Tác phẩm: Cái chết của một viên chức Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn Vào một buổi tối đẹp trời, Ivan Dmitritch Tchervviakov, một viên chức tư pháp cũng đẹp người không kém, ngồi ở hàng ghế bành thứ hai, nhìn lên sân khấu qua ống nhòm xem vở "Chuông Corneville" (1). Anh cảm thấy trong lòng khoan khoái vô cùng. Bỗng dưng.. Trong các truyện thường hay thấy "bỗng dưng". Các tác giả đều có lý, cuộc đời luôn đầy rẫy những chuyện bất ngờ. Bỗng dưng, mặt anh nhăn nhó, mắt hoa lên, hơi thở nghẹn lại. Anh bỏ ống nhòm qua, khom người xuống và.. hách xì! Anh đã hắt hơi, như các bạn thấy đấy. Không ai bị cấm hắt hơi, dù ở đâu cũng vậy. Người nông dân hắt hơi, cảnh sát trưởng hắt hơi, và có khi, các viên chức cũng hắt hơi. Mọi người đều hắt hơi cả thôi. Tcherviakov chẳng tỏ ra ngượng ngùng gì, lấy khăn tay ra lau, và làm người lịch sự, anh nhìn quanh xem thử mình hắt hơi như thế có làm phiền ai không. Ngay lúc đó anh cảm thấy bối rối. Anh nhìn thấy một người có tuổi, ngồi ở hàng ghế đầu tiên trước anh, vừa càu nhàu vừa lấy găng tay cẩn thận lau cổ và cái đầu hói. Vị có tuổi này, Tcherviakov nhận ra là Brizjalov, quan chức cao cấp ở Tổng cục đường sắt, hàng ngũ cấp tướng. "Mình đã làm bắn nước bọt vào ông ấy rồi", Tcherviakov tự nhủ. "Không phải thủ trưởng của mình, ông ấy ở đơn vị khác nhưng dù sao cũng rầy rà lắm. Phải xin lỗi mới được." Tcherviakov đằng hắng, hơi cúi người ra trước và thì thào vào tai vị tướng: - Thưa Ngài, ngài thứ lỗi cho, tôi trót làm bắn nước bọt vào ngài, tôi không cố ý. - Không hề gì, không hề gì! - Xin ngài tha lỗi cho! Tôi.. tôi không muốn thế đâu ạ! - Thôi được rồi! Yên cho tôi nghe chứ! Tcherviakov bối rối, mỉm cười ngây ngô và ngồi xem tiếp. Anh vẫn xem nhưng không còn cảm thấy khoan khoái, lòng cứ thấy lo âu. Đến giờ giải lao, anh mon men tới gần chỗ Brizjalov, loanh quanh một lúc rồi đánh bạo lắp bắp nói: - Thưa ngài, tôi lỡ hắt hơi vào ngài. Xin ngài tha lỗi cho.. Chẳng phải là.. - Ôi! Đủ rồi! Tôi đã quên chuyện đó mà anh cứ lãi nhãi nhắc lại mãi, viên tướng bực dọc nói, môi dưới trề ra. Ông nói đã quên, mà trong mắt ông lộ rõ vẻ cáu kỉnh, Tcherviakov nghĩ, và nhìn viên tướng tỏ vẻ nghi ngại. Ông cũng chẳng muốn nói chuyện. Cần phải giải thích cho ông ấy hiểu là mình chẳng cố ý, chỉ là quy luật tự nhiên thôi, không thì ông ấy nghĩ là mình muốn nhổ nước bọt vào ông ấy.. Nếu bây giờ ông ấy không nghĩ thế, thì sau này ông có thể nghĩ.. Về đến nhà, Tcherviakov kể cho vợ nghe chuyện bất nhã vô tình của mình. Ông thấy vợ chẳng quan tâm lắm chuyện đó. Bà hơi lo ngại nhưng khi biết viên tướng ở cơ quan khác thì yên tâm trở lại. - Dù sao ông cũng nên đến xin lỗi ông ấy, bà bảo ông. Không thì ông ấy nghĩ là ông không biết cư xử đúng mực nơi công cộng. - Chính là thế.. Tôi đã xin lỗi nhưng thái độ ông ấy lạ lắm. Ông không nói một lời nào phải lẽ. Mà cũng đâu có thời gian để nói chuyện, Ngày hôm sau, Tcherviakov mặc bộ lễ phục mới, hớt tóc tử tế rồi đi đến chỗ Brizjalov để thanh minh. Bước vào phòng khách, anh thấy có nhiều người ở đó và, ngồi giữa những người xin gặp, viên tướng bắt đầu nghe những lời thỉnh cầu. Sau khi hỏi vài người, Brizjalov đưa mắt nhìn Tcherviakov. - "Ngày hôm qua, tại rạp Arcadie, nếu ngài còn nhớ", anh viên chức bắt đầu lên tiếng, kiểu như đang đọc báo cáo, "tôi đã vô ý hắt hơi vào ngài. Xin ngài tha.." - Thật vớ vẩn.. Thiệt tình, viên tướng nói.. Anh muốn gì nào? Ông hỏi sang người khác. Ông chẳng muốn nói với mình! Tcherviakov tự nhủ, mặt tái xanh. Như vậy là ông đang giận. Không, không thể để xảy ra như thế! Mình phải giải thích rõ! Khi viên tướng xong việc với người cuối cùng và định quay vào bên trong, Tcherviakov tiến bước về phía ông và lắp bắp nói: - Thưa ngài, sở dĩ tôi xin quấy rầy ngài, chính xác chỉ vì tôi hối hận lắm ạ. Tôi chẳng cố ý làm như thế đâu ạ. Chắc ngài cũng đã rõ. Viên tướng cau mặt, khoát tay. - Này anh kia, anh muốn giễu cợt tôi đấy hả? Viên tướng nói, và đi khuất vào sau cánh cửa. - Sao lại có chuyện giễu cợt ở đây? Tcherviakov nghĩ. Không có đùa cợt gì cả. Ông là tướng và không chịu hiểu. Đã thế thì mình không đến gặp người cao ngạo này để xin lỗi nữa. Quỷ tha ma bắt ông ấy! Mình sẽ viết thư, nhưng sẽ không đến. Chắc chắn vậy, mình sẽ không đến gặp! Tcherviakov nghĩ như vậy trên đường đi về nhà, nhưng rồi anh không viết thư cho ông tướng. Anh nghĩ mãi, nghĩ hoài mà vẫn không biết phải viết cái gì, thế là sáng hôm sau anh vẫn phải đến đích thân xin lỗi. - Hôm qua tôi đã đến làm phiền ngài, anh ấp úng nói khi ông tướng nhìn anh dò hỏi, không phải để giễu cợt, như ngài nói. Tôi xin lỗi vì đã hắt hơi làm bắn nước bọt vào ngài. Tôi không nghĩ đến chuyện giễu cợt. Sao tôi dám làm thế được? Nếu cười cợt là tỏ ra thiếu tôn trọng với những bậc bề trên! - Cút đi! Viên tướng bỗng quát to, mặt tái xanh, người run lên. - Làm sao ạ, thưa ngài? Tcherviakov thì thào, khiếp sợ. - Cút xéo đi! Viên tướng giậm chân lặp lại. Trong bụng của Tcherviakov như có cái gì vừa bung ra. Không thấy gì, không nghe gì, anh thụt lùi ra phía cửa và chậm rãi lê gót về nhà. Về đến nhà, chẳng buồn cởi bộ lễ phục, người viên chức nằm ngả mình trên ghế dài.. và tắt thở.
Tác phẩm: Một chuyện đùa nho nhỏ Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn Một buổi trưa mùa đông trong sáng.. Trời giá lạnh, rét cóng. Nađia khoác tay tôi. Những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xóa bám lên mấy món tóc xoắn vòng rủ hai bên thái dương nàng, lên hàng lông tơ mịn phía bên trên môi. Nàng và tôi đứng trên một ngọn đồi cao. Từ chỗ chúng tôi đứng, sườn đồi đổ dài thoai thoải xuống lấp loáng dưới ánh nắng, như một tấm gương. Bên cạnh chúng tôi là một chiếc xe trượt tuyết nhỏ bọc một lớp dạ màu đỏ tươi. - Chúng ta cùng trượt xuống dưới đi, Nađia! - tôi van nài nàng. - Một lần thôi! Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ chẳng hề gì đâu. Nhưng Nađia sợ. Cả khoảng không gian từ đôi giày cao su nhỏ nhắn của nàng đến chân quả đồi phủ băng này đối với nàng thật ghê sợ, tưởng như là một vực sâu vô tận. Đứng đây, nàng chỉ mới đưa mắt nhìn xuống dưới, Hay tôi chỉ mới gợi ý bảo nàng ngồi vào xe trượt tuyết là nàng đã sợ hết hồn, không thở được nữa, huống hồ nếu nàng liều mạng lao xuống cái vực sâu kia thì không biết rồi ra sao? Nàng sẽ chết mất, sẽ phát điên mất. - Ta trượt đi cô! - Tôi cố nài. - Việc gì mà sợ! Cô phải biết sợ thế là nhát gan, xoàng lắm cô ạ! Cuối cùng, Nađia cũng ưng thuận, nhưng qua nét mặt nàng, tôi biết rằng nàng liều mạng mà nghe lời tôi. Tôi đỡ nàng ngồi vào xe trượt; nàng run rẩy, gương mặt nàng tái nhợt. Tôi vòng tay qua giữ lấy Nađia và cùng nhau lao xuống. Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí bị xé ra quật vào mặt, gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như muốn giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở. Tưởng chừng như có một con quỷ nào đang giơ tay nắm lấy chúng tôi và vừa rú lên vừa kéo xuống địa ngục. Mọi vật chung quanh nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía sau.. Chỉ một giây lát nữa thôi có lẽ chúng tôi sẽ chết! - Nađia, anh yêu em! - tôi thì thào nói. Chiếc xe trượt dần dần chạy chậm lại, tiếng gió gào và tiếng càng trượt xe rít lúc này đã không còn đáng ghê sợ, ngực đã thấy dễ thở, và thế là chúng tôi đã xuống đến chân đồi. Nađia sợ tưởng chết đi được, gương mặt tái nhợt, nàng thở không ra hơi.. Tôi đỡ nàng đứng dậy. - Các vàng tôi cũng không trượt lần nữa đâu! - nàng nói và đưa cặp mắt mở to đầy sợ hãi, nhìn tôi. - Các vàng tôi cũng chịu! Chỉ thiếu chút nữa là tôi chết! Một lát sau, nàng dần dần hết sợ và đã bắt đầu nhìn vào mắt tôi với vẻ dò xét: Có phải tôi đã nói bốn tiếng ấy, hay chỉ là trong tiếng gió gào rít nàng nghe thấy như vậy? Còn tôi, tôi đứng bên cạnh nàng, lấy thuốc lá ra hút và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình. Nàng khoác tay tôi và chúng tôi cùng nhau dạo chơi hồi lâu bên đồi tuyết. Hình như điều bí ẩn làm nàng thấy trong lòng băn khoăn. Có phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không? Có hay không? Đó là một câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh phúc - một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên đời này. Nađia đăm đăm nhìn tôi bằng cặp mắt buồn rầu nôn nóng bồn chồn. Nàng chậm rãi do dự trả lời những câu hỏi của tôi như chờ mong tôi sẽ tự nói ra cái điều bí ẩn ấy. Ôi, khuôn mặt nàng lúc ấy đáng yêu biết bao, ý nhị biết bao! Tôi thấy rõ nàng đang tự day dứt với mình, nàng cần nói một điều gì, cần hỏi một điều gì, nhưng nàng không tìm được lời, nàng cảm thấy rụt rè kinh sợ, một niềm vui nào đang ngăn trở nàng nói.. - Này anh.. - Nàng nói, mắt không nhìn tôi. - Cái gì vậy? - tôi hỏi. - Chúng ta cùng nhau.. lao dốc lần nữa đi. Chúng tôi lần theo những bậc thang trở lên đồi. Tôi lại đỡ Nađia lên xe, mặt nàng tái nhợt, và toàn thân run run. Chúng tôi lại lao xe về phía vực thẳm khủng khiếp và, gió lại gào, tiếng xe lại rít lên. Và cũng đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất, tôi lại nói: - Nađia, anh yêu em! Khi chiếc xe dừng lại, Nađia vội đưa mắt nhìn quanh quả đồi mà chúng tôi vừa trượt xuống, rồi nhìn đăm đăm vào mặt tôi, lắng nghe giọng nói thờ ơ lãnh đạm của tôi và toàn thân nàng, cả từ cái mũ, cái bao tay và dáng người nàng nữa, đều toát lên một cái gì đấy hồ nghi khó hiểu. Trên gương mặt nàng như hiện lên các câu hỏi: "Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ do ta nghe được?" Điều bí ẩn ấy làm nàng không yên lòng chút nào, nàng không chịu được nữa. Cô bé đáng thương ấy không trả lời nổi những câu hỏi, nét mặt rầu rĩ như muốn khóc. - Chúng ta về nhà thôi nhé? - tôi hỏi. - Không, không.. tôi thích.. trượt xe thế này, - nàng nói, mặt ửng đỏ lên. - Hay là chúng ta cùng nhau trượt lần nữa đi? Nađia nói rằng nàng "thích" cái trò trượt này, thế mà khi ngồi lên xe, nàng vẫn run, gương mặt nàng vẫn tái nhợt, hơi thở vẫn ngắt quãng vì sợ hãi như những lần trước. Lần thứ ba chúng tôi trượt xuống. Tôi thấy nàng đăm đăm nhìn lên mặt tôi, theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy chiếc khăn tay che miệng đi rồi khẽ đằng hắng lên mấy tiếng, và khi xe lao xuống lưng chừng đồi, tôi còn kịp nói: - Nađia, anh yêu em! Điều bí ẩn vẫn là điều bí ẩn! Nađia im lặng, nàng đang nghĩ ngợi điều gì.. Tôi tiễn nàng từ sân trượt về nhà. Nàng cố đi chậm lại, chờ xem tôi có nói với nàng những lời ấy không. Tôi cảm thấy tâm hồn nàng đang đau khổ, nàng đang cố dằn lòng để khỏi phải thốt lên: - Không, gió không thể nói được những lời ấy! Mà tôi cũng không muốn tin rằng gió đã nói những lời ấy! Sáng hôm sau, tôi nhận được một mảnh giấy của nàng: "Nếu hôm nay anh có đi trượt tuyết, đến rủ tôi cùng đi nhé! Nađia". Từ hôm đó, ngày nào tôi và Nađia cũng lên đồi và mỗi lần lao xe từ trên đồi xuống, tôi lại thì thào nhắc lại những lời đó: - Nađia, anh yêu em! Chẳng bao lâu sau, Nađia quen nghe những lời ấy như quen uống rượu, hay dùng moócphin. Nàng không thể sống thiếu những lời đó nữa. Thực ra, lao xe từ trên đồi xuống vẫn đáng sợ như xưa, nhưng giờ đây chính cái nguy hiểm, cái kinh sợ đó lại đem đến một cái gì đặc biệt đắm say cho những lời yêu đương ấy, những lời vẫn là điều bí ẩn và dằn vặt lòng người như trước.. Kẻ bị nghi ngờ vẫn là gió và tôi.. Ai, gió hay là tôi, đã thổ lộ với nàng những lời yêu đương ấy, nàng không biết được; nhưng hình như nàng không để ý đến điều đó nữa bởi vì tục ngữ nói uống rượu từ bình nào, có gì đáng bận tâm đâu, chỉ cốt sao say được thôi. Có lần vào một buổi trưa, tôi đến sân trượt một mình; đi lẫn trong đám đông, tôi bỗng nhìn thấy Nađia đang đi về phía đồi và đưa mắt tìm tôi.. Rồi nàng chậm chạp bước theo bậc thang trở lên đỉnh đồi.. Trượt xe một mình thật đáng ghê sợ biết bao, ôi, thật đáng ghê sợ! Mặt nàng tái nhợt, trắng như tuyết, toàn thân run rẩy, nàng bước đi hệt như đến nơi chịu án tử hình, nhưng nàng vẫn xăm xăm đi, đầu không ngoái lại. Chắc là cuối cùng nàng quyết định thử xem: Nàng có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không, khi không có tôi bên cạnh? Tôi nhìn thấy nàng tái nhợt, miệng há ra vì sợ hãi; ngồi lên xe, nhắm mắt lại và, sau khi vĩnh biệt trái đất, bắt đầu lao xuống chân đồi.. Tiếng càng trượt xe rít lên.. Nađia có nghe thấy những lời đó nữa không, tôi không biết.. Tôi chỉ thấy nàng bước ra khỏi xe một cách mệt nhọc, gần như kiệt sức. Qua nét mặt nàng có thể thấy rằng chính nàng cũng không biết nàng có nghe được những lời đó hay không. Nỗi sợ hãi khi xe lao xuống đồi đã làm nàng không còn khả năng nghe được, phân biệt được các âm thanh, không còn khả năng hiểu nữa.. Thế rồi những ngày xuân tháng Ba đã tới.. Mặt trời như trở nên dịu dàng hơn. Quả đồi tuyết của chúng tôi bắt đầu sẫm lại, dần dần mất cái vẻ óng ánh của nó, và cuối cùng thì tan đi. Chúng tôi thôi không trượt xe nữa. Nađia đáng thương cũng không còn nơi nào để nghe những lời đó nữa, và cũng không có ai nói những lời ấy nữa, bởi vì gió thì không còn thổi nữa, mà tôi thì sửa soạn đi Pêtérburg - đi rất lâu, có lẽ là suốt đời. Có lần khoảng hai ngày trước khi đi Pêtérburg vào một buổi chiều tà, tôi ngồi trong khu vườn nhỏ. Một hàng rào cao có đinh nhọn ngăn cách khu vườn ấy với sân nhà Nađia.. Trời hãy còn lạnh, tuyết hãy còn đọng lại dưới đám phân, cây cối vẫn trơ trụi, nhưng hương vị mùa xuân đã đến, từng đàn quạ bay về tổ, trú đêm kêu lên quàng quạc. Tôi đến bên hàng rào và ghé nhìn qua khe hở. Tôi thấy Nađia bước ra thềm và đưa mắt nhìn lên trời buồn bã.. Làn gió xuân nhẹ thổi qua khuôn mặt nhợt nhạt rầu rĩ của nàng.. Làn gió xuân gợi lại cho nàng cái tiếng gió rít trên đồi tuyết, khi nàng nghe thấy bốn tiếng ấy, và gương mặt nàng trở nên buồn bã lạ thường, nước mắt lặng lẽ chảy trên má.. Nàng đáng thương đưa hai tay mình về phía trước như muốn cầu xin làn gió đem đến cho nàng những lời yêu đương đó một lần nữa. Và tôi, chờ khi có làn gió đến, thì thào nói: - Nađia, anh yêu em! Trời, điều gì đã xảy ra với nàng lúc ấy! Nađia khẽ kêu lên và khuôn mặt nàng bỗng chan hòa một nụ cười rạng rỡ. Nađia đưa hai tay lên đón lấy gió, trông nàng lúc ấy thật là mừng rỡ, đẹp xinh và hạnh phúc. Còn tôi, tôi trở vào nhà và đi thu xếp đồ đạc.. Chuyện ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Nađia đã có chồng, gia đình nàng gả chồng cho nàng hay nàng tự nguyện lấy? - điều ấy cũng chẳng có gì đáng bận tâm. Chồng nàng là thư ký hội đồng giám hộ trẻ con quý tộc. Nađia đã có ba con. Nhưng chút kỷ niệm cùng nhau trượt băng và gió lúc ấy đem đến cho nàng bốn tiếng: "Nađia, anh yêu em!" thì nàng không quên được; đối với nàng, điều ấy đã trở thành kỷ niệm hạnh phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất trong đời nàng.. Còn tôi, bây giờ tôi đã đứng tuổi, tôi không hiểu nổi vì lẽ gì tôi đã nói những lời đó, làm sao tôi đã đùa như thế..
