẦN GIAN CÕI TẠM, THIÊN ĐÀNG CHÍNH QUÊ

    Thưa các bạn nói đến trần gian cõi tạm, cũng không ít người biết được điều nầy. Họ còn biết khi Linh Hồn đến cõi trần gian không mang gì đến, thời khi mãn kiếp trần gian Linh Hồn cũng chẳng mang gì theo. Dù cho vàng chất đầy kho, tiền chất như núi. Công danh địa vị cũng không còn. Tất cả đều bỏ lại nơi chốn trần gian.

    Họ còn biết chỉ có ác nghiệp, thiện nghiệp là mang theo mình để rồi nhận lấy vui, hay khổ, siêu hay đọa. Lên Thiên Đàng, hay xuống Địa Phủ. Đó là những người có trí huệ cao không còn sa đắm trong dục vọng danh lợi, thường hay làm lành tu nhân tích đức về sau. Mà còn thấy rõ trần gian không chỉ là cõi tạm, mà con là trường thi Tạo Hóa sàng lọc những Linh Hồn, tiến hóa đến chân thiện không còn cái ác trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, siêu sanh về các cõi thiên đàng cực lạc quê hương của con người sống an vui hạnh phúc.

    Còn phần đông tâm trí u tối không rõ được trần gian là nơi cõi tạm, họ ra sức thi nhau tranh Tài đoạt lợi, không mấy ai thi nhau tranh Đức. Vì tranh tài đoạt lợi mới có cảnh chém giết lẫn nhau, không có thủ đoạn độc ác nào mà không làm, tai họa vì thế thi nhau kéo đến, làm cho cuộc sống không yên. Cửa Địa Phủ mở ra cửa Thiên Đàng khép lại, nào phải Ông Trời làm hại chính mình lạm hại cho chính mình. Mãn kiếp trần Linh Hồn liền sa đọa xuống các tầng Địa Phủ.

    Ngày xửa ngày xưa có một thương nhân vô cùng giàu có không thua kém gì Vua Chúa, Vua có tam cung, lục điện. Thời vị thương gia cũng có đến vài chục bà lớn trăm bà nhỏ.

    Một hôm biết mình sắp chết liền cho người kêu hết mấy trăm người con hơn trăm bà vợ lại. Rồi nói rằng đến giờ phút nầy ta mới hiểu trần gian là cõi tạm, Khi Linh Hồn đến cõi trần gian ta không mang gì đến, sắp ra đi ta cũng chẳng mang gì theo, tất cả sự nghiệp công danh, người thân Ta đều bỏ lại, đúng là nơi trần gian tất cả chỉ là giả tạm trong sự vay mượn cả thân xác của ta.

    Những gì vay mượn đều phải trả lâu hay mau chỉ là thời gian mà thôi. Linh Hồn ra đi rồi vay mượn xác thân mới, đi vào kiếp sống mới. Dù ở Thiên Đàng, Trần Gian Âm Cảnh, hay sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ. Để có thân hình mới dù là vay mượn bằng cách nào cũng là vay mượn, vay mượn bằng Thai Sanh, vay mượn bằng Thấp Sanh, vay mượn bằng Hóa Sanh, vay mượn bằng Noãn Sanh. Đã vay mượn thời phải trả dù cho thọ triệu năm hoặc vài triệu năm cũng phải trả. Chỉ có Linh Hồn và sự chân thiện thuộc về Ta mới đi vào vĩnh viễn.

    Gờ ta mới hiểu những thứ quý nhất của Linh Hồn không phải là danh lợi tiền tài, nhà cao cửa rộng, vàng bạc châu báu của cải vật chất. Mà là sự chân thiện của con người. Mỗi đức tánh chân thiện còn quý hơn cả châu báu ngọc ngà kim cương. Cũng may là ta đã tích góp thiện lành, cũng như chửng bị hành trang Văn Hóa Kinh Giáo mang theo cái giàu vĩnh viễn theo Linh Hồn.

    Các Bà, các Con nên nhớ của cải vật chất chỉ là ngoại thân, cho đến cái thân còn phải vay mượn của Tạo Hóa, thời đâu có cái gì là của ta đâu. Nay ta mới hiểu bố thí Pháp mới là bố thí cao nhất, vì thế sự làm lành không gì hơn là truyền kinh giáo Thiên Ý Cha Trời sẽ được phước báo vô tận vô biên.

