Tôn Tử Binh Pháp - Tôn Vũ

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Dương Thần, 24 Tháng mười một 2018.

  1. Dương Thần

    Bài viết:
    76
    Thiên 10: Địa hình

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôn Tử viết :

    - Địa hình có 6 loại gồm : Thông, quải, chi, ải, hiểm, viễn.

    - "Thông" là ta có thể đi, địch có thể đến. Địa hình này ai chiếm trước được chỗ cao, bảo đảm đường vận chuyển lương thực thông suốt mà tác chiến thì đắc lợi.

    - "Quải" là nơi tiến đến thì dễ và trở lui thì khó. Địa hình này nếu địch không phòng thì ta có thể bất ngờ tấn công thì đắc thắng, nếu địch có phòng ta đem quân đến đánh mà không thắng thì khó có thể rút về, rất bất lợi.

    - "Chi" là nơi ta tiến đến bất lợi, địch tiến đến cũng bất lợi. Địa hình này thì địch dù có đem lợi dụ ta cũng chớ nên xuất kích, nên giả thua rút đi, dụ địch tiến ra nửa chừng hãy đem quân trở lại công kích thì ta đắc lợi.

    - "Ải" là ơi đâ hẹp, ở địa hình ta nên tìm ách chiếm trước mà chờ địch đến. Nếu địch chiếm trước ta mà dùng nhiều quân giữ cửa thì ta không nên đánh, còn nếu địch không nhiều binh phòng thì ta có thể tiến đánh.

    - "Hiểm" là nơi hiểm trở. Ở địa hình này nếu ta chiếm trước địch thì nên đóng ở chỗ cao, dễ quan át để chờ địch tới, nếu địch chiếm trước thì ta nên lui quân, chớ tiến đánh.

    - "Viễn" là nơi xa rộng. Ở địa hình này tình trạng thế lực đôi bên ngang nhau thì không tiện khiêu chiến, nếu miễn cưỡng đánh thì bất lợi.

    - Sáu điều nói trên là nguyên tắc lợi dụng địa hình, tướng lĩnh có trọng trách không thế không suy xét kỹ.

    - Việc binh có sáu tình huống tất bại là tẩu, trì, hãm, băng, loạn, bắc. Không phải do tai họa trời đất mà là sai lầm của tướng lĩnh gây ra.

    - "Tẩu" là địa thế như nhau mà chỉ huy nhu nhược, không quyết đoán.

    - "Trí" là binh sĩ hăng hái mà chỉ huy nhu nhược, tất nhiên kém sức chiến đấu.

    - "Băng" là chỉ huy nổi giận mà binh sĩ không phục, gặp phục địch cứ tự ý xuất chiến, chủ tướng lại không hiểu năng lực của binh sĩ, ắt sẽ bại như núi lở.

    - "Loạn" là tướng lĩnh nhu nhược, không uy nghiêm, huấn luyện không có bài bản, quan hệ trên dưới không ra thể thống gì, bày trận lộn xộn, tự mình làm rối quân đội của mình.

    - "Bắc" là tướng lĩnh không biết phán đoán chính xác tình hình địch, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, tác chiến lại không có lực lượng mũi nhọn, cầm chắc thất bại.

    - Sáu tình huống ấy là nguyên nhân dẫn đến thất bại, tướng lĩn có trọng trách không thể không suy xét kỹ.

    - Địa hình là điều kiện hỗ trợ cho việc dùng binh. Phán đoán tình hình, giành lấy thắng lợi, khảo sát địa hình lợi hại, tính toán xa gần, đó là phương pháp mà một tướng lĩnh tài giỏi phải nắm vững. Nắm vững phương pháp rồi mới chỉ huy tác chiến thì chắc thắng, không nắm vững phương pháp đã lo chỉ huy tác chiến thì tất bại.

    - Sau khi phân tích quy luật, thấy đánh được chắc thắng, dù chúa bảo không đánh vẫn phải kiên trì đánh. Thấy đánh ắt thua, dù chúa bảo nhất định phải đánh cũng có thể không đánh. Tiến không cầu danh thắng, lui không sợ phạm lệnh, chỉ cốt bảo vệ lợi ích của nhân dân và quốc gia, tướng lĩnh thế mới thực sự là người quý của đất nước.

