Sông Ca nhớ Khả Tú Bến Tre lắm bến nhiều dừa Xuồng ai vừa đến để vừa quen nhau Câu mời con nước nao nao Xuống xuồng xuồng cũng lao chao tiếng cười. Cùng chèo chèo vọng mùa vui Thấy ta lóng lánh, thấy người lung linh Một mình hát với một mình Lục bình xuôi với lục bình sóng đôi. Bềnh bềnh một áng mây trôi Bồng bồng một cánh chim trời hữu duyên Em về nón lá nghiêng nghiêng Hoàng hôn tím tím ngả miền chiêm bao. Đường bờ cao thấp thấp cao Có hay không có nẻo vào tương tư? Vườn chiều chiều lá sang thu Vẩy trăng mười tám thả từ từ lên. Bến Tre 2000 (Tuyển tập thơ Khúc xạ mùa thương - NXB Thanh niên 2006) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Với người dân Bến Tre, những con sông, những kênh rạch như mạch máu của quê hương. Con người gắn bó với dòng sông, con rạch từ thuở chào đời tới khi nhắm mắt xuôi tay. Ra khỏi nhà là kênh, là rạch. Thăm hỏi nhau, đi đi lại lại tất tất bằng ghe, bằng xuồng ít thấy xe cộ. Trong tiếng hát ru của người mẹ Bến Tre có âm vang sóng vỗ của những dòng sông, những con rạch, những cây cầu khỉ gập ghềnh. (theo Võ Thanh Phụng) Bốn con sông chính chảy qua Bến Tre là sông Mỹ Tho, sông Cổ Chiên, sông Ba Lai và sông Hàm Luông. Bài thơ được viết tặng cho một cô gái tên Khả Tú quê ở Bến Tre.
Nắng Mới Người về nhặt nắng mùa đông Nhặt chiều lá rụng cuối dòng thơ xưa Nhặt lời cỏ úa trong mưa Nhặt màu mắt ướt một mùa qua sông... Chợt trong sương khói bềnh bồng Nắng vàng thuở ấy Ửng hồng Sang xuân! 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Dựa theo tọa độ và vị trí địa lý đặc biệt, được Hội Khoa học kỹ thuật địa vật lý Việt Nam công nhận, Mũi Đôi (thuộc vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa) là điểm Cực Đông trên đất liền của nước ta. Và đây cũng là điểm chạm ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Khi tình yêu đã bỏ ta ra đi thì đừng trông đợi gì nữa. Hãy chào đón những giọt nắng của ngày mới để tự mình đứng lên. Bài thơ viết tại vịnh Vân Phong, tặng một cô gái có cái tên rất lạ, cô tên Nắng Xuân. Bài thơ cũng tặng thầy Ấn Quang, giáo viên thể dục trường THPT Võ Thị Sáu, kỷ niệm những ngày cùng lang thang ở Nha Trang.
Tình Có Hay Không? Tình có hay không Biết không hay có Tay xòe không có Tay nắm có không? Ngày xưa là gió Ngày xưa là mây Ta mơ theo nắng Dáng nhỏ em gầy... Chợt sợi tóc bay Chợt gió thành mây Lời thề màu cỏ Tình không thành có! Tình không hay có Biết có hay không? Ta mong là có Em cười như không... Ta là đá sỏi Một nắng hai sương Mơ nhầm châu ngọc Yêu nhầm đau thương. Em thành chim sáo Một chiều qua sông Ta còn dông bão Tình có thành không! Tình có như không Thà không hơn có Thà là như gió Thà là như mây... 1996 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: "Tình có như không" chỉ là loại tình hư ảo, đầy bẫy rập thương đau. Nếu là người có bản lĩnh, ta phải dừng lại ngay, đúng lúc để tránh bị tổn thương sau này. Câu "tình có như không" biểu hiện cho cảm giác bị bỏ rơi, không được trân trọng trong một mối quan hệ tình cảm. Bài thơ viết vì một cô gái tên Ngọc Hạnh.
Đá Và Trái Tim Có những dòng lệ nhỏ Khiến đá hóa trái tim Có nỗi buồn triền miên Làm trái tim hóa đá. 1994 (Tuyển tập thơ Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam - bút danh Nguyễn Văn Tạo – NXB Văn học 2000) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ được nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm chọn in vào tuyển tập thơ Nghìn Câu Thơ Tài Hoa Việt Nam, với bút danh ký dưới bài thơ là Nguyễn Văn Tạo (tên thật của tác giả). Một người được mô tả có trái tim bằng đá là một người luôn cảnh giác và chọn cách sống lạnh lùng xa cách, không để bất kỳ ai đến gần mình. Đây thường là người đã bị tổn thương và sợ sẽ bị tổn thương thêm lần nữa, nên đã chọn một cách sống lạnh lẽo, vô cảm và vô tâm. Chỉ có những giọt nước mắt chân thành mới có thể làm cho đá hóa thành trái tim được.
Chia Xa Chia xa bẻ nửa câu thề Nửa đi ngập gió, nửa về ướt mưa Nửa đau đau lá cuối mùa Nửa thương thương mảnh trăng xưa phập phồng. Người về lạnh nửa vườn hồng Câu thơ lạnh nửa bềnh bồng thành sương Người đi lạnh nửa con đường Nửa đau nhẹ mất, nửa thương nặng đầy. 1998 (Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Tình yêu có hợp có tan. Có những người được bên nhau nhưng chưa chắc đã hạnh phúc. Cũng có những chuyện tình phải chia xa nhưng đó lại là một tình yêu rất đẹp. Thà xa để được nhớ, còn hơn gần mà chẳng được yêu nhau. Bài thơ được viết tại một làng quê Vĩnh Long.