Tác phẩm: Mặt nạ Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn Người ta tổ chức tại câu lạc bộ X. Một buổi dạ hội khiêu vũ trá hình với mục đích từ thiện, hay nói như các tiểu thư ở địa phương - một buổi vũ hội thịnh trang. Đã 12 giờ đêm. Mấy vị trí thức không tham gia nhảy, không đeo mặt nạ - cả thảy gồm năm người - tụ lại ngồi quanh một chiếc bàn lớn trong phòng đọc sách, chúi mặt chúi mũi vào mấy tờ báo mà đọc, mà ngủ gà ngủ gật, và theo cách nói của tay phóng viên biệt phái của nhiều tờ báo thủ đô tại đây một nhân vật đầy khuynh hướng tự do - thì họ đang "tư duy". Từ phía căn phòng lớn vọng ra tiếng nhạc của điệu nhảy quadrille (1) "Viuska". Ngoài cửa chốc chốc lại có tiếng chân những người hầu chạy huỳnh huỵch, cốc đĩa va vào nhau lanh canh. Còn ngay ở trong phòng đọc thì bao trùm một không khí yên lặng. - Ở đây có lẽ thoải mái hơn! - một giọng trầm trầm khàn khàn vọng ra hình như từ phía lò. - Chui vào đây thôi! Vào đây thôi, các bạn ơi! Cánh cửa mở ra, và bước vào phòng đọc là một gã đàn ông thấp lùn, to ngang vạm vỡ, vận bộ xà ích, đội chiếc mũ gài lông công, đeo mặt nạ. Tiếp theo sau y là hai bà đeo mặt nạ và một tên hầu tay bưng chiếc khay. Trên khay là một bầu rượu mùi, dáng thấp, hai ba chai vang đỏ và mấy cái cốc. - Vào đây! Ở đây mát hơn, - gã đàn ông nói. - Đặt khay lên bàn đi.. Nào, các cô nàng, mời các cô ngồi xuống! Mời các cô xem trò đùa nhé! Còn mấy vị kia, xin ngồi lùi ra cho.. Không còn cách nào khác đâu! Gã đàn ông loạng choạng bước tới, lấy tay gạt mấy tờ tạp chí từ trên bàn xuống đất. - Mang lại đây! Còn mấy vị đọc báo kia, lùi ra cho, thì giờ đâu mà đọc báo với luận bàn chính trị.. Tung hê đi thôi! - Tôi yêu cầu ông phải hành động lịch thiệp, - một vị trí thức lên tiếng nhìn chiếc mặt nạ qua đôi mục kỉnh. - Đây là phòng đọc chứ không phải phòng điểm tâm.. Đây không phải là chỗ uống rượu. - Tại sao lại không phải? Bàn cập kênh chăng hay là trần sắp sụt? Kỳ thật! Nhưng thôi.. chả thừa hơi mà lý sự! Quăng mẹ mấy tờ báo đi.. Đọc thế đủ rồi, các ông khá thông minh rồi đấy, đọc nữa chỉ tổ hại mắt thôi và cái chính nhất là tôi không thích, có thế thôi. Tên hầu đặt khay xuống bàn, vắt chiếc khăn qua khuỷu tay, rồi bước ra phía cửa. Hai cô lập tức mở rượu vang đỏ ra uống. - Sao lại có những vị thông minh đến mức khoái mấy tờ báo kia hơn là những thứ rượu này nhỉ, - gã đàn ông đeo lông công vừa tự rót rượu cho mình vừa khơi mào. - Theo ý kiến của tôi thì, thưa các vị đáng kính, các vị thích báo chí hơn chỉ là vì các vị đếch có đồng mốc nào để uống rượu. Tôi nói thế có đúng không? Hà hà!.. Vẫn đọc à! Này báo người ta viết gì đấy! Cái nhà ông đeo kính kia! Ông đang đọc truyện gì vậy! Hà hà! Đã bảo quẳng đi mà! Các vị ngồi đây rồi bị hố đấy! Tốt hơn hết là uống rượu thôi! Gã đàn ông đeo lông công nhỏm dậy và giật lấy tờ báo từ tay vị trí thức đeo kính. Vị này mặt tái xanh, rồi lại đỏ bừng kinh ngạc nhìn mấy ông bạn trí thức của mình, mấy ông kia cũng nhìn lại vị đó. - Ông mất hết cả tư cách rồi đấy, thưa tôn ông! - Vị đeo kính nổi nóng nói. - Ông đã biến phòng đọc thành quán rượu, ông đã cho phép mình làm những chuyện quá quắt, giật báo ra khỏi tay người khác! Tôi không cho phép làm thế! Ông không biết rằng ông đang gây sự với ai đây à, thưa tôn ông! Tôi là giám đốc nhà băng Giextiakốp!.. - Ta nhổ toẹt vào cái điều rằng nhà ngươi là Giextiakốp! Còn tờ báo của nhà ngươi thì sẽ được vinh dự thế này này.. Gã đàn ông cầm tờ báo lên và xé vụn nó ra. - Các ngài xem thế này là cái gì vậy? - Giextiakốp sửng sốt lắp bắp nói. - Thế này thì lạ quá.. Thế này.. thế này thì quả là không thể tưởng tượng nổi.. - Ông phát khùng lên rồi, - gã đàn ông cười lên hô hố. - Hừ, làm tôi sợ hãi đến nỗi run như cầy sấy! Thế đấy thưa các quý vị! Thôi dẹp chuyện đùa bỡn lại cái đã. Ta không hào hứng nói chuyện với các vị đâu.. Chả là ta muốn ở lại đây một mình với mấy cô nàng này và rất muốn đem lại ngay cho mình cảm giác khoái lạc, cho nên ta yêu cầu quý vị đừng có tranh cãi và ra ngay khỏi đây cho.. Xin mời! Ngài Bêlêbukhin, ngài cút xéo ngay cho! Sao cái mặt mo của ngài lại nhăn nhó thế kia? Ta đã nói là ra, vậy thì phải ra ngay thôi chứ! Ta bảo sao thì phải tắp lự làm vậy, không thì liệu hồn đấy ta tóm cổ đi!.. - Thế này nghĩa là thế nào? - viên thủ quỹ cơ quan bảo trợ tài sản Bêlêbukhin nhún vai hỏi, mặt đỏ bừng lên. - Tôi chịu không thể hiểu được.. Một tên vô lại chạy tọt vào đây.. và thế rồi bỗng xảy ra cơ sự này! - Này, này, nhà ngươi nói "vô lại" là chữ gì vậy? - gã đàn ông đeo lông công nổi giận hét lên giơ nắm tay đấm mạnh xuống mặt bàn đến nỗi cốc tách đặt trên khay nhảy hết cả lên. - Nhà ngươi nói với ai thế? Ngươi tưởng rằng, nếu ta đây đeo mặt nạ rồi thì người ta có thể nói gì với ta cũng được phải không? Đồ rắn rết! Cút ngay, ta đã nói rồi cơ mà! Ngài giám đốc nhà băng kia nữa, khôn hồn thì cuốn xéo ngay cho! Cút hết, cút hết, sao cho không còn một con giòi bọ nào ở lại đây nữa cả! Cút hết ngay! - Được rồi, bây giờ tất cả sẽ biết! - Giextiakốp nói, ông ta giận dữ đến nỗi vã cả mồ hôi ra mắt kính. - Tôi sẽ cho ông biết tay! Ê, gọi hộ tay chủ trò khiêu vũ đến đây với! Một phút sau viên chủ trò thấp bé tóc hung bước vào, ve áo đeo một dải tua xanh, thở hổn hển vì nhảy quá nhiều. - Yêu cầu ông ra cho! - viên chủ trò nói. - Đây không phải là chỗ uống rượu! Xin mời ông xuống phòng điểm tâm! - Mày ở đâu chui ra thế? - gã đàn ông đeo mặt nạ hỏi. - Ta có cho đòi mày đâu? - Xin đừng xưng hô mày tao như thế cho và xin mời ra khỏi đây! - Ồ, ông bạn thân mến, này ta hẹn cho ông bạn một phút đấy.. Bởi vì rằng ông là chủ trò, là nhân vật chính ở đây, nên mời ông hãy dắt tay mấy nhà nghệ sĩ này ra hộ cho. Các cô nàng của ta không được thoải mái lắm khi trong phòng này còn có người lạ mặt.. Các cô nàng xấu hổ mà, còn ta thì ta đã bỏ tiền ra và muốn được nhìn các nàng ở dạng tự nhiên. - Có lẽ tên cục súc này không hiểu rằng nó không phải ở trong chuồng bò, chuồng lợn? - Giextiakốp kêu lên. - Cho gọi Epxtơrát Xpiriđônứts đến đây! - Epxtơrát Xpiriđônứts! - tiếng mọi người gọi lan đi khắp câu lạc bộ. - Epxtơrát Xpiriđônứts đâu rồi? Liền đó lão già Epxtơrát Xpiriđônứts mặc y phục cảnh binh hiện ra ngay. - Yêu cầu ông ra khỏi đây! - lão già nói rít lên, mắt nhìn trừng trừng, bộ ria mép nhuộm màu đen rung rung lên. - Hừ, nhà ngươi định dọa ta à! - gã đàn ông nói, cười khoái trá. - Hừ, định dọa ta chắc! Gớm nhỉ, lại còn có thứ ngoáo ộp này nữa! Ria thì như ria mèo, mắt thì giương lồi ra thế kia kìa.. Hè hè hè! - Không lý sự gì nữa hết! - lão già lấy hết hơi sức hét to, toàn thân run lẩy bẩy. - Ra khỏi đây ngay! Ta sẽ ra lệnh lôi ông ra khỏi đây! Một cảnh huyên náo không thể tưởng tượng được diễn ra trong phòng đọc báo. Lão cảnh binh mặt đỏ gay như tôm rảo giậm chân, la hét om sòm. Giextiakốp la hét. Bêlêbukhin la hét. Tất cả các vị trí thức đều la hét, nhưng giọng nói của tất cả bọn họ đều bị át đi trong cái giọng ồm ồm trầm trầm của gã đàn ông đeo mặt nạ. Vì tình cảnh hỗn loạn chung nên đám nhảy phải ngừng lại, và mọi người đổ dồn về phía phòng đọc. Để ra oai, lão cảnh binh Epxtơrát Xpiriđônứts cho gọi tất cả những cảnh sát đang có mặt ở câu lạc bộ đến, rồi ngồi xuống lập biên bản. - Viết đi, viết đi, - cái mặt nạ nói, gõ gõ ngón tay xuống bên ngòi bút của lão cảnh binh. - Khốn khổ cái thân tôi, bây giờ thì tôi bị phạt thế nào? Trăm sự đổ lên cái đầu khốn khổ của tôi! Vì cớ gì mà các ông hãm hại tôi, một kẻ đáng thương? Ha ha! Thế nào? Biên bản xong chưa? Tất cả ký hết rồi chứ? Bây giờ thì mời các ngài nhìn này! Một.. hai.. ba! Gã đàn ông đứng dậy, vươn thẳng người lên và giật tấm mặt nạ xuống, để lộ hẳn bộ mặt say mèm của mình ra mà nhìn tất cả mọi người. Thú vị thưởng thức tác động của việc mình vừa làm, gã ngồi phịch xuống chiếc ghế bành và thích chí cười. Ấn tượng mà gã vừa gây ra quả là phi thường thật. Các vị trí thức ngẩn người nhìn nhau, mặt tái mét, vài vị còn giơ tay gãi gáy. Lão cảnh binh kêu ớ lên một tiếng như người vừa vô ý làm một chuyện dại dột ghê gớm. Tất cả đều nhận ra kẻ phá bĩnh vừa rồi là ông Piatigorốp, nhà triệu phú bản địa, chủ nhà máy, được quý trọng, người đã từng nổi tiếng bởi những vụ gây ồn ào, bởi lòng từ thiện và, như tờ báo địa phương đã nhiều lần nói tới, bởi lòng thiết tha đối với sự mở mang dân trí. - Thế nào, có đi ra hay là không? - Piatigorốp nói sau một phút im lặng. Các vị trí thức không hé răng nói nửa lời lặng lẽ rón rén đi kiễng chân ra khỏi phòng đọc, và Piatigorốp đóng ập cửa lại sau lưng bọn họ. - Chính mi đã biết đó là ông Piatigorốp rồi cơ mà! - một lát sau lão cảnh binh Epxtơrát Xpiriđônứts rít lên khe khẽ, tay nắm lấy vai tên hầu bàn đã mang rượu vào phòng đọc mà day. - Tại sao mi lại câm họng thế? - Thưa, ngài không cho phép nói ạ. - Không cho phép nói.. Mi lại còn chờ ta tống giam mi một tháng nhà pha rồi mới hiểu thế nào là "không cho phép nói". Cút ngay! Còn các ngài thì làm gì, - lão già quay về phía mấy vị trí thức. - Làm ầm ĩ cả lên! Không thể bỏ ra khỏi phòng đọc dăm mười phút được à! Đấy, bây giờ thì tha hồ mà gặp chuyện rắc rối! Ối dà dà, các ngài ơi là các ngài ơi.. Thật không ưng bụng tôi chút nào cả! Các nhà trí thức di tản vào trong câu lạc bộ, buồn thiu ngơ ngác như những người có tội, họ nói thì thầm với nhau và cùng linh cảm thấy rõ rệt một điềm gì chẳng lành sắp đến.. Các bà vợ và con gái họ sau khi biết rằng Piatigorốp bị "xúc phạm" đang cáu giận thì cũng ỉu xìu theo và lục tục kéo nhau ra về. Không còn thấy ai nhảy nữa. Hai giờ khuya Piatigorốp đi ra khỏi phòng đọc chân nam đá chân chiêu. Bước vào gian phòng lớn, gã ngồi xuống bên cạnh ban nhạc rồi thiêm thiếp đi trong tiếng đàn, sau đó gã buồn bã ngoẹo đầu sang một bên và ngáy khò khò. - Thôi đừng chơi đàn nữa! - mấy vị chủ trò khoát tay ra hiệu cho mấy ông nhạc công. - Suỵt.. ông Piatigorốp đang ngủ đấy.. - Ông có ra lệnh cho chúng tôi đưa ông về nhà không ạ, thưa ông Piatigorốp? - Bêlêbukhin hỏi nhỏ. Piatigorốp nháy nháy môi hệt như đang muốn xua con ruồi nào đậu trên má. - Ông có ra lệnh cho chúng tôi đưa ông về nhà không ạ, - Bêlêbukhin nhắc lại, - hay là gọi xe ngựa đến đây ạ? - Gì? Ai? Mi à.. mi cần gì? - Dạ đưa ông về nhà ạ.. Đến giờ nghỉ rồi đấy ạ.. - Về.. về nhà, ta muốn thế.. Đưa.. ta về! Bêlêbukhin sung sướng nở nang cả mặt mày và bắt đầu đỡ Piatigorốp dậy. Mấy nhà trí thức kia, miệng nhoẻn cười thích thú cùng xô cả lại tiếp tay nâng vị công dân thân hào truyền kế lên rồi nhẹ nhàng đưa ra xe ngựa. - Thật là muốn làm cho cả một lũ người bị hố thì chỉ có một nhà nghệ sĩ, một bậc tài năng mới làm nổi, - Giextiakốp hí hửng nói, đỡ nhà triệu phú ngồi lên xe. - Ông Piatigorốp ạ, quả thực là tôi hết sức kinh ngạc! Đến giờ tôi vẫn còn cười nôn cả ruột.. Ha ha.. Thế mà lúc ấy bọn tôi lại nổi nóng hết cả lên, lại còn định kiện cáo nữa chứ! Ha ha! Ông có thấy thế không? Ngay trong các rạp kịch người ta cũng không được cười nhiều thế.. Thật là một sự hài hước vô biên! Suốt đời tôi sẽ còn nhớ mãi cái đêm bất khả vong này! Đưa Piatigorôp lên xe rồi, các vị trí thức đều thấy vui vẻ và bình tâm trở lại. - Ông ấy đưa tay cho mình bắt lúc từ biệt nhé, - Giextiakốp nói, giọng hể hả. - Thế nghĩa là chuyện êm rồi đấy, ông không giận đâu.. - Cầu trời chứng giám cho lời ông! - lão cảnh binh thở dài. - Một tên vô lại, một thằng đê tiện, nhưng mà lại là một nhà từ thiện!.. Thật không thể hiểu được!
Tác phẩm: Người đàn bà có con chó nhỏ Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn Mọi người kháo nhau rằng ở ngoài bãi biển có một người mới đến nghỉ: Người đàn bà có con chó nhỏ. Đmitri Đmitrits Gurov, một người đến Ianta từ hai tuần nay và đã quen cảnh sống ở đấy, cũng bắt đầu tò mò muốn biết những người mới tới. Anh ngồi trong quán cà phê Vécne bốn phía trống trải và từ đó, anh nhìn thấy trên bãi biển, một người phụ nữ còn trẻ, người tầm thước, có bộ tóc hung hung vàng, đầu đội mũ bêrê, đằng sau nàng, một con chó nhỏ lông trắng đang chạy theo. Và rồi những ngày sau, hôm nào anh cũng thấy nàng vài lần, khi thì ở trong công viên thành phố, khi thì ở cái vườn hoa nho nhỏ. Nàng dạo chơi một mình, đầu vẫn đội chiếc bêrê ấy, con chó trắng vẫn chạy theo sau; không ai biết nàng là ai và mọi người đều gọi nàng một cách giản tiện: Người đàn bà có con chó nhỏ. "Nếu nàng ở đây một mình, không có chồng bên cạnh, không có người quen- Gurov nghĩ, - thì việc bắt chuyện làm quen với nàng có lẽ không phải là thừa". Gurov tuổi chưa đầy 40, nhưng anh đã có một đứa con gái 12 tuổi và hai đứa con trai bé đã đi học ở trường. Gia đình cưới vợ cho anh rất sớm, từ khi anh còn là sinh viên năm thứ hai, và bây giờ thì vợ anh trông già hơn anh đến hàng chục tuổi. Vợ anh là một người đàn bà dong dỏng cao, dáng người rất thẳng và đường hoàng, có đôi lông mày đen rậm. Nàng tự cho mình là một người có đầu óc suy nghĩ. Nàng đọc rất nhiều sách, không bao giờ viết dấu cứng đằng sau phụ âm và gọi tên chồng là Đimitri chứ không phải là Đmitri. Còn anh, anh thầm nghĩ rằng, nàng là một người hẹp hòi, thiển cận, thô kệch; anh sợ nàng và không thích ở nhà nhiều. Từ lâu, Gurov đã ngoại tình, ngoại tình luôn luôn, có lẽ vì vậy mà hầu như bao giờ anh cũng nói đến phụ nữ với một thái độ thù ghét khinh bỉ. Khi có ai bàn đến phụ nữ ở trước mặt anh thì anh gọi thế này: – Loại người hạ đẳng! Anh ta có cảm tưởng rằng, anh có đủ kinh nghiệm cay đắng để muốn gọi phụ nữ thế nào thì gọi; nhưng mặc dầu thế, không có "loại người hạ đẳng" ấy, anh không sao sống quá được hai ngày. Giữa đám đàn ông, bao giờ anh cũng cảm thấy tẻ nhạt, gượng gạo và trở nên lạnh lùng ít nói. Nhưng bên cạnh phụ nữ thì anh lại cảm thấy thoải mái và biết phải nói gì, đối xử ra sao; ngay cả những khi im lặng trước mặt họ, anh cũng cảm thấy mình nhẹ nhõm. Trong tính tình, diện mạo của Gurov cũng như trong cả cốt cách của anh, có một cái gì quyến rũ rất khó nói, một cái gì thu hút những người đàn bà, hấp dẫn họ. Anh biết điều đó, và chính bản thân anh cũng bị một sức mạnh vô hình cuốn về phía họ. Từ lâu, kinh nghiệm cay đắng nhiều lần đã dạy anh rằng, những cuộc gần gụi mới đầu có vẻ thú vị, làm cho đời thêm phần hoa lá, những cuộc phiêu lưu êm ái, nhẹ nhàng, đối với những người đàn ông đứng đắn, nhất là những người đàn ông Mátxcơva chậm chạp và thiếu cương quyết, cuối cùng bao giờ cũng trở thành cả một bài toán cực kỳ nan giải, có kết cục thật là nặng nề. Nhưng rồi mỗi lần gặp được một người đàn bà xinh đẹp hấp dẫn mới, cái kinh nghiệm ấy lại rơi đi đâu mất và anh lại muốn sống, lại cảm thấy cuộc đời thật giản đơn và ngộ nghĩnh. Có lần, vào buổi chiều, khi đang ăn trong vườn, anh thấy người đàn bà đội mũ bêrê ấy chậm rãi bước tới ngồi xuống bên chiếc bàn cạnh đó. Nhìn nét mặt, dáng đi, kiểu tóc và xống áo nàng mặc có thể đoán được rằng nàng thuộc loại người khá giả, con nhà gia giáo, đã có chồng và lần đầu tiến đến Ianta, nàng đi một mình và cảm thấy cuộc sống ở đây rất tẻ nhạt. Trong những lời đồn đại về chuyện thiếu đạo đức ở vùng nghỉ mát này, có nhiều điều không đúng sự thật, anh coi khinh những lời ấy và cho rằng phần lớn là do một số người dựng lên, - những người sẵn sàng phạm phải những điều thiếu đạo đức đó, nếu họ có khả năng làm được chuyện ấy. Nhưng đến khi người đàn bà ngồi xuống bên chiếc bàn chỉ cách anh mấy bước, anh sực nhớ đến những chuyện chinh phục dễ dàng, những buổi lên núi chơi và cái ý nghĩ đầy ma lực thu hút về một cuộc chung đụng ngắn ngủi, chóng vánh, về mối tình với người đàn bà xa lạ, không biết tên họ, bỗng xâm chiếm lòng anh. Anh âu yếm vẫy gọi con chó bông trắng nhỏ đến bên mình, rồi khi nói tới gần, anh giơ ngón tay ra dọa dẫm. Con chó khẽ gầm gừ. Anh lại giơ ngón tay lên dọa. Người đàn bà vội đưa mắt về phía anh và lại cúi xuống ngay. – Nó không cắn đâu, - nàng nói và khuôn mặt nàng ửng đỏ. – Có thể cho nó ăn xương được không? - Gurov nói và khi thấy nàng gật đầu, anh lại hồ hởi hỏi tiếp: -Chị đến Ianta đã lâu chưa? – Dăm ngày rồi. – Còn tôi thì đã gắng gượng ở đây đến tuần thứ hai. Cả hai cùng yên lặng một lát. – Thời gian trôi qua thật nhanh chóng mà ở đây thì thật là buồn tẻ! - Nàng nói, mắt không nhìn về phía anh. – Đó chỉ là điều người ta mặc nhiên quen nói với nhau rằng ở đây buồn tẻ. Một người tầm thường sống trong nhà mình ở Belev hay Giưđrô (1) thì chẳng thấy buồn chán, thế mà vừa đặt chân đến đây thì đã kêu lên: "Ôi, buồn tẻ quá! Toàn bụi là bụi!". Cứ như thể là anh ta đã từ Grênađa tới. Nàng khẽ bật cười. Và sau đó, cả hai lại lặng lẽ tiếp tục ăn, như những người không quen biết. Nhưng, ăn xong, thì họ đã đi bên nhau; một cuộc nói chuyện nhẹ nhàng đùa giỡn bắt đầu, - một cuộc nói chuyện giữa những người sống thoải mái, khoan khoái tự do, những người đi đâu cũng được, nói chuyện gì cũng được. Họ dạo chơi và nói với nhau rằng ánh sáng trên biển kỳ lạ biết bao, mặt nước tim tím màu hoa xiren thật mềm mại và ấm áp; trăng rọi chiếu thành từng dải ánh vàng rực. Họ nói với nhau rằng sau một ngày nắng gắt trời trở nên oi bức ghê gớm. Gurov kể rằng anh là người Moxkva, tốt nghiệp khoa ngữ văn nhưng lại làm việc ở nhà băng, đã có lúc định hát cho một gánh hát tư nhưng sau đó lại bỏ, anh có hai ngôi nhà ở Moxkva.. Nghe nàng kể, Gurov biết được rằng nàng lớn lên ở Petérburg, nhưng sau đó thì đi lấy chồng ở X. Nàng đã sống hai năm ở đấy. Nàng sẽ ở lại Ianta độ khoảng một tháng và có lẽ sắp tới, chồng nàng làm việc ở đâu, -ở Hội đồng hành chính tỉnh hay Hội đồng hương chánh, - điều ấy làm nàng tự cảm thấy buồn cười. Gurov còn biết thêm rằng nàng tên là Anna Xergeevna. Sau đó, trong căn