    Ta sắp ra đi và bỏ lại tất cả, dù cho đó là người thân nhất của ta. Quên hương con người không phải là nơi trần gian cõi tạm. Mà là Thiên Đàng Cực Lạc quê hương. Kìa ánh sáng vàng hồng đã xuất hiện Ta trở lại Thiên Bang, nói xong vị thương gia liền nhắm mắt lìa trần, để lại bao thương tiếc cho người ở lại cũng như sự thức tỉnh cho người đời hiểu Trần Gian cõi tạm Thiên Đàng Chính Quê.
     
  9. shopoga

    Bài viết:
    517
    82. SỰ NGHIỆP ĐẠO ĐỨC

    Nói đến vợ chồng Hai Quận ở làng Tân Tạo, Xã Mỹ Đức thời nhiều người biết đến. Ông Quận là người làm ăn kinh doanh rất giỏi tuổi chưa đầy năm mươi giàu kếch xù trở thành tỉ phú.

    Bỗng một hôm Ông ngồi thở dài, Bà Quận thấy vậy hỏi đang làm ăn phơi phới tiền vô như nước, ngày nào tôi cũng đếm tiền muốn hụt hơi, tuy có mệt nhưng khối người mơ cũng không được. Ông Quận nói giàu như chúng ta bây giờ ngày cơm cũng ba bữa, khi chúng ta còn nghèo ngày đỏ lửa cũng ba lần. Đâu phải giàu thời muốn ăn gì thời ăn nếu không biết kiêng cữ, ăn cho đã miệng thừa chất dinh dưỡng thời lắm bệnh xảy ra.

    Nào là bệnh béo phì, nào là bệnh gút, gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ, tăng huyết áp, bệnh khớp, đái tháo đường. Kinh mạch tắc nghẽn dẫn đến mệt mỏi hoa mắt đau đầu, căn bệnh nhà giàu là như vậy nào có sướng gì, nếu không biết kiêng cữ thường tập thể dục thể thao. Như Tôi và Bà tháng nào cũng phải đi hầu Bác Sĩ.

    Giàu cho lắm cũng nằm một chiếc giường, đi một chiếc xe con, sáng lên máy bay chiều nơi khách sạn, bề bộn giàu có cho lắm cũng chỉ nuôi cái xác càng ngày càng già nầy mà thôi.

    Khi chết đi có mấy ai đem theo dù chỉ là mảy lông sợi tóc. Nào phải lâu xa gì đâu chỉ vài mươi năm nữa là đến, đó là nói tuổi thọ lên hàng chín. Nhưng ở đời hên xui, may rủi họa, phúc, nào ai biết trước. Với lứa tuổi tui với bà cũng chẳng thiếu gì người đã ra đi. Bà Quận nghe xong nói Ông hôm nay làm sao vậy thần kinh Ông đã có vấn đề, đi bệnh viện kiểm tra lại xem. Ông Quận nói với lứa tuổi nầy là lứa tuổi minh mẫn nhất, ôn lại tất cả những gì đã qua, nghiền ngẫm những gì sắp đến, suốt ngày lo cho sự sống, mà quên đi lo cho sự chết khi mãn kiếp trần Linh Hồn sẽ về đâu.

    Ở đời ít ai nghĩ rằng ngoài con đường làm ăn theo sự nghiệp vật chất, còn có một con đường khác hơn hẳn con đường sự nghiệp vật chất, đó là sự nghiệp Đạo Đức. Sự Nghiệp Đạo Đức còn hơn cả sự nghiệp Vua, Chúa, nói gì sự đến sự nghiệp giàu có như chúng ta, chỉ là hạt cát trong sự nghiệp Đạo Đức mà thôi.

    Chúng ta có thể thấy rằng, Phật, Chúa, đâu cần kinh doanh vật chất, chỉ truyền Đạo Đức thế mà sự nghiệp của Phật, Chúa to lớn biết dường nào, tồn tại hàng nghìn năm, giàu có vô kể uy lực vô biên. Phật, Chúa tạo ra những món ăn tinh thần khai sáng trí tuệ đưa con người đến tột đỉnh vinh hoa, thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Với câu nói để đời còn quý hơn cả kim cương, ngọc ngà châu báu. Ta là Phật đã thành các ông là Phật sẽ thành, tạo niềm tin cho những ai muốn vượt qua cảnh phàm trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Sự giàu có của chúng ta cũng chỉ là tiền, là của cải vật chất. Tiền chỉ là phương tiện trong cuộc sống nó có thể thay đổi vứt đi bất cứ lúc nào, khi thế thời biến đổi, bằng chứng bao triều đại trôi qua thời mỗi loại đồng tiền đồng bạc có khác.

