Trí Tuệ Do Thái - Jerome Becomes A Genius - Eran Katz

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Heobong, 28 Tháng tư 2018.

  1. Heobong

    Bài viết:
    110
    4. TRÍ THÔNG MINH CỦA NGƯỜI SỐNG SÓT

    Nguyên tắc của chú chuột lang thang


    Trên chuyến tàu đến Paris, tôi đã khám phá ra nguyên tắc thứ hai của trí thông minh Do Thái.

    Khi tàu chầm chậm lăn bánh khỏi sân ga Antwerp rộng lớn, Tôi nhìn đâm đâm ra bên ngoài cửa sổ, nơi Sừng sững những tòa nhà màu xám xịt. Một người thở hổn hển và ngồi xuống bên cạnh tôi. Ông ta khoảng 50 tuổi và mặc một bộ vest 3 mảnh, trên mũi Ngự một cặp kính hai tròng khá tinh xảo. Một chiếc mũ kipah che gần hết phần đầu hói của ông ta.

    Samuel, tôi đã biết tên ông ta trong lúc ở trên tàu, là một thương gia đến từ Antwerp. Ông đi khắp nơi trên thế giới, bà những viên kim cương tinh tế cùng với anh họ mình, ông này tình cờ cũng đang ở Luân Đôn tuần đó. Có thể tôi sẽ không nhắc đến Samuel Nếu không có một chuyện nhỏ, có vẻ rất tầm thường xảy ra, một chuyện mà sau hai ngày đã kết tinh thành một điều mang tính cách mạng.

    Trong lúc nói đến Jerusalem, một nơi mà tám năm trước ông đã đến thăm, ông bỗng nhớ đến một sân chơi nhỏ có đài phun nước mà ông đã thấy ở chỗ đường Herzog sao nhau với phố Tchernikovsky. Thật trùng hợp là tôi lại sống ở chính khu đó, Ngày nào tôi cũng lái xe qua ngã tư đó đó Và nếu có một thứ không có ở đó thì chính là một cái đài phun nước!

    "Xin lỗi", Tôi mỉm cười, "Nhưng tôi nghĩ là ông nhớ Nhầm".

    "Không, làm gì có chuyện đó", Samuel quả quyết. "nếu cậu đi từ đại lộ Rupin. Thì cậu không thể không đi qua đó được. Cái đài phun nước đó sừng sững giữa những cái cây ấy".

    "Có thể ông nhầm với ngã tư nào đó rồi", tôi vẫn bảo vệ quan điểm của mình.

    Samuel nghĩ một lúc, cố gắng nhớ lại và rồi khẳng định lại chắc chắn, kèm theo một nụ cười, "Nó ở đó mà. Herzog và Tchernikovsky"
     
  2. Heobong

    Bài viết:
    110
    "Tôi sống ở đó mà, ông Samuel", tô i nói, giọng hơi tỏ vẻ khó chịu. "Có phải ý ông là tôi không nhớ mình đi qua cái gì và không đi qua cái gì mỗi ngày không?"

    Sự tự tin của Samuel làm tôi bực mình. Nếu có một thứ thực sự khiến tôi cáu thì đó là việc người ta cứ ngoan cố khẳng định là mình biết điều mà thực sự họ chẳng biết gì cả, hay nói đúng hơn là họ khẳng định mình biết điều mà thực sự họ không hề biết còn tôi thì biết chắc!

    Tôi lấy điện thoại di động và đặt nó lên bàn, trước mặt chúng tôi.

    "Vợ tôi, Yeal, đã sống ở Jerusalem suốt từ nhỏ đến giờ", tôi nói. "Tôi sẽ gọi cho cô ấy ngay bây giờ và thử xem ai trong hai chúng ta nói đúng. Ông có muốn đánh cược cái gì trước khi tôi gọi cho cô ấy không?"

    Samuel gật đầu và mỉm cười. Không cần nghĩ ngợi, ông nói, "Một tách cà phê khi chúng tôi đến Paris nhé. Tất nhiên nếu cậu không vội."

    "Thỏa thuận thế nhé", tôi trả lời. "Tôi sẽ rất vui lòng được ông mời tách cà phê đó."

    Tôi gọi cho vợ tôi, và sau khi hỏi han chuyện nọ chuyện kia, tôi giải thích cho cô ấy nghe về lý do chính khiến tôi gọi cho cô ấy lúc đó.

    "Ở ngã tư chỗ Herzog giao với Tchernikovsky, ngang chỗ Tu viện Thập giá ấy có cái sân chơi với đài phun nước nào không? Anh đánh cược với một người.." tôi kết thúc câu hỏi và nhìn Samuel, cười toe toét và gian xảo.

    Yael không nói gì một lúc.

    "Vâng, đúng là có thật", cô ấy bắt đầu. "Có một cái sân chơi, nhưng không có đài phun nước, dó là một cái tháp canh hình tròn bỏ lại từ thời thuộc địa Anh, nhưng đúng là trông nó giống một cái đài phun nước."

    Tôi ngạc nhiên trước những gì Yael nói đến nỗi tôi quay mặt ngay ra ngoài cửa sổ, quay hẳn khỏi Samuel.

    "Anh đã nói rằng chẳng có cái sân chơi hay đài -phun nước nào hết," tôi thở chậm. "Em có chắc không?"

    "Anh bị làm sao thế? Anh đang đùa đấy hả?" cô ấy trả lời.

    Tôi liếc lại nhìn Samuel như một kẻ thua cuộc. "Không, anh nghiêm túc đấy. Thực ra anh vừa mất một tách cà phê rồi."

    Samuel và tôi xuống tàu ở "Gare du Nord" và đi xuống phố để tìm một quán cà phê tử tế. Trời bắt đầu tối và gió thu lành lạnh thổi vào chúng tôi từng đợt.

    Samuel lững thững bước trên đường, tay xách một chiếc cặp James Bondesque màu bạc. Khi chúng tôi cùng dọa bước, ông chỉ cho tôi mái một ngôi nhà được chiếu sáng bằng những bóng đèn màu xanh. Tôi sững sờ trước khung cảnh tuyệt đẹp đó.

    "Ông để ý tới mọi thứ, phải không?" tôi khen ông, tự nhắc mình nhớ đến cái lý do chúng tôi đang đi dạo loanh quanh với nhau thế này.

    "Đó chỉ là bản năng sinh tồn của người Do Thái trong tôi thôi," ông trả lời làm tôi rất ngạc nhiên, từ đó tôi cứ tự hỏi không biết có mối liên hệ gì giữa người đàn ông Do Thái giàu lòng trắc ẩn này với cuốn sách mà tôi đang viết không.
     
    Chỉnh sửa cuối: 11 Tháng tám 2022
  3. Heobong

    Bài viết:
    110
    Bỗng nhiên tôi nhớ lại điều Samuel đã nói với tôi lúc ở trên tàu, vể việc tôi không để ý đến mọi thứ, "nhất là kể từ khi tôi sống ở đó".

    Tôi vẫn bước bên cạnh ông, ngẫm nghĩ về con người thú vị này. Kế hoạch ban đầu của tôi là sẽ trả món nợ cá cược trong vòng mười lăm phút rồi tiếp tục gặp gỡ những người bạn đang đợi tôi tối nay. Tuy vậy, có một điều gì đó đã khiến tôi cảm giác rằng làm thế sẽ là một sai lầm.

    Samuel chỉ một quán nhỏ bên kia đường. Chúng tôi đi nhanh qua đường. Ở lối vào quán, một luồng hơi ấm phả vào mặt chúng tôi. Ánh sáng mờ mờ, sàn nhà ốp gỗ sẫm màu tạo một không khí rất thoải mái. Một đôi trai gái đangngồi nắm tay nhau ở chiếc bàn bên cánh cửa sổ lớn nhìn ra ngoài đường phố. Ở một chiếc bàn khác là một thanh niên tay cầm cuốn sách, tay còn lại đặt trên đ ầu một điếu thuốc mỏng, dài trên ngón tay, phả ra từng làn khói.

    Chúng tôi ngồi xuống một chiếc bàn trong góc và tiếp tục cuộc trò chuyện. Sau khoảng mười lăm phút, tôi để ý thấy chẳng có lấy một anh bồi bàn nào đến hỏi chúng tôi dùng gì.

    "Có chuyện gì với bồi bàn ở đây vậy nhỉ?" tôi nói to khi nhìn quanh quán cà phê.

    "Chúng ta đang ở Paris," Samuel trả lời.

    "Ừ, đúng rồi!" tôi nghĩ thầm. "Làm sao tôi quên được đ iều đó chứ. Chúng ta đang ở Pháp, nơi khách du lịch bị những tay bồi bàn tấn công."

    Sau một hồi vẫy tay loạn xạ, một gã bồi bàn trẻ, mặc toàn một màu đen, xuất hiện ở bàn chúng tôi.