phòng của mình, Gurov nghĩ đến nàng, nghĩ rằng chắc chắn ngày mai nàng sẽ gặp anh. Chắc chắn là như thế. Khi lên giường ngủ, Gurov nhớ rằng, mới cách đây không lâu nàng còn đi học như đứa con gái anh, nhớ đến những nét rụt rè ngượng ngập trong tiếng cười, trong cách nói chuyện của nàng với một người lạ, - chắc chắn đó là lần đầu tiên nàng sống một mình trong môi trường như thế, nơi mọi người đều đi theo nàng, ngắm nhìn nàng, nói chuyện với nàng để nhằm một mục đích bí hiểm mà nàng không thể không đoán ra được. Anh nhớ đến cái cổ, thanh thanh yếu ớt, đôi mắt màu xám rất đẹp của nàng. "Ở nàng vẫn có một cái gì tội nghiệp đáng thương", anh nghĩ vậy rồi ngủ thiếp đi. II Một tuần đã trôi qua kể từ khi họ quen nhau. Đó là một ngày chủ nhật. Trong các căn phòng đều oi bức, và ngoài trời thì gió cuốn bụi bay mù, hất mũ xuống đất. Suốt ngày khát nước, Gurov chốc chốc lại ghé sang quán giải khát và mời Anna Xergeevna khi thì uống nước sirô khi thì ăn kem. Chẳng còn biết đi đâu. Buổi chiều, khi mà gió đã ngớt đi nhiều, họ cùng nhau đi ra bờ biển xem tàu thủy đến. Trên bến, nhiều người đang dạo chơi, nhiều người tay ôm hoa chờ đón ai. Đám người nghỉ mát sang trọng ở Ianta, có hai điều đặc biệt dễ làm mọi người chú ý: Đó là những bà đứng tuổi ăn vận như thiếu nữ và nhiều ngài sĩ quan cấp tướng. Vì biển động, tàu thủy đến muộn, khi mặt trời khuất bóng, con tàu lượn vòng rất lâu rồi mới cập bến. Anna Xergeevna giơ cặp kính nhòm nhìn lên tàu, lên những hành khách như thể kiếm tìm một người quen và khi nàng quay lại phía anh, đôi mắt nàng sáng lên. Nàng nói nhiều, những câu hỏi nàng đặt ra vội vàng, hấp tấp, nói xong lại quên ngay những điều mới hỏi, sau đó, đánh rơi mất cặp kính giữa đám đông người. Đám người sang trọng lúc này đã tản đi hết, không còn nom rõ mặt người, gió đã lặng hẳn, nhưng Gurov và Anna Xergeevna vẫn đứng lại như cố chờ xem còn ai trên tàu xuống bến nữa không. Anna Xergeevna không nói nữa, nàng khẽ thơm những bông hoa, mắt không nhìn Gurov. – Buổi tối trời dễ chịu hơn đấy, - anh nói. - Bây giờ thì chúng ta đi đâu? Hay là chúng ta lên xe đi đâu xa một lúc? Nàng lặng yên không trả lời. Lúc ấy Gurov đăm đăm nhìn nàng, rồi bất ngờ anh ôm lấy nàng và hôn lên môi, anh cảm thấy bên mình mùi hương của những bông hoa ướt át. Ngay lúc đó, Gurov sợ sệt nhìn quanh: Có ai nhìn thấy không? – Về phòng em đi.. - anh nói nhỏ. Và hai người rảo bước quay lại. Căn phòng của nàng rất bí, tỏa mùi nước hoa mà nàng đã mua ở một cửa hiệu Nhật Bản. Vừa nhìn nàng, Gurov vừa nghĩ: "Không biết trong đời mình còn thiếu những cuộc gặp gỡ nào nữa!". Quá khứ để lại trong anh những kỷ niệm về những người đàn bà vô tư, tốt bụng, vui sướng vì tình yêu, cảm ơn anh vì niềm hạnh phúc, cho dù là rất ngắn ngủi thôi mà anh đã mang lại. Anh nhớ đến những người đàn bà, như vợ anh chẳng hạn, không thành thật yêu anh, nhiều lời và lắm cách bày vẽ, hay dằn vặt với cái vẻ muốn tỏ rằng đây không phải tình yêu, không phải lòng say mê mà là một cái gì còn lớn hơn thế nữa. Anh nhớ đến một vài người đàn bà khác, rất xinh đẹp, lạnh lùng, ở họ có khi tự nhiên lộ ra vẻ hung dữ, mong ước ngang bướng muốn lấy, muốn đạt ở cuộc đời nhiều hơn khả năng cho phép của nó. Những người này không còn trẻ trung nữa, họ đỏng đảnh, không biết suy đoán, ít thông minh, cảm thấy mình đầy quyền lực, và khi Gurov trở nên lạnh lùng với họ, vẻ đẹp của những người đàn bà ấy gây cho anh một sự căm ghét, và những viền đăng ten trên áo của họ chỉ làm anh nghĩ đến những đám vẩy loang lổ. Nhưng ở nàng vẫn giữ nguyên được vẻ rụt rè, ngượng ngập chưa từng trải của tuổi trẻ, vẻ bối rối khi có ai thình lình gõ cửa nhà mình. Anna Xergeevna, người đàn bà có con chó nhỏ ấy, đối với sự việc vừa xẩy ra có một thái độ khác thường, rất thận trọng-tưởng như đó là sự sa ngã của nàng- có thể cảm thấy như thế, và điều này có chút gì lạ lùng và lạc lõng. Nét mặt nàng mỏi mệt, những món tóc dài của nàng buồn bã xõa xuống hai bên mặt. Nàng lặng lẽ suy nghĩ, dáng trông rầu rĩ như người đàn bà có tội trong bức tranh cổ. – Không tốt đâu, - nàng nói. - Như vậy anh đã là người đầu tiên không tôn trọng tôi. Trên bàn trong phòng có một quả dưa hấu. Gurov cắt cho mình một miếng và chậm rãi nhai. Ít ra là nửa giờ đã trôi qua trong im lặng. Anna Xergeevna ra chiều xúc động, ở nàng toát ra một cái gì đó trong trắng, thơ ngây của một người đàn bà chưa từng trải; trên bàn, cây nến đơn độc đang cháy dở nhẹ hắt những tia sáng mờ mờ lên gương mặt nàng, tuy thế vẫn có thể thấy rõ lòng nàng đang nặng trĩu. – Làm sao mà anh có thể thôi không tôn trọng em nữa? - Gurov hỏi. - Chính em cũng không biết em đang nói gì. – Ôi, trời hãy tha tội cho tôi! - nàng nói, và mắt nàng đẫm lệ. - Điều ấy thật khủng khiếp. – Em đang cố tự bào chữa cho mình đấy. – Bào chữa thế nào được? Tôi xấu xa, tôi là một người phụ nữ thấp hèn, tôi tự khinh mình và không mong đợi gì bào chữa cả. Không phải tôi lừa chồng mà tự lừa dối mình. Từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới lừa đâu. Chồng tôi có lẽ là một người tốt, một người trung thực, nhưng anh ấy là một người nô bộc! Tôi không biết anh ấy làm gì, làm việc thế nào, chỉ biết anh ấy là người chuyên hầu hạ kẻ khác. Khi lấy chồng, tôi 20 tuổi, một nỗi khát khao dày vò tôi, tôi muốn được một cái gì đó tốt đẹp hơn, tôi tự nhủ: Có chứ, có một cuộc sống khác chứ. Tôi muốn sống! Sống và sống.. Lòng hiếu kỳ thiêu đốt tôi.. anh không hiểu được điều đó, nhưng, có trời chứng giám, tôi đã không thể tự làm chủ được mình nữa, có một cái gì đã đến với tôi không sao ngăn mình lại được nữa; tôi nói với chồng rằng tôi ốm và thế là tôi đến đây.. Và ở đây, lúc nào tôi cũng lang thang ngơ ngác như người mất hồn.. thế rồi tôi trở thành một người đàn bà tầm thường, rẻ tiền mà ai cũng có thể khinh bỉ được. Gurov cảm thấy tẻ nhạt khi nghe những lời đó, cái giọng thơ ngây, cái bất ngờ tự thú không đúng lúc ấy như chọc tức anh, nếu không nhìn thấy mắt nàng đẫm lệ thì đã có thể tưởng rằng nàng đang đùa hay đang đóng kịch. – Anh không hiểu, - Gurov nói nhỏ, - em muốn gì? Nàng gục đầu vào ngực anh và nép chặt vào anh. – Hãy tin tôi, hãy tin tôi đi, tôi van anh.. -nàng nói. - Tôi yêu một cuộc sống trong sạch, trung thực, tôi ghê tởm những điều tội lỗi, chính tôi cũng không biết tôi đang làm điều gì. Những người dân thường nói: Bị ma quỷ lấy mất hồn. Giờ đây cũng có thể nói về mình rằng tôi đã bị ma quỷ lấy mất hồn rồi. – Đủ rồi, đủ rồi.. -Gurov lầm bầm nói. Anh nhìn vào đôi mắt sợ hãi, không động đậy của nàng, nói những lời âu yếm nhỏ nhẹ, và nàng thấy yên tâm đôi chút, niềm vui trở lại với nàng, cả hai người cùng bật cười. Sau đó, khi họ bước ra khỏi nhà, ngoài bãi biển không còn một ai, thành phố với những bóng cây tùng lặng yên như chết, nhưng sóng biển vẫn ào ào vỗ vào bãi cát. Một chiếc thuyền phao dập dình trên sóng, chiếc đèn hiệu nhỏ trên đó tỏa một ánh sáng lờ mờ, ngái ngủ. Họ tìm được một người đánh xe, cùng nhau đi đến Ôrêanđa. – Lúc nãy, ở dưới chỗ ra vào, anh mới biết họ của em; trên tấm bảng có đề Fon Điđerit, - Gurov nói. - Chồng em là người Đức à? – Không, hình như ông của anh ấy mới là người Đức, còn chính anh ấy thì là người theo dòng đạo Vizanchi. Ở Ôrêanđa, họ ngồi yên lặng trên ghế đá cách nhà thờ không xa, đưa mắt nhìn xuống biển. Ianta mờ mờ hiện ra sau màn sương sáng, những đám mây trắng lững lờ bao phủ quanh những đỉnh núi cao. Lùm cây lặng yên không xào xạc, chỉ có tiếng ve kêu ra rả, và tiếng sóng biển rì rào đơn điệu vọng lên từ phía dưới ấy gợi cho chúng ta một sự yên tĩnh, một giấc ngàn thu đang đợi mỗi chúng ta. Âm thanh ấy có từ khi chưa có Ianta; chưa có Ôrêanđa, giờ đây vẫn tiếp tục vọng lên và sẽ rì rào một cách khô khan lãnh đạm như thế, khi mà chúng ta không còn nữa. Trong cái đơn điệu, trong cái lãnh đạm hoàn toàn đối với cuộc sống và cái chết của mỗi chúng ta có lẽ đã ẩn giấy cội nguồn cứu cánh vĩnh viễn của chúng ta, quá trình vận động không ngừng của cuộc sống trên trái đất, sự hoàn thiện không ngừng. Ngồi bên một người đàn bà trẻ tuổi, mà sớm mai đến lại càng trở nên xinh đẹp, lòng cảm thấy yên tĩnh và mê say cái cảnh thần tiên của biển trời, mây núi.. Gurov nghĩ rằng, thực ra, nếu suy nghĩ cho thật kỹ, thì sẽ thấy thế giới này vạn vật, trừ những cái mà chúng ta tự suy tưởng và làm ra, đều đẹp đẽ, khi mà chúng ta quên hết những mục đích cao siêu của cuộc sống, quên hết cái gọi là phẩm chất của con người mình. Có ai-chắc là một người tuần canh- đi dần tới phía họ, nhìn tận mặt họ rồi lại bỏ đi. Cả điều ấy nữa cũng trở nên bí ẩn và cũng thành đẹp đẽ. Đã có thể nhìn rõ tàu thủy đang từ Pheođoxia tới, đèn trên đó đã tắt và con tàu rạng rỡ trong nắng mai. - Sương đọng trên cỏ đấy, - Anna Xergeevna nói sau một hồi im lặng. - Ờ, có sương. Đến lúc phải về thôi. Và họ cùng nhau trở về thành phố. Những ngày sau, vào buổi trưa, họ lại gặp nhau trên bờ biển. Cùng ăn sáng, ăn trưa với nhau, cùng dạo chơi say sưa ngắm nhìn biển cả. Nàng than phiền rằng nàng khó ngủ, rằng trái tim nàng đầy xao xuyến, lo âu. Nàng cứ hỏi đi hỏi lại một số câu; Tâm trí nàng không lúc nào yên, lúc thì nàng ghen, lúc thì nàng sợ hãi rằng Gurov chưa tôn trọng nàng đúng mức. Nhiều lần, trong công viên hay trong vườn, khi xung quanh không có ai, Gurov thường kéo nàng lại gần mình và hôn say đắm. Cảnh nhàn hạ hoàn toàn, những cái hôn giữa ban ngày với vẻ e dè sợ sệt người chung quanh nhìn thấy, cái nóng, cái mùi vị của biển và quang cảnh những người no nê sang trọng chốc chốc lại đi qua trước mắt, những điều ấy như làm Gurov sống lại, anh nói với Anna Xergeevna rằng nàng đẹp, nàng hấp dẫn biết bao, anh tỏ ra nôn nóng, đắm say và không rời nàng nửa bước; còn nàng thì trầm ngâm và thường bắt anh tự thú rằng anh chưa tôn trọng nàng, chưa yêu nàng một tí nào, mà chỉ thấy nàng là một người đàn bà tầm thường, rẻ rúng. Gần như tối nào, chừng khuya khuya họ cũng đi chơi đâu ra ngoài thành phố, đi Ôrêanđa hay là lên thác nước, và lần nào cũng vậy, những buổi dạo chơi ấy đều để lại những ấn tượng đẹp đẽ, diệu kỳ. Họ chờ xem bao giờ thì Fon Điđerit đến. Nhưng rồi nàng nhận được thư chồng báo tin rằng mắt anh ta bị đau nặng và xin nàng về nhà càng sớm càng tốt. Anna Xergeevna ra điều vội vã. – Tôi đi khỏi nơi này là rất tốt, - nàng nói với Gurov. - Đó là ý muốn của số mệnh. Nàng lên xe ngựa đi và Gurov theo tiễn nàng. Họ đi suốt một ngày. Khi nàng đã ngồi vào trong toa tàu tốc hành và khi hồi chuông thứ hai đã réo lên, nàng bỗng nói: – Cho tôi nhìn anh.. nhìn anh một lần nữa. Thế.. - Nàng không khóc nhưng buồn rười rượi, trông như người ốm, gương mặt nàng run run. – Tôi sẽ nghĩ đến anh.. nhớ đến anh, -nàng nói. - Trời sẽ phù hộ anh, anh ở lại nhé. Đừng nghĩ xấu về tôi. Chúng ta chia tay nhau vĩnh viễn, điều ấy là cần thiết, bởi vì chúng ta hoàn toàn không nên gặp nhau nữa. Trời sẽ phù hộ anh.. Con tàu vội vã rời khỏi ga, lát sau ánh đèn trên đó đã khuất, chỉ một lát sau tiếng động của đoàn tàu không còn nghe thấy nữa, mọi việc xảy ra đều như cố tình mau chóng chấm dứt cái điên rồ, say đắm, ngọt ngào ấy. Một mình đứng lại trên sân ga, đưa mắt nhìn về khoảng trời mù mịt phía xa, Gurov lắng nghe tiếng dế kêu, tiếng gió reo qua dây điện thoại với cảm giác như vừa mới tỉnh ngủ. Anh nghĩ rằng, đấy, trong đời anh lại có thêm một cuộc phiêu lưu và cuộc phiêu lưu ấy cũng đã kết thúc và bây giờ chỉ còn những kỷ niệm.. Lòng anh tràn ngập một nỗi buồn, bởi vì anh nghĩ, người đàn bà trẻ trung ấy, người mà anh không bao giờ gặp nữa, sống bên anh không chút hạnh phúc. Anh đối xử với nàng rất vội vã và chân thành, nhưng trong cách đối xử ấy, trong cách âu yếm nàng vẫn có cái gì cười cợt ám ảnh, vẫn phần nào có cái trịch thượng thô thiển ở một người đàn ông luôn được hưởng sung sướng, thêm nữa anh lại nhiều tuổi hơn nàng gần đến hai lần. Lúc nào nàng cũng gọi anh là người nhân hậu, người cao thượng, phi thường.. chắc là nàng tưởng tượng anh là một người khác, không như thực chất của anh, và thế có nghĩa là anh đã lừa dối nàng.. Ngoài ga, hương vị của mùa thu đã đến, gió thổi mát lạnh. "Cả mình cũng đến lúc trở về phương Bắc thôi, - Gurov vừa đi khỏi nhà ga vừa nghĩ. - Đi thôi". III Ở Moxkva đã là mùa đông, lò sưởi đã làm việc. Sáng sáng, trước khi trẻ con đi học và uống nước chè, trời hãy còn tối và người bảo mẫu phải thắp đèn lên một lúc. Trời đã lạnh lắm. Và khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống, ngày đầu tiên ngồi trên xe trượt, người ta sẽ khoan khoái nhìn mặt đất trắng xóa, nhìn những mái nhà phủ tuyết, hơi thở sẽ nhẹ nhàng, đều đặn, và lúc ấy chắc mọi người đều nhớ lại những tháng năm thời thơ ấu. Ở những cây bồ đề, những cây bạch dương trắng xóa vì sương giá có vẻ gì như chào mời săn đón, dễ gần hơn những cây tùng, cây cọ, - bên cạnh những thứ cây ấy, người ta không còn muốn nhớ đến biển, đến núi nữa. Gurov là người Moxkva. Anh trở về đấy vào một hôm trời lạnh, rất đẹp, và khi anh khoác tấm bành tô lông lên mình, xỏ tay vào đôi găng ấm áp rồi đi dọc phố Petrovca, khi vào chiều thứ bảy anh lại nghe tiếng chuông nhà thờ, thì chuyến đi xa vừa qua cùng những nơi anh đã đến bỗng trở nên mất hết vẻ kỳ thú với anh. Dần dần anh lại lao vào cuộc sống Moxkva, anh đã bắt đầu ngấu nghiến đọc ba tờ báo mỗi ngày và nói rằng vì giữ nguyên tắc nên không đọc báo Moxkva. Nhưng khách sạn, câu lạc bộ bắt đầu thu hút anh. Anh lại muốn dự những bữa tiệc liên hoan, kỷ niệm. Anh cảm thấy hởi lòng hởi dạ khi những luật sư, nghệ sĩ nổi tiếng đến chơi nhà anh hoặc anh đã từng đánh bài với một giáo sư ở Câu lạc bộ bác sĩ. Anh đã có thể ăn hết một liễn xúp to tướng. Anh tưởng rằng chỉ độ một tháng sau, hình ảnh Anna Xergeevna sẽ phai mờ trong tâm trí anh, thỉnh thoảng anh sẽ chỉ còn nằm mơ thấy nụ cười đầy xúc động của nàng, như đã nằm mơ thấy bao người khác. Nhưng hơn một tháng đã qua, những ngày đông rét mướt nhất đã tới mà mọi điều trong tâm trí anh còn rõ rệt, tưởng như anh mới chia tay với Anna Xergeevna hôm qua. Những hồi ức ấy ngày càng thêm rõ nét. Những lúc tiếng trẻ con học bài vẳng sang phòng anh, những lúc nghe thấy tiếng đại phong cầm bản tình ca vang lên trong khách sạn, những lúc gió tuyết cuốn vào trong chiếc lò sưởi lớn.. Những lúc ấy tự nhiên trong ký ức anh bỗng sống lại tất cả: Từ những chuyện xẩy ra trên bến tàu, ngoài bờ biển, đến những buổi sáng sớm mây mù trên núi cao, những con tàu từ Pheođoxia, những cái hôn.. Anh đi đi lại lại rất lâu trong phòng mình, hồi tưởng lại và tự mỉm cười. Dần dần những hồi ức ấy chuyển thành mơ ước, và trong tưởng tượng quá khứ dần hòa nhập lại với những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Anh không phải nằm mơ thấy Anna Xergeevna, mà là thấy nàng đi bên anh, theo anh khắp mọi nơi như một cái bóng. Nhắm mắt lại, anh như thấy nàng trước mặt, còn xinh đẹp hơn, trẻ hơn, dịu dàng hơn ngày trước và chính bản thân anh cũng cảm thấy mình tốt hơn so với hồi ở Ianta. Tối tối nàng như ngắm nhìn anh từ chiếc tủ đứng đựng sách, từ phía lò sưởi, từ góc phòng: Anh nghe thấy hơi thở nàng, tiếng xống áo nàng sột soạt nhẹ nhàng, âu yếm. Đi ngoài phố, anh đưa mắt tìm kiếm xemcó ai giống nàng không. Một nhu cầu muốn giãi bầy, muốn chia sẻ những kỷ niệm ấy dày vò anh. Nhưng ở nhà thì không thể nói đến mối tình của mình được mà ở ngoài thì lại không có ai để tâm sự, không thể thổ lộ với hàng xóm cũng không thể nói ở nhà băng. Mà nói điều gì mới được chứ? Chẳng lẽ lúc ấy anh đã yêu nàng sao? Chẳng lẽ đã có một cái gì đẹp đẽ thơ mộng, bổ ích cho anh hay đơn thuần là một cái gì thú vị trong quan hệ của anh với Anna Xergeevna sao? Và thế là anh phải nói mông lung, mơ hồ về chuyện phụ nữ, chuyện tình yêu. Những lúc đó không ai đoán được có cái gì xảy ra; chỉ có vợ Gurov là cau đôi lông mày đen rậm của mình và nói: - Đimitri, vai một người kênh kiệu, rỗng tuếch không hợp với anh đâu. Có lần vào một đêm khuya, khi anh cùng bạn chơi bài, một quan chức, bước ra khỏi câu lạc bộ bác sĩ, anh không nén được nữa và thốt lên: - Ồ, nếu ông bạn biết được mình đã làm quen với một người phụ nữ đáng yêu như thế nào ở Ianta! Viên quan chức ngồi vào chiếc xe trượt và xe đã bắt đầu chạy đi, nhưng bỗng y quay lại và gọi to: - Đơmitri Đơmitrits! – Cái gì vậy? – Lúc nãy thế mà anh đúng đấy: Thứ cá chiên ấy có mùi rồi! Những câu nói thường ngày ấy, không hiểu sao, lại tự nhiên làm anh bực bội, anh cảm thấy những tiếng ấy thật bẩn thỉu, hạ thấp phẩm giá con người. Những thứ đạo đức, những con người kỳ quặc, man rợ biết bao! Những cuộc đánh bài điên loạn, ăn uống lỗ mãng, say rượu, những cuộc nói chuyện quanh đi quẩn lại một đè tài! Những việc làm vô tích sự, những cuộc nói chuyện lặp đi lặp lại ấy cướp đi một phần thời giờ tốt nhất, phần sinh lực quý nhất và kết cục là để lại một cuộc sống tầm thường tẻ ngắt, một cái gì ngu độn, vậy mà không làm sao đi khỏi, chạy thoát được, hệt như đang sống trong một nhà thương điên hay giữa một trại tù nào. Suốt đêm hôm ấy, Gurov không ngủ được, lòng tràn đầy bực tức, và ngày hôm sau anh bị nhức đầu. Những đêm tiếp theo anh vẫn khó ngủ, khi thì ngồi trên giường nghĩ ngợi, khi thì đi đi lại lại trong phòng. Anh chán bọn trẻ con, chán nhà băng và chẳng buồn đi đâu hết, chẳng buồn nói gì hết. Vào những ngày nghỉ lễ tháng 12, anh sửa soạn đi và nói với vợ rằng anh cần tới Petéburg để chạy việc cho một anh bạn trẻ. Nhưng rồi anh lại đi X. Để làm gì? Anh cũng không tự mình biết rõ được. Anh muốn gặp Anna Xergeevna, nói chuyện với nàng và hẹn hò gặp nhau, nếu có thể được. Gurov đến X, vào một buổi sáng và thuê căn