    Của cải vật chất sắm đằng trước lỗi thời đằng sau, cứ mãi chạy đua không biết bao giờ đến đích. Trước đây tôi sắm cái gì cũng thuộc hàng xịn, nhưng giờ thời sao lỗi thời mất giá không theo kịp thời thế, công sức con người đổ xuống trở thành trở thành những phế liệu đi vào tái chế. Sự thật mà nói bởi trào lưu vận động không ngừng, cuộc sống không có điểm dừng chạy theo thời cuộc, xu thế trước bị xu thế sau đào thải, luân chuyển mãi nếu không thức tỉnh thời bị nó cuốn theo luôn, đến khi nhắm mắt xuôi tay dù có ăn năng cũng không còn kịp nữa. Bỏ lại tất cả Linh Hồn ra đi một mình, tối tăm mịt mù không biết là lên Thiên Đàng hay xuống các Tần Địa Phủ.

    Thời gian cho một đời người là có hạng. Mới đó đầu đã bạc nhìn lại tất cả chỉ là ảo mộng, cứ mãi lo kinh doanh làm giàu không đem lại sự giải thoát cho Linh Hồn. Sự ngu si là ở chỗ nầy biết trước sự sống con người là có hạng cái chết phải đến trả lại xác trần thời Linh Hồn sẽ đi về đâu. Mang theo những gì?

    Chỉ có người đại trí tuệ mới nhận thức được điều nầy họ sẵn sàng bỏ sự nghiệp vật chất chuyển sang sự nghiệp Đạo Đức. Sự nghiệp Đạo Đức khác xa với sự nghiệp vật chất sự nghiệp Đạo Đức là sự nghiệp truyền bá Văn Hóa chánh giác chánh đẳng đưa con người đến cảnh an vui tự tại, ra khỏi dục lạc thấp hèn, không còn sa đọa trong sanh tử, luân hồi, mà trở thành làm chủ sanh tử hiểu rõ Linh Hồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trở lại thiên đàng cực lạc sống trên quê hương châu báu muốn gì được nấy an vui tự tại.

    Những người căn cơ thấp, trí huệ kém thời chỉ biết vật chất tiền tài danh lợi, vì thế sự nghiệp Đạo Đức không bao giờ những người trí huệ thấp kém với tới, đôi khi phản bác lại nữa là khác.

    Lịch sử tiến hóa nhân loại con người đã đúc kết cho ta thấy, những người xây dựng sự nghiệp Đạo Đức thời họ trở thành những bậc Tôn Sư, những bậc thầy đỉnh cao. Nhân loại luôn mãi tôn thờ Họ. Thậm chí những người xây dựng sự nghiệp Đạo Đức trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ. Làm vua làm chúa các tầng trời. Quê hương của họ chính là thiên đàng cực lạc.

    Những người xây dựng sự nghiệp vật chất họ trở thành con người nhiều tiền nhiều bạc nhiều vàng nổi tiếng giàu có, nhưng không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa được, quê hương của họ tỳ theo nghiệp ác, thiện mà luân hồi có người phải sa đọa xuống các tần Địa Phủ vì làm bao việc ác. Cái giàu nơi chốn trần gian chỉ là cái giàu giả tạm, khi mãn kiếp trần Linh Hồn cũng trắng tay vì chẳng mang theo được gì, không hơn gì người nghèo khổ. Giàu có ăn sung mặc sướng nuôi thể xác cho lắm kết cuộc cũng là nấm mồ ngoài gò hoang. Ngu si dại dột anh hùng, giàu sang nghèo khổ cũng chung một gò, kết quả cuối cùng của thân xác là như vậy.

    Còn Linh Hồn ác thời sa đọa xuống các tầng Địa Phủ chịu sự đọa đày khốn khổ vô biên, thiện thời siêu lên các tầng trời hưởng phước an vui tự tại.

    Nếu đem so sánh, người theo sự nghiệp Đạo Đức, người theo sự nghiệp vật chất kết quả là hai cảnh giới khác nhau xa. Người theo sự nghiệp Đạo Đức tâm hồn thanh cao thoát tục, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không những siêu sanh trở lại thiên đàng cực lạc, mà con cái cháu chắt nhiều đời nhờ hồng phúc thiện lành của Cha Mẹ phát quan phát tướng, sang giàu, bao may mắn thường đem đến. Ở đời người ta thường nói có đức không sức mà hưởng, dầu rằng để của bằng non không bằng để đức cho con ở đời.