    - Đối xử với sĩ tốt như con em, họ sẽ cùng ta xông pha vào những nơi hung hiểm, coi sĩ tốt như con yêu quý, họ sẽ cùng sống chết bên ta.

    - Hậu đãi quân sĩ mà không sử dụng, nuông chiều quân sĩ mà không giáo huấn, phạm pháp mà không phạt thì họ khác nào những đứa con hư, chẳng thể dẫn đi chinh chiến được.

    - Chỉ biết quân mình có thể đánh mà không hiểu có thể đánh địch được hay không thì mới có nửa phần thắng. Biết có thể đánh được địch mà không hiểu quân mình có đánh nổi không cũng chỉ mới có nửa phần thắng. Biết kẻ địch có thể đánh bại được, biết quân ta có thể đánh nổi mà không hiểu địa hình bất lợi cho việc tác chiến thì thắng lợi cũng mới nắm được một nửa.

    - Người biết dùng binh thì hành động quyết không mê muội, sử dụng chiến thuật biến hóa khôn lường. Thế mới nói : Biết địch biết ta, thắng mà không nguy ; nắm vững thiên thời địa lời sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn.
     
  2. Dương Thần

    Bài viết:
    76
    Thiên 11: Cửu địa

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôn Tử nói rằng : Trong binh pháp có chín thế đất khác nhau :

    -Thế đất ly tán :

    - Thế đất dễ lui (vào cạn) ;

    - Thế đất tranh giành ;

    - Thế đất giao thông ;

    - Thế đất ngã tư ;

    - Thế đất khó lui (vào sâu)

    - Thế đát khó đi lại ;

    - Thế đất vây bọc ;

    - Thế đất chết kẹt ;


    Chư hầu tự đánh trên đất mình, đó là thế đất ly tán :

    Vào đất người chưa đuược sâu, đó là thế đất vào cạn hay dễ lui ;

    Ta chiếm được thì lợi cho ta, địch chiếm được thì lợi cho địch, đó là thế đất tranh giành.

    Ta đi lại dễ dàng, địch đi lại cũng dễ dàng, đó là thế đất giao thông.

    Đất tiếp giáp với ba nước chư hầu, ai đến trướcthì giao kết được với dân chúng trong thiên hạ, đó là thế đất ngã tư.

    Đi sâu vào đất nước của người, đã vượt qua nhiều thành ấp của địch, đó là thế đất vào sâu hay khó lui.

    Ở những vùng núi rừng hiểm trở, có nhiều đầm lầy, các đường xá đi lại rất khó khăn, đó là thế đất khó đi lại ;

    Lối vào thì chật hẹp, lối ra thì quanh co, binh địch ít có thể đánh được binh ta nhiều, đó là thế đất vây bọc ;

    Dánh gấp thì còn sống, không dám đánh gấp thì phải thua chết, đó là thế đất chết kẹt.

    Bởi thế cho nên :

    Ở đất ly tán thì không nên đánh đường hoàng.

    Ở đất vào cạn (dễ lui) thì chớ dùng binh.

    Ở đất tranh giành thì chớ tấn công.

    Ở đất giao thông thì chớ đóng binh ngăn đường.

    Ở đất ngã tư, thì nên kết giao với các nước chư hầu.

    Ở đất vào sâu (khó lui) thì nên cướp đoạt.

    Ở đất khó đi lại thì nên bỏ đi nơi khác.

    Ở đất vây bọc thì nên dùng mưu.

    Ở đất chết kẹt thì nên liều đánh


    Ngày xưa kẻ giỏi dùng binh có thể khiến cho quân địch trước sau mất liên lạc, binh nhiều và ít không thể cậy nhờ nhau, người sang và kẻ hèn không thể cứu nhau người trên và kẻ dưới không thể giúp nhau, sỹ tốt ly tán mà không thể tập trung được, binh tụ hợp mà không thể chỉnh tề kẻ dùng binh thấy có lợi thì dấy không có lợi thì dừng.