phòng sang trọng nhất trong khách sạn. Trong căn phòng ấy, toàn bộ sàn nhà trải một lớp dạ lính màu xám, trên bàn đặt một bình mực cũng màu xám vì bụi kèm tượng người kỵ sĩ cưỡi ngựa tay cầm mũ giơ lên, nhưng đầu đã gãy cụt. Người hầu phòng cho anh biết mấy tin tức cần thiết: Fon Điđerit ở phố Cựu Gôntrarơnaia, tại nhà riêng của ông ta, cách khách sạn không xa lắm. Fon Điđerit sống sung túc, ung dung, có xe ngựa riêng và cả thành phố đều biết ông. Người hầu phòng gọi nhầm họ ông ta là Đơrưđưrit. Gurov chậm rãi đi về phía phố Cựu Gôntrarơnaia và kiếm tìm ngôi nhà ấy. Một bức rào sắt nhọn màu xám chạy dài phía trước ngôi nhà. "Nhìn thấy bức rào ấy chắc ai cũng phải bỏ chạy", -Gurov nghĩ vậy và đưa mắt nhìn lên cửa sổ, nhìn lên bờ rào. Anh suy tính: Hôm nay là ngày nghỉ và thế có nghĩa là chắc chắn chồng nàng sẽ có nhà. Đằng nào vào ngôi nhà ấy bây giờ cũng bất tiện và làm phiền người khác. Còn nếu viết giấy để lại thì mảnh giấy ấy có thể rơi vào tay người chồng và lúc đó mọi việc sẽ hỏng hết. Tốt nhất là chờ dịp may. Gurov đi qua đi lại trên đường phố ấy, bên cạnh bờ rào và chờ dịp may đó. Anh nhìn thấy một người ăn mày bước vào cổng nhà và một đàn chó liền chạy bổ tới. Một giờ sau anh nghe thấy tiếng đàn dương cầm yếu ớt không rõ rệt vọng ra. Chắc là Anna Xergeevna đang đánh đàn. Cánh cổng đồ sộ bỗng thình lình mở rộng ra và Gurov thấy một bà lão bước ra, theo sau là con chó bông trắng quen thuộc dạo nào. Gurov muốn gọi con chó lại gần nhưng tim anh bỗng đập liên hồi, và vì quá xúc động anh không còn nhớ tên con chó ấy nữa. Gurov vẫn đi, mỗi lúc thêm căm tức bức rào sắt xám xịt, anh đã bắt đầu bực bội nghĩ rằng Anna Xergeevna đã quên anh, và có lẽ đã say sưa với một người nào khác, điều đó là hoàn toàn tự nhiên đối với một người đàn bà trẻ từ sáng sớm đến tối mịt phải nhìn thấy cái bức rào đáng nguyền rủa này. Anh trở về khách sạn và ngồi rất lâu trên đivăng, không biết phải làm gì, sau đó, anh đi ăn cơm rồi nằm ngủ rất lâu. "Toàn là chuyện ngu xuẩn và rắc rối. - Gurov nghĩ thế, khi đã tỉnh dậy và đưa mắt nhìn phía cửa sổ tối sẫm: Trời đã tối rồi. - Chẳng hiểu sao lại ngủ đẫy giấc mất thế. Biết làm gì đêm nay đây". Anh ngồi lặng trên chiếc giường trải một tấm chăn xám rẻ tiền hệt như trong các bệnh viện và tự trách móc, giận dỗi mình: "Đấy, người đàn bà có con chó nhỏ của anh đấy.. cuộc phiêu lưu của anh đấy.. Bây giờ thì cứ ngồi thế nhé!". Sáng hôm nay, khi còn ở ngoài ga, một tấm quảng cáo với dòng chữ to tướng đã đập vào mắt anh: Công diễn lần đầu vở "Gêisa". Anh sực nhớ lại điều ấy và đi đến rạp hát. "Rất có thể nàng sẽ xem những cuộc công diễn lần đầu" - anh nghĩ. Rạp hát chật ních người. Như ở mọi rạp hát tỉnh lẻ khác, rạp này cũng có một làn khói mờ như sương phía trên chùm đèn, dải bao lơn ồn ào trên tầng hai. Trước khi mở màn, ở hàng trên cùng, những người sang trọng ở địa phương chắp tay ra đằng sau, trên lô dành riêng cho quan tỉnh trưởng, ở hàng trước, con gái ông ta đang ngồi, vai quàng một chiếc khăn lông rất to, còn chính tỉnh trưởng thì khiêm nhường ngồi phía đằng sau, chỉ nhìn thấy được hai tay ông mà thôi. Tấm màn che động đậy, các nhạc công thi nhau lên dây đàn. Khi khán giả còn đang lục tục vào tìm chỗ ngồi, Gurov chăm chú đưa mắt tìm bốn phía. Đến lượt Anna Xergeevna bước vào. Nàng ngồi xuống hàng ghế thứ ba và khi Gurov nhìn nàng, trái tim anh bỗng thắt lại, anh chợt hiểu rằng, giờ đây, trên thế giới này, đối với anh không còn ai gần gũi hơn, thân quý hơn, quan thiết hơn người phụ này. Mất lẫn vào giữa đám người tỉnh lẻ này, tay cầm cặp kính thô thiển, người đàn bà nhỏ nhắn không có gì nổi bật ấy giờ đây đã choán hết cả cuộc đời anh, đã là niềm vui, nỗi khổ của anh, là hạnh phúc duy nhất mà anh hằng mong ước bấy lâu. Trong cái âm thanh ngán ngẩm của một dàn nhạc tồi, của những cây đàn violông xấu xí rẻ tiền, anh để cho tâm trí anh nghĩ đến nàng, nghĩ rằng nàng thật xinh đẹp biết bao. Anh nghĩ ngợi và mơ ước.. Cùng với Anna Xergeevna và sau đó, ngồi xuống bên cạnh nàng, là một người còn trẻ, râu quai nón thanh, dáng người rất cao và hơi gù gù. Mỗi bước đi, anh ta lại gật đầu xuống, có cảm tưởng rằng anh ta luôn luôn cúi chào. Chắc đó là chồng nàng, người mà trong những phút cay đắng ở Ianta, Anna Xergeevna đã gọi là một người nô bộc. Thực ra, trong cái dáng người dài ngoẵng, bộ râu quai nón và cái trrán hơi bị hói có vẻ ngoan ngoãn, nhún nhường. Anh ta cười ngọt ngào, bên dưới cổ áo, chiếc huy hiệu chứng nhận bằng cấp nào đó lấp lánh trông hệt như mảnh số đeo của người hầu phòng. Hết màn thứ nhất, người chồng trở ra hành lang hút thuốc lá, nàng ngồi lại trên chiếc ghế bành. Gurov cũng ngồi ở dưới nhà. Anh bước gần đến bên nàng và nói giọng run run, miệng cười gắng gượng: – Chào chị. Nàng đưa mắt nhìn anh và gương mặt nhợt nhạt tái hẳn đi. Nàng lại hoảng sợ nhìn lại anh lần nữa, như không tin vào chính mắt mình, bàn tay nàng nắm chặt lấy chiếc quạt và cặp kính nhòm: Chắc nàng đang phải tự gắng sức lắm để khỏi phải ngã ngất đi. Cả hai đều im lặng. Nàng vẫn ngồi, còn anh thì vẫn đứng, vẻ lúng tíng, bối rối của nàng vừa rồi làm anh sợ hãi, anh không dám ngồi xuống bên cạnh. Đàn sáo lại nổi lên. Gurov bỗng cảm thấy ghê rợn khi nghĩ rằng có lẽ mọi người ở khắp các lô xung quanh đang chăm chú nhìn anh. Nhưng rồi nàng bỗng đứng dậy và đi ra phía cửa, anh cũng đi theo nàng. Cả hai người cứ đi một cách kỳ dị như thế. Họ đi theo hành lang lên cầu thang gác, lúc lên lúc xuống, loáng thoáng qua trước mặt họ là những người ăn vận quần áo quan tòa, giáo học, quan lại, ai cũng đeo huy hiệu, loáng thoáng bóng các bà, áo bành tô treo trên giá. Gió lùa qua lại, mang theo mùi thuốc lá đang cháy dở. Trái tim anh đập rộn ràng, anh nghĩ: "Trời, có những người này, dàn nhạc này để làm gì!.." Trong giây lát ấy, Gurov bỗng nhớ lại cái buổi chiều tối trên sân ga, sau khi tiễn Anna Xergeevna đi rồi, anh tự nhủ, sự việc thế là kết thúc và họ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng thực ra cái điểm kết thúc ấy còn xa vời biết bao! Đến một cầu thang nhỏ hẹp, tôi tối, nơi có treo biển đề: Lối vào ămphitêát, Anna Xergeevna dừng lại: - Anh làm tôi sợ quá! - nàng vừa nói vừa thở rất nặng nhọc, nét mặt nàng còn nguyên vẻ nhợt nhạt, sửng sốt. - Ôi, anh làm tôi sợ quá! Tôi thật dở sống dở chết. Anh đến đây làm gì? Làm gì? - Anna, cô hãy hiểu cho tôi, hãy hiểu tôi.. -Gurov nói vội vàng, giọng nhỏ nhẹ. - Tôi van cô, xin cô hãy hiểu tôi. Nàng sợ hãi nhìn anh, ánh mắt nàng như cầu khẩn, nhưng chan chứa yêu thương. Nàng đăm đăm nhìn anh như để cố khắc sâu vào tâm khảm những đường nét trên gương mặt anh. – Ôi, tôi thật đau khổ! -Nàng không nghe anh, nói tiếp. - Lúc nào tôi cũng nghĩ đến anh, sống bằng những hồi tưởng về anh. Tôi muốn quên đi, quên hết đi, nhưng làm sao, làm sao anh lại đến đây? Phía trên cao có hai cậu học trò đang hút thuốc và đưa mắt nhìn xuống dưới. Nhưng mặc họ, Gurov vẫn kéo nàng lại gần mình, rồi hôn lên má, lên mặt, lên tay nàng. - Anh làm gì vậy, làm gì vậy! - Nàng vừa sợ hãi nói, vừa đẩy anh ra. - Chúng ta đều mất trí cả rồi. Anh hãy đi khỏi nơi này ngay hôm nay, đi ngay bây giờ thôi.. Trước các vị thần linh, tôi van anh, tôi xin anh đừng.. Người ta đang đi lại phía này đấy! Có người nào đang đi lên thang gác. - Anh phải đi khỏi nơi này.. -Anna Xergeevna nói tiếp, giọng thì thầm. - Anh nghe không? Anh Đmitri Đmitrits? Tôi sẽ đến Moxkva với anh. Chưa bao giờ tôi được sống hạnh phúc, cả bây giờ cũng đang bất hạnh và sẽ không bao giờ, không bao giờ được sống hạnh phúc, không bao giờ! Vậy thì hãy bắt tôi phải khổ sở thêm nữa! Thề với anh rằng, tôi sẽ đến Moxkva. Bây giờ thì chia tay thôi! Anh thân yêu, anh quý mến, anh rất tốt của em, giờ thì chúng ta tạm xa nhau anh ạ! Nàng nắm chặt tay anh rồi vội vã bước xuống cầu thang, đầu ngoái lại nhìn anh hoài, nhìn đôi mắt nàng cũng biết được rằng, trong cuộc đời nàng đúng là một người không hạnh phúc.. Gurov đứng lại một lúc, lắng tai nghe ngóng, cho đến khi chung quanh đã yên lặng, anh mới đi tìm giá áo của mình và rời khỏi nhà hát. Từ dạo ấy, Anna Xergeevna bắt đầu đến Moxkva với anh. Cứ độ khoảng hai ba tháng nàng lại rời khỏi X. Nàng nói với chồng nàng rằng nàng cần đi Moxkva để gặp một giáo sư chuyên chữa bệnh phụ nữ nào đó của nàng- chồng nàng thì nửa tin nửa ngờ. Đến Moxkva, Anna Xergeevna nghỉ tại khách sạn "Chợ Xlavơ" và cho ngay một người đội mũ đỏ đến báo với Gurov. Gurov đến ở với nàng, ở Moxkva không hề có ai biết việc đó. Có một lần vào một buổi sáng mùa đông, Gurov đi đến gặp nàng bằng cách như thế (người đến báo tin từ tối hôm trước lại không gặp được anh ở nhà), đi bên anh là đứa con gái lớn mà Gurov muốn đưa đến trường vì đi cùng đường. Tuyết rơi từng bông rất to và ướt át. – Bây giờ là 3 độ trên 0, thế mà tuyết vẫn rơi, - Gurov nói với con gái. - Nhưng cái ấm áp đó chỉ có ở trên mặt đất thôi, còn ở tầng cao khí quyển thì nhiệt độ lại hoàn toàn khác. – Ba ơi, tại sao mùa đông lại không có sấm hở ba? Anh lại giải thích điều đó. Anh vừa nói vừa nghĩ rằng, đó, anh đang đi đến chỗ hẹn hò, mà không có một ai biết điều ấy, và chắc sẽ chẳng bao giờ có ai biết đến. Trong anh đồng thời có hai cuộc sống: Một cuộc sống lộ ra bên ngoài mà ai cũng thấy, cũng biết, một cuộc sống đầy những sự thật ước lệ, giống hệt như cuộc sống của bạn bè và những người quen anh; còn một cuộc sống nữa thì lại càng lặng lẽ, kín đáo trôi qua. Và, vì một sự sắp xếpkỳ quặc nào đó những sự kiện có thể là tình cờ, mà tất cả những gì hệ trọng, cần thiết, thích thú với anh, những gì mà anh chân thành yêu, không lừa dối mình; những gì tạo nên cốt lõi của cuộc đời anh, thì lại bí mật trôi qua dưới mắt người đời; và tất cả những gì dối trá lừa đảo, là cái vỏ bề ngoài mà anh nấp vào để che đậy sự thật chẳng hạn như việc làm trong nhà băng, những cuộc tranh cãi ở câu lạc bộ, cái câu nửa miệng: "Loại người hạ đẳng", những buổi cùng vợ đi dự tiệc.. Tất thảy đều phơi bày ra ngoài hết. Anh tự ngẫm mình và suy ra người khác. Anh không tin những gì anh thấy, và bao giờ cũng cho rằng ở mỗi người, đằng sau tấm màn bí mật, như đằng sau màn đêm tối, có một cuộc đời thực, cuộc đời thú vị nhất, đang ẩn náu. Mỗi cuộc đời riêng đều tồn tại trong bí mật và có lẽ một phần vì thế mà những người có văn hóa đều thiết tha mong muốn làm sao cho bí mật riêng tư của mỗi người đều được tôn trọng. Đưa con gái đến trường xong, Gurov rẽ vào khách sạn "Chợ Xlavơ". Anh cởi bỏ áo bành tô ở tầng dưới, bước lên cầu thang và khẽ gõ vào cửa phòng. Anna Xergeevna vận chiếc váy áo màu xám mà anh rất thích. Trông nàng mệt mỏi vì đi đường và vì phải chờ đợi. Suốt từ tối hôm qua đến nay nàng đã phải chờ. Gương mặt nàng nhợt nhạt. Nàng nhìn anh, không mỉm cười, và khi anh vừa bước vào trong buồng, nàng gục đầu lên ngực anh. Họ hôn nhau rất lâu tưởng chừng như đã hai năm không gặp được nhau. – Thế nào, em sống ở đây ra sao? - Gurov hỏi. - Có gì mới không? – Anh đợi một tí, em kể ngay bây giờ cho anh nghe.. Em không thể.. Nàng không nói nữa và khóc nức lên. Nàng quay sang bên và đưa khăn lau nước mắt. "Thôi, cứ để nàng khóc, còn mình thì ngồi một lúc vậy", - Gurov nghĩ và ngả mình vào chiếc ghế bành. Sau đó anh giật chuông gọi người đưa nước chè đến và sau khi anh uống trà, nàng đứng quay mặt về phía cửa sổ.. Nàng khóc vì xúc động, vì ý nghĩ buồn tủi rằng cuộc đời của cả hai người sao mà bất hạnh đến thế, họ chỉ có thể gặp nhau giấu giếm, lẩn tránh mọi người như những tên trộm! Chẳng lẽ cuộc đời của họ chưa tan nát rồi sao? - Thôi, đừng khóc nữa em! - Anh nói. Anh cảm thấy rất rõ rằng đối với anh còn rất lâu, không biết đến bao giờ mối tình này mới chấm dứt. Càng ngày Anna Xergeevna càng gắn bó với anh hơn, và thật là vô nghĩa nếu nói với nàng rằng tất cả những điều xảy ra một lúc nào đó đều phải kết thúc, mà nếu có nói như vậy, chắc nàng cũng không tin. Anh bước đến bên nàng và ôm lấy đôi vai nàng, để âu yếm, trêu đùa với nàng. Cùng lúc ấy, anh nhìn thấy bóng mình trong gương. Mái tóc anh đã bắt đầu điểm bạc. Anh cảm thấy lạ lùng rằng những năm gần đây anh già đi, tàn tạ đi chóng quá. Đôi vai mà anh đang đặt tay lên khẽ rung rung và nóng hổi. Lòng anh tràn ngập một niềm thương cảm cuộc đời này, một cuộc đời còn ấm áp và xinh đẹp, nhưng có lẽ đã đến lúc gần trở nên héo mòn, héo hắt như cuộc đời anh. Vì lẽ gì mà nàng yêu anh như vậy? Đối với những người phụ nữ, bao giờ anh cũng để lại ấn tượng một con người khác, không giống con người anh trong thực tại, và không phải họ yêu chính anh mà là yêu con người tưởng tượng của họ, yêu con người suốt đời họ đi tìm kiếm. Sau này, khi nhận thấy lầm lỗi của mình rồi, họ vẫn còn yêu. Và không một ai trong bọn họ cảm thấy mình hạnh phúc bên anh. Thời gian trôi đi, anh làm quen với phụ nữ, gần gụi họ, rồi lại rời xa, nhưng chưa bao giờ yêu, có tất cả mọi điều, duy chỉ có tình yêu là chưa đến. Chỉ đến bây giờ, khi trên đầu anh tóc đã bắt đầu điểm bạc, anh mới yêu, yêu thực sự chân thành- lần đầu tiên trong cả đời mình. Nàng và anh yêu nhau tha thiết như những người rất gần gũi, gắn bó với nhau như vợ chồng, như những người bạn âu yếm. Họ có cảm tưởng rằng chính số mệnh đã tạo họ ra cho nhau, và không thể hiểu rằng làm sao mà anh lại có vợ và nàng có chồng. Họ như hai con chim trời cùng đàn, một con trống, một con mái, cùng bị bắt và nhốt vào hai cái lồng khác nhau. Họ tha thứ cho nhau tất cả những gì trong quá khứ mà họ cảm thấy ngượng ngùng, tha thứ tất cả những gì trong hiện tại và cảm thấy rằng mối tình này đã làm thay đổi hẳn cả hai người. Ngày trước, trong những phút buồn rầu, Gurov tự an ủi mình bằng đủ mọi điều suy xét, bất cứ điều nào đến với đầu óc anh. Bây giờ anh không còn tâm trí đâu để mà suy xét nữa, lòng anh chỉ còn tràn ngập một niềm thương cảm lớn, anh muốn trở nên chân thành, dịu dàng. – Đừng khóc nữa, em thân yêu, - Gurov nói- Em đã khóc rồi, rồi lại.. Thôi chúng ta nói chuyện với nhau một lát, thử nghĩ xem có cách gì không. Sau đó họ bàn với nhau rất lâu, nói với nhau rằng, làm sao thoát khỏi cảnh phải lẩn tránh lừa dối mọi người, phải sống ở những thành phố khác nhau, rất lâu mới được gặp nhau. Làm sao mà thoát khỏi những ràng buộc tai ác này? - Làm sao? Làm sao? - Gurov đưa tay nắm tóc mình và hỏi- Làm sao bây giờ? Có cảm giác chỉ ít lúc nữa thôi là lối thoát sẽ được tìm ra, và lúc ấy, một cuộc đời hoàn toàn mới, thật đẹp đẽ sẽ đến, nhưng cả hai người đều thấy rõ rằng còn xa lắm, xa lắm mới đến ngày kết cục, và những gì rắc rối nhất, khó khăn nhất chỉ vừa mới bắt đầu. Người dịch: Phan Hồng Giang
Tác phẩm: Người ăn mày Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn "Thưa ngài, xin hãy rủ lòng thương một người nghèo khổ. Tôi không có cả năm kopech để tìm chỗ ngủ qua đêm. Xin thề có Chúa! Tôi là một thầy giáo làng trong năm năm và bị mất việc làm vì những âm mưu của hội đồng khu vực. Tôi là nạn nhân của những bằng chứng giả. Tôi bị mất việc làm đã một năm nay". Ông luật sư Petersburg Skvortsov nhìn chiếc áo khoác màu xanh dương rách tả tơi của người đang nói, đôi mắt say sưa màu bùn đất, những nốt đỏ trên má y và có cảm giác đã nhìn thấy y trước đây. "Và bây giờ người ta cho tôi một việc làm ở vùng Kaluga" người ăn mày nói tiếp "nhưng tôi không có tiền để đi tới đó. Xin hãy rộng lòng cứu giúp tôi! Tôi rất xấu hổ phải xin, nhưng.. tôi bị hoàn cảnh bắt buộc." Skvortsov nhìn đôi giày của y, một chiếc có hình dáng chiếc giày bình thường, trong khi chiếc kia cao đến gần đầu gối như một chiếc ủng và sực nhớ ra. "Này, ngày hôm kia tôi gặp anh ở đường Sadovoy" ông nói "và lúc đó anh nói với tôi anh là một sinh viên bị đuổi chứ không phải là thầy giáo làng. Anh còn nhớ không?" "Không, không thể được!" người ăn mày lẩm bẩm. "Tôi là thầy giáo làng, nếu ông muốn tôi có thể đưa giấy tờ cho ông xem." "Nói dối đủ rồi!" Anh xưng mình là sinh viên và còn kể tôi nghe lý do bị đuổi nữa. Anh nhớ ra chưa? " Skvortsov đỏ bừng mặt vì giận và quay đi không nhìn người kia. " Thật đê tiện! "Ông giận dữ quát" Đồ lừa đảo! Tôi sẽ giao anh cho cảnh sát, đồ chết tiệt! Anh nghèo đói, nhưng không có nghĩa là anh được quyền nói dối trâng tráo như vậy! " Người kia níu lấy quả đấm cửa và tuyệt vọng nhìn quanh phòng như chim bị sập bẫy. " Tôi.. tôi không nói dối "anh ta lẩm bẩm" tôi có thể chứng minh bằng giấy tờ ". " Ai tin anh được? "Skvortsov vẫn giận dữ nói tiếp" lợi dụng sự thương mến của mọi người với thầy giáo làng và sinh viên- thật thấp hèn, thật bỉ ổi, thật bẩn thỉu! Thật ghê tởm! " Skvortsov càng lúc càng giận dữ hơn, ông mắng chửi người ăn mày không chút xót thương. Sự dối trá láo xược của con người rách rưới này đã làm ông căm ghét và phẫn nộ, là một sự xúc phạm đến những điều ông, Skvortsov, yêu thích và tự hào về chính mình: Lòng tốt, một trái tim nhạy cảm, sự thông cảm với những người bất hạnh. Bằng những lời dối trá, bằng sự phản bội lại những điều đó, y đã làm ô uế lòng từ thiện ông thích ban cho người nghèo không chút nghi ngại. Lúc đầu người ăn mày còn thề thốt để tự bảo vệ, rồi y im lặng và xấu hổ cúi đầu. " Thưa ông "y nói, tay đặt trên ngực," quả thật tôi đã.. nói dối! Tôi không phải là sinh viên cũng không là thầy giáo làng. Tôi đã bịa đặt ra tất cả! Trước đây tôi ở trong đội đồng ca Nga và đã bị đuổi việc vì tội uống rượu. Nhưng tôi có thể làm gì được? Vì Chúa, xin hãy tin tôi, tôi không thể sống nếu không nói dối. Khi tôi nói thật sẽ không ai cho tôi chút gì. Nếu nói thật người ta có thể chết vì đói rét khi không có nơi ngủ qua đêm! Ông nói rất đúng, tôi hiểu như vậy, nhưng.. tôi phải làm