    Tôi nhớ lại có lần mình đã tự hỏi liệu có phải nghề bồi bàn ở Pháp được Chính phủ dành cho những kẻ được ra khỏi tù với điều kiện chúng sẽ làm được một dịch vụ gì đó cho xã hội, mặc dù từ "dịch vụ" không hẳn áp dụng được trong trường hợp này. Những tay bồi bàn này hành động như thể việc đến của khách là ban cho họ một đặc ân lớn lao vậy. Chúng cứ đứng đó, nhìn ngó những người đến và đi, đập đạp bút lên tập giấy và đợi thôi! Chúng không hỏi bạn xem bạn chọn gì. Chúng cũng chẳng thèm mang thực đơn đến. Chúng chỉ đứng đó đợi bạn nói thứ bạn muốn! Mội khách du lịch đến Paris đều biết điều tôi đang nói đây. Và chính vì thế, tay bồi bàn của chúng tôi cũng đang đứng.

    Sau khi chúng tôi gọi đồ uống, hắn hối hả đi về phía bếp.

    Thật không may, tôi quên không hỏi xin một cốc nước, một điều thuộc dạng không thể chấp nhận được và không thể tha thứ được theo như tuyên ngôn của liên minh bồi bàn Pháp. Nếu như mafia có một nguyên tắc đạo đức về việc không làm hại trẻ em và phụ nữ thì trong các quán cà phê ở Pháp cũng có một luật bất hành văn rằng một khi việc gọi đồ đã hoàn tất thì bất cứ cái gì khách quên không gọi đều mất luôn.

    Thêm vào đó, tôi đang khát.

    Khi tay bồi bàn quay lại cùng với hai tách cà phê của chúng tôi và thô lỗ thả (hay tôi phải nói là đập) chúng xuống bàn, tôi mỉm cười và ra hiệu rằng tôi muốn gọi thêm một thứ khác.

    Tay bồi nhìn tôi, hoàn toàn sửng sốt.

    "Tôi muốn, nếu không quá phiền, anh có thể mang cho tôi thêm một cốc nước có được không?"

    Gã sốc thực sự. Gã thực sự không hề mong đợi yêu cầu của tôi, hoàn toàn bất ngờ. Giọng gã run run, pha trộn giữa tức giận và sốc. "Anh muốn một cốc nước hả?"

    "Một cốc nhỏ thôi, làm ơn!" tôi cố giảm hết cỡ yêu cầu của mình. Thật ra lúc đó tôi đã nghĩ đến chuyện bảo gã thôi, quên yêu cầu của tôi đi. Nhìn gã như vậy khiến tôi chạnh lòng, chứng kiến sự bất lực của gã.

    Gã ậm ừ tiếng Pháp nho nhỏ "ừm" qua mũi, mím môi và trong lúc vẫn đang run khẽ, gã quay đi và quay trở lại bếp.

    Samuel quan sát cảnh này và cười. "Bọn họ thế đấy", ông an ủi tôi. Mắt ông nhìn theo gã bồi bàn cho đến khi gã khuất dạng sau bếp. Sau đó, Samuel ngả về phía tôi và thì thầm, "Tay bồi bàn này không phải ở Paris. Chắc hẳn là người ở miền Trung, có thể là thung lũng Loire. Chắc hắn đến đây để kiếm thêm chút tiền."

    "Đó cũng là một phần trong bản năng sinh tồn của người Do thái chăng?" tôi hỏi "Khả năng nhận biết và 'chẩn đoán' người khác ấy?"

    "Tất nhiên rồi," ông nhấn mạnh. "Tôi thừa hưởng điều này từ bố tôi." Samuel tự điều chỉnh tư thế ngồi trên ghế và vắt chéo chân lại.
     
    nntc6761 thích bài này.
  4. Heobong

    Bài viết:
    110
    "Tôi sinh ra ở Berlin, sau đó khi tôi lên ba, chúng tôi phải trốn đi. Gia đình tôi sống ở Pháp vài năm rồi chuyển đến Antwerp. Ở đó, bố tôi đã mở cửa hàng đồ trang sức. Tôi nhớ thỉnh thoảng tôi thường bỏ học, chạy đến làm việc với bố vào buổi tối. Tôi đứng cạnh bố trong cửa hàng, và mỗi lần có khách bước vào bố tôi luôn đoán chính xác người đó đến từ đâu, người đó làm nghề gì kiếm sống và người đó đã lập gia đình hay chưa - và tất cả chỉ cần một cái liếc nhanh. Bố tôi là người đã sáng tạo ra thuật ngữ 'Bản năng sinh tồn Do Thái'. Bố tôi nói rằng là một người Do Thái bị ngược đãi, hắt hủi ở mọi nơi ông đi đến nên trong suốt cuộc đời, ông đã phát triển một thứ bản năng là luôn chú ý đến những chi tiết nhỏ nhất và gắn cho chúng tầm quan trọng thật to lớn." Samuel nói xong khi gã bồi bàn quay trở lại.

    Gã bồi bàn đặt cốc nước lên bàn, mà đúng là nó nhỏ thật, nhưng trước khi gã quay đi và bỏ lại những vị khách khó tính nhất trong ngày, Samuel lôi gã vào cuộc trò chuyện. Lúc đầu, gã bồi bàn có vẻ xa cách và bối rối nhưng dần dần một nụ cười cũng nở ra trên khuôn mặt. Gã nồng nhiệt bắt tay Samuel trước khi quay trở lại chỗ mình ở góc phòng.

    "Thật không thể tin được," tôi reo lên kinh ngạc. "Ông thực sự đã làm cho một tay bồi bàn người Pháp mỉm cười. Ông xứng đáng được huân chương của quân đội Pháp đấy."

    "Thật ra hắn đến từ Baloit, ở vùng Loire, miền Trung," Samuel trả lời với vẻ hài lòng.

    "Chắc chắn hắn ấn tượng với chiếc 'ra đa' của ông lắm đấy."

    Samuel rút chiếc tẩu ra khỏi túi, nhét lá thuốc vào và châm lửa. Tôi quyết định nói cho ông nghe về cuốn sách mà chúng tôi đang nung nấu.

    Sau khi giải thích ngắn gọn về Jerome và Itamar, vụ các cược và Nguyên lý về Trí tưởng tượng của Fabio, tôi quay trở lại với vài điều mà Samuel đã nói.

    "Vậy Trí thông minh của người Do Thái có liên quan đến bản năng sinh tồn, một thứ bản năng trong vô vàn những bản năng khác, cho phép người ta để ý tới những tiểu tiết phải không?"

    "Gần như là vậy," Samuel khẳng định, "nhưng không chỉ có vậy. Điều chúng ta đang nói đến ở đây là khả năng phân tích tình huống và đối mặt với sự thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh với tần suất gần như là hàng ngày. Đặc điểm này khá phát triển trong cộng đồng người Do Thái và liên quan đến việc người Do Thái không bao giờ có một nơi ở cố định. Họ lúc nào cũng trong tư thế 'chuẩn bị' sẵn sàng cho khoảnh khắc họ có thể bị tống đi, mà cái khoảnh khắc đó thì kiểu gì cũng đến! Khả năng này cũng liên quan đến thực tế là người Do Thái luôn tập trung ở các thành phố lớn."

    "Có phải ông muốn nói rằng những người sống ở thành phố thì thông minh hơn?" tôi chất vấn.

    "Nhìn chung thì đúng là thế", ông trả lời.

    "Thế thì cần phải làm sáng tỏ vài điểm đấy," tôi cười.

    Samuel thổi ra một làn khói trắng và đóng túi thuốc lại.

    "Đến năm 1800, hầu hết dân số thế giới đều sống tại các vùng nông thôn. Hầu hết họ đều làm nông nghiệp và tài sản có giá trị nhất mà mọt người có thể sở hữu chính là đất đai. Đất đai chính là cơ sở cho lòng tự hào và danh dự, là nguồn gốc của sự giàu có."

    "Có được sự thoải mái và an toàn về tài chính ở một mức độ nhất định là mong muốn của phần lớn người dân thời đó, mà thậm chí đến tận bây giờ cũng vậy, nhưng điều này lại không áp dụng được với người Do Thái. Họ không bao giờ nghỉ ngơi hay sở hữu bất cứ tài sản nào bởi vì họ không được phép. Những kẻ thống trị ngoại bang luôn tìm cách ngăn cản họ tiếp cận quyền được sở hữu đất đai hợp pháp. Cứ khi nào người Do Thái giành được một chút đất đai thì chẳng bao lâu sau lại có kẻ thống trị mới đến, chiếm lấy tài sản của họ và đuổi họ đi. Người Do Thái cũng phải sống với hàng tá hạn chế về kinh tế. Nói về nghề nghiệp, họ phải tham gia vào những nghề nghiệp được coi là bẩn thỉu và mờ ám như là cho vay nặng lãi, thương mại, bất động sản hoặc là những nghề nghiệp thuộc về dịch vụ như là y khoa, luật hay tư vấn.

    Những công việc đó m ang tính chất thành thị. Cộng thêm với vấn đề quyền sở hữu đất đai thì việc người Do Thái túm tụm tại các thành phố là một điều hết sức tự nhiên. Thực tế, vào đầu Thế kỷ XX, có khoảng 75% đến 94% số người Do Thái trên thế giới sống ở các thành phố.