    Nếu quân địch kéo đến đông đảo và chỉnh tề thì ta phải làm thế nào?

    Trước hết hãy đoạt hết chỗ thiết yếu của chúng, như thế ắt chúng phải nghe theo ta. Việc binh cốt yếu phải mau lẹ, thừa dịp địch không kịp xoay trở, ta đi theo nhưng đường lối mà chúng không ngờ tới để đánh vào những chỗ mà chúng không phòng bị.

    Binh giữ vai khách ở nước người, tiến vào sâu thì được chuyên nhất, chủ nhân không thể khắc trị nổi. Ta chiếm đoạt những đồng ruộng phì nhiêu để nuôi sống ba quân ; ta bồi dưỡng sĩ tốt đừng bắt họ làm lụng vất vả, để dồn chứa khí lực cho họ, khi động dùng thì dùng mưu kế lạ khiến cho kẻ địch không thể lường được. Ta ném binh vào chỗ không thể tháo lui nên binh ta dẫu chết cuũng không trốn chạy thế mà không lẽ chịu chết mà không được gì sao bởi thế nên sic tốt hết lòng chiến đấu.

    Binh sĩ bị vây hãm quá mứcắt không còn lo lắng sợ hãi nữa, không có chỗ chạy nên phải vững chí, tiến vào sâu nên không bị trói buộc cưcj chẵng đã phải đánh vậy. Cho nên binh ấy không cần phải căn dặn gì mà vẫn giữ gìn, không cầu mong mà đuwocj lòng sĩ tốt, không cần ước thúc mà thương yêu bề trên không ccàn nói mà đã tin cậy. Cấm bàn điềm gở, trừ khử ngi ngờ thì binh ấy đến chết cũng không thay lòng.

    Sĩ tốt ta không thừa tiền của không phải họ ghét tiền của, họ không tiếc tính mạng không phải họ ghét sống lâu. Ngày ra lệnh sĩ tốt kẻ thì ngồi khóc nước mắt chảy ướt áo, kẻ thì nằm khóc lệ tràn ướt má. Ném binh ấy và chỗ không chạy được thì họ sẽ dũng cảm như Chuyên Chư và Tào Quệ.

    Binh biết dùng xẽ như con suất nhiên. Suất nhiên là giống rắn ở Thường Sơn. Đánh vào đầu thì đuôi quặt lại đâm, đánh vào đuôi thì đầu quay lại cắn, đánh vào mình thì đầu đuôi đều quặp vào giữa

    Có thể dùng binh như con suất nhiên được không?

    Có thể. Người ở nước Ngô và người ở nước Việt tuy ghét nhau nhưng khi ngồi chung một thuyền để qua sông gặp phải sóng gió, thì cùng cứu nhau như tay trái và tay mặt vậy.

    Trói chân ngựa chôn bánh xe đều chưa đủ tin rằng đứng yên một chỗ. Làm sao cho mọi người cùng một lúc trở nên bạo dạn như một người, như thế mới đúng là phép cầm binh. Ba quân cứng hay mềm mạnh hay yếu, đều có thể dùng được cả, đó là nhờ địa thế vậy. Cho nên kẻ giỏi dùng binh, sai sử ba quân giống như dẫn dắt một người thành thử họ cực chẳng đã phải tuân theo vậy.

    Khi mưu đồ việc gì bậc tướng súy phải lặng lẽ để được sâu kín, phải ngay thẳng chỉnh tề để được trị được yên, phải bịt tay che mắt sĩ tốt khiến cho họ chẳng biết được ý mình, phải đổi công việc thay mưu kế khiến cho sĩ tốt không hiểu được việc mình, phải dời chỗ ở dẫn binh đi quanh kẹo, khiến cho sĩ ttố không lường được kế mình.