gì? " " Anh phải làm gì? Anh hỏi anh phải làm gì à? "Skvortsov vừa quát, vừa bước lại gần y." Làm việc!.. đó là điều anh phải làm! Anh phải làm việc! " " Làm việc.. tôi cũng biết như vậy, nhưng tôi biết kiếm việc làm ở đâu? " " Vô lý. Anh còn trẻ, khỏe, có sức lực, anh có thể kiếm việc làm được ngay nếu muốn. Nhưng anh biết mình lười biếng, quen hưởng thụ, say sưa! Anh sặc mùi rượu Vodka như một quán rượu! Anh đã trở thành dối trá và hư hỏng đến tận xương tủy, chỉ biết xin xỏ và nói dối! Nếu anh chịu khó làm việc, anh có thể làm ở văn phòng, trong một dàn đồng ca Nga, hoặc người ghi điểm ở tiệm bida, ở đó anh sẽ có lương và không phải làm việc! Nhưng làm gì anh chịu lao động chân tay được? Tôi dám chắc anh sẽ không chịu làm người gác cửa hay thợ trong xí nghiệp. Anh quý phái quá mà! " " Những điều ông nói, quả thật.. "người ăn mày nói với nụ cười cay đắng" làm sao tôi kiếm được công việc lao động chân tay? Đi buôn bán thì đã trễ rồi, muốn buôn bán người ta phải bắt đầu từ khi còn nhỏ; không ai mướn tôi làm người gác cửa vì tôi không thuộc tầng lớp đó.. Và tôi không thể làm việc trong xí nghiệp vì phải có tay nghề mà tôi lại không có ". " Vô lý! Anh luôn luôn biện hộ! Anh có muốn chẻ củi không? " " Tôi không từ chối, nhưng hiện giờ những người chẻ củi chuyên nghiệp cũng đang thất nghiệp. " " Ồ, những người lười biếng lúc nào cũng nói vậy! Người ta đề nghị việc gì là anh từ chối liền. Anh có muốn chẻ củi cho tôi không? " " Chắc chắn là có.. " " Tốt lắm, để xem.. Tuyệt. Để rồi xem! "Skvortsov vội vã nói, hơi bị khích động và không phải không có một niềm vui thích ác ý, xoa tay, gọi bà đầu bếp đang ở trong bếp. " Này, Olga "ông bảo bà." Hãy dẫn ông này vào nhà kho và giao cho ông ấy chẻ ít củi. " Người ăn mày nhún vai như đang bối rối miễn cưỡng đi theo bà đầu bếp. Thái độ của y tỏ ra rằng y bằng lòng chẻ củi không phải vì đói và muốn kiếm tiền mà chỉ vì xấu hổ và tự hào vì phải giữ lời. Rõ ràng là y đang say rượu Vodka, y không khỏe và không hề muốn làm việc chút nào. Skvortsov vội vàng đi vào phòng ăn. Từ cửa sổ nhìn ra sân ông có thể thấy nhà chứa củi và mọi chuyện trong sân. Ông đứng ở cửa sổ, nhìn bà bếp và người ăn mày đi lối sau vào sân, đạp lên lớp tuyết lẫn bùn tới nhà chứa củi. Olga giận dữ nhìn người đi bên bà từ đầu đến chân rồi dùng khuỷu tay đẩy bật chốt cửa kho chứa củi làm cánh cửa mở bung ra kêu đánh rầm. " Có lẽ mình đã gọi khi bà ấy đang uống cà phê "Skvortsov nghĩ." Trông bà ấy giận dữ quá! " Rồi ông thấy người thầy giáo làng và sinh viên giả hiệu ngồi xuồng một khúc củi lớn, tựa hai bên má đỏ ửng vào hai nắm tay, đăm chiêu suy nghĩ. Bà bếp quẳng chiếc rìu xuống kế chân y, giận dữ nhổ xuống đất và, theo cử động của đôi môi, ông đoán bà bắt đầu chửi rủa y. Người ăn mày uể oải kéo một khúc củi lại, đặt nó đứng giữa hai chân và thận trọng đưa lưỡi rìu chẻ dọc nó. Khúc củi tách đôi và ngã xuống. Y kéo nó lại, thổi vào hai bàn tay lạnh cóng và lại thận trọng đưa lưỡi rìu chẻ dọc nó như sợ đụng vào đôi giày hay chặt mất mấy ngón tay. Khúc củi lại ngã xuống. Cơn giận của Skvortsov đã tan, ông cảm thấy ái ngại và xấu hổ vì đã bắt một người không quen làm việc, say rượu và có lẽ đang bệnh làm việc vất vả trong giá lạnh. " Mặc kệ, cứ để y làm.. "ông nghĩ trong khi đi sang phòng làm việc." Mình làm như vậy để cho y được tốt! " Một giờ sau Olga xuất hiện và báo là củi đã chẻ xong. " Đây, đưa cho y nửa rúp "Skvortsov nói." Nếu y muốn, y có thể đến chẻ củi vào đầu mỗi tháng.. sẽ luôn luôn có việc cho y làm. " Vào ngày đầu tháng người ăn mày lại đến và kiếm được nửa rúp mặc dù y đứng không vững. Từ đó y đến thường xuyên và luôn luôn có việc làm: Có lúc y gom tuyết thành đống, hay dọn nhà kho, có lúc y đập và giũ những tấm thảm, những tấm nệm. Mỗi lần như vậy y được nhận ba đến bốn kopech và có lần còn được cho một cái quần cũ. Khi dọn nhà, Skvortsov sai y đóng gói và khiêng đồ đạc, lúc này y tỉnh táo, buồn rầu và im lặng; hầu như không đụng vào đồ đạc, cúi đầu đi sau những chiếc xe chở đồ, không cần làm ra vẻ tất bật; y chỉ rung lên vì lạnh và rất bối rối khi bị người khác cười nhạo sự chậm chạp, yếu ớt và chiếc áo trước kia sang trọng giờ rách tả tơi. Sau khi dọn nhà xong Skvortsov cho gọi y đến." À, tôi thấy anh có làm theo lời tôi. "Ông nói và đưa y một rúp" Đây là tiền công của anh. Tôi thấy anh không còn say sưa và không phải không muốn làm việc. Tên anh là gì? " " Lushkov " " Tôi có thể tìm cho anh công việc tốt hơn và không quá vất vả. Anh có biết viết không? " " Thưa ông, có ". " Vậy anh cầm giấy này, ngày mai đến gặp bạn đồng nghiệp của tôi và ông ấy sẽ cho anh làm việc giấy tờ.. hãy làm việc, đừng uống rượu và nhớ những điều tôi dặn anh. Tạm biệt. " Hài lòng vì đã đưa một người vào con đường ngay thẳng, Skvortsov vỗ nhẹ vai Lushkov và còn bắt tay anh ta trước khi chia tay. Lushkov nhận lá thư ra đi và từ đó không trở lại làm việc nữa. Hai năm trôi qua. Một ngày kia khi Skvortsov đang đứng mua vé trước quầy bán vé nhà hát, ông thấy một người đàn ông nhỏ bé mặc áo khoác cổ lông cừu và đội mũ da mèo cũ kỹ. Y rụt rè hỏi mua một vé loại rẻ tiền nhất và trả bằng tiền lẻ. " Lushkov, phải anh đó không? " Skvortsov hỏi khi nhận ra người chẻ củi trước đây của ông." Ồ, lúc này anh làm gì? Sống có ổn không? " " Cũng khá.. tôi đang làm ở văn phòng công chứng viên. Tôi kiếm được ba mươi lăm rúp ". " Ồ, nhờ trời, như vậy là ngon lành quá rồi. Tôi mừng cho anh. Tôi thật tình rất vui, Lushkov. Anh biết không, ở một mức độ, anh là con đỡ đầu của tôi. Chính tôi đã đưa anh vào con đường ngay thẳng. Anh còn nhớ tôi đã chửi mắng anh thế nào không? Lúc đó anh gần như ở tận đáy. Ồ, cám ơn anh vì đã nhớ lời tôi, anh bạn thân mến ạ. " " Tôi cũng phải cám ơn ông "Lushkov nói" Nếu tôi không gặp ông ngày hôm đó, có lẽ tôi vẫn còn tự coi mình là thầy giáo làng hay sinh viên. Vâng, trong ngôi nhà của ông tôi đã được cứu và thoát khỏi cái hố đó ". " Tôi rất vui mừng. " " Cám ơn ông về những lời nói và hành đông tử tế của ông. Những lời ông nói ngày đó rất tuyệt vời. Tôi biết ơn ông và bà bếp của ông. Xin Chúa phù hộ cho người phụ nữ có tấm lòng vàng đó. Những lời ông nói ngày đó rất tuyệt vời; dĩ nhiên là ngày nào còn sống là tôi còn chịu ơn ông, nhưng chính bà bếp của ông, Olga, mới là người cứu vớt tôi thật sự. " " Như vậy nghĩa là sao? " " Ồ, chuyện là như thế này. Trước đây tôi đến chẻ củi cho ông và bà ấy bắt đầu nói: "Ôi, anh chàng say rượu! Con người bị Chúa ruồng bỏ! Và anh còn chưa bị cái chết bắt đi!" rồi bà ngồi trước mặt tôi, nhìn mặt tôi và than khóc "Con người bất hạnh! Anh không có niềm vui nào trong thế giới này, còn trong kiếp sau anh sẽ bị thiêu trong địa ngục, con người say sưa đáng thương! Sinh vật buồn rầu khốn khổ!" bà cứ tiếp tục than van như vậy, ông biết không. Tôi không thể kể hết bao nhiêu lần bà ấy đau khổ và đã đổ bao nhiêu nước mắt vì tôi. Nhưng điều làm tôi xúc động nhất- bà đã chẻ củi cho tôi! Thưa ông, ông có biết không, tôi chưa bao giờ chẻ một khúc củi nào cho ông- bà đã làm lấy tất cả! Tôi không thể giải thích bà đã cứu tôi bằng cách nào, tại sao tôi thay đổi khi nhìn bà và bỏ rượu. Tôi chỉ biết là những lời bà nói và cách cư xử cao quý của bà đã làm tâm hồn tôi thay đổi và tôi sẽ không bao giờ quên. Nhưng đã đến giờ tôi phải đi, người ta sắp rung chuông báo hiệu mở màn". Lushkov cúi chào và đi đến khu khán giả hạng vé rẻ tiền. HẾT
Tác phẩm: Lão Quản Bi Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn - Quản Bi, ngày mùng ba tháng chín anh phạm vào tội phỉ báng bằng lời nói và việc làm đối với trương tuần Di, với thẩm phán trong quận, bá hộ E, các chức sắc Va và Ga, và sáu nông dân. Anh phỉ báng ba người trên trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Anh có nhận là anh phạm tội không? Bi-chi-bép, người quản lọm khọm nhăn nheo, râu cạo lởm chởm, một cách rất nhà binh, úp bàn tay vào đường can ống quần, trả lời bằng một giọng khàn và nén xuống, dằn vào từng tiếng như là y vẫn thường chỉ huy: - Kính bẩm cụ lớn chánh án, chiếu theo các điều khoản trong luật pháp, thì có một lối để chứng thực mọi tình huống bằng cách cho đối chất. Kẻ phạm pháp không phải là tôi, mà chính là những người khác. Cả cái chuyện này gây ra là do một cái xác chết - xin Trời hãy thương lấy linh hồn kẻ đó. Bữa mồng ba tháng này, tôi đang đi với bà An nhà tôi một cách thong dong và đường hoàng, thế rồi tôi thấy ở bờ sông cả một đám đông gồm đủ hạng người. Tôi hỏi họ xem căn cứ vào cái quyền gì mà bọn họ túm tụm lại đó? Tại làm sao lại như thế? Trong luật pháp có chỗ nào nêu lên là người ta phải đi hàng đàn không? Tôi la lên: "Các anh tản ra đi!" Tôi bèn xô dồn mọi người để cho ai nấy đều về nhà, tôi ra lệnh cho ông bá phải tống cổ họ đi.. - Khoan đã, anh không phải là trương tuần, cũng không phải là ông cựu; việc của anh có phải là việc bắt mọi người phải giải tán đi không? - Không phải việc của anh ta! Không phải việc! Từ các góc phòng, nhiều tiếng nhao nhao lên. Bẩm quan lớn, anh ta không để yên cho chúng con làm ăn!.. Chúng con chịu đựng anh ta đã mười lăm năm nay.. Từ khi anh ta giải ngũ về làng, có thể nói là chúng con đều muốn bỏ làng mà đi! Anh ta dồn mọi người đến chỗ cùng đồ! Ông Cựu, được đòi ra tòa dẫn chứng, nói: - Có như thế đó, bẩm Quan lớn. Quả là dân làng đều có kêu ca. Cũng không còn cung cách gì mà sống được cùng anh ta nữa! Hoặc là chúng tôi rước tranh thờ, hoặc là có đám cưới xin, hoặc là nói tóm lại, trong mọi việc, là đều thấy anh ấy quát tháo, hò hét, đòi dẹp cái này dẹp cái khác.. Anh ta béo tai con trẻ, nom dòm đàn bà để đừng xảy ra việc nọ việc kia, in tuồng anh là bố chồng người ta ấy.. Một bữa nọ, anh đi tua quanh khắp các nhà và ra lệnh không ai được ca hát và tối không được thắp đèn; anh ta giải thích là không thấy có luật lệ nào cho phép hát hỏng.. Quan tòa ngắt: - Hãy khoan, sẽ tới lúc các anh dẫn chứng ra sau. Hãy để cho Bi-chi-bép tiếp tục trình bày những gì cần nói ra. Bi-chi-bép, cứ tiếp tục đi! Giọng viên hạ sĩ khàn khàn: - Xin tuân lệnh ngài! Bẩm Cụ Lớn, ngài có hạ cố mà phân xuống rằng ra lệnh cho mọi người giải tán là không phải cái việc của con. Bẩm ngài, cũng cho là như vậy đi! Và giả thử có xảy ra một vài tình trạng hỗn loạn? Thử hỏi rằng có thể để cho mọi người làm loạn không? Xin cho biết xem luật pháp có cho mọi người ai muốn làm gì thì làm không? Thưa ngài, tôi không thể dung tha những cái như thế! Nếu không là tôi bắt họ giải tán đi đi và đe nẹt họ, thì là ai đây? Không một ai am tường những quy chế xác thực và trong làng, bẩm Cụ Lớn, có thể nói rằng chỉ có một mình con là hiểu được cái cách đối xử với cái bọn ti tiện; và bẩm Cụ Lớn, con có thể hiểu tất cả. Con không phải là bần cố nông, mà là hạ sĩ quan ở bộ phận cung cấp nay về hưu trí, đã từng phục vụ ở Vác-xô-vi, tại bộ tham mưu; thêm nữa, xin ngài biết cho là sau khi được chuyển ngành, con có vào lính chữa cháy; rồi vì lý do thiếu sức khỏe và bệnh tật, con không ở đội cứu hỏa, và xin vào làm gác cổng trường trung học sơ cấp chính cống của thanh niên được hai năm.. Thưa ngài, các thứ nội quy, tôi đều biết hết thảy. Mà cái đám dân quê đều là những người ngờ nghệch, họ chả nghe thủng cái gì cả; mà họ phải tuân theo tôi bởi vì tôi xử sự như thế là chính vì lợi ích của họ. Xin đưa ra việc này làm ví dụ.. Tôi bảo mọi người phải giải tán đi, và trên bãi cát bờ sông lại có cái xác một người chết trôi nằm ềnh ra đó. Tôi xin hỏi rằng kẻ chết kia vin vào cái lý lẽ gì mà nằm ra đó? Cái đó có là trật tự không? Thế trương tuần để làm gì? Tôi mới hỏi trương tuần rằng, tại sao bác không đi trình các quan? Có thể là kẻ quá cố chết trôi kia trẫm mình, hoặc cũng có thể là một vụ xổng tù có dính đến bọn phạm nhân phát vãng đi Xi-bê-ri đó chăng? Có thể lại là một vụ án mạng.. Và bác trương tuần Di cũng chả chú ý gì đến; bác ta cứ kéo tiếp mồi thuốc mà nói: "Chuyện chi mà anh cứ làm như là một người ra mệnh lệnh ấy? Cái người truyền lệnh đó, mọc ra từ đâu vậy? Không có anh ta đó thì chúng tôi đây há lại không biết công việc chúng tôi phải làm hay sao?" Vì thế cho nên con mới bảo anh ta là đồ ngu, anh chả biết gì cả, chứng cớ là anh ngồi lì ra đấy mà chả chú ý đến gì hết. Anh ta bảo: "Ngay từ hôm qua, tôi có trình với xã tuần". Tôi hỏi lại là tại sao lại trình cái việc như thế với xã tuần? Dựa vào điều nào của mặt luật? Xã tuần có thể giải quyết được tới mức nào những vụ chết trôi hoặc bóp cổ, hoặc những vụ na ná như rứa? Tôi bảo hẳn anh ta rằng đây là một vụ án về mặt hình, mặt hộ.. Tôi có bảo việc này anh phải cấp tốc cho chạy công văn lên quan dự thẩm và các vị chánh án, tôi nhờ anh cứ làm đúng như thế cho! Và trước hết, xin anh hãy làm một cái biên bản, và gửi lên quan chánh án. Thế là anh ta, một anh trương tuần, cứ nghệt ra mà nghe và nhăn răng cười! Lại cả cái đám bần nông nữa.. Bẩm Cụ Lớn, tất cả chúng nó đều cười. Về điểm này, tôi xin thề mà khai như vậy. Người này cười, người nọ cũng cười, và lão Di cười. Tôi vặn họ lại tại sao họ nhe cả răng ra? Thế rồi trương tuần mới đủng đỉnh nói: "Những việc như thế này, không thuộc phạm vi giải quyết của ông chánh án". Những chữ đó đã làm cho tôi nóng máu lên.. Này, - Bi-chi-bép quay hỏi trương tuần Di, này, trương tuần, anh có nói đúng như thế chứ? - Phải, tôi có nói thế. - Mọi người đã nghe rõ anh nói như vậy trước tất cả nhân dân: "Những việc thế này không thuộc phạm vi giải quyết của ông chánh án". Mọi người đều có nghe thấy! Việc này làm tôi nổi nóng lên, bẩm Cụ Lớn, và tôi lại còn lo sợ nữa. Tôi bảo: "Này người kia, hãy nhắc lại, thử nhắc lại cái câu mày vừa nói!" Và hắn ta đã nhắc lại câu đó.. Tôi, tôi liền xông tới phía hắn. Tôi hỏi: "Đối với quan chánh án, tại sao mi dám ăn nói như vậy? Mi là trương tuần, mà mi lại chống lại chính quyền? Hả? Mi có biết rằng, chỉ riêng những lời lẽ như thế, quan chánh án có thể, nếu ngài muốn, tống giam mi ở cục Hiến binh vì tình nghi về thái độ? Phải đó, vì những câu nói có tính chất chính trị như vậy, mi có biết rằng quan chánh án còn cho mi đi tới những đâu nữa không?" Và ông thẩm phán cũng chen vào "Quan chánh án cũng không thể làm quá được ngoài quyền hạn của mình. Chỉ những việc nhỏ là thuộc phạm vi giải quyết của ngài". Ngay ông ta cũng nói như vậy; mọi người đều nghe cả đó! Tôi bảo: "Sao anh dám hạ uy tín của chính quyền? Mà này, khá chớ có cớt nhả với ta; bằng không, chú kia, sẽ có chuyện chẳng hay xảy ra giờ!" Trước kia, ở Vác-xô-vi, hoặc khi tôi còn gác cổng trường trung học sơ cấp chính cống của thanh niên, mỗi lần tôi nghe thấy những danh từ lệch lạc, là tôi ngó ra ngoài phố xem xem có người lính sen-đầm nào để bảo họ: "Anh kỵ mã, hãy lại đây" và tôi sẽ phản ánh lại hết với anh ta. Nhưng mà, ở làng thì sẽ nói với ai đây? Tôi liền nổi giận. Sự xao lãng bổn phận trong những cái ngông nghênh và những việc bất phục tùng của mọi người ngày nay đã làm cho tôi phải chướng tai gai mắt; và tôi đã giơ cánh tay lên.. dĩ nhiên là không có gì là mạnh quá, nhưng mà nó như thế này này, một cách bình thường, nhẹ nhàng, để cho họ hết ăn nói như thế đối với Cụ Lớn đây.. Trương tuần bênh thẩm phán. Và cho nên, tôi đã đánh trương tuần.. Và cứ thế đó.. Bẩm Cụ Lớn, tôi đã phát khùng lên, nhưng có thể nào mà lại không dùng đến võ lực được không? Người ta thật là có điều không phải với lương tâm khi mà người ta không đánh những đứa ngu ngốc; nhất là khi mà một cái điều.. và nếu lại có sự hỗn loạn.. - Hãy khoan! Để phòng ngừa những việc rối trật tự, đã sẵn có người hẳn hoi. Về những việc ấy, đã có trương tuần, lý cựu, bá hộ.. - Trương tuần không thể trông nom hết được, và anh ta không hiểu hết được những cái mà tôi hiểu thấu.. - Nhưng mà anh phải biết rằng đây không phải là cái việc của anh! - Sao, thưa ngài? Không phải phận sự tôi? Thưa ngài, thế này thì dị kỳ thật!.. Có những kẻ đứng ra làm loạn, mà lại không dính dáng đến phận sự của tôi! Ý chừng tôi phải khen thưởng họ chắc! Họ kêu ca rằng tôi ngăn cấm họ hát.. Mà có gì hay hớm trong các điệu hát? Đáng lý ra phải chuyên tâm vào việc làm ăn, thì họ hát.. Rồi họ lại còn vẽ trò ra mà tối tối thắp đèn. Phải đi nằm đi rồi ngủ, thì họ gẫu chuyện và cười cợt! Thưa ngài, tôi có ghi cả đấy! - Anh đã ghi những gì? - Những người nào mà nhà có giong đèn. Bi-chi-bép rút ở túi ra một mảnh giấy nhờn mỡ, chính là mắt kính và đọc: - Những nông dân buổi tối có thắp đèn: I-van, Sa-va, Pi-ốt, mụ Chút là vợ góa một thầy quyền nay ăn nằm bừa bãi với Sê-mi, I-nhát làm trò tà thuật và vợ y là một con mẹ phù thủy đêm đêm lên đi vắt sữa ở bò mọi nhà. - Thôi được! - Quan tòa truyền. Và ngài bắt đầu hỏi các nhân chứng. Lão quản Bi-chi-bép đẩy cặp mắt kính lên quá trán, ngạc nhiên mà nhìn ông chánh án đã hiển nhiên không đứng về phía lão. Cặp mắt lồi của lão nhấp nhánh; cái mũi lão trở nên đỏ gắt. Lão nhìn quan tòa, nhìn các người làm chứng; lão không thể hiểu được tại sao quan chánh án lại xúc động đến thế, và tại sao từ góc này góc nọ phòng họp lại thấy nổi lên lúc thì những tiếng xì xào lúc thì những tiếng cười cố nén lại. Đối với lão, bản án cũng thật là khó hiểu: Một tháng tù ngồi. Lấy làm không hiểu nổi, lão giang cả hai cánh tay: - Sao lại thế được? Luật nào vậy? Cũng đã khá rõ ràng để lão thấy rằng cuộc đời đã chuyển biến và khó mà sống được giữa cuộc đời này. Người lão tràn ngập những ý nghĩ u ám, bi ai. Nhưng ra khỏi phòng và nhác thấy đám nông dân quần tam tụ ngũ bàn tán cái này cái khác, và cũng do tật cũ không sao bỏ được, lão lập chính mà quát, giọng khàn và khùng: - Bọn các người, giải tán ngay!.. Không được tụ tập lại! Ai về nhà nấy!