    Một điều rất nghịch lý ở đây là chính những giới hạn và điều luật kìm nén người Do Thái lại cho họ một lợi thế rõ ràng so với những người khác. Việc biến người Do Thái thành thị dân chính là điều đã đặt nền tảng cho thành công cảu họ trong tương lai.

    " Cậu đã bao giờ xem bộ phim hoạt hình về chú chuột quê lên thăm họ hàng ở thành phố chưa? "

    " Hình như là xem rồi, ' tôi cố nhớ lại.

    "Chú chuột thành phố, nếu cậu để ý, lúc nào cũng được xây dựng với motip là một sinh vật thành đạt, có trình độ và văn hóa, một sinh vật trải đời và khôn ngoan."

    "Mối liên hệ giữa giáo dục và thành công trong cuộc sống thành thị thì không chỉ được khắc họa trong những nhân vật hoạt hình. Những người trẻ tuổi tại các thành phố lớn, những loài động vật hai chân cũng được miêu tả bằng hình ảnh tương tự, và họ cũng rất thành công."

    "Nhiều phân tích được thực hiện đối với nhiều tầng lớp dân số khác nhau đều chỉ ra mối liên hệ tương tự giữa cuộc sống thành thị với một mức độ thông minh cao hơn."

    "Mối liên hệ giữa người Do Thái và thành thị có hai ý nghĩa. Thành phố có ảnh hưởng đến trí thông minh, trong khi chính những người Do Thái lại được dẫn dắt tới các đo thị bởi vì điều đó góp phần thúc đẩy mưu cầu về trí tuệ của họ."

    "Thế ở thành phố có gì giúp cải thiện trí thông minh của con người mà ở nông thôn không có?" tôi băn khoăn.

    "Một lối sống đồi hỏi chúng ta luôn phải vận động," ông giải thích. "Cậu đã bao giờ thử gọi taxi ở NewYork chưa? Việc này đòi hỏi phải có một độ khéo léo nhất định, khả năng ứng biến và cả cách suy nghĩ sáng tạo nữa."

    "Hay đấy," tôi cười.

    Tôi hoàn toàn nghiêm túc. Ai mà nghĩ chỉ cần đứng bên đường, vẫy vẫy một cánh tay là có thể khiến một chiếc taxi vàng chóe đỗ phịch ngay lại thì người đó hoàn toàn không thực tế chút nào. Một người NewYork thực thụ sẽ vạch ra hẳn một kế hoạch để vẫy taxi, gồm có: Anh ta đi đến chỗ nào, phải đứng ở đường bên nào và địa điểm tốt nhất để vẫy được một chiếc taxi - thường thì là trước cửa khách sạn hoặc cửa hàng mua sắm.

    Cuộc sống thành thị có một mức độ dữ dội đồi hỏi người ta phải phát triển sự khéo léo mang tính chất sống còn. Tôi muốn ói đến yêu cầu phải phản ứng tức thì trong những tình huống căng thẳng với những hoàn cảnh biến đổi không ngừng của cuộc sống thành thị. Điều này luôn đúng với bất kỳ người dân thành thị nào. Đối với người Do Thái thì khả năng suy nghĩ và phản ứng thậm chí còn phải nhanh hơn những người khác bởi vì họ là thiểu số. Những dân tộc thiểu số, dù là ai đi chăng nữa, có một lợi thế dễ dàng nhận thấy so với phần đông dân số còn lại - sự thiếu tiện nghi, cảm giác tạm bợ - một giác quan mà họ phải đấu tranh để đạt được và bảo vệ số mệnh của mình. Những khó khăn trong cuộc sống ở một môi trường khắc nghiệt góp phần phát triển trí thông minh mang tính chất sống còn này. Cũng giống như ví dụ về chiếc taxi ở NewYork, người ta lúc nào cũng phải nghĩ trước hai bước. Là một dân tộc thiểu số, người Do Thái luôn phải đánh giá đúng vị thế và hiểu rõ những điểm mạnh của mình khi phát triển một chiến lược để cất cánh trong những thời điểm thuận lợi và sống sót trong những giai đoạn cực kỳ cam go. Bí quyết được ẩn giấu trong mức độ tiếp thu cái mới cao và khả năng thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi với tốc độ chóng mặt.

    Những kinh nghiệm cay đắng đã dạy cho họ rằng, số mệnh của họ là không bao giờ được tận hưởng sự thoải mái. Không thoải mái và không có gì đảm bảo về tài chính. Bất cứ ai phải thích nghi với những nỗi đau về mặt tình cảm đều trở nên cảnh giác và để ý đến môi trường xung quanh mình hơn. Người Do Thái làm quen với những địa điểm họ đến giống như cách mà một con chuột làm quen với một con mèo nhà. Nhân tiện, điều này không chỉ áp dụng với người Do Thái. Nó cũng đúng với bất cứ người dân nào quyết định phải 'nhập gia tùy tục'. Đây là một trong những lý do giải thích cho việc tại sao tỷ lệ sinh viên người Trung Quốc thành công tại các trường Đại học của Mỹ lại cao đến vậy. "

    Tôi nghĩ về những điều ông nói nhưng không hiểu tại sao mọi thứ đối với tôi vẫn mù mờ lắm." OK, đúng là cuộc sống thành thị buộc chúng ta phải suy nghĩ theo một cách có thể giúp chúng ta đối mặt với sự sôi động, hối hả của nó. Nhưng, như ông và tôi, chúng ta đều đã quen với cuộc sống thành thị. "

    " Và đó chính là gót chân Ashin của chúng ta, "Samuel đáp lại.

    " Nghĩa là sao? "

    " Quen với mọi thứ. Cảm thấy thoải mái, "ông giải thích." Chúng ta cuối cùng rồi sẽ quen với mọi thứ và điều đó đặt ra cho bản thân chúng ta và sự phát triển trí tuệ vấn đề lớn nhất.

    "Nếu có một điều mà người ta có thể học từ những kinh nghiệm cay đắng trong quá khứ của người Do Thái thì đó chính là nguyên tắc của sự thoải mái. Chung quy lại, nếu muốn phát triển trí thông minh và thành công trong cuộc sống thì bạn không bao giờ được cảm thấy hài lòng, thỏa mãn hay đạt đến độ thoải mái và đảm bảo về tài chính! Con người ta phải tiến bộ từng ngày, lang thang cả về thể xác lẫn tinh thần. Con người mà cảm thấy thoải mái thì trí óc cũng ngừng làm việc luôn. Khi ta thấy thoải mái, ta sẽ chấp nhận mọi việc như nó vốn có. Ta không nghĩ đến chúng nữa. Ta chỉ là một con người nhỏ bé trong đám đông, chỉ biết đi cùng hướng với mọi thứ và cho rằng nếu mọi người cùng đi một hướng thì chắc chắn đó phải là hướng đi đúng." Samuel ngừng lại một lát.
     
  5. Heobong

    Bài viết:
    110
    "Thú vị thật", tôi lẩm bẩm.

    "Cậu biết đấy", ông tiếp tục. "Freud đã từng gải thich rằng ông cảm thấy chất Do Thái của mình không phải vì truyền thống hay lòng tự hào dân tộc mà bởi vì hai đặc điểm mà ông thấy còn quý hơn vàng - tự do khỏi những khuôn mẫu niềm tin xưa cũ, những niềm tin thường ngăn cản con người sử dụng trí tuệ của mình và đi ngược lại điều mà đa số thường làm".

    "Tôi đang cố nghĩ xem không biết tất cả những thứ này có ích gì cho công việc làm ăn của Jerome không?" tôi lơ mơ nói to. "Cậu ta là anh chàng mà tôi đã kể với ông ấy".

    "Cậu ta làm gì?" Samuel hỏi.

    Tôi kể cho ông nghe về dây chuyền sản xuất quần áo của Jerome.

    "Và cậu ta kiếm được tiền từ công việc đó hả?"

    "Cũng bình thường. Cậu ấy có thu nhập ổn định. Những khách hàng thường xuyên. Sẽ không thể làm giàu được bằng nghề đó, nhưng như ông nói, cậu ta thấy thoải mái. Nghề kiếm sống mà."

    "Nếu cậu ta thoải mái với số mệnh của mình thì chẳng có gì để nói nữa", Samuel bắt đầu, "nhưng nếu cậu ta muốn nhiều hơn, cậu ta sẽ phải thay đổi."

    "Hắn đã cố nghĩ ra vài sàn kiến mới nhưng chẳng ích gì" >

    "Cậu ta làm việc ở đâu?" Samuel hỏi.

    "Jerusalem"

    "Và cậu ta suy nghĩ tất cả những thứ đó ở đâu?"

    "Ở Jerusalem, dĩ nhiên là thế rồi," tôi cười khúc khích vì sự lố bịch của câu hỏi.

    Samuel lắc đầu. "Cậu có biết tại sao chúng ta ngồi đây không?" ông hỏi, rồi tiếp luôn, "bởi vì sự thua cược của một anh chàng đã sống ở Jerusalem vài năm rồi. Và tại sao anh ta lại thua? Bởi vì anh ta cảm thấy quá thoải mái và quen thuộc với thành phố của mình đến nỗi mất cả khả năng nhìn thấy mọi việc".