    Tướng sĩ dẫn binh đi lâm trận cũng như leo lên cao rồi vứt thang đi; dẫn quân đi sâu và đất chư hầu, đốt thuyền đập nồi để phát động tâm cơ của sĩ tốt, giống như là xua một bầy dê xua qua thì qua xua lại thì tìm lại, chẳng biết là đi đâu ; nắm ba quân, ném vào nơi hiểm yếu đó là công việc của tướng súy.

    Cách ứng biến của chín thế đất, điều lợi hại sự co duỗi, lẽ thường của nhân tình, đó là những điều mà tướng súy không thể không xét kỹ.

    Theo phép đem quân giữ vai khách ở nước người thì :

    • Vào sâu ắt được chuyên nhất ;

    • Vào cạn ắt phải ly tán ;

    • Ra khỏi nước mình, vượt biên giới để đóng quân đó là đất cách tuyệt ;

    • Giao thông được bốn nước đó là đất ngã tư ;

    • Đã vào sâu rồi đoa là đất khó lui ;

    • Mới vào cạn đó là đất dễ lui ;

    • Mặt sau hiểm trở không lui được, mặt trước có đèo ải khó qua, đó là ở đất vây bọc

    • Không có lối thoát đó là ở đất chết kẹt ;

    Bởi thế cho nên :

    • Ở đất ly tán ta thống nhất ý chí của ba quân ;

    • Ở đất dễ lui ta cho ba quân đi liền nhau vì đó đồn chấn giữ liền nhau ;

    • Ở đất tranh giành ta đem quân đánh vào lưng địch

    • Ở đất giao thông ta giữ gìn cẩn thận

    • Ở đất ngã tư, ta củng cố tình giao hảo với các nước chư hầu

    • Ở đất vào sâu (khó lui) ta lo chu cấp đều dặn lượng thực cho quân sĩ

    • Ở đất chết kẹt ta cho sĩ tốt biết rằng không thể sống còn

    • Ở đất vây bọc ta cho bít chỗ hở

    • Ở đất khó đi lại ta đi qua khỏi cho gấp rút

    Cho nên tình trạng việc binh phải như sau :

    • Bị vây thì phải chống cự

    • Cực chẳng đã nên phải đánh

    • Bị địch bức bách quá nên phải tuân lệnh tướng súy

    • Không biết được mưu kế của chư hầu thì không tính trước việc kết giao.

    • Không biết hình thế núi rừng, đầm lầy hiểm trở như thế nào thì không thể hành quân.

    • Không dùng kẻ hướng đạo thì không thể lấy địa lợi.

    Trong những điều đấy không biết một thì không đáng gọi là binh của bậc bá vương

    Binh của bậc bá vương hễ đanh nước lớn nào thì khiến cho binh của họ không thể tụ hợp được, uy hiếp địch đến nỗi các nước khác không giám đến kết giao với địch.

    Bởi thế cho nên không cần tranh giành việc kết giao với thiên hạ, không cần bồi đắp quyền thế của mình đối với thiên hạ, chị tin cậy thực lực riêng của mình để uy hiếp địch quốc nên có thể đánh lây thành của họ. Nên ban thưởng đạc biệt ra ngoài phép ban thưởng, nên ra những mệnh lệnh đặc biệt ra ngoài thông lệ, thì có thể sử dụng ba quân như sai khiến một người. Bày công việc ra để sai khiến mà chớ nói trước cho biết, bày điều lợi để sai khiến mà chớ cho thấy điều hại.

    Ném binh vào đất mất rồi mới còn, để binh bị vây hãn ở đất chết rồi sau mới cho sống. Để cho binh thấy sự nguy hại đe dọa ròi sau ta mơi làm chủ sự thắng bại được.

    Phép dùng binh là giả vờ thuận theo ý địch, dồn binh đánh vào một hướng, từ ngàn dặm đế giết tướng địch, đó gọi là khéo nên làm nên việc.

    Ngày quyết định dấy binh hãy đóng chặt các nơi quan ải, hủy bỏ phù tiết không thông sứ với địch quốc, truớc phải tính toán cẩn thận chốn miếu đường để sắp đặt công việc cho được chu đáo. Thấy địc sơ hở chỗ nào thì vội len vào. Muốn đánh chiếm chỗ thiết yếu nào thì phải giấu kín ý địng của ta, phải tùy theo địch tình mà sắp đặt kế hoạch chiến đấu.