Tác phẩm: Khóm Phúc Bồn Tử Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn Từ sáng sớm, những đám mây đen mọng nước đã phủ kín bầu trời; không gian im ắng, dìu dịu mát mẻ và buồn tẻ như vẫn thường thấy trong những ngày u ám, khi trên khắp cánh đồng mây đen đã giăng đầy, trời sẽ mưa và chưa mưa. Bác sĩ thú y Ivan Ivanưts và ông giáo trường làng Burkin đã mỏi rời cả chân, và cánh đồng trước mặt đối với họ tưởng như đang kéo dài vô tận. Phía đằng xa tít tắp, trông không rõ hình chiếc cối xay gió làng Mirônôxitxki, phía bên phải những ngọn đồi cao thấp nối tiếp theo nhau chạy dài rồi khuất mất sau xóm. Cả hai người đều biết rằng đó là mạn bờ sông, phía ấy có những bãi cỏ mênh mông, những hàng cây liễu rũ, những trang ấp, và nếu đứng trên đỉnh ngọn đồi thì từ đó có thể nhìn thấy cả cánh đồng rộng lớn, nhìn thấy nhà dây thép và đoàn tàu như một con sâu đang chậm rãi bò đi; vào những ngày tiết trời trong sáng, từ ngọn đồi có thể nhìn thấy cả thành phố. Bây giờ, vào lúc trời im lặng, khi mọi cảnh vật xung quanh đang hiện ra với vẻ tư lự đáng yêu, Ivan Ivanưts và Burkin đều cảm thấy cả cánh đồng trải rộng mênh mông này thân thiết quá, hai người đều nghĩ rằng, đất nước hùng vĩ và xinh đẹp biết bao. - Lần trước, khi chúng ta đứng trước nhà kho của ông lý trưởng Prôkôfi –Burkin nói- anh có định kể cho tôi nghe một chuyện cơ mà. - Đúng rồi, lần ấy tôi muốn kể về người em trai của tôi. Ivan Ivanưts hít vào thật sâu, rồi thở ra, lấy tẩu thuốc và hút, sắp vào câu chuyện, thì vừa lúc trời bắt đầu mưa. Chừng năm phút sau, cơn mưa chuyển thành nặng hạt, xối xả, dày đặc, và khó có thể biết bao giờ thì ngớt. Ivan Ivanưts và Burkin dừng lại phân vân; hai con chó đi theo, lông ướt sũng, đuôi cụp xuống, đứng yên nhìn chủ với vẻ trung thành tận tụy. - Chúng ta phải trú tạm vào một chỗ nào thôi –Burkin nói- Ta đến nhà Aliôkhin đi, cũng gần đây thôi. - Ừ, phải đấy. Hai người rẽ sang bên, đi băng qua cánh đồng mới gặt, lúc đi thẳng, lúc vòng sang bên phải mãi mới ra được đường cái. Một lát sau, đã hiện ra những cây dương, khu vườn, rồi những mái nhà kho ngói đỏ; dòng sông lấp loáng sáng, một đầm nước rộng gần bên chiếc cối xay gió và một nhà tắm quét vôi trắng. Đó là một làng Xôphinô, nơi ở của Aliôkhin. Cối xay gió quay nhanh át đi cả tiếng mưa rào rào, con đập chắn nước như đang rung lên. Bên cạnh những cỗ xe, có những con ngựa đang đứng cúi đầu, nhiều người đang đi đi lại lại áo tơi khoác trên mình. Trời ẩm ướt mặt đất lầy lội nhớp nháp, khu đầm nước trông lạnh lẽo và giận dữ. Ivan Ivanưts và Burkin cảm thấy toàn thân mình ướt át, lấm láp, khó chịu, đôi chân nặng chình chịch vì bết đất; và khi qua bờ đập, bước chân lên dãy nhà kho của chủ nhân, họ im lặng như đang có chuyện gì cáu giận nhau vậy. Trong một căn nhà kho, có tiếng máy quạt lúa quay vù vù, cánh cửa mở rộng, bụi từ trong nhà bay ra tơi tấp. Trên ngưỡng cửa chính là Aliôkhin, một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, to cao, để tóc dài, trông giống một vị giáo sư hay một họa sĩ hơn là một vị điền chủ. Ông ta mặc một chiếc áo sơ mi đã lâu không giặt, ngang mình thắt dây lưng, mặc một chiếc quần đi ngựa, đôi ủng bám đầy đất quện rơm. Mắt và mũi dính đầy bụi bặm. Ông ta nhận ra ngay Ivan Ivanưts và Burkin, và trông rõ là ông ta mừng rỡ. - Mời hai vị vào nhà tôi chơi. –ông ta vừa nói vừa cười- Tôi về ngay bây giờ đây. Nhà Aliôkhin khá to, gồm hai tầng. Aliôkhin ở tầng dưới trong hai căn phòng trần cuốn vòm và cửa sổ nhỏ -đấy là chỗ ở ngày xưa của người quản gia; nơi ăn chốn ở của Aliôkhin có một vẻ giản dị đơn sơ, thoang thoảng mùi bánh mì đen, mùi rượu vốt-ca rẻ tiền và mùi yên cương. Ông ta ít khi lên gác, nơi có phòng lớn sang trọng hơn, ông chỉ lên đó khi có khách thôi. Bước vào nhà, Ivan Ivanưts và Burkin gặp người hẫu gái, một phụ nữ còn trẻ, xinh đẹp đến mức mà cả hai người bất giác cùng đứng sững lại và nhìn sang nhau. - Các vị không thể hình dung nổi, tôi mừng thế nào khi gặp được các vị đâu, -Aliôkhin nói trong khi bước theo họ vào tiền sảnh- Tôi cũng không ngờ! Này cô Pêlagâya, -ông ta nói với người hầu gái- cô lấy cho mấy vị khách này quần áo khô để thay nhé. Tôi cũng phải thay quần áo. Nhưng mà trước tiên là phải đi tắm một cái đã chứ không lâu quá rồi, có dễ từ dạo xuân tới giờ tôi chưa tắm. Hai vị cùng đi tắm với tôi đi, tắm xong thì cô cũng sẽ sửa soạn xong quần áo thay. Cô Pêlagâya xinh đẹp, điệu bộ lịch sự, dáng vẻ dịu dàng, mang đến cho họ khăn tắm và xà phòng, Aliôkhin và hai vị khách đi ra nhà tắm ngoài đầm. - Phải rồi, lâu lắm rồi tôi chưa tắm, -Aliôkhin vừa cởi quần áo ngoài vừa nói-. Nhà tắm của tôi, các vị thấy đấy, cũng đẹp lắm chứ, làm từ thời còn cha tôi kia, nhưng mà cũng chẳng lúc nào rỗi rãi mà tắm. Ông ta ngồi xuống bậc, dội lên mái tóc dài, lên cổ, nước bên cạnh ông ngả sang màu nâu sẫm. - Lâu lắm tôi không tắm rồi –Aliôkhin ngượng ngùng nhắc lại, ông ta lại xát xà phòng dội nước lần nữa, nước bên cạnh chỗ ông ta ngồi lại hóa ra màu đen sẫm như màu mực. Ivan Ivanưts bước ra ngoài cầu, nhảy ùm xuống nước, sải tay bơi dưới trời mưa, sóng tỏa chung quanh, những bông hoa súng trắng dập dình trên mặt sóng. Ivan Ivanưts bơi đến giữa đầm thì lặn xuống, một lát sau nổi lên ở chỗ khác, bơi một quãng rồi lại hụp xuống cố lặn tới đáy. "Chà, mát quá.. -Anh thích thú nhắc lại- Chà, mát quá..". Bơi đến bên cối xay gió, anh dừng lại nói chuyện với những người nông dân, rồi bơi ngược trở về, đến khoảng giữa đầm, anh bơi ngửa, để cho mưa rơi xuống mặt mình. Burkin và Aliôkhin đã mặc quần áo và sắp sửa vào nhà, mà Ivan Ivanưts thì vẫn còn bơi và ngụp lặn. - Chà, mát ghê.. -anh nói- Cầu trời phù hộ.. - Anh sẽ gặp may đấy! Burkin nói to xuống đầm cho Ivan Ivanưts nghe thấy. Mọi người trở vào nhà. Và chỉ đến khi đèn đã châm sáng trong căn buồng trên gác, Burkin và Ivan Ivanưts đã mặc bộ quần áo thoáng rộng, bằng lụa toàn tơ, đi giày ấm và ngồi trong ghế bành, còn Aliôkhin thì sạch sẽ, chải chuốt trong bộ cánh đen đi đi lại lại trên gác như để thưởng thức tất cả vẻ ấm áp, sạch sẽ, quần áo thơm tho, đôi giày mềm nhẹ, khi cô Pêlagâya xinh đẹp bước êm êm trên tấm thảm dài và dịu dàng cười bưng khay trà và bánh qui lên, chỉ đến khi đó, Ivan Ivanưts mới bắt đầu vào câu chuyện; và anh có cảm tưởng rằng, không phải chỉ Burkin và Aliôkhin nghe anh kể thôi đâu mà những bà mệnh phụ cả trẻ lẫn già, những ngài mặc quân phục đang lặng lẽ, nghiêm nghị đứng trong những khung ảnh mạ vàng nhìn xuống cũng chăm chú lắng nghe. - Chúng tôi là hai anh em -Ivan Ivanưts bắt đầu kể-. Tôi và em tôi là Nhicôlai ivanưts, kém tôi hai tuổi. Tôi theo đuổi việc học và trở thành bác sĩ thú y, còn Nhicôlai thì từ năm mười chín tuổi đã đi làm viên chức ở sở thuế vụ. Ông thân sinh chúng tôi là Trimsa Ghimalaixki, vốn là con nhà lính. Nhưng sau khi được phong hàm sĩ quan thì đã để lại cho chúng tôi danh hiệu quí tộc truyền đời và một trang ấp nhỏ. Sau khi ông thân sinh mất đi, tôi phải bán trang ấp để trả nợ, nhưng dù thế chăng nữa, tuổi thơ ấu của chúng tôi cũng đã trôi qua dưới quãng trời khoáng đãng ở chốn thôn quê. Như tất cả lũ trẻ thôn quê khác, suốt ngày, suốt tối chúng tôi ở ngoài đồng, trong rừng, đi chăn ngựa, bóc vỏ cây, câu cá, bày đủ thứ trò chơi.. Các vị có biết không, ai trong đời mình dù chỉ một lần câu được con cá rô, hoặc là đã nhìn thấy về mùa thu đàn chim sáo bay về phương Nam, vào nhưng ngày tiết trời mát mẻ, quầng mây giăng hàng bay qua làng, thì người ấy không còn là dân thành phố nữa và cho đến khi chết, người ấy vẫn ước ao được sống giữa chốn thôn quê thoáng đãng. Làm ở sở thuế, em tôi cũng cảm thấy buồn tẻ lắm. Năm tháng cứ trôi qua, mà nó vẫn phải ngồi mãi một chỗ, ngày này qua ngày khác viết đi viết lại một thứ giấy tờ, lúc nào cũng mơ ước được về sống nơi thôn dã. Dần dần, nỗi buồn nhớ của chú ấy biến thành một nguyện vọng cụ thể, ao ước làm sao tậu được một trang ấp nhỏ ở một nơi nào đó ven sông, hay ven hồ. Em tôi là một người tốt bụng, dễ mến, tôi rất yêu cậu ta nhưng mà cái ao ước tự khóa chặt cả đời mình vào trong một trang ấp thì tôi không bao giờ thông cảm được. Người ta thường quen nói rằng con người chỉ cần ba thước đất. Nhưng chẳng phải là chỉ có xác chết mới cần ba thước đất, chứ con người đâu chỉ cần có thế! Bây giờ người ta cũng hay nói rằng nếu giới trí thức chúng ta để tâm nhiều hơn đến ruộng đất và ai nấy đều muồn về trang ấp thì đó là một điều đáng mừng. Nhưng rời bỏ thành phố, lánh xa những cuộc đấu tranh, lảng tránh cuộc sống sôi nổi, lẩn trốn về trang ấp của mình nơi thôn dã, đó không phải là sự sống, mà là sự ích kỷ, lười nhác, một kiểu đi tu, nhưng đi tu mà không lập nên kỳ tích gì. Con người không phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một trang ấp nhỏ, mà là tất cả trái đất, tất cả thiên nhiên; trên cả miền đất bao la ấy, con người mới có thể bộc lộ được hết phẩm chất và đặc điểm của tinh thần tự do của mình. Những lúc ngồi bên bàn giấy, em tôi đã mơ tưởng đến ngày sẽ được ăn đĩa súp bắp cải hái từ vườn nhà mình tỏa mùi thơm phức, ngon lành khắp sân, mơ tưởng những bữa ăn dọn ngay trên thảm cỏ xanh, được ngủ trong khu vườn râm mát dưới anh mặt trời, được ngồi hàng giờ liền trên chiếc ghế băng dài đặt ở lối cổng mà nhìn ra phía đồng và cánh rừng xa. Những cuốn sách nhỏ về nghề nông, những lời khuyên trong các cuốn lịch đã đem đến cho chú ấy niềm vui và là món ăn tinh thần chủ yếu; chú ấy ham đọc các báo, nhưng chỉ đọc trong đó những lời rao bán bao nhiêu mẫu đất, bãi cỏ cùng với những trang ấp có vườn, có cối xay gió, có sông lạch, ao đầm.. Và trong đầu chú hiện ra hình ảnh những con đường nhỏ chạy quanh co trong khu vườn bên những khóm hoa, cây quả, chuồng chim sáo sậu trên cây cao và những đàn cá chép dưới ao, các vị biết đấy tưởng tượng theo lối đó thì vô cùng. Khi đọc những lời rao trên báo, chú ấy hình dung ra đủ những bức tranh khác nhau, nhưng không hiểu vì lẽ gì trong những bức tranh thể nào cũng phải có khóm phúc bồn tử. Chúng ta không thể nào hình dung ra một trang ấp, một chốn đầy thơ mộng, mà lại thiếu khóm phúc bồn tử được. - Cuộc sống nơi thôn quê có những thú vị riêng -nhiều lần chú ấy nói- Ngồi trên ban công uống trà, dưới ao, đàn vịt của anh đang bơi lội, hương cây ngào ngạt, và.. và khóm cây phúc bồn tử mỗi ngày một lớn.. Chú ấy vạch ra viễn cảnh của trang ấp tương lai, và lần nào cũng vậy, viễn cảnh ấy hiện ra theo trình tự như sau: A) nhà trang chủ, b) nhà cho người làm, c) vườn rau, d) khóm phúc bồn tử. Chú ấy chi tiêu rất dè sẻn, ăn không no, uống không đủ, mặc xoàng xỉnh thế nào xong thôi, trông như kẻ hành khất, dành dụm được đồng nào chú ấy đều gửi vào nhà băng tất, tính tình chú ấy trở nên tham lam. Trông thấy chú ấy, tôi động lòng thương, thỉnh thoảng vào các dịp lễ tết, tôi cũng gửi giúp ít tiền, nhưng chú ấy đều để dành, không tiêu đến. Nếu người ta đã mải mê theo đuổi một ý định gì, thì chẳng biết khuyên can thế nào được nữa. Năm thánh qua đi, chú ấy chuyển sang làm ở một tỉnh khác, tuổi đã ngoài bốn mươi, thế mà chú ấy vẫn theo dõi đọc những lời rao vặt trên báo và dành dụm tiền. Sau đó tôi nghe là chú ấy lấy vợ. Cũng vẫn với mục đích làm sao mua được một trang ấp nhỏ có khóm cây phúc bồn tử chú ấy đi lấy một bà góa già, xấu xí mà lòng không chút yêu đương nào, chỉ bởi một lẽ rằng bà ta có một món tiền kha khá. Chú sống với vợ vẫn theo lối dè sẻn, hà tiện, cho bà ta ăn uống kham khổ, bao nhiêu tiền của bà ấy chú đều gửi tất cả vào nhà băng theo tên mình. Ngày trước bà ta lấy một ông chủ sự bưu điện; sống với ông ấy, bà ta quen được ăn các thứ bánh ngọt ngon lành, uống rượu mùi hảo hạng, còn bây giờ sống với chồng mới, bà dần dần héo mòn, ốm yếu trong cảnh sống như thế, chỉ khoảng ba năm sau là đã về chầu thượng đế. Và tất nhiên người em trai không bao giờ nghĩ rằng chú ấy có lỗi trong cái chết của bà ta. Tiền bạc, như rượu trắng, biến tâm tính con người thành kỳ quặc. Ở ngoài thành phố tôi ở, có một gã lái buôn hấp hối, trước khi chết y bảo người nhà mang đến một đĩa mật rồi chấm mật ăn hết số tiền và vé số trúng của mình, để số tiền đó không rơi vào tay ai khác. Có lần tôi đang khám cho một đám súc vật trên ga thì có một tay buôn ngựa bị ngã vào trước đày tàu đang chạy, anh ta bị cụt mất một chân. Chúng tôi khiêng anh ta vào phòng trong ga, máu chảy lênh láng, thật là khủng khiếp, thế mà anh ta chỉ một mực đòi mọi người tìm lại cho anh ta đoạn chân đã bị cụt, anh ta lo lắng một điều rằng trong đôi ủng nơi cẳng chân cụt của anh ta có nhét vào hai mươi rúp, chỉ sợ số tiền ấy bị mất. - Anh kể lạc đề rồi đấy –Burkin nói. - Sau khi vợ chết -Ivan Ivanưts nghĩ ngợi một lát rồi kể tiếp- người em trai tôi bắt đầu đi tìm một trang ấp. Tất nhiên là dù rằng có tìm chọn suốt dăm năm chăng nữa, cuối cùng vẫn có thể phạm sai lầm, mua phải nơi khác xa mơ ước của