    "Chính xác là ông muốn dẫn tôi đến đâu đây?" tôi mỉm cười ngượng ngùng.

    "Các giác quan của cậu đã bị cùn hết rồi!" ông quay trở lại với chủ đề đang nói. "Cậu không còn thấy những điều mới mẻ nữa. Cậu không còn khả năng suy nghĩ một cách sáng tạo về những điều mới mẻ nữa. Khi một người ở một nơi quá lâu thì anh ta sẽ tự tạo ra cho mình những hàng rào về nhận thức. Anh ta không có đủ sự khích lệ bởi vì anh ta đã biết mọi thứ; chẳng còn gì mới mẻ dưới bầu trời này nữa nên những giác quan của anh ta bị cùn đi. Anh ta cần phải đi lang thang và thay đổi địa điểm."

    "Có phải ông định nói rằng hắn cần phải mở một văn phòng nữa ở Tel Aviv chăng?"

    "Nếu làm được thế thì tốt quá nhưng cũng chẳng cần đến một bước đi xa đến vậy. Chỉ cần cậu ta động n ão ở một chỗ khác là đủ rồi. Sự logic đằng sau việc 'lang thang' chính là thực tế rằng việc đi đến một nơi khác có thể tác động đến chúng ta theo một cách rất đặc biệt.

    " Những nghiên cứu được thực hiện trong phòng thí nghiệm trên loài chuột cho thấy sự khác biệt rất thú vị giữa những con chuột sống trong một chiếc lồng cả đời và những con chuột thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác "

    " Những con chuột lang thang thường xuyên gặp được những môi trường 'béo bở', những tác nhân kích thích luôn thay đổi - đồ chơi, vật gây tiếng động, ánh sáng, các loại mùi.. những con chuột này thể hiện một trí thông minh vượt trội hơn hẳn. Sau khi những con chuột đó chết, người ta thực hiện một phân tích sâu hơn và phát hiện ra rằng não của chúng phát triển hơn trên nhiều phương diện nhất đinh. Vỏ não, chẳng hạn, dày hơn và đầy hơn so với những con chuột không có các kích thích, hàm lượng của một số loại enzyme cũng cao hơn, "ông giải thích, nghe có vẻ rất chuyên nghiệp.

    " Tôi chẳng hiểu gì những điều ông nói, nhưng có vẻ nó cũng khá thuyết phục đấy ", tôi đưa tay đẩy nhẹ cặp kính lên, chứng tỏ sự quan tâm của mình.

    " Ngoài những kích thích có thể nhìn thấy được ở một nơi mới ", ông nói," Cơ thể còn kích hoạt những cơ chế phòng vệ cần thiết bằng cách mài giũa các giác quan, tăng cường khả năng tiếp thu và thúc đẩy sự sáng tạo, tất cả những thứ này nhằm mục đích giúp ta đối mặt với hoàn cảnh mới. Cái này thì không cần phải cố. Nó thuộc về tự nhiên rồi. Ai đi nước ngoài về đều biết đến cảm giác này. Lấy cậu làm ví dụ chẳng hạn. Khi cậu quay trở về Israel sau khi ở nước ngoài một thời gian, có đúng là cậu cảm thấy mình từng trải hơn không? Cậu cảm thấy mình đã có thêm nhiều kinh nghiệm sống và thấy được những điều mới mẻ. Cậu thấy mình thông minh và khéo léo hơn, đúng không? "

    " Ông biết hết những điều đó rồi ", tôi mỉm cười ngượng nghịu.

    " Lòng tự tôn của cậu cũng cao lên ", ông tiếp" bởi vì cậu thấy rằng nếu ta đã ở London hay Paris suôn sẻ đến vậy thì làm sao ở Givatayim hay Netanya lại có thể có chuyện gì khó khăn được chứ! Khi cậu quay trở về từ nước ngoài, cậu thấy mình 'vĩ đại' hơn về tinh thần và trí lực. Bỗng nhiên mọi thứ khác đi một chút ".

    " Vậy tức là, khi ta cảm thấy mình trở nên 'nhỏ bé' ta cần phải đến một nơi nào đó khác trong vài ngày ", tôi cố tóm lại những điều ông nói.

    " Chính xác ", ông khẳng định." Ai cũng trải qua một thời kỳ với cảm giác bị mắc kẹt, vô dụng hay nhàm chán. Khi đó, người ta có ít động lực để cố gắng hơn. Tương lai dường như mờ mịt, như một cỗ xe sa lầy mà chẳng có con ngựa n ào ở đó để kéo nó lên được. "

    " Đúng, chính là cái cảm giác đó. "

    " Nhưng sự thực là có một con ngựa như thế. Nó có tên là 'Thành phố Lớn' và nó không nhất thiết phải ở nước ngoài. Nó thể là một thành phố khác trong chính đất nước ta đang sống. Vấn đề cốt yếu ở đây là ta phải đi đến một nơi khác. Bất cứ ai muốn phát triển sự sáng tạo thành công đều cần phải rời xa sự thoải mái nơi cái tổ của mình ".

    " Nghe giống như đọc truyện cười ngày xưa nhỉ, 'Định nghĩa một chuyên gia là gì? "Tôi nhớ lại.

    " Định nghĩa một chuyên gia là gì? "Samuel nhắc lại.

    " Một người đi ra khỏi thị trấn. "

    " Điều đó hoàn toàn đúng ", ông mỉm cười." Có một câu nói của người Do Thái, 'Ở thành phố anh ta sống không có nhà tiên tri'. Một người không thể thành công trong thành phố mình sống vì ở đó ai cũng biết những sai lầm của anh ta. Chỉ khi đến một nơi khác, nơi anh ta hoàn toàn thoát khỏi những xiềng xích, những ý niệm xã hội được hình thành từ trước hay theo cách nói của cậu, những khả năng thực sự của anh ta. Người Do Thái thành công bởi vì họ là những người ngoài. Là một người ngoài, bạn không phải quan tâm đến hiện trạng, điều này giúp bạn chấp nhận những nguy cơ và thử thách những điều mới mẻ ".

    " Có một loại rượu táo tên là 'Người ngoài' ", tôi nói to và ngay sau đó thấy hối hận vì đã buột miệng nói suy nghĩ của mình thành lời. Một tiếng thảo luận các vấn đề trí tuệ bắt đầu ảnh hưởng đến tôi rồi đây.

    " Rất vui được biết thông tin đó ", ông mỉm cười vẻ giễu cợt." Nhưng có những ví dụ thực tế về những người ngoài đã được đưa vào lịch sử ", ông nói tiếp." Như Napoleon, Karl Marx hay thaamk chí là Hitler chẳng hạn ".

    " Ông nói 'Người ngoài' nghĩa là sao? "

    " Napoleon Bonaparte chẳng hạn, không phải là người Pháp hoàn toàn. Ông sinh ra ở đảo Corsica của Italia, cả bố mẹ đều là người Italia, sau này họ mới chuyển đến Pháp.

    "Karl Marx là một người Đức nhập cư vào London và ở đó ông đã viết nên bản tuyên ngôn của mình, sau này được những người Xô-viết gọi là chủ nghĩa Marx. Bản thân Marx thậm chí còn chưa bao giờ đặt chân đến Nga!"

    "Và Hitler là người Áo chứ không phải người Đức" >

    "Hoàn toàn chính xác! Một sự thật mà người Áo kuoon cố gắng che giấu. Ở nơi hắn sinh ra, hắn cảm thấy quá thất vọng, chính vì vậy hắn đã nhập cư vào Đức và thử vận may của mình tại nơi mới. Ở đó hắn đã làm nên vận may lớn. Rất lớn." Samuel mím môi. B Ông duỗi người trên ghế và ho vài tiếng mệt mỏi. "Dù sao, thay đổi địa điểm là một điều thiết yếu. Nhiều người thất bại ở nơi này nhưng lại làm nên chuyện ở một nơi khác" >

    "Nói cách khác, để Jerome suy nghĩ tích cực và sáng tạo hơn về triển vọng tương lai của mình, hắn cần phải đến một nơi nào đó không quen thuộc".

    "Chính xác", Samuel gật đầu đồng tình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng tám 2022
  6. Heobong

    Bài viết:
    110
    "Và nếu tôi muốn tiếp tục tập trung vào cuộc trò chuyện này", tôi nghiêng người về phía ông, "tôi cần phải đến một nơi".

    Samuel cố hiểu ý tôi.

    "Tôi cần phải đến nhf vệ sinh", tôi mỉm cười khi đứng dậy.

    Cạnh nhà vệ sinh tôi thấy có một máy điện thoại công cộng. Tôi dừng lại một lại, không phải bởi vì tôi chưa thấy máy điện thoại để gần toa-let bao giờ, thực tế thì ngược lại mới đúng - vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều máy điện thoại để gần nhà vệ sinh trong các nhà hàng đến nỗi tôi tự hỏi hay là các nghiên cứu về tiếp thị đã chỉ ra rằng khi buộc phải chết dí trong đó thì người ta sẽ cảm thấy một khao khát mãnh liệt được gọi cho bạn bè, người thân chăng. Mà thôi, tôi chợt hiểu điều mình phải làm ngay lúc này.