    Còn những người theo sự nghiệp vật chất, làm giàu chân chính thời không sao, làm giàu bất chính thời khó mà tồn tại, như bọt nước thấy đó nhưng cũng dễ biến tan, ở đời người ta thường nói, đời Cha ăn mặn đời con khát nước, con cái cháu chắt thường nhận lãnh nhiều tai họa bao xui rủi thường kéo đến.

    Ông Bà Cha Mẹ nhiều đời cũng chẳng lấy gì hưởng được chút phúc lành từ con cái, nên chẳng đặng siêu sanh.

    Ông Quận nhìn bà Quận rồi nói. Tôi có quen hai người bạn một người tên Được, một người tên Thất, chứng minh cho sự thành công thất bại của họ.

    Ông Được vốn sanh ra trong một gia đình Ông Cha là nhà kinh doanh vật chất làm ăn rất giỏi giàu kếch xù thuộc hàng tỉ phú. Ông Được thừa kế gia tài Ông Cha để lại phải nói là rất giàu, đáng lý ra Ông theo sự nghiệp của Ông Cha, đằng nầy Ông chuyển sang một hướng khác. Ông Được chuyển sự giàu có của mình sang sự nghiệp Đạo Đức. Theo những người đã thành công trên con đường sự nghiệp Đạo Đức, như Khổng, Lão, Phật, Chúa.

    Sự chuyển đổi hướng đi của Ông Được chẳng thiếu gì người cho rằng thằng điên. Cũng khối người thấy tiếc cho Ông Được vì Ông Được là người có học thức cao đã từng thay Cha làm Tổng Giám Đốc. Tiền vô như nước khối người mơ ước mà không bao giờ được, đáng lý ra Ông Được mở rộng công ty như Cha Ông càng giàu hơn nữa.

    Đằng nầy Ông Được không làm thế mà chuyển sang con đường sự nghiệp Đạo Đức Tôn Thờ Quốc Tổ, tôn thờ Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ. Tận độ nhân loại con người.

    Cùng thời ấy nói về Thất gia thế cũng không thua gì Được phải nói là giàu sang thuộc nhất nhì thành phố. Thất kế thừa sự nghiệp của Ông Cha mở rộng kinh doanh làm đâu được đó tiền vô nước. Nhiều người cho rằng Thất mới là người khôn, còn Được thời khờ dại. Riêng tôi thời không nghĩ như thế, thời gian sẽ trả lời ai khôn hơn ai, ai là người thành công, ai là kẻ thất bại.

    Ở đời người ta thường nói mưu sự tại nhơn thành sự tại thiên, có nghĩa là tất cả đều phải theo định luật của Tạo Hóa. Còn phước thời còn hưởng bao nhiêu sự may mắn đem đến làm đâu được đó, hết phước thời phải chịu bao sự rủi ro tai bay họa gởi.

    Sự làm ăn kinh doanh của cải vật chất phần lớn đều phụ thuộc vào thể chế đương thời. Nhưng sự ở đời theo Định Luật Tuần Hoàn hết đông rồi lại tới xuân, thế cuộc thay đổi sự làm ăn coi như đi vào đảo lộn. Trong khi phước đức đã cạn, sự rủi ro là rất lớn. Thất đi đến phá sản nợ nần ngân hàng chồng chất trả không nổi. Chỉ còn bán sạch cơ nghiệp may ra trả mới nổi. Còn tiền còn bạc còn đệ tử, thời dù ở nơi thâm sơn cùng cốc họ cũng tìm đến ca tụng lên tận mây. Hết tiền hết ông tôi. Khi sạt nghiệp chẳng còn gì dù đứng ngay ngõ chợ cũng không ai nhìn thấy. Thế sự là thế tất cả đều là sự giả dối không mấy ai thật lòng với nhau, tất cả cũng chỉ vì tiền.

    Còn Được đi theo con đường sự nghiệp Đạo Đức, trở thành Tôn Sư làm chủ một ngôi đền thờ lớn, phải nói là nhất nhì trong nước. Được đi đến đâu dân chúng cũng đều yêu mến đến đó, thậm chí nhiều lúc không có một đồng trong túi Được cũng đi khắp đó đây dân chúng thi nhau mà cung phụng cúng dường tài trợ. Cái giàu sự nghiệp là cái giàu cùng khắp thiên hạ. Cái giàu khắp thiên hạ mới thật sự là giàu cái giàu đi vào vĩnh viễn.

    Còn Thất thì sao phải có tiền thời mới đi đây đi đó được không mấy người biết đến.