mình. Qua một tay môi giới, chú ấy đã mua một khu đất rộng một trăm hai mươi đêxiachin (1), có nhà lớn dành cho trang chủ, nhà cho người làm, có vườn hoa, nhưng không có vườn cây ăn quả, không hề có khóm phúc bồn tử nào, không có ao đầm vịt lội; kề bên một dòng sông nhưng nước đen sẫm như nước cà phê vì một bên sông là nhà máy gạch ngói, một bên nữa là nhà máy nung xương. Nhưng anh chàng Nhicôlai của tôi không lấy làm buồn; chú ấy đặt mua liền hai mươi khóm phúc bồn tử đem về trồng và bắt đầu sống cuộc đời một nhà điền chủ. Năm ngoái tôi có đến thăm chú ấy. Tôi định đến xem người em ăn ở ra sao. Trong những bức thư gửi cho tôi, anh ta tự gọi trang ấp của mình là "bãi hoang Tsumbarốclốp", "Ghimalaixkôêtôs". Quá trưa hôm đó, tôi đến "Ghimalaixkôêtôs". Trời nóng bức. Chỗ nào cũng thấy mương rãnh ngang dọc, nhiều hàng thông non mới được trồng, không thể biết được lối nào là lối đi vào sân, chỗ nào là chỗ buộc ngựa. Tôi bước lại gần ngôi nhà; đi ngược về phía tôi là một con chó lông màu vàng sẫm, béo phục phịch như lợn.. Chắc nó muốn sủa lắm, nhưng lười nhác nên lại thôi. Một mụ đầu bếp bước ra, chân đi đất, cũng béo ục ịch như lợn, bà ta nói rằng ông chủ đang nằm ngủ sau bữa ăn trưa. Tôi vào trong phòng người em trai, anh ta ngồi trên giường, chăn phủ kín chân; trông chú ấy già đi, người béo bện trắng nhợt, má, mũi và đôi môi cứ chảy ra. Chúng tôi ôm nhau, sụt sịt khóc một chút, phần vì mừng quá, phần thì buồn rầu nghĩ rằng mới ngày nào còn trẻ trung mà bây giờ cả hai tóc đều đã lốm đốm bạc, chẳng mấy chốc là đến lúc chết rồi. Anh ta mặc quần áo vào rồi dẫn tôi đi xem trang ấp của mình. - Thế nào, chú sống ra sao? –Tôi hỏi. - Nhờ trời, không đến nỗi nào, cũng thoải mái anh ạ. Đây không còn là chàng viên chức nghèo rụt rè ngày xưa, mà đã là một điền chủ thực sự, một ông bá hộ. Anh ta đã sống quen ở đây, quen với nếp sống nhàn nhã mới, ăn rất nhiều, tắm trong nhà tắm, người dần phát phì ra, đã có chuyện kiện cáo với những kẻ giàu sang trong vùng và với hai nhà máy bên sông; mỗi lần nông dân không thưa gởi với chú ấy bằng chữ "bẩm ngài" thì chú ấy nổi giận thật sự. Chú ấy cũng biết lo đến nơi đến chốn cho phần hồn của mình, theo lời người giàu; và chú ấy làm những việc từ thiện không phải là một cách giản đơn mà đầy vẻ hệ trọng. Những việc từ thiện là việc gì? Là chữa các thứ bệnh cho nông dân bằng nước xô-đa, bằng dầu thầu dầu, vào những ngày thánh trùng tên với mình thì làm lễ tạ ơn ở giữa làng, rồi sau đó cho đem đến nửa thùng rượu và nghĩ rằng cần thiết phải làm thế. Chao ôi, những thùng rượu nửa vời như thế thật là khủng khiếp! Hôm nay ngài địa chủ béo bự lôi đến nhà hội đồng hương chính bắt vạ những người nông dân vô ý để ngựa ăn lúa, thế mà hôm sau, vào ngày lễ, ngài ấy đã đem đặt giữa sân một thùng rượu lưng lưng, và những người nông dân xúm vào uống, miệng kêu gào tung hô ông chủ, say mềm phủ phục dưới chân người làm phúc! Cuộc sống thay đổi theo chiều hướng đầy đủ hơn, sự no nê, nhàn rỗi -những cái đó đã làm tăng lên trong con người Nga cái tính hợm hĩnh tự phụ, điều đáng ghê tởm nhất. Anh chàng Nhicôlai xưa kia, hồi còn làm ở bàn giấy sở thuế, nhút nhát đến mức không dám có ý kiến riêng, bây giờ thì lại chỉ nói rặt những điều chân lý, với cái giọng hệt như ngài bộ trưởng, đại loại: "Học thức là cần thiết, nhưng đối với dân chúng thì hơi sớm". "Nhục hình nói chung là có hại, nhưng trong một vài trường hợp thì nó cũng giúp ích và không thể thay thế được. - Tôi hiểu đám dân chúng và biết cách đối xử với họ -anh ta nói-. Dân chúng kính nể tôi. Tôi chỉ cần giơ ngón tay trỏ lên là bọn họ sẽ làm tất cả những gì tôi muốn. Các vị nên để ý rằng, chú ấy nói những lời ấy với nụ cười ra vẻ thông minh và phúc hậu. Có đến hai chục lần tôi nghe thấy chú ấy nói:" Những nhà quí tộc "; chắc hẳn là chú ấy đã quên mất rằng ông nội chúng tôi là nông dân, còn ông thân sinh vốn là lính. Thậm chí cả cái họ Trimsa-Ghimalaixki thực ra nghe cũng chẳng lấy làm gì thuận tai cho lắm, đối với anh ta bỗng trở nên thú vị, êm tai, nghe rất kêu và đầy vẻ quý phái. Nhưng điều đáng nói là không phải về phần chú ấy, mà là về phần tôi. Tôi muốn kể cho các vị nghe những gì đã đổi thay trong tôi vào thời gian ngắn ngũi tôi đến thăm trang ấp. Buổi tối, khi chúng tôi ngồi uống trà, mụ đầu bếp bưng lên bàn cả một đĩa đầy quả phúc bồn tử. Đó không phải là của đi mua về, mà là của nhà hái lần đầu tiên kể từ khi những khóm phúc bồn tử được trồng sau vườn nhà. Nhicôlai ivanưts cười thích chí, rồi im lặng nhìn đĩa phúc bồn tử một lúc, ứa nước mắt –anh ta không thể nói được câu gì vì xúc động, lát sau anh ta đưa lên miệng một quả, nhìn tôi với vẻ đắc thắng của đứa trẻ cuối cùng đã có được thứ đồ chơi nó mơ ước và nói: - Chà, ngon quá! Anh ta ăn nghiến ngấu, luôn mồm nhắc lại: Chà, ngon thật! Anh ăn thử mà xem! Thứ quả ấy vừa cứng vừa chua, nhưng như Puskin đã nói:" Bóng tối của chân lý còn đáng quý hơn là sự giả dối tâng bốc chúng ta". Tôi đã nhìn thấy một người hạnh phúc, ước mơ ấp ủ bấy lâu đã biến thành sự thực, anh ta đã đạt được mục tiêu trong cuộc sống, đã có được cái mà anh ta muốn, đang thỏa mãn với số phận của mình, thỏa mãn với chính bản thân con người mình. Không hiểu vì đâu những ý nghĩ riêng của tôi về hạnh phúc con người bao giờ cũng pha lẫn buồn rầu; và đến lúc này, khi nhìn thấy trước mặt một con người thỏa mãn hạnh phúc, một cảm giác nặng nề gần như tuyệt vọng đã choán cả lòng tôi. Nhất là về đêm khuya. Người hầu soạn dọn chỗ ngủ cho tôi trong văn phòng bên cạnh giường ngủ của em tôi, và tôi nghe rõ anh ta trằn trọc không ngủ được, chốc chốc lại trở dậy, bước ra chỗ bàn đặt dĩa phúc bồn tử và nhặt từng quả đưa lên miệng. Tôi nghĩ rằng, quả thật đã có quá nhiều người thỏa mãn, hạnh phúc! Đó là cả một sức đè nặng ghê gớm! Các vị hãy thử nhìn kỹ vào cuộc đời này: Sự đê tiện, nhàn hạ của những kẻ có quyền thế và sự u mê, lam lũ như súc vật của những người bị trị, chung quanh là cảnh nghèo khổ đến cùng cực, chật chội, tha hóa, rượu chè, nghiện ngập, đạo đức giả, dối trá.. Thế mà trong tất cả các ngôi nhà, trên tất cả mọi đường phố vẫn im lặng, yên tĩnh; trong cả số năm mươi vạn người sống trong thành phố, không có lấy một người thét to lên, giận dữ. Chúng ta nhìn thấy những người đi chợ mua rau, mua thịt, ban ngày thì ăn, ban đêm thì ngủ, những người nói với nhau những lời vô vị vô nghĩa, lấy vợ, lấy chồng sinh con để rồi già đi, những người lặng lẽ và vô tư đưa người thân ra chốn nghĩa trang, nhưng chúng ta không nghe thấy, không nhìn thấy những người đang đau khổ, và dường như những điều kinh khủng trong cuộc sống chỉ diễn ra ở một nơi nào khuất kín. Mọi sự đều yên tĩnh, êm thắm, và chỉ có những con số thống kê câm lặng là biết phản đối: Bao nhiêu người đã phát điên, đã uống hết bao nhiêu thùng rượu, bao nhiêu trẻ con bị chết yểu vì thiếu ăn.. Và cái thứ trật tự ấy chắc là cần thiết; rõ ràng là kẻ hạnh phúc cảm thấy mình sung sướng chỉ vì rằng những người bất hạnh đã im lặng chịu đựng gánh nặng đè lên đầu, lên cổ mình; không có sự im lặng ấy thì không thể có hạnh phúc cho những người kia. Đó là một trạng thái mơ ngủ khắp nơi. Cần phải làm sao để cứ ở ngoài cửa buồng mỗi kẻ an nhàn, sung sướng có một người đứng cầm búa và luôn tay gõ vào cửa nhắc nhở rằng hiện đang có những người bất hạnh, rằng dù anh sung sướng đến đâu sớm hay muộn rồi cuộc sống cũng sẽ cho anh biết thế nào là móng vuốt của nó. Tai họa sẽ giáng xuống đầu anh, đó là nghèo đói, bệnh tật, thua lỗ, và sẽ không ai nghe thấy, nhìn thấy anh ta cũng giống như bây giờ anh ta không nhìn thấy, nghe thấy một ai khác. Nhưng không có ai cầm búa gõ, kẻ thỏa mãn vẫn sống bình yên, và những lo toan nhỏ nhặt ngoài đời chỉ làm tâm trí anh ta khẽ xao động như cành dương trước làn gió nhẹ -và vạn sự đều êm thấm cả. - Vào đêm hôm ấy, tôi hiều rõ rằng, chính tôi cũng là một kẻ thỏa mãn, sung sướng -Ivan Ivanưts đứng dậy nói tiếp- Tôi cũng thuyết lý về cách sống, cách cai trị dân chúng, về đức tin trong bữa ăn và trong lúc đi săn. Tôi cũng nói rằng học thức là ánh sáng, rằng học thức là cần thiết, nhưng đối với quảng đại dân chúng thì bây giờ chỉ cần biết chữ thôi cũng được rồi. Tôi nói, tự do là một quyền lợi lớn, cần thiết như khí trời không thể không có được, nhưng cần phải chờ đợi mới có. Phải rồi, tôi đã nói như thế, và bây giờ tôi xin hỏi: Vì lẽ gì mà phải chờ đợi như vậy? -Ivan Ivanưts hỏi, cáu kỉnh nhìn vào Burkin- Vì lẽ gì mà phải chờ đợi, tôi xin hỏi các vị. Vì những lý sự gì? Người ta nói với tôi rằng tất cả không phải là có ngay trong một lúc, mọi ý định trong cuộc sống đều được thực hiện dần dần, đúng lúc, đúng thì của chúng. Nhưng điều đó ai nói? Có gì chứng minh rằng điều đó là đúng? Họ viện vào cái gọi là trật tự tự nhiên của sự vật, vào tính quy luật của mọi hiện tượng, nhưng liệu có chút quy luật nào trong trường hợp nếu tôi, một người đang sống, biết suy nghĩ, đứng bên cạnh một cái hào và chờ cho nó tự lấp, hay là bùn lắp láp cho nó, trong khi tôi có thể tự nhảy qua hoặc là đặt qua nó một cái cầu? Và vấn đề là vì lẽ gì mà phải chờ đợi? Chờ đợi khi không còn sức để sống, trong khi cần phải sống và muốn sống! Sáng sớm hôm sau tôi rời khỏi trang trại người em và từ đó tôi không thể nào chịu được mỗi khi phải ở trong thành phố. Sự im lặng, yên tĩnh, êm thấm chung quanh làm lòng tôi nặng trĩu, tôi sợ hãi không dám nhìn lên những khung cửa sổ, bởi vì đối với tôi bây giờ không có cảnh nào kinh khủng hơn là cảnh một gia đình yên ấm ngồi quây quần quanh bàn và uống nước chè. Tôi đã già, không còn sức tranh đấu, thậm chí tôi không còn sức để căm giận nữa. Tôi chỉ còn biết buồn bã trong lòng, bức bối, khó chịu, đêm đêm đầu tôi quay cuồng với những ý nghĩ theo nhau dồn dập đến, và tôi không thể nào ngủ được. Ôi, nếu tôi còn trẻ trung! Ivan Ivanưts xúc động đi đi lại lại trong phòng và nhắc lại: - Ôi, nếu tôi còn trẻ trung! Bất ngờ, ông bước lại gần Aliôkhin, lần lượt nắm cả hai tay Aliôkhin và nói với giọng gần như cầu khẩn: - Paven Kônxtanchinưts! Đừng an phận, đừng để cho còn người mình mê ngủ! Bây giờ anh còn trẻ, khỏe, đầy nghị lực, hay hãy làm nhiều việc thiện, đừng mệt mỏi! Hạnh phúc không có, và không thể có, nhưng nếu trong cuộc sống có ý nghĩa và mục đích, thì ý nghĩa, mục đích đó chắc chắn hoàn toàn không phải ở trong hạnh phúc của riêng ta mà là ở một cái gì cao cả hơn, hợp lý hơn. Anh hãy cố làm nhiều điều thiện! Tất cả những lời đó, Ivan Ivanưts nói với nụ cười đáng thương, đầy vẻ khẩn cầu, dường như anh nói những lời đó để khẩn cầu cho riêng mình. Sau đó, cả ba người đều ngồi trong những chiếc ghế bành đặt ở góc khác nhau trong phòng khách, và cùng im lặng. Câu chuyện của Ivan Ivanưts không làm cho Burkin, không làm cho Aliôkhin cảm thấy thỏa mãn chút nào. Khi mà những vị tướng, những bà mệnh phụ vào buổi chiều tà trông như người sống thực đang từ trên khung ảnh mạ vàng nhìn xuống gian phòng thì thật là buồn tẻ khi phải nghe câu chuyện về anh viên chức nghèo ăn phúc bồn tử. Không hiểu vì sao, trong khung cảnh ấy người ta muốn được nghe về những người đẹp đẽ, về những phụ nữ. Và cái mà tất cả- từ những chùm đèn treo đang phủ vải, đến ghế bàn, đến thảm trải dưới chân- đều nhắc nhở rằng nơi đây ngày xưa các bà, các ông đang nhìn từ trong khung cảnh dát vàng kia đã từng đi lại, ngồi uống trà, và cả cái điều rằng trước mắt ba người giờ đây, cô Pêlagâya xinh đẹp đang nhẹ nhàng bước đi, những điều ấy còn thú vị hơn cả mọi câu chuyện. Aliôkhin cảm thấy buồn ngủ ghê ghớm; để lo việc đồng áng, ông ta đã dậy rất sớm, từ lúc 3 giờ sáng, và bây giờ mắt ông ta díu lại; nhưng sợ rằng, khi vắng mặt mình, nhỡ khách lại kể chuyện gì lý thú, nên ông vẫn ngồi nguyên, không bỏ đi. Những điều Ivan Ivanưts vừa nói có thông minh không, có đúng không, Aliôkhin cũng chẳng cất công nghĩ ngợi làm gì; các vị khách không nói về lúa má, rơm mạ, về nhựa thông, mà họ nói về một chuyện gì chẳng có quan hệ trực tiếp đến cuộc sống của ông, và ông thấy vui vui, muốn họ tiếp tục câu chuyện. - Nhưng mà cũng đến giờ đi ngủ rồi đấy –Burkin, vừa đứng dậy vừa nói- Cho phép tôi chúc ông đêm nay ngủ ngon. Aliôkhin chào khách rồi trở xuống buồng ngủ của mình dưới nhà, khách thì ở lại trên gác. Chủ dành cho khách cả căn buồng to với hai chiếc giường gỗ rộng đầy đường nét chạm trang trí, trong góc phòng có đặt bức tượng chúa Jêsu bị đóng đinh câu rút bằng ngà voi; khăn gối mát dịu mà cô Pêlagâya xinh đẹp vừa soạn dọn tỏa ra mùi thơm tho, sạch sẽ. Ivan Ivanưts lặng lẽ cởi quần áo ngoài và nằm xuống giường. - Xin các đấng bề trên tha tôi cho chúng con! –ông lâm râm nói và lấy chăn che kín đầu. Từ cái tẩu cháy dở của ông đặt trên bàn tỏa ra một mùi thuốc lá khen khét; rất lâu Burkin không ngủ được, không biết cái mùi khen khét khó chịu đó ở đâu ra. Ngoài song cửa sổ, mưa vẫn đều đều rơi suốt đêm.