    Tôi lấy điện thoại di động ra và bấm số.

    Ở đầu dây bên kia, một giọng nói lạc quan trả lời sau vài hồi chuông.

    "Jeromikins", tôi bắt đầu.

    "Ô lala!" hắn nhận ra giọng tôi. "Bonsoir, mon ami. (Xin chào, bạn của tôi). Vì lý do gì mà tớ lại có cái vinh dự được nhận cuộc điện thoại vào giờ này nhỉ?"

    "Tớ muốn cậu đến gặp tớ ở Paris ngay ngày mai".

    Im lặng.

    "Mọi chuyện ổn chứ?"

    "Ổn cả. Cứ coi đây như là bốc đồng đi. Về cái dự án nho nhỏ của bọn mình ấy mà", tôi giải thích.

    "Cậu muốn mình bay đến Paris ngay sáng mai hả?"

    "Ừ"

    "Vì dự án nho nhỏ của chúng ta"

    "Ừ"

    Im lặng

    "Paris, ngày mai?"

    "Ừ"

    Jerome bắt đầu lẩm bẩm cái gì đó kiểu như bị nhiễu sóng, không hiểu nổi. "HOUSTON, CHÚNG TA CÓ CHUYỆN ĐÂY.." át cả tiếng nhiễu sóng. "Cậu có đang bị kích động không đấy?"

    "Tớ muốn cậu gặp một người và cậu phải gặp ông ấy ở đây, Paris này, gặp trực tiếp, quan trọng lắm", tôi giải thích.

    "Cậu nói nghiêm túc đấy hả? Cậu muốn tớ quẳng đi 800 đô la vì việc này hả?"

    "Với một người dự định kiếm 50 triệu đo la thì tớ nghĩ 800 đô la còm đâu có nghĩa lý gì", tôi trả lời, cố gắng tỏ ra tự tin hơn suy nghĩ thật của mình. "Mà còn nữa, cậu đã từng làm những điều tự phát như thế nayfbao nhiêu lần rồi. Thôi, đến đây đi. Tớ tình cờ có một điều ngạc nhiên cho cậu.."

    Khi tôi quay trở lại bàn, tôi lấy ra một mảnh giấy nhỏ và viết lên đó nguyên tắc thứ hai của trí thông minh Do Thái:

    Nguyên tắc của người sống sót - Không bao giờ được cảm thấy thoải mái. Hãy tiếp tục lang thang, cả về thể xác và tinh thần, để trải nghiệm những điều mới mẻ.

    Tôi nói chuyện tiếp với Samuel khoảng một tiếng nữa rồi chúng tôi chia tay và hẹn gặp nhau vào tối hôm sau.

    Đúng hai giờ chiều hôm sau, Jerome xuất hiện ở cửa phòng tôi tại khách sạn Saint Paul với một chiếc túi nhỏ đặt dưới chân. "Jerome Vĩ đại" đã làm được.
     
  7. Heobong

    Bài viết:
    110
    Chương 5: Tại sao người Do Thái luôn trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác

    "Trí thông minh của con người là ánh sáng của Chúa Trời thâm nhập vào nơi đáy cùng của mọi thứ".

    Lá đỏ phủ kín vỉa hè. Mặt trời đã gần như lặn hẳn khi chúng tôi thư thái tản bộ dọc theo bờ sông Seine.

    "Cứ như đi trên lớp khoai tấy chiên ấy," Jerome nói.

    Tôi kéo chiếc phéc-mơ-tuya túi khoác và lấy ra một chiếc phong bì màu trắng từ túi trong.

    "Điều ngạc nhiên cho cậu đây," tôi đưa chiếc phong bì cho hắn.

    Jerome cười toe toét và xé ngay chiếc phong bì ra.

    "Trời ạ, không thể tin được!" hắn hét lên khi nhìn thấy hai chiếc vé trên tay. "Paris San Germain và Marseille." Hắn vỗ vai tôi nồng nhiệt. "Cảm ơn nhé. Dù xem bóng đá tại Paris thay vì ở sân vận động Teddy Kollek ở Jerusalem. Cậu mang đến cho tớ ngày hoàng kim rồi đấy."

    Khi bóng tối phủ kín thành phố thì chúng tôi đã đến Đại lộ San Michelle. Hàng đoàn khách du lịch đi dạo chật kín đường phố. CHúng tôi băng qua hết đám đông và mười phút sau thấy mình trong một con hẻm nhỏ tĩnh lặng.

    "Cafe Terrace, " quán cà phê duy nhất trong con hẻm, tựa như bước ra từ một bức tranh của Van Gogh vậy.

    Samuel đang ngồi ở một chiếc bàn trước quán chờ chúng tôi. Tôi nhìn đồng hồ, mỉm cười và bắt tay chào Samuel.

    "Tôi đến đây được năm phút rồi," Samuel giải thích và đưa tay về phía Jerome. "Tôi là Samuel. Rất vui được gặp cậu."

    "Tôi là Jerome," hắn bắt tay Samuel. "Ông đi loanh quanh khắp nơi với chiếc mũ Do Thái này mà không sợ à?" Jerome hỏi, vẫn thiếu tế nhị như thường lệ.

    Samuel phá lên cười. Này không làm ông lúng túng.

    "Thế cậu mặc chiếc áo in hình Jacque Chirac đi loanh quanh thế này không sợ à?"

    "Tôi nghĩ là dân Paris sẽ thích nó", Jerome chỉ vào Samuel khi hắn quay lại phía tôi. "Ông bạn này được đấy!" Jerome ngồi xuống.

    "Cậu vẫn hay nói thế với người vừa mới quen à?" tôi hỏi.

    "Tất nhiên là không rồi. Thường tớ sẽ hỏi xem họ biết cô nàng nào dễ thương có thể hứng thú với tớ không.. thế ông có biết cô nào không?"

    Jerome có rât sít khả năng kiềm chế. Giờ tôi mới nhớ ra.

    "Thế chính xác là cậu tìm người như thế nào?" Samuel tủm tỉm cười.

    Jerome ngồi thẳng lại và đặt tay lên bàn. "Ồ, tôi tìm một cô nàng xinh đẹp, thông minh, có khiếu hài hước, có cổ phần của Microsolf, và Yahoo từ năm 1987. Và cuối cùng, theo thiên ý của tôi, phải góp phần quan trọng cho một mối quan hệ tốt đẹp".

    "Cậu ta cũng được đấy" Samuel nói với tôi.

    "Ồ, vậy thì, tôi rất vui vì buổi hẹn hò đầu tiên đã thành công", tôi đầu hàng.

    Tôi không biết liệu Samuel có chuẩn bị để tiếp tục cuộc trò chuyện của chúng tôi hôm trước không, hay chỉ là tình cờ thôi, nhưng chúng tôi đã tiến đến một nguyên tắc khác liên quan đến trí thông minh cảu người Do Thái.

    Samuel ca ngợi Jerome vì quyết định của hắn, cho hắn một vài lời khuyên rồi hỏi, "Cậu có biết tại sao người Do Thái luôn trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác không?"

    "Sao họ lại không nên làm thế chứ?" Jerome mỉm cười.

    "Dĩ nhiên, ai cũng biết là thế, nhưng nghiêm túc đấy, có hẳn một triết lý dựa trên điều này. Hôm qua Eran đã kể cho tôi nghe về dự án của các cậu, và trên đường về khách sạn, tôi nghĩ rằng một trong những nguyên lý cơ bản của trí thông mình Do Thái đó là sự quan tâm dành cho việc học hành và giáo dục. Ai cũng có một khao khát cơ bản là được ghiểu biết nhưng không phải xã hội nào cũng ưu tiên cho giáo dục. Chẳng thiếu gì lý để biện hộ cho việc này: Họ không có tiền. Và nếu có đi nữa thì có vẻ đầu tư số tiền đó vào phát triển kinh tế sẽ có nghĩa hơn nhiều so với đầu tư vào sách vở, trường lớp hay các thứ 'xa hoa' khác".

    "Nhưng người Do Thái thì khác. Một người có thể sống mà không có vật chất nhưng không thể sống trong sự ngu dốt."

    Trong suốt lịch sử, người Do Thái luôn sống ở những nơi tồi tàn. Mà ngay cả ngày nay cũng vậy, nếu nhìn vào những khu Do Thái chính thống - ngay ở Jerusalem hay Bnei Barak - sẽ thấy rằng hầu hết họ đều sống dưới mức nghèo khổ. Một cậu bé có thể khkhooncos nổi một miếng thịt nhưng không thể không có sách vở. Bố mẹ cậu bé có thể chẳng kiếm được đồng nào khi lamg giáo viên bán thời gian nhưng đổi lại, họ sẽ nhận được những điều quý giá hơn - sự kính trọng và danh dự. Đề cao việc học hành là một giá trị rất cao đối với người Do Thái.