    Nếu đem so sánh, đến hồi kết cuộc dù cho Thất không sạt nghiệp giàu có, thời cũng không bằng Được. Khi mãn trần Được lên Thiên Đàng Cực Lạc. Còn Thất thời sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Được trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, còn Thất thời làm Ma làm Quỷ. Con cái cháu chắt của Được nhờ hồng Đức của Được giàu sang phú quý. Con cái cháu chắt của Thất vì hết phước làm đâu trật đó xui rủi khắp cùng làm mười mà chẳng đặng một trở thành khốn khó đâu như con cháu của Được may mắn khắp nơi nhờ hồng phúc Cha Ông để lại.

    Ông Quận nhìn Bà Quận rồi nói sự nghiệp Đạo Đức không phải ai cũng nhìn ra. Chỉ người có thiện duyên với Cội Nguồn mới thấy rõ con đường Đạo Đức hơn hẳn con đường vật chất. Có thể nói gấp hàng vạn lần

    Bà Quận nghe xong liền giác ngộ tôi ủng hộ khi Ông chuyển sang con đường sự nghiệp Đạo Đức.

    Thế là Ông Quận chuyển sang con đường Đạo Đức, không bao lâu thời Ông Bà hiển Thánh. Ông Quận trở thành Vua Trời. Bà Quận trở thành Thánh Mẫu cai quản một cung trời rộng lớn an vui tự tại. Con Ông Bà Quận đứa nào cũng giàu sang phú quý. Cháu chắt đứa nào cũng thông minh làm quan hết thảy.
     
  10. shopoga

    Bài viết:
    517
    83. SỰ TÍCH TRẦU CAU

    Ngày xưa ở xã Thọ Sơn

    Ý Trời đã định nên câu tục truyền

    Mở màn câu chuyện Cau Trầu

    Nên duyên chồng vợ mặn nồng trăm năm

    Đó là câu chuyện Họ Cao

    Đi vào huyền sử biết bao đẹp lành

    Thủy chung, chung thủy một lòng

    Anh em trọn đạo nghĩa tình chung đôi

    Trầu, Cau, cùng với Đá Vôi

    Thuần phong mỹ tục đẹp đôi châu trần

    Gương soi để lại cho đời

    Bài học vô giá sáng ngời muôn thu

    Ngày xửa ngày xưa ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ nhất Hùng Vân Lang, ở Châu Huyện Phú Vang, Xã Thọ Sơn. Có hai anh em họ Cao sanh đôi cùng họ với các Vua Hùng. Một người tên Tân, một người tên Lang, không may cha mẹ chết sớm hai anh em tựa vào nhau mà sống, cũng vì cùng mang họ Trời cùng họ Vua Hùng, Vua Hùng cho người mời về ban cho vàng bạc giúp đở, hai anh em họ Cao từ đấy không còn khốn khổ cực nhọc chăm lo học hành.

    Ở lối xóm dân làng thường nhầm lẫn không biết người nào là anh người nào là em vì giống nhau như hai giọt nước, điều làm cho dân làng kính mến là hai anh em họ Cao thương yêu nhau hết mực chia bùi sẻ ngọt làm gì cũng có nhau.

    Cha Tân và Lang trước khi chết có gởi gắm cho một người bạn thân Đạo Sĩ họ Lưu.

    Đạo sĩ Họ Lưu nhớ lời người bạn gởi gắm bằng tìm đến nhà hai anh em họ Cao, nhưng chỉ chấp nhận một Tân làm đệ tử, nhưng anh em Tân và Lang không muốn chia lìa nhau, nhưng lời dặn của Cha là phải theo thầy học Đạo. Nhưng Đạo Sĩ họ Lưu chỉ thu nhận có một người. Tân đành phải chia tay với em, nhưng Lang quyết không rời xa anh đòi đi theo cho bằng được. Đạo Sĩ họ Lưu thấy tình nghĩa anh em họ Cao như vậy không biết làm sao đành phải nhận luôn hai người.

    Đạo Sĩ họ Lưu có một cô con gái khá xinh đẹp, nói về Đức Hạnh thời ít ai bằng, cùng lứa tuổi với hai anh em họ Cao.

    Tân học đâu nhớ đó rất thông minh. Lang không thể nào bì kịp. Đạo Sĩ họ Lưu nhờ tu luyện nên con mắt khác thường nhìn thời biết người nào anh người nào em.

    Con gái Đạo Sĩ tên Duyên không có con mắt tu luyện như Cha nên thường nhầm lẫn Tân và Lang điều nầy làm cho cô hết sức bực mình, cô thường phàn nàn giống chi mà giống như in, khó mà biết được người nào anh người nào em. Đôi lúc cô ngâm thơ.