Tác phẩm: Lảo quản Prisưbeép Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn - ÔNG QUẢN PRISƯBEÉP! Ông bị truy tố về tội ngày mồng ba tháng Chín này đã dùng lời nói và hành động mà làm nhục ông trương tuần Giưghin, ông chánh tổng Aliapốp, bá hộ Ephimốp, hai nhân chứng Ivanốp và Gavơrilốp cùng với người nông dân khác nữa, ba người đầu tiên trong số đó bị ông thóa mạ trong lúc họ đang thi hành công vụ. Ông có nhận rằng mình có tội không? Prisưbeép, lão quản mặt mày trông độc địa kệch cỡm, úp thẳng hai tay vào hai nẹp quần và trả lời bằng một giọng khàn khàn, ẹ ẹ nơi cổ, dằn từng tiếng một hệt như đang chỉ huy: - Kính bẩm ngài chánh án! Vậy là căn cứ theo mọi điều khoản của luật pháp thì phải nghiên cứu mọi trạng huống cả từ hai phía. Không phải tôi có tội mà là hết thảy những người kia. Tất cả mọi chuyện xảy ra là do một cái xác chết. Ngày mồng ba vừa rồi tôi cùng với bà Anphixa nhà tôi đang đi rất thong dong, đường hoàng, thì nhìn thấy bên bờ sông có một đám đông dân chúng gồm đủ hạng người khác nhau tụ tập lại. Điều luật nào cho phép dân chúng được tụ tập, tôi hỏi thế. Để làm cái gì? Có phải luật pháp đã nói rằng dân chúng được phép đi thành bầy thành đàn à? Tôi quát: Giải tán! Rồi tôi bắt đầu xua cho họ ai về nhà nấy, ra lệnh cho ông bá hộ tống cổ.. - Khoan đã, nhưng mà ông có phải là trương tuần, là lý trưởng đâu, xua đuổi dân chúng là phận sự của ông à? - Không phải, không phải của nó! - tiếng mọi người nhao nhao lên khắp phòng. - Bẩm quan án, không sống được với nó đâu. Chúng tôi đã phải chịu khổ chịu sở với nó mười lăm năm nay rồi! Từ khi nó giải ngũ về thì thà cứ bỏ làng bỏ xóm mà đi còn hơn. Nó làm tình làm tội tất cả mọi người rồi! Đúng thế, bẩm quan án, - viên lý trưởng được đòi đến làm nhân chứng nói. - Cả làng cả xóm đều kêu ca ạ. Không thể nào sống yên ổn với nó được! Dân làng chúng tôi đi rước hình Chúa, hoặc có đám cưới xin hay giả dụ như có dịp gì khác, ở đâu nó cũng gào cũng thét, chỗ nào cũng đòi chỉnh đốn lại trật tự. Véo tai trẻ con, dòm dỏ rình mò cánh đàn bà con gái xem có chuyện gì không, cứ như bố chồng người ta không bằng.. Gần đây nó đảo qua mọi nhà ra lệnh cấm không được hát, tối đến không được thắp đèn. Nó bảo chẳng có luật pháp nào cho phép hát hỏng cả. - Khoan đã, lát nữa ông sẽ còn dịp trình bày, - quan chánh án nói, - bây giờ thì để cho Prisưbeép nói tiếp. Tiếp tục đi, Prisưbeép! - Xin vâng, - lão quản cất giọng rè rè. - Thưa ngài chánh án, ngài đã hạ cố phán rằng xua đuổi dân chúng không phải phận sự của tôi.. Được rồi.. Nhưng mà nếu có những chuyện phá rối trị an thì sao? Chẳng lẽ lại cứ để cho dân chúng họ làm loạn thế à? Trong luật pháp có chỗ nào viết rằng dân chúng được quyền muốn làm gì thì làm đâu? Tôi không thể để yên được. Nếu tôi không xua đuổi, không bắt phạt họ thì ai sẽ làm việc ấy? Không một ai biết các thứ luật lệ hiện hành, cả làng này chỉ có một mình tôi, thưa ngài chánh án, tôi có thể nói, chỉ một mình tôi biết phải đối xử với bọn thường dân này như thế nào, thưa ngài, tôi có thể hiểu rõ mọi điều. Tôi không phải là đứa nông phu quê kệch, tôi là một viên quản, trước đây đã từng là thủ kho nhà binh, đã đóng ở Vácsava, ở bộ tham mưu, tiếp đấy, xin ngài biết cho, sau khi giải ngũ, tôi đã làm ở đội chữa cháy, sau đó vì ốm yếu tôi thôi không làm chữa cháy nữa và hai năm liền làm nghề gác cổng cho một trường nam tiểu học.. Mọi luật lệ tôi đều được biết. Còn bọn nông phu là hạng người tầm thường ngờ nghệch, không hiểu biết gì cả và phải nghe lời tôi như thế chính là có lợi cho bọn họ. Cứ lấy tỉ dụ như là cái trường hợp vừa rồi.. Tôi xua đám dân làng đi vì ở bãi cát trên bờ sông có xác người chết đuối. Tôi hỏi, căn cứ vào đâu mà kẻ chết kia lại nằm ở đấy? Chẳng lẽ như vậy là hợp lệ sao? Viên trương tuần kia sao lại chỉ đứng nhìn? Tôi hỏi, này anh trương tuần, tại sao anh lại không tâu bẩm việc này với thượng cấp? Có thể là người chết đuối này tự dìm mình, mà cũng có thể dính dáng đến chuyện đi tù Xibiri chứ chẳng chơi. Có thể đó là một vụ giết người thuộc hình sự.. Thế mà viên trương tuần Giưghin cứ tỉnh khô như không mà hút thuốc. Anh ta nói: "Sao ông lại cứ làm như người chuyên ra mệnh lệnh thế kia? Ở đâu chui lên cái thứ người ra lệnh ấy? Không có ông ra lệnh có dễ chúng tôi lại không biết làm gì sao?" Tôi nói, vậy là anh ngu, anh không biết gì cả, nếu anh cứ đứng đực mặt ra thế kia. Anh ta nói: "Ngay từ hôm qua tôi đã bẩm báo lên ngài xã tuần". Tôi hỏi, việc gì lại phải báo cho xã tuần? Căn cứ theo điều khoản nào của bộ luật? Chẳng lẽ trong những trường hợp có người chết đuối, người thắt cổ và những trường hợp tương tự, chẳng lẽ trong những trường hợp như vậy ngài xã tuần lại có thể giải quyết được sao? Tôi nói đây là một vụ hình sự, đây là việc của bên dân sự.. Tôi nói, gặp trường hợp ấy thì phải cấp báo cho ngài dự thẩm và các vị quan tòa. Tôi nói, việc trước hết, đầu tiên nhất anh phải làm là lập biên bản và gửi cho ngài chánh án. Thế mà viên trương tuần lại cứ vừa nghe vừa cười hoài! Bọn nông phu kia cũng vậy. Tất cả đều cười, thưa ngài chánh án. Tôi có thể xin thề mà khai như vậy. Đây, ông này, ông nọ nữa và cả Giưghin nữa đều cười. Tôi nói, làm gì mà nhe hết cả răng ra thế kia? Thế rồi chính viên trương tuần thì nói rằng: "Những chuyện này cũng chẳng dính dáng gì đến ông chánh án". Nghe câu nói đó, tôi đã sôi tiết lên. Này trương tuần, có phải ngươi nói thế không? - Lão quản hướng tới trương tuần Giưghin. - Tôi có nói. - Mọi người đều nghe thấy nhà ngươi nói với mọi người dân thường vậy. "Những chuyện này cũng chẳng dính dáng gì đến ông chánh án". Mọi người đều nghe thấy nhà ngươi nói thế.. Thưa ngài chánh án, nghe câunói đó tôi đã lộn cả tiết, tôi còn phát hoảng lên nữa. Tôi bảo anh ta, thử nói lại, nói lại câu nhà ngươi vừa nói đi! Anh ta lại nhắc lại những lời ấy.. Tôi liền bước đến gần anh ta. Tôi bảo, làm sao mà nhà ngươi lại dám nói tới ngài chánh án bằng những lời lẽ như vậy hả? Ngươi là trương tuần thế mà ngươi lại chống lại chính quyền à? Hả? Tôi bảo, nhà ngươi có biết rằng quan chánh án, nếu ngài muốn, ngài có thể gô cổ nhà ngươi giải lên Sở hiến binh của tỉnh vì lý do nhà ngươi đã có hành vi khả nghi như vậy không? Tôi nói, nhà ngươi có biết căn cứ vào những câu đầy tính chất chính trị như vậy ngài chánh án có thể đày nhà ngươi đi những đâu không? Còn ông chánh tổng thì nói: "Ngài chánh án không thể can thiệp đến những việc ngoài quyền hạn của mình được. Ngài chỉ có thể giải quyết được những việc lặt vặt thôi". Đấy, ông ta nói như thế đấy, mọi người đều nghe được.. Tôi bảo, sao ông lại dám thóa mạ chính quyền như vậy hả? Tôi bảo, này đừng có mà giở trò cợt nhả với tôi, bằng không chuyện sẽ chẳng hay hớm gì đâu, người anh em ạ. Hồi còn đóng ở Vácsava hay còn làm gác cổng ở trường nam tiểu học hễ mỗi lần tôi nghe thấy có câu nói nào không thuận tai là tôi dòm ngay ra ngoài phố xem có ông cảnh binh nào không; tôi nói: "Mời ông lại đây, lại đây, ông cảnh binh", và bẩm báo hết với ông ấy. Thế còn ở xóm làng này thì biết nói với ai? Tôi nổi cáu lên, tôi phát bực là dân chúng bây giờ quên hết cả phép tắc, chẳng còn biết sợ luật pháp gì nữa, thế rồi tôi vung tay lên và.. tất nhiên là không có gì là mạnh quá, mà đúng là nhè nhẹ tay thôi để cho ông ta chừa cái thói dám nói những lời hỗn xược như vậy với quan trên.. Viên trương tuần nhảy vào bênh chánh tổng. Vậy là tôi nện cả trương tuần.. Và cứ thế.. Tôi nổi nóng lên, thưa ngài, mà không đánh chúng nó không đừng được. Không cho đứa ngu xuẩn nó ăn đòn thì thật là có tội với lương tâm. Phải thế thôi, nếu có chuyện.. nếu có sự phá rối trị an.. - Được rồi! Nhưng mà chuyện phá rối trị an đã có người lo. Đã có trương tuần, lý trưởng, bá hộ.. - Trương tuần không dòm dỏ gì đến chuyện đó cả, mà anh ta cũng không hiểu được điều tôi hiểu đâu.. - Nhưng mà ông quản, ông hiểu cho, đấy không phải là chuyện của ông! - Sao? Sao lại không phải là chuyện của tôi? Kỳ cục thật.. Mọi người làm loạn, rồi thế là không phải chuyện của tôi! Thế ra tôi phải khích lệ chúng à? Đấy bọn họ vừa kêu ca với ngài rằng tôi cấm không cho họ hát.. Nhưng mà trong các bài hát ấy thì có gì hay hớm đâu kia chứ! Đáng lẽ là phải kiếm một việc gì mà làm thì bọn họ lại hát.. Lại còn tối tối họ bắt đầu ngồi quanh đèn nữa chứ. Đáng lẽ phải đi ngủ thì bọn họ lại còn ngồi tán gẫu, cười đùa với nhau. Tôi có ghi lại hết! - Ông ghi lại cái gì kia? - Ghi tên những ai nhà có giong đèn. Prisưbeép rút trong túi ra một mảnh giấy dính mỡ, đeo kính lên và đọc: - Nhà của những người nông dân sau đây có thắp đèn: Ivan Prokhorốp, Xápva Mikiphorốp, Pêtơrơ Pêtơrốp. Vợ lính Suxtơrôva, một mụ góa ăn nằm bừa bãi trái phép với Xemiôn Kixlốp. Igơnát Xverơsốc làm nghề tà thuật, còn vợ hắn ta là Mavra là một mụ phù thủy, đêm đêm chuyên đi vắt trộm sữa bò nhà khác. - Đủ rồi! - ngài chánh án phán và bắt đầu hỏi các nhân chứng. Lão quản Prisưbeép nâng kính lên trán và kinh ngạc nhìn quan chánh án, người mà rõ ràng đã không đứng về phía lão ta. Đôi mắt lồi của lão long lên sòng sọc, mũi chuyển sang màu đỏ lự. Lão nhìn quan chánh án, nhìn các nhân chứng và không thể nào hiểu được vì sao quan lại có vẻ xúc động thế và vì sao từ khắp mọi góc trong phòng đều nghe thấy khi thì tiếng xì xào, khi thì tiếng cười húng hắng trong miệng. Lão cũng không hiểu nổi bản án nữa: Một tháng phạt giam! - Vì tội gì? - lão dang hai tay ra tỏ rằng không hiểu được. - Căn cứ vào điều luật nào? Đối với lão rõ ràng là thế giới đã đổi khác, là không thể nào sống trên đời này được nữa. Những ý nghĩ buồn bã, đen tối ám ảnh lão ta. Nhưng khi bước ra khỏi phòng xử án, nhìn thấy đám nông phu tụ tập nói với nhau cái gì đấy, thì lão ta, theo một thói quen không thể nào tẩy rửa được, bèn duỗi thẳng tay theo đường nẹp quần và quát to bằng cái giọng rè rè giận dữ: - Ê, dân chúng, giải tán ngay! Không được xúm đông thế này! Ai về nhà nấy!
Tác phẩm: Vanka Tác giả: A. P. Chekhov Thể loại: Truyện ngắn VANKA GIUKỐP là một cậu bé chín tuổi, trước đây ba tháng đã được gửi đến nhà ông thợ giày Aliakhin để học việc, vào đêm lễ Giáng Sinh cậu không nằm ngủ. Đợi đến lúc ông bà chủ nhà và mấy người thợ phụ đi lễ nhà thờ sáng sớm, cậu bé lấy từ trong chiếc tủ của ông chủ một lọ mực nhỏ, cây bút với chiếc ngòi đã gỉ, để một tờ giấy nhàu nát ra trước mặt rồi bắt đầu viết. Trước khi đặt bút viết chữ đầu tiên, mấy lần cậu sợ sệt đưa mắt nhìn cửa ra vào và cửa sổ, liếc nhìn bức ảnh thánh tối sẫm treo giữa hai dãy giá gỗ xếp đầy những bộ khuôn đóng giày, rồi thở dài đứt đoạn. Cậu đặt tờ giấy lên chiếc ghế bằng và quỳ xuống bên ghế. "Ông Konxtantin Makarứts thân yêu! - cậu viết. - Cháu viết thư cho ông đây. Cháu chúc mừng ông nhân dịp lễ Giáng Sinh và chúc ông được Thượng Đế ban cho nhiều may mắn. Cháu chẳng còn bố, còn mẹ, cháu chỉ còn có một mình ông thôi". Vanka đưa mắt nhìn ra cửa sổ tối sẫm thấp thoáng phản chiếu bóng cây nến của cậu, và xúc động tưởng tượng ra người ông của mình hiện đang làm người gác cổng ban đêm cho nhà chủ Giưvarép. Ông cụ nhỏ nhắn, gầy gò, nhưng khôn ngoan, nhanh nhẹn khác thường, tuổi chừng sáu mươi lăm, vẻ mặt lúc nào cũng như đang cười và đôi mắt thì ngà ngà say. Ban ngày cụ ngủ trong bếp của đám người hầu hạ hay tán chuyện tầm phào với mấy bà đầu bếp, đến đêm thì cụ khoác tấm áo lông cừu thô rộng đi vòng quanh trang trại và gõ cái mõ của mình. Cúi đầu đi theo sau cụ là con chó già Kastanka và con chó Viun - gọi như thế vì con Viun có bộ lông màu đen và thân mình dài ngoẵng như một chú chồn. Con Viun lúc nào cũng tỏ ra hết sức hiền lành và kính nể mọi người, với người thân hay người lạ nó cũng đều nhìn bằng đôi mắt quấn quít xun xoe, nhưng nó vẫn không được ai tin cậy. Đằng sau cái vẻ hiền lành, lễ phép ấy là một sự tinh ranh tráo trở. Không một con chó nào biết thạo hơn nó cách lẻn đến đằng sau và đớp nhanh vào chân, ăn vụng thức ăn để trong hầm chứa hay bắt trộm gà của dân làng. Người ta đã nhiều lần đánh què hai chân sau, vài lần treo nó lên, tuần nào cũng đá cho nó một trận nhừ tử, nhưng lần nào nó cũng sống lại. Bây giờ chắc ông đang đứng ở cổng, nheo mắt nhìn những khung cửa sổ sáng đỏ của ngôi nhà thờ làng, rồi vừa đập đập đôi ủng dạ vào nhau vừa tán gẫu với đám đầy tớ. Cái mõ ông đeo bên thắt lưng. Ông vỗ vỗ tay, người co ro lại vì lạnh, rồi vừa cười hì hì theo lối cười của người già vừa véo bà hầu phòng, bà đầu bếp. - Này, ngửi tí thuốc hút chứ? - ông cụ vừa nói vừa đưa hộp thuốc của mình cho hai bà đó. Hai bà ngồi ngửi rồi hắt hơi. Ông cụ thích chí không thể tả được, khoái trá cười vang và kêu lên: - Thuốc này tốt lắm đấy! Họ cho cả chó ngửi thuốc lá nữa. Con Kastanka hắt hơi, ngoay ngoảy đầu rồi giận dỗi bỏ sang một bên. Con Viun vì nể không hắt hơi mà chỉ ngoáy ngoáy đuôi. Thời tiết thì thật là đẹp. Không khí thật êm dịu, trong lành và tươi mát. Màn đêm sẫm sẫm tối, nhưng vẫn nhìn rõ cả xóm làng với những mái nhà màu trắng và làn khói nhè nhẹ bay lên, những hàng cây phủ một lớp tuyết trắng và những đống tuyết. Khắp bầu trời chi chít những vì sao vui nhấp nháy, và dòng sông Ngân hiện ra lồ lộ như trước ngày lễ có ai đã rửa sạch và trải lên đấy tuyết trắng.. Vanka thở dài, chấm bút vào lọ mực rồi viết tiếp: "Ngày hôm qua cháu bị đánh một trận đau lắm ông ạ. Ông chủ nắm tóc cháu lôi ra ngoài sân rồi lấy dây da đánh cháu tới tấp vì tội cháu đưa nôi cho con ông chủ ngủ mà cháu trót ngủ quên đi mất. Tuần vừa rồi bà chủ sai cháu mổ con cá mòi, cháu lại bắt đầu làm từ đuôi, thế là bà ta cầm cả con cá mòi mà quật vào mặt cháu. Mấy người thợ học việc toàn trêu cười cháu, bảo cháu ra ngoài quán mua rượu vốtka lại còn bắt cháu lấy trộm dưa chuột của ông bà chủ, thế là ông chủ vớ được cái gì liền quật cháu tới tấp. Ăn thì chẳng có gì. Buổi sáng ông bà chủ cho cháu một miếng bánh mì, buổi trưa cho bát cháo, đến tối lại một mẩu bánh, còn có bao nhiêu canh bắp cải hay nước chè thì ông bà chủ ngốn hết, ông ạ. Ông bà chủ bắt cháu ngủ ngoài hành lang, khi con người ta khóc thì cháu chẳng được ngủ tí nào mà cứ phải đưa nôi suốt. Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về làng, cháu chẳng chịu được nữa.. Cháu van lạy ông, cháu cầu Thượng Đế suốt ngày đêm, để ông đến mang cháu đi khỏi nơi này, không, cháu có thể chết mất.." Mồm Vanka méo xệch, cậu đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc. "Cháu sẽ tán nhỏ thuốc lá cho ông, - cậu viết tiếp, - có trời chứng giám, nếu có gì thì ông cứ đánh cháu cật lực, còn nếu ông nghĩ là không có việc gì cho cháu làm thì cháu sẽ cố xin đánh giày cho ông quản gia hay là đi chăn bò thế chỗ thằng Phếtka. Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ còn nước là chết nữa thôi. Cháu đã định chạy trốn về làng, nhưng mà không có giày, cháu sợ trời rét quá. Còn khi nào cháu lớn lên rồi, cháu sẽ trả ơn ông mà nuôi ông, cháu không cho đứa nào làm nhục ông, khi ông chết, cháu sẽ cầu nguyện cho linh hồn ông được yên nghỉ như cháu đã cầu cho mẹ Pêlagâya. Còn Maxcơva là thành phố to lắm, ông ạ. Mọi nhà đều là của các ông chủ và ngựa cũng rất nhiều, còn cừu thì không có và chó thì không dữ đâu. Trẻ con ở đây không đi chơi thăm các nhà để ngâm thơ đạo Kytô vào ngày lễ Giáng Sinh và không ai cho đứng lên bục cao trong nhà thờ mà hét đâu, có lần cháu thấy ở hiệu tạp hóa trên cửa sổ có treo bán lưỡi câu có liền cả dây, cá gì cũng câu được, tốt lắm, ông ạ, lại còn có một cái lưỡi câu được cá nheo nặng một pút ấy. Cháu còn thấy có hiệu bán những khẩu súng giống như các ông chủ vẫn đeo ấy, đến hàng trăm rúp một khẩu ấy, ông ạ.. Ở các hiệu bán thịt thì đầy thịt gà rừng này, gà lôi này, thịt thỏ này, nhưng bắn được ở đâu thì mấy người bán chẳng nói. Ông thân yêu, bao giờ ông chủ cho dựng cây thông treo những gói quà nhỏ thì ông lấy cho cháu một hạt dẻ màu vàng nhé, ông giấu vào cái rương màu xanh ấy. Ông cứ xin tiểu thư Onga Igơnatiépna ấy, ông bảo là xin cho cháu". Vanka run rẩy thở dài và lại nhìn chăm chăm ra cửa sổ. Cậu nhớ lại lần nào vào rừng lấy cây thông cho nhà chủ, ông đều đi và dắt cháu đi theo. Lúc ấy thật là vui vẻ! Mấy lần trước khi đẵn cây thông, ông hút một tẩu thuốc, ngửi ngửi thuốc hít rất lâu, và trêu cười cậu bé Vanka đang bị rét cóng.. Những cây thông non phủ một lớp tuyết mỏng đứng yên và chờ xem cây nào bị chặt. Không biết từ đâu ra, một con thỏ chạy vụt qua mấy đống tuyết.. Thế nào ông cũng kêu lên: - Bắt lấy, bắt lấy.. bắt lấy! Chà, đồ quỷ cộc đuôi! Chặt được cây thông rồi ông đem về nhà chủ, và ở đây người ta bắt đầu trang điểm cho nó.. Tiểu thư Onga Igơnatiépna mà Vanka rất mến, là người bận rộn nhiều nhất. Hồi mẹ Pêlagâya của Vanka còn sống, làm hầu phòng cho nhà chủ, Onga Igơnatiépna đã cho Vanka ăn kẹo và vì không có việc gì làm nên đã dạy cho cậu ta biết đọc, biết viết, đếm đến 100, thậm chí còn dạy nhảy điệu quadrille nữa. Sau khi mẹ Pêlagâya chết đi, người ta cho cậu bé mồ côi Vanka vào làm ở nhà bếp của những người hầu cùng chỗ ông, rồi từ đấy lại gửi lên Maxcơva ở với ông thợ giày Aliakhin.. "Ông thân yêu, ông lên đây đi, - Vanka viết tiếp - cháu xin ông làm ơn làm phúc đem cháu đi khỏi đây. Ông thương lấy cháu mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, cứ khóc thôi. Hôm vừa rồi, ông chủ lại lấy cái khuôn khâu giày đập vào đầu cháu, cháu ngã xuống mãi lâu sau mới tỉnh. Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả chó, ông ạ.. Cho cháu gửi lời thăm Alêna, bác Iegor chột mắt và bác đánh xe, còn cái phong cầm của cháu ông đừng đưa cho ai nhé. Cháu của ông mãi mãi, Vanka Giukôp, ông thân yêu, ông lên đây đón cháu nhé". Vanka gấp lá thư làm tư rồi bỏ vào cái phong bì mua một kôpếch ngày hôm trước.. Nghĩ ngợi một lúc rồi cậu lại chấm mực và viết địa chỉ: Gửi ông ở nhà quê. Sau đó cậu gãi gãi đầu nghĩ rồi viết thêm: "Ông Konxtantin Makarứts". Lấy làm thích thú vì không bị ai ngăn trở viết thư, cậu chụp mũ lên đầu và không kịp khoác lên mình chiếc bành tô, cứ mặc mỗi chiếc áo sơ mi mà chạy ra ngoài phố.. Hôm trước khi cậu hỏi, mấy người ngồi bán thịt đã nói với cậu là thư từ thì bỏ vào những hộp thư, rồi từ đấy người ta lấy ra đem đi khắp nước trên những cỗ xe tam mã có chuông rung do mấy gã đánh xe say rượu điều khiển. Vanka chạy đến chỗ treo hộp thư gần nhất rồi bỏ bức thư quý báu qua khe.. Mơ theo những hi vọng ngọt ngào, một giờ sau cậu đã ngủ thiếp đi.. Cậu nằm mê thấy cái bếp lò. Ông ngồi trên bệ bếp, đôi chân trần buông thõng, và đọc thư cho mấy bà đầu bếp nghe.. Con Viun đi quẩn quanh bên cạnh và ve vẩy đuôi..