    "Vì vậy, những nhà lãnh đạo Do Thái hiểu rằng tương lại của đạo Do Thái dựa vào giáo dục. Giáo dục quan trọng đến nỗi, một trong những thầy đạo cấp cao còn thừa nhận rằng ông ta thích học kinh Toral hơn bất cứ bổn phận nào khác, trong đó có chuyện chăm lo lễ tế hàng ngày. Sau đó, một triết lý của người Do Thái đã được phát triển 'Thế giới được chống đỡ bởi ba điều: Toral, công việc và lòng từ thiện'. Để ý mà xem, giáo dục đứng đầu danh sách đó đấy".

    "Thức ăn ngon và những trận bóng đá nữa chứ," Jerome bổ sung. "Nếu bạn muốn thế giới ổn định hơn nữa và được chống đỡ tốt hơn trên nền tảng năm điều".

    "Điều mà có thể người Do Thái không biết hay ít nhất là họ không nghĩ sẽ xảy ra đó là việc họ đã đặt nền móng cho sự phát triển của trí thông minh của cả cá nhân và tập thể. Người Do Thái tập trung vào việc sử dụng cái đầu, sau đó mới đến chân tay. Đó là một lý do nữa giải thích tại sao hầu hết người Do Thái đều làm việc trong những ngành ít đồi hỏi vận động mà chủ yếu đòi hỏi trí óc như y khoa, thương mại, luật.. Đó cũng là lý do tại sao có rất ít vận động viên nổi tiếng người Do Thái. Phát triển trí óc luôn đi trước phát triển thân thể".

    "Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sử dụng bộ não, tức là suy nghĩ nhiều, sẽ giúp phát triển trí thông minh. Nếu bạn làm những việc mang tính máy móc như là hái cà chua hay những việc ít đòi hỏi suy nghĩ, sáng tạo thì rất có khả năng sẽ bị teo não".

    "Đúng rồi đó", tôi đồng ý, "Hồi ở khu định cư tôi cũng đã nghĩ y như thế".

    "Cậu đã từng sống ở khu định cư hả?" Samuel hỏi có vẻ ngạc nhiên.

    "Đúng vậy, cả Jerome cũng thế", tôi trả lời đấy tự hào.

    "Tôi cũng đã tưng làm tình nguyện viên ở một khu định cư," Samuel trả lười thỏa mãn, "mà.. đợi chút. Thế hói ở khu định cư ấy, cậu nghĩ gì?"

    "Ôi, chả có gì đâu. Chỉ là chúng tôi làm những công việc nhà nông kiểu như nhặt cà chua, dưa hấu, hành và khoảng năm mươi loại rau củ khác nhau. Tôi nhớ là sau hai năm làm công việc nhặt nhạnh đó tôi chỉ muốn nhặt những thứ như hoa tai, bóng đén, bóng bay.. Nói tóm lại, không phải là tôi muốn xúc phạm những người nông dân đâu, có Chúa chứng giám nhưng rõ ràng là nhặt cà chua thực sự không đòi hỏi nhiều suy nghĩ lắm."

    "Ngay cả việc vắt sữa bò, một công việc được coi là thú vị hơn nhiều, thì công đoạn cần đến bộ óc nhất cũng chỉ là nhớ đặt chiếc ống hút vào vú con bò chứ không phải vào chỗ nào khác. Tất nhiên, để hoàn thành được công việc đó, đầu tiên bạn phải túm được vú con bò đã, Và, thêm nữa, phải nhớ đưa mỗi con trở lại đúng chuồng và cài then cửa - việc này thì thỉnh thoảng tôi vẫn hay quên. Nhưng dù gì, khoảng thời gian ở khu định cư là một trong những giai đoạn tốt đẹp nhất trong cuộc đời tôi vì tôi chẳng cần phải nghĩ ngợi gì hết.."

    "Cậu nói cũng đúng," Samuel mỉm cười. "Đôi khi, không nghĩ gì lại tốt, nếu người ta đã chọn như thế. Nhưng ta có quyền quyết định mình muốn cả ngày làm công việc nhặt cà chua hay đầu tư thời gian cho phát triển trí não và đấu tranh với sự đơn điệu, buồn tẻ."

    "Đến lúc bảy mươi thì chẳng làm được gì nữa," Jerome lẩm bẩm.

    "Hừ, tuổi tác chả liên quan gì hết."

    "Không liên quan sao?" Lông mày tôi rướn lên đầy thắc mắc.

    "Đúng vậy". Samuel chậm rãi gật đầu. "Con người có thể học tập và phát triển bộ óc ở bất cứ lứa tuổi nào. Như đại tá Sanders, người sáng lập ra KFC, một trong những chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh phát đạt nhất thế giới, đến tận tuổi 60 mới thành lập hãng đấy."

    Jerome đưa tay lên má. "Tôi nghĩ chắc mình sẽ về hưu ở tuổi 50 thôi."

    "Có một điều còn thú vị hơn," Samuel tiếp tục, "đó là người Do Thái có một phương pháp rất hiệu quả để kích thích não bộ. Phương pháp cân nhắc."

    "Hỏi và đáp" tôi dõng dạc tuyên bố.

    "Cậu có nhớ tôi đã hỏi cậu tại sao người Do Thái luôn trả lời một cậu hỏi bằng một câu hỏi khác không?" Samuel quay sang Jerome, "Bởi vì họ được dyaj như thế và đó là thói quen đã truyền lại qua nhiều thế hệ."

    "Đạo Do Thái có một nguyên tắc là không bao giờ được coi bất cứ điều gì là chuyện đương nhiên, thậm chí cả những mệnh mệnh nghiêm khắc và cơ bản nhất. Cho dù mệnh lệnh có đến từ đâu thì người Do Thái cũng luôn khao khát được hiểu tại sao họ phải hành động như thế và logic đằng sau mỗi mệnh lệnh là gì. Sinh viên trường đạo không phải cứ mù quáng chấp nhận tất cả những điều thầy đạo nói như những lời thánh truyền mà không có gì chứng minh cho những lời đó. Họ được quyền tranh luận với người dạy mình và được khuyến khích đưa ra câu hỏi nếu họ nghĩ rằng hành động của thầy đạo đi ngược lại những điều họ được học. Một giáo viên may mắn là người được dạy những sinh viên có khả năng giúp mình hiểu biết hơn nhờ những câu hỏi của sinh viên và việc trả lời những câu hỏi đó. Đó cũng là lý do vì sao sách Talmud lại đóng một vai trò quan trọng đến vậy trong cuộc sống của người Do Thái. Đó là một tác phẩm không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Không có cái gọi là câu trả lời cuối cùng và ai cũng có thể bắt đầu một cuộc thảo luận tại bất cứ điểm nào trong đó, thậm chí cả những điểm đã được tất cả mọi người 'chấp nhận'. Học tập không phải là học thuộc như vẹt những điều về quá khứ mà phải là lời mời gọi thảo luận về tương lai."

    "Không được coi bất cứ điều gì là hiển nhiên," Jerome kết luận.

    "Đúng vậy", Samuel khẳng định. "Bạn cần phải kiểm tra tất cả, nghiên cứu và đưa ra những câu hỏi. Chúng ta thường chấp nhận nhiều điều mà không xem xét chiều sâu của nhữngđiều đó, và chính vì thế mà cuối cùng chúng ta sống với rất nhiều quan điểm sai lầm. Tôi sẽ cho mọi người một ví dụ." Ông ngừng lại nghĩ một lúc.

    "Cậu có biết câu chuyện Adam và Eva bị trục xuất khỏi vườn địa đàng khi Eva xúi giục Adam cắn một miếng trái táo cấm không?"

    "Có chứ," tôi trả lời.

    "Hãy kể câu chuyện đó với một học sinh trường đạo và tôi chăc chắn một điều là cậu học sinh đó sẽ nhảy dựng lên.. ai bảo đó là trái táo chứ?"

    "Ừ, phải rồi," Jerome mỉm cười. "Thật ra nó là 'một trái hái từ cây tri thức."

    "Chính xác, và các nhà hiền triết cho rằng 'trái' đó rất có thể là nho hoặc sung vì chúng ta biết rằng sau đó Adam và Eva phủ đầy mình lá sung." Samuel mỉm cười.

    "Cũng giống như hộp đen ấy nhỉ," Jerome nói to suy nghĩ của mình.

    "Tớ chả thấy liên quan gì hết," tôi nói.

    "Cái hộp đó thực ra đâu phải màu đen. Nó màu da cam mà, để cho dễ tìm." Jerome đã cho chúng tôi một ví dụ về một điều chúng tôi cứ tưởng mình biết trong khi thực ra không hề biết.

    "Chung quy lại, tôi muốn giải thích cho thực tế rằng việc học hành của người Do Thái dựa trên những câu hỏi, nghiên cứu, tranh luận và xem xét chiều sâu, chiều rộng của mọi vấn để. Phương pháp này là một tài sản có đóng góp rất lớn vào trí tuệ và khả năng rút ra những kết luận chính xác của người Do Thái." Ông quay qua Jerome. "Trước khi cậu bước vào một sự kiện mới, đàm phán công việc làm ăn hay đơn giản chỉ là đến thăm một chỗ nào đó mới lạ, hãy đưa ra những câu hỏi. Bằng cách này, cậu có thể biến một tình huống nan giải với hàng ti tỉ thứ không biết thành điều quen thuộc với cảm giác mình có thể kiểm soát được mọi thứ. Giữa trin thứ c và sự tự tin có mối quan hệ rất mật thiết."