    Muốn chọn một người kết trăm năm

    Phân biệt khác nhau, thật khó khăn

    Trời sanh xuống thế, hai giọt nước

    Biết chọn người nào, mãi băn khoăn

    Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm Duyên bày ra một mẹo nhỏ mời hai anh em dùng bữa. Nhưng cô chỉ dọn một bát cháo với một đôi đũa, đứng sau khe vách Duyên nghe người tên Tân nói em ăn đi anh không đói, người tên Lang nói anh ăn đi lấy sức để học cũng gần đến ngày thi rồi đấy, hai anh em nhường qua nhường lại không ai chịu ăn bát cháo. Lúc nầy cô đã biết Tân là anh Lang là em. Cô thấy hai anh em không ai chịu ăn bằng bưng thêm một bát nữa. Từ đó cô thường gọi tên để tránh đi sự nhầm lẫn.

    Ở đời sống gần nhau lâu ngày sanh tình cảm và Cô đã chọn Tân làm đối tượng để gần gũi Tân vốn rất thông minh và có tài làm thơ Tân cũng đã có cảm tình với Duyên.

    Trời đã khuya nhưng Tân vẫn chăm chú học khi nhìn ra cửa sổ khung cảnh thật là yên tỉnh ánh trăng vằng vặc sáng linh linh Tân liền ngâm bài thơ.

    Trăng tròn trăng sáng lung linh

    Người tròn người cũng đẹp xinh lạ lùng

    Trăng tròn hạ thấp xuống trần

    Người tròn người cũng âm thầm nhả tơ

    Làm cho người mãi ước mơ

    Ngày đêm trông đợi bên kia con thuyền

    Trăng tròn mười sáu trăng thề

    Trăng soi đỉnh núi trăng đùa gió mây

    Nhìn trăng lòng đã đắm say

    Mơ con chim mộng về bay đầu giường

    Khi đó Duyên chưa ngủ nghe Tân làm thơ hay quá, lời thơ có ý tỏ tình với mình, liền làm thơ đáp trả

    Gió đưa mây, thời mây theo gió

    Trăng đã tròn trăng sáng chờ duyên

    Chờ người thi sĩ ngắm trăng

    Cho mai với trúc chung nhau đường đời

    Cần chi kẻ đợi người chờ

    Thương nhau thời đến ngại gì mà lo

    Lời thơ qua lại càng ngày càng khắn khít, đúng là đôi trai tài gái sắc hai người như nam châm luôn hút lấy nhau.

    Đạo sĩ họ Lưu thấy mình tuổi cũng đã lớn, lại thấy Tân thông minh khác thường con đường tương lai rộng mở nên an lòng gả Duyên cho Tân.

    Tân và Duyên nên nghĩa vợ chồng hai người thường quấn quít bên nhau không bao lâu Đạo Sĩ làm nhà cho vợ chồng Tân ở cách đó không xa chỉ độ vài trăm mét, còn Lang thời ở với thầy.

    Nói về Đạo Sĩ họ Lưu thấy vợ chồng Tân thường quấn quít bên nhau thương yêu nhau hết mực thời cảm thấy hài lòng, nghĩ mình tuổi cũng đã xế chiều muốn đi đó đi đây luận bàn học đạo mở rộng kiến thức, bằng kêu hai vợ chồng Tân đến dạy bảo rằng hai con ở nhà chăm lo cho nhau Cha muốn đi vân du một chuyến có thể nói vài tháng đến vài năm Đạo Sĩ họ Lưu dặn dò xong thời lên đường vân du.

    Nói về Tân từ ngày lấy vợ Tân tuy thương em nhưng không chăm sóc như trước nữa. Lang không biết vì sao trong lòng nổi lên bao nỗi buồn đôi lúc đầy chán nản.

    Nói về Lang thấy thầy đi vân du không biết chừng nào trở về bằng qua nhà Tân chung sống với anh.

    Một hôm Tân và Lang lên kinh đô xem rõ ngày ứng thí đến tối mịt mới về. Lang về trước còn Tân bận chút việc mới về sau. Lang vừa về tới nhà thời Duyên vợ Tân từ trong nhà chạy ra ôm chầm lấy Lang nói anh thay đồ đi cho em giặt. Thấy chị dâu nhầm lẫn bằng xô chị dâu ra nói chị nhầm rồi em là Lang không phải anh Tân. Đến lúc nầy Duyên vợ Tân mới phát hiện là không phải chồng mình cả hai người ngượng nghịu vô cùng xấu hổ.

    Xui rủi làm sao lúc ấy thời Tân cũng đã về chứng kiến từ đầu đến cuối.