Khúc Hát Ngày Ra Trường Thôi, từ giã giảng đường Từ giã tuổi sinh viên Chúng mình ra đi để mang hoài nỗi nhớ Hoa phượng vĩ chiều nay tưng bừng nở Đỏ thắm ven trời. Những cánh chim bay. Ngày mai xa rồi ta biết nói gì đây Ánh mắt ấy nhìn ai chợt có gì khang khác! Tạm biệt nhé con đường về xanh mát Bao dấu chân xưa. Sao xao xuyến bồi hồi? - Em sẽ về miền đất ấy xa xôi... Lời nói khẽ như bao lời muốn nói Mái trường xa sẽ đón chào cô giáo mới Và tình yêu thoảng nhẹ trong chiều. Họ bên nhau chưa nói được nhiều Lòng mải hẹn những phương trời xa lắc! Để những ước mơ thầm thì khẽ hát Khúc - hát - vào - đời những mơ ước lứa đôi... 1994 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ viết tặng cho một cô giáo sinh thực tập tại trường THPT Võ Thị Sáu. Ngày ra trường cũng chính là ngày lễ tốt nghiệp. Sau khi dự lễ tổng kết và nhận bằng tốt nghiệp, các sinh viên chính thức rời trường. Bài thơ đầu tiên được đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng, bị mất báo biếu.
Sám Hối Trước Biển Khi con về thăm lại mái nhà xưa Thấy bóng mẹ dật dờ nơi bãi biển Tuổi bé thơ đợi cánh buồm cha màu tím Con vẫn dắt mẹ tìm dõi mắt xa xôi... Con đã về. Đừng khóc nữa mẹ ơi! Nước mắt mẹ làm lòng con mặn đắng Biển rủ sóng, tóc mẹ giờ bạc trắng Mái tranh nghèo lay lắt khói chiều lên. Con ăn học nhiều nên lú lẫn thành quên Không nhớ nổi một nỗi buồn của mẹ Cặp đầy ắp những công trình bản vẽ Chỗ mẹ nằm vẫn nắng giọt mưa sa. Bao năm trời bay nhảy tận miền xa Mê bia bọt con bỏ trôi vị nồng của biển Lời thương mẹ cũng nhạt nhòa tan biến Trong những ánh đèn nhấp nháy đỏ xanh... Chợt giận mình sao quá đỗi vô tâm Con quỳ khóc trước muôn trùng sóng vỗ Cha không còn. Mà mẹ thì không nhớ Hỏi biển trời dung thứ được con không? 1995 (Tập thơ Hoa sứ trắng - NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Bài thơ khi đăng trên báo Áo Trắng đã đổi tựa đề thành Trước biển. Bài thơ có trong truyện ngắn Sám hối trước biển. Thơ và truyện ngắn được viết tại một làng biển Đà Nẳng
Thăm Mộ Hàn Mặc Tử Bồng bềnh dưới biển trên trăng Đêm trôi vào cõi vĩnh hằng tìm nhau. Tài hoa vùi lấp mộ sâu Xót người mệnh bạc dãi dầu cỏ xanh Đau thương rụng vỡ bên gành Mộng cầm sắc vỡ tan tành chiêm bao Xuân như ý bỗng nghẹn trào Nửa hồn bút mực chìm vào mưa ngâu... Tìm người, người đã về đâu? Nửa vành trăng góa buồn đau giữa trời Sóng leo trồi sụt chân đồi Ném lòng vào đá vọng lời tháng năm Câu thơ lệ ứ ướt đầm Nửa lăn xuống biển, nửa nằm trên trăng. Quy Nhơn 1996 (Tuyển tập thơ Thơ nhà giáo TP.HCM tập 2 - NXB Trẻ 1998) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Hàn Mặc Tử (22/9/1912 - 11/11/1940) tên thật là Nguyễn Trọng Trí là một nhà thơ Việt Nam. Đau Thương, Xuân Như Ý: Tên các tập thơ của Hàn Mặc Tử Mộng Cầm: Tên người yêu Hàn Mặc Tử Bút mực: Ý nghĩa bút danh của Hàn Mặc Tử. "Hàn" ám chỉ cây bút lông; "Mặc" tức là mực dùng để viết. "Hàn Mặc Tử" có nghĩa là người viết văn, làm thơ hoặc người có duyên nợ với văn chương. Mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử tọa lạc trên ngọn đồi Thi Nhân, xóm biển Ghành Ráng (hay Ghềnh Ráng), thành phố biển Quy Nhơn.
Chợ Đầm Loanh quanh là cái chợ Đầm Tôi lơ ngơ bước để thầm theo em Bị xô Bị đẩy Bị chen Ba lần hỏi... Vẫn chưa quen được nàng! Bao giờ chợ vãn người tan? Tôi về hỏi gió Bàng hoàng nhớ em! Nha Trang 1997 (Tuyển tập thơ Khúc xạ mùa thương - NXB Thanh niên 2006) Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời tác giả: Chợ Đầm Nha Trang nằm ở Bến Chợ, phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang. Chợ Đầm là chợ trung tâm của thành phố biển Nha Trang, là một công trình kiến trúc đẹp, độc đáo. Đây là chợ lớn nhất và cũng là biểu tượng thương mại của thành phố biển này. Bài thơ viết tặng thầy Ấn Quang, giáo viên thể dục trường THPT Võ Thị Sáu.