    Điện thoại của Jerome bắt đầu đổ chuông. Hắn lục tung tất cả các túi để tìm chiếc điện thoại. Hắn vừa tìm thấy thì chuông ngừng kêu. Hắn nhìm chằm chằm vào màn hình.

    "Số máy đã bị chặn. Tuyệt thật. Và trong nửa tiếng tới, mình sẽ phải bận rộn nghĩ xem đó có thể là ai được." Hắn tắt điện thoại.

    "Lạc quan lên nào," tôi nói.

    "Có thể cậu không biết được đó là ai nhưng việc cố gắng suy nghĩ sẽ làm bộ óc cậu săc sảo hơn."

    "Điều này làm tôi nhớ đến câu chuyện về một cậu bé và ông bố có liên quan đến việc học hành và những câu hỏi," Jerome ngắt lời. "Có ai nghe chưa?"

    "Chắc là chưa đâu.. Cậu kể đi."

    Jerome mỉm cười và ngồi thẳng dậy. "Một cậu bé đến chỗ bố và hỏi 'Tại sao bầu trời lại màu xanh?'Bố cậu trả lời rằng ông không biết. Sau vài phút, cậu bé hỏi 'Đường kính của Trái Đất là bao nhiêu?'Ông bố gãi đầu và nói 'Đó là một câu hỏi khó, sao con không thử tra trong sách xem' Một vài phút sau nữa cậu bé lại hỏi 'Tại sao con voi lại có cái vòi dài thế?''Con trai à, bố không biết.'Cuối cùng cậu bé quay sang bố và nói 'Thế bố có bực mình vì con hỏi nhiều quá không?''Dĩ nhiên là không rồi, ' ông bố trả lời.'Nếu con không hỏi thì làm sao con học được?'

    Samuel cười và tự nói với mình" Mình phải nhớ câu chuyện này mới được. "

    Jerome ngả người tựa vào ghế, băt chéo chân và nhìn chằm chằm vào một cặp vợ chồng già đi ngoài phố." Ông có ví dụ nào về một câu hỏi kiểu Talmud không? "

    Samuel ngẫm nghĩ một lúc." Có hai tên trộm đột nhập vào một ngôi nhà qua ống khối. Mặt một tên đen sì đầy bồ hóng, còn tên kia thì mặt mũi vẫn sạch nguyên. Thế cậu nghĩ tên nào đi rửa mặt? "

    Jerome nhún vai." Tôi đoán chắc tên mặt bẩn. "

    Samuel lắc đầu." Cậu đưa ra kết luận mà không nghĩ ngợi chút nào. Tên mặt bẩn sẽ nhìn mặt tên đồng phạm của hắn, thấy một khuôn mặt sạch sẽ và nghĩ rằng mặt hắn cũng sạch như thế. Còn tên kia sẽ nhìn tên mặt bẩn và cho rằng mặt mình cũng bị bẩn. Tên thứ hai mới là người sẽ đi tìm chỗ rửa mặt. "

    " Ừ, đúng rồi, "Jerome mỉm cười. Hắn nhìn ra đường và ngồi ngẫm nghĩ một lúc." Nhưng mà.. tại sao hai tên cùng trượt xuống từ ống khói mà một tên lại hcui ra với khuôn mặt sạch sẽ được chứ? "

    Samuel giơ ngón tay cái lên và nháy mắt với hắn" Câu hỏi của cậu chứng tỏ cậu có khả năng học Talmud đấy. "

    Tôi lục túi áo và tìm thấy một mảnh giấy nhỏ. Tôi mượn Jerome chiếc bút đắt tiền lúc nào hắn cũng để trong túi áo trái và viết:

    Để học tập mãi mãi, hãy đưa ra những câu hỏi và không bao giờ được coi bất cứ điều gì là chuyện hiển nhiên.

    " Eran chịu trách nhiệm thu thập mọi thông tin cho cuốn sách, "Jerome giải thích." Tôi thì nhận vai trò dễ dàng hơn nhiều. Chỉ cần thực hiện mọi thứ thôi. "hắn mỉm cười ngượng nghịu.

    " Mà nhân tiện, "Samuel tiếp tục dòng suy nghĩ," khi cậu đưa ra những câu hỏi, cậu sẽ có khả năng nhận ra những thay đổi cần có trong thực tại, như cái băng dán trên tay cậu kia chẳng hạn. Khi đó, cậu sẽ thực sựu có khả năng thay đổi tương lai của mình. "

    Jerome xem xét cái băng tay một lúc." Cái băng tay của tôi thì có vấn đề gì chứ?"
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng tám 2022
  8. Heobong

    Bài viết:
    110

    6. SỰ SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI DO THÁI

    Nguyên tắc về việc nâng cấp


    'Cậu có hay nhìn thấy người ta dán băng lên vết thương không? "Samuel hỏi Jerome." Hàng tỉ lần rồi phải không? "

    Jerome gật đầu.

    " Cậu có bao giờ quan sát thật kỹ chiếc băng sán không? Chắc là không rồi bởi vì chả có lý do gì để đi quan tấm đến một thứ đơn giản và rõ ràng đến vậy. Thế giới đã dùng băng dán gần 70 năm nay rồi nhưng chỉ khoảng một thập kỷ gần đây mới có một người để ý một điều mà chúng ta cho là hiển nhiên: Tất cả các loại băng dán đều cùng một màu da kem. Trong suốt 60 năm, tất cả mọi người, không cần biết màu da gì đều sử dụng chiếc băng dán có màu tiêu chuẩn đó và chấp nhận nó như một thực tế. Phải mất 60 năm người ta mới đặt câu hỏi, 'Sao không làm băng dán màu tối hơn cho những người da tối?'và vì thế chi trong một thập kỷ trở lại đây các công ty mới bắt đầu cải thiện quan niệm về chiếc băng dán và sản xuất những băng có nhiều màu sắc hơn. 60 năm đó!

    "Phải mất vài trăm năm các nhà sản xuất nước sốt mới tự hỏi chính mình, 'Sao người dùng cứ phải dốc ngược chai thủy tinh lên chỉ để lấy ra vài giọt nước sốt tí tẹo chứ?'và chính vì vậy, trong vài năm qua, một số nhà sản xuất đã bắt đầu sản xuất những chai nước sốt bằng nhựa bóp được và có hình úp xuống. Hàng triệu người giờ đây đã có thể thưởng thức nước sốt mà không phải trầy trụa cả tay vì dốc chai." Samuel mỉm cười.

    "Tôi có cảm giác là ông đang muốn dẫn đến một điều gì đó," Jerome thận trọng.

    "Tất nhiên. Tôi muốn nói rằng chẳng cần thiết phải phát minh một loại bánh xe khác làm gì. Những phát minh vĩ đại nhất của loài người đều chỉ là việc cải tiến những cái sẵn có. Cải tiến ở đây mang ý nghĩa là dùng những cái có sẵn và tìm cách làm cho chúng đơn giản hơn, dễ sử dụng hơn và hiệu quả hơn."

    Jerome cầm ống muối lên và xem xét một hồi. "Xem nào," hắn bắt đầu "Lỗ cần rộng hơn để muối khỏi bị tắc lại."

    "Không tệ chút nào," Ssamuel mỉm cười.

    "Cái này có liên hệ gì đến trí thông mình Do Thái không vậy?" Jerome hỏi.

    "Có chứ, ít nhiều liên quan," Samuel khẳng định. Chúng ta đã nói đến việc người Do Thái phát triển một thứ bản năng sinh tồn đòi hỏi họ phải để ý rất kỹ đến sự thay đổi không ngừng của hoàn cảnh xung quanh mình, khả năng thích ứng với những thay đổi này và một nguyên tắc căn bản đó là không được coi bất cứ điều gì là hiển nhiên. Người Do Thái luôn cố gắng giữ một bộ óc cởi mở. Sự cởi mở này cho họ một hiểu biết quan trọng - không việc gì phải phát minh ra một loại bánh xe khác, cứ sử dụng cái đã có sẵn theo cách phù hợp với nhu cầu của mình nhất. Tất nhiên, nhiều người Do Thái đã có những ý tưởng tác động đến toàn nhân loại nhưng họ cũng đủ khôn ngoan để tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hóa và những con người sống quanh họ để đáp mứng nhu cầu của mình. Ở một khía cạnh nào đó, họ là những người bắt chước sáng tạo. "

    " Những người bắt chước sáng tạo?'tôi nói.

    "Một người bắt chước sáng tạo là người áp dụng có hiệu quả một thứ đã có sẵn để phù hợp với nhu cầu của mình và cải tiến thứ đó. Một tấm đệm chỉ là một chiếc chiếu được cải tiến, một chiếc ô tô chỉ là một chiếc xe ngựa tinh vi.."

    "Và George W. Bush chỉ là phiên bản tốt hơn của George. W. H. Bush," Jerome ngắt lời.

