1.1. Khái niệm tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: "Tôn giáo là kết quả một sự phản ánh của thế giới tự nhiên vào bộ não con người một cách sai lầm hoặc là một sự phản ánh không toàn diện về thế giới khách quan, khiến con người hiểu sai hoặc không hiểu hết các hiện tượng trong tự nhiên. Cùng với những hạn chế mang tính chất thời đại bắt nguồn từ một nền khoa học còn rất thô sơ, mang nặng tính cảm tính, những phản ánh
không đúng này của nhận thức đã tạo nên những rào cản giữa con người và sự thật khách quan của thế giới tự nhiên, dẫn đến việc con người không thể trả lời được các câu hỏi về tự nhiên bí ẩn, và kết quả cuối cùng là khiến con người phải tìm đến tôn giáo."
Bên cạnh đó, trong tác phẩm "Góp phần phê phán triết học pháp quyền" của Heeghen, C. Mác viết: "Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược, và bản thân chúng là thế giới lộn ngược. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân."
Ngoài ra, khái niệm tôn giáo là vấn đề được nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiều. Trong lịch sử đã từng tổn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
· Các nhà thần học cho rằng: "Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người".
· Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: "Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên".
· Một số nhà tâm lý học lại cho rằng: "Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nội cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo".
1.2. Nguồn gốc, bản chất
1.2. 1. Nguồn gốc:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo đã ra đời có 3 nguồn gốc cơ bản:
· Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Tôn giáo đã nảy sinh trong xã hội mà trình độ sản xuất hết sức thấp kém, con người hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, bất lực trước những hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, cho đó là một lực lượng siêu nhiên có sức mạnh ghê gớm ở bên ngoài con người, đang chi phối con người. Vì vậy, tôn giáo lúc đầu đa thần, gắn liền với đặc điểm nhận thức, ánh sáng khoa học đi đến đâu thì tôn giáo lùi đến đó. Khi mà biết và chưa biết còn khoảng cách thì còn tôn giáo và tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài.
· Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và có đối kháng giai cấp, con người phải chịu sự bóc lột của giai cấp thống trị, xã hội bất bình đẳng, con người không giải thích được, nên tìm đến tôn giáo. Con người tìm đến tôn giáo để được che chở bởi đức chúa trời, đức phật, thượng đế.. Giai cấp thống trị luôn luôn sử dụng tôn giáo, lợi dụng triệt để tôn giáo để thống trị nhân dân, khống chế nhân dân.
· Nguồn gốc tâm lý tình cảm: Con người tìm đến tôn giáo như tìm đến niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần, tôn giáo đã có tác dụng giữ trạng thái thăng bằng, tâm tư, tình cảm của con người. Nó là quan niệm, lòng tin, tình cảm của con người trước những sức mạnh của tự nhiên, những biến cố của xã hội.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó - một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại.
1.2. 2. Bản chất của tôn giáo:
Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con đường nhận thức chủ thể tạo ra tôn giáo là con người đối tượng của sự phản ánh là sức mạnh ở bên ngoài thông trị cuộc sống hằng ngày của con người, còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư ảo. Sự ra đời của hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan, vì khi con người bị bất lực trước sức mạnh của yếu tố bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp sự bất lực ấy.
Tóm lại, tôn giáo vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một thực thế xã hội. Song xét về bản chất, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, nó phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, hiện thực khách quan vào đầu thế giới hư ảo ấy không ai nhìn thấy được và chưa ai chứng minh được bằng cơ sở khoa học. Sự hoang đường của tôn giáo do chính con người sáng tạo ra; cái thế giới hoang đường và hư ảo chính là bản chất của tôn giáo.
1.2. 3. Vị trí của tôn giáo trong lịch sử:
Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
·
Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp
Ăng-ghen cho rằng tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm hết sức tối tăm, nguyên thủy của con người về bản thân mình và thiên nhiên bao quanh họ.
Các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản năng của con người và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích kinh tế - xã hội.
·
Tôn giáo trong xã hội có giai cấp
Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc nãy không chỉ còn là một nhu cầu tinh thần của quần chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị áp bức giai cấp và bóc lột của mình và thực hiện bành trướng, xâm lược.