    Từ đó Tân không còn chăm sóc đến Lang nữa và cố ý tránh né không muốn gặp mặt Lang. Lang biết anh mình buồn vì chuyện hôm rồi, để cho chị dâu phải lầm. Lang không muốn chuyện ấy xảy ra như thế nữa bằng bỏ nhà ra đi, để lại những dòng thơ.

    Thương anh thương biết là bao

    Nhưng vì giống quá chị dâu nhận lầm

    Làm cho anh phải u buồn

    Lòng em đau đớn vô cùng đớn đau

    Thôi thì em phải ra đi

    Để cho anh chị an vui cuộc đời

    Chim trời các nước chim trời

    Tìm Cha tìm Mẹ cõi bờ bên kia

    Lang đi mãi đi mãi mấy ngày đường thời tới một con sông lớn nước chảy xiết không thể lội qua, xung quanh không có nhà dân, chỉ nghe tiếng sóng vỗ lao xao không ngừng. Lang ngồi cúi gục trên bờ tủi buồn số phận con người cô đơn. Lang ôm mặt khóc, khóc mãi, khóc mãi đến nỗi dân làng từ xa vẫn nghe. Sáng hôm sau Lang chỉ là một cái xác không hồn lần lần hóa đá.

    Nói về Tân thấy Lang vắng bóng mấy ngày nay trong lòng cảm thấy bất an bằng vào phòng Lang nhìn thấy phong thơ để trên giường. Đọc xong bài thơ Tân nghĩ phận làm anh mà không lo cho em được để bao chuyện đáng tiếc xảy ra. Nỗi lòng ray rứt cuối cùng Tân nói với vợ em ở nhà tự lo cho bản thân, anh phải đi tìm Lang.

    Thế là Tân rời khỏi nhà, để vợ ở lại một mình lên đường đi tìm Lang. Đi được mấy ngày thời đến một con sông lớn nước chảy xiết không có cách gì qua được. Tân bằng đi dọc theo bờ sông mục đích gặp người nào thời hỏi thăm có thấy người nào giống mình đi qua đây không. Tân mệt lã hai chân đã mỏi đến bên hòn đá ngồi đấy chờ có thuyền qua sông.

    Trong lúc đang ngồi chờ thời gặp một người dân đi qua Tân hỏi thăm có người nào giống mình đi qua sông không?

    Người dân trả lời cách đây mấy hôm có một người đến đây không biết có chuyện gì ngồi khóc, khóc mãi khóc mãi hóa thành tảng đá, tảng đá cạnh ông đang ngồi đấy. Tân nghe xong ôm mặt khóc ròng thì ra tản đá chính là em của mình.

    Tân ôm tảng đá khóc mãi khóc mãi người nông dân bỏ đi không muốn nhìn cảnh ấy, Tân khóc mãi cho đến lúc tắt thở chết lúc nào mà Tân cũng không biết, chỉ còn con sóng nhấp nhô tiếng nước chảy cuồn cuộn dưới lòng sông.

    Tân chết hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời bên cạnh tản đá.

    Nói về vợ Tân ở nhà chờ mãi ngày qua tháng lại không thấy chồng về, nhớ chồng lại sống cô đơn. Vợ Tân quyết đi tìm chồng nên cũng bỏ nhà ra đi. Theo người ta chỉ Duyên đi mãi đi mãi cho đến một hôm trước mặt Duyên là con sông rộng lớn, Duyên vợ của Tân cũng mệt lã người. Duyên nhìn thấy một cây mọc thẳng lên trời bên cạnh tảng đá, cơ may gặp người dân đi tới Duyên mừng quá hỏi thăm có thấy người nào đi tìm em không? Người dân nói không biết vì sao cách đây không lâu có một người trai trẻ ôm tảng đá ngồi khóc khóc mãi rồi hóa thành cây mọc thẳng lên trời chính là cây kia nói xong người ấy bỏ đi.

    Duyên nghe xong thời bật khóc chạy tới ôm cây không nhánh chỉ có lá như đuôi phụng mọc thẳng lên trời như tìm Cha tìm Mẹ họ của chàng là họ Cao họ của Trời, chàng đã dẫn em đi tìm Cha Trời Mẹ Trời. Duyên ôm cây có lá như đuôi phụng mọc thẳng lên trời khóc khô cả nước mắt, khóc cho đến kiệt sức rồi chết hóa thành loại cây dây bám vào ôm chặt lấy thân cây như không muốn tách rời.

    Dân Làng ngậm ngùi bằng lập miếu để thờ giọi là Miếu Thảm Sầu tiếng đồn từ đó lan xa. Ai cũng muốn đến thắp nén hương. Miếu Thảm Sầu rất linh tiếng đồn xa hơn nữa.