    "Chính các thì người Do Thái đã học tập những gì từ các nền văn hóa khác?" tôi hỏi.

    "Họ đã học cách cày cuốc và xây nhà từ người Canaanite, và họ cũng vận dụng những điều luật liên quan đến việc bán và cho thuê đất. Nói tóm lại. Hầu hết các luật lệ của nền văn minh đều được tiếp thu từ người Canaanite."

    "Thế còn giai đoạn sau này thì sao?"

    Samuel ngẫm nghĩ một lúc. "Ngôn ngữ Do Thái - cả viết và nói - là sự cải tiến tiếng Aramaic cảu người Syri và ngôn ngữ của người Canaanite. Rất nhiều từ được lấy từ tiếng Ả rập và tiếng Ba Tư." Samuel gật đầu mỉm cười. Tiếng Ả Rập là một ngôn ngữ giàu và đẹp, và nếu cậu biết đọc tiếng Ả Rập, cậu sẽ có thể thưởng thức những bài thơ Ả Rập tuyệt vời của Jubran Halil Jubran, Naguib Mahfouz và Taha Hussein. "

    Samuel im lặng một lúc, nhìn chăm chăm xuống bàn ngẫm nghĩ. Jerome lấy chiếc áo khoác đang vắt trên thành ghế và nhẹ nhàng xỏ tay vào. Một cơn gió thu ùa đến chỗ chúng tôi. Bầu trời đêm không có lấy một gợn mây. Tôi nhìn lên bầu trời đầy sao lấp lánh.

    " Đếm đầy sao.. "tôi lẩm bẩm." Không biết Van Gogh có ngồi ở quán Cafe Terrace này khi nghĩ đến việc sáng tạo nên kiệt tác cua rminhf không nhỉ? "


    " Đêm, đêm đầy sao.. "Jerome bắt đầu ư ử bài hát cũng nổi tiếng không kém." Không biết có phải Don McLean làm bồi bàn cho ông ấy không nhỉ? "Hắn đùa.

    " Đó là một ví dụ nữa. Người Do Thái tiếp nhận những điều họ thấy xung quanh mình và biến đổi chúng cho phù hợp với thế giới của họ, Don McLean đã lấy ý tưởng từ một bức tranh tuyệt vời, kiệt tác cảu một họa sĩ vĩ đại và biến nó thành một phần trong thế giới của mình - ông đã chuyển nó thành một bài hát có tên 'Vincent'.. Vincent Van Gogh. "

    " Ngưỡng mộ quá, "Jerome tán dương hiểu biết về âm nhạc của Samuel.

    " À, còn một điều nữa. Ngày Sabbath. "

    " Ngày đó thì sao? "Jerome hỏi.

    " Một ngày của dự thanh thản.. Theo một giáo sĩ người Mỹ thì người Babylon mới là người nghĩ ra ý tưởng về ngày Sabbath nhưng chính người Do Thái lại là những người đem đến cho nó sức sống và một linh hồn. Đây là một sự bắt chước thành công đến mức không còn dấu vết gì của phiên bản Babylon. "

    " Điều này làm tôi nhớ đến một câu chuyện mà bố tôi vẫn hay kể, "tôi nhớ lại," Ông bảo rằng Shakespeare không thực sự viết tất cả những vở kịch đó, mà là một người khác cũng tên là Shakespeare.. "

    Samuel mỉm cười trong khi Jerome chẳng nhúc nhích gì.

    " Tớ cũng chẳng hiểu câu chuyện đó, "tôi cố gắng an ủi Jerome, 'Cho đến khi bố tớ giải thích ý nghĩa của nó - ai nghĩ ra đầu tiên không quan trọng. Người thực hiện ý tưởng đó tốt nhất mới được quan tâm."

    "Chính xác," Samuel đồng ý, "Và đó chính là điều người Do Thái muốn làm. Cho dù họ đi đến đâu và trong thời đại nào đi chăng nữa, họ vẫn luôn giữ một đầu óc cởi mởi đẻ có thể nhìn ra lợi thế của tất cả những điều họ thấy. Bất cứ điều gì lôi cuốn họ, họ đều tiếp thu, bắt đầu từ những thứ đơn giản, nhỏ nhặt nhất như quần áo, đồ đạc, món ăn đến những quan điểm về trí tuệ của những nền văn hóa khác."

    "Hầu hết con người đều không cởi mở với những ý tưởng mới," tôi đáp lại, "Nếu ta lắng nghe hai người trong một cuộc đối thoại, ta sẽ để ý thấy rằng ai cũng chỉ lắng nghe chính mình. Về khoản này thì chính tôi cũng thế."

    "Tất cả chúng ta đều vậy," Samuel thừa nhận. "Quan điểm về cái tôi luôn là đúng nhất và sự thật của chúng ta luôn là sự thật tuyệt đối nhất. Đó chính là vấn đề..

    " Nhìn vào ngành y khoa mà xem, "ông tiếp tục." Phải mất 20 năm một loại thuốc mới được đưa đến công chúng. Chỉ mất 5 năm để phát triển một loại thuốc nhưng phải mất 15 năm để thuyết phục các bác sĩ thử loại thuốc đó. "

    " Hãy giữ một đầu óc cởi mở, "Jerome kết luận.

    " Một cái đầu cởi mở giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và công sức. Người ta chẳng cần phải đi đâu xa để tìm kiếm những ý tưởng mới, chỉ cần cúi xuống nhìn những cái có sẵn và cố gắng cải tiến, nâng cấp nó hoặc sử dụng nó theo những cách khác. Thế là đủ ".

    " Vậy.. chẳng hạn, tôi không cần phải phát minh ra một chiếc áo làm bằn glen sợi thép, "Jerome đùa" Tôi có thể tiếp tục bán bộ sưu tập ban đầu của mình nhưng điều chỉnh và thay đổi vài ba nét. "

    " Nhân tiện, khách hàng của cậu là ai? "Samuel hỏi" Ý tôi là thị trường cho sản phẩm của cậu là gì? "

    " Về cơ bản, có 2 thành phần chính. Thứ nhất là mẹ tôi và hai bà bạn thân nhất của mẹ. Họ là những khách hàng đầu tiên. Thành phần còn lại.. ừm, thực ra thì.. Tôi đoán chắc chỉ có một thành phần thôi. "Jerome nhe răng cười." Đùa thôi, thường là các em tuổi teen, thanh niên hai mấy, học sinh trung học, và những khách hàng hơi điên rồ khác. "

    " Và cậu kiếm đủ sống nhờ nghề này hả? "

    " Cũng tạm. Thường thì ngày nào cũng có người hỏi tôi họ có thể được chạm tay vào một chiếc áo như thế này ở đâu. "Hắn chỉ vào chiếc áo hắn đang mặc.

    " Vậy, nói cách khác, đó là sản phẩm tuyệt vời, nhưng số người biết đến nó thì chưa đủ. "

    " Cũng có thể nói như vậy, "Jerome đồng ý.

    " Vậy vấn đề nằm ở thị trường chứ không pahir ở sản phẩm. "

    " Có lẽ thế. "

    " Nếu vậy, cậu hãy tự hỏi xem mình muốn bắt chước công ty nào, công ty nào tiếp thị cho sản phẩm của họ mà cậu cho là thành công nhất. Hãy áp dụng những phương pháp của họ nhưng phải nghĩ đến cách áp dụng những phương pháp đó hiệu quả hơn. Đó là cách mà Estee Lauder đã làm. "

    " Người chuyên kinh doanh mỹ phẩm hả? "

    " Bà đã xây dựng được cả một đế chế mỹ phẩm. Bà tin tưởng vào sản phẩm của mình nhưng cảm thấy người ta chưa biết hết về chúng. Vậy nên, để đến được với càng nhiều khách hàng tiềm năng càng tốt, bà đã bắt chước một mô hình kinh doanh đã tồn tại trong thế giới thực phẩm - mẫu dùng thử miễn phí. Bà cho sản xuất những chai nước hoa nhỏ làm mẫu và phát miễn phí. Đó là cách bà xây dựng nên đế chế của mình. Có lần tôi đã nghe bà trả lời phỏng vấn rằng bắt chước là một chiếc chìa khóa chính đáng để dẫn đến thành công. "

    Jerome khoanh tay và vân vê mấy sợi râu nhỏ trên cằm.

    " Và nếu nói đến chuyện học hành và bắt chước thì cậu nên thực hiện điều đó với một niềm cảm hứng. "

    " Một nguồn cảm hứng? "

    " Làm việc mà không có nguồn cảm hứng thì khó lắm, đúng không? "

    " Ông có nguồn cảm hứng hay mô hình nào để bắt chước không? "tôi hỏi.

    " Dĩ nhiên rồi, "ông gật đầu, mắt nhìn theo chiếc xe thể thao Peugeot khi nó dần dần khuất khỏi tầm mắt chúng tôi.

    " Ai cơ? "Jerome tò mò.

    Samuel nhìn đồng hồ và ra hiệu cho bồi bàn mang hóa đơn tính tiền.

    " Mười giờ sáng mai ở cửa nhà ga Phillip - August. Tôi sẽ giới thiệu cậu với người đó."
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng tám 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...