    Nói về Đạo Sĩ họ Lưu một thời gian vân du luận bàn học đạo trở về nhà vô cùng kinh ngạc vì không còn ai nhà cửa vắng tanh tụi nó đi đâu kìa. Đạo Sĩ bằng tìm tòi trong nhà chợt nhìn thấy bài thơ Lang ra đi để lại cho anh, bằng hình dung hiểu ra tất cả thì ra là thế chúng nó đã bỏ nhà ra đi. Đạo Sĩ nhờ mọi người tìm kiếm nhưng không thấy, chỉ nghe thấy tiếng đồn về Miếu Thảm Sầu bằng thưa lại với Đạo Sĩ.

    Đạo Sĩ họ Lưu bằng lên đường tìm đến Miếu Thảm Sầu thấy một Tảng Đá, cạnh Tảng Đá có một cây không nhánh, lá như đuôi phụng mọc thẳng đứng lên trời Đạo Sĩ biết đó là con rể của mình. Ông nhìn cây dây bám chặt vào thân cây như muốn không rời nhau Đạo Sĩ không cầm được giọt nước mắt đúng là cặp đôi Chung Tình. Đạo Sĩ bằng kể lại tất cả cho người dân nghe về câu chuyện hai anh em họ Cao cùng con gái của ông. Dân làng nghe xong vô cùng cảm động bằng đổi tên Miếu Thảm Sầu thành Miếu Chung Tình ở gần ven sông.

    Một năm sau trời hạng rất dữ, sông, suối, cạn kiệt cây cỏ đều cháy khô duy cây và dây quấn quít ôm chặt bám lấy nhau bên cạnh tản đá vẫn xanh mượt tình yêu thủy chung chiến thắng sự khắc nghiệt, dù cho hoàn cảnh nào. Mọi người đến dâng hương cho đây là điềm lạ.

    Một hôm Hùng Vân Lang ngự giá đi ngang qua xứ đó nhìn thấy dân chúng khá đông vái lạy một cây không nhánh mọc thẳng lên trời xanh tốt thời lấy làm lạ trong khi trời nắng hạn chang chang cây cỏ bị cháy khô bằng nói với quan tướng đưa Trẩm đến đó xem. Đến nơi Vua nhìn thấy một ngôi Miếu hỏi dân thời được biết đây là Miếu Chung Tình. Vua nghe xong lấy làm kinh ngạc.

    Lạc tướng bằng kêu một người dân đến hỏi dân kể cho Lạc Tướng cùng Vua Hùng nghe. Nghe xong Vua Hùng lấy làm cảm động. Vua Hùng liền bước đến Tảng Đá, nhìn cây mọc thẳng lên trời, vạch lá nhìn xem dây lạ khắp mọi chỗ đúng là dây lạ cây lạ nói với quan Lạc Tướng rằng Trẫm chưa nhìn thấy bao giờ. Khanh cho người trèo lên hái quả Vua cho bổ ra và ném thử thấy vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thời liền biến ra một vị là lạ ở đầu lưỡi vừa ngon vừa ngọt vừa thơm cay.

    Vua lại lấy cả ba thứ nhai với nhau thật bất ngờ cảm thấy trong người nóng bừng lên, như có hơi men, môi đỏ tươi như máu, mọi người thấy thế đều kinh ngạc. Vua bảo đúng là họ rồi, anh em nhà họ Cao cùng với Trẫm có sự liên quan mật thiết. Với câu chuyện Thắm Tình anh em, trọn nghĩa vợ chồng, thật đáng để cho đời suy tôn học hỏi.

    Từ đó Vua Hùng ra lệnh trồng ra cho nhiều trước là chữa được nhiều thứ bệnh, sau là nêu gương cho hậu thế, anh em thương yêu như thể tay chân. Cũng như nói lên tình yêu chung thủy. Từ đó Bách Việt Văn Lang đi vào cúng kiến nghi lễ phải có Trầu, Cau, Vôi. Nhất là tục lệ kết duyên cưới hỏi. Phải có đủ ba món Trầu, Cau, và Vôi. Nói lên tình yêu thủy chung gắn bó sống chết có nhau. Về sau có người trong lễ cưới hỏi chỉ dùng có Trầu, Cau không có Vôi. Vì người ta cho rằng bạc như Vôi. Làm cho mối tình Tân và Duyên đầy cảm động và cũng đầy nước mắt. Câu chuyện sự tích Trầu, Cau, đến đây là hết.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...