    Lúc mới đầu binh phải như gái tơ, chờ địch hé cửa thì sông vào như thỏ chạy chốn khiến địch không kịp chống cự.
     
  3. Dương Thần

    Bài viết:
    76
    Thiên 12: Hỏa công

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôn Tử nói: Có năm cách đánh bằng lửa:

    -Thứ nhất là đốt dinh trại để giết người;

    - Thứ hai là đốt lương thảo tích trữ;

    - Thứ ba là đốt xe cộ ;

    - Thứ tư là kho lẫm ;

    - Thứ năm là đốt đội ngũ để làm giặc rối loạn.


    Muốn dùng hỏa công, phải có nhân duyên, các hỏa khí phải cụu bị sẵn sàng.

    Muốn phóng hỏa phải chờ thời tiết, muốn châm lửa phải chọn ngày.

    Thời tiết thuận lợi là khí trời nắng ráo.

    Ngày thuận lợi là ngày mà mặt trăng ở lại trong các sao Cơ, bích, Dực, Chẩn. Những ngày mặt trăng ở lại bônnnns sao ấy là những ngày nổi gió.

    Khi dùng hỏa công, phải biết ứng biến tùy theo năm trường hợp phóng hỏa :

    - Lửa cháy ở bên trong thì gấp tiếp ứng ở bên ngoài ;

    - Lửa cháy rồi nhưng binh địch vẫn yên lặng, hãy chờ xem mà chớ vội đánh ;

    - Khi lửa cháy to, vào được thì vào, không vào được thì thôi ;

    - Lửa đã cháy được ở ngoài, thì không cần nội ứng, lựa dịp thuận lợi mà đánh vào.

    - Lửa cháy ở trên luồng gió thì chớ ở dưới luồng gió đánh lên.

    - Ban ngày có gió nhiều, thì ban đêm không có gió.

    Nhà binh phải biết năm trường hợp phát hỏa ấy và phải tính toán ngày giờ, phương hướng để mà giữ gìn.

    Dùng lửa để trợ giúp vào sự tấn công thì sáng sủa dễ thấy, dùng nước để trợ giúp vào sự tấn công thì được mạnh thế hơn. Nước có thể dung để ngăn chặn, chớ không thể dùng để chiếm đoạt.

    Đánh thì thắng, giành thì lấy được, mà không tưởng thưởng công lao của sĩ tốt, đó là một điều nguy hại, như thế chỉ ở lại đất địch tiêu phí tiền một cách vô ích. Cho nên Vua sáng phải lo tính điều ấy, tướng tài phải sắt đặt việc ấy.

    Không thấy lợi thì đừng dấy binh, không nguy khốn thì đừng đánh.

    Nhà vua không nên vì giận giữ mà dấy binh, tướng không nên vì oán hờn mả gây chiến. Thấy có ích lợi cho nước nhà thì dấy binh, không thấy ích lợi thì thôi.

    Đã giận có thể mừng trở lại, đã hờn có thể vui trở lại ; nước mất rồi thì khó lấy lại người chết rồi thì không thể sống lại.

    Cho nên vua sáng phải cẩn thận về việc ấy, tướng tài phải cảnh giác về điều ấy, đó là phép yêu nước, giữ binh được vẹn toàn.
     
  4. Dương Thần

    Bài viết:
    76
    Thiên 13: Dùng gián điệp

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôn Tử nói: Phàm dấy binh mười vạn, đi xa ngàn dặm, tính chung các phí tổn của trăm họ, sự cung phụng của các nhà công. Mỗi ngày lên tới ngàn lạng vàng; trong ngoài phải náo động, nhân dân chịu vất vả vì việc phu dịch ở dọc đường, bỏ bê công việc làm ăn, lên tới bảy mươi vạn nhà.

    Kéo dài đến nhiều năm để tranh thắng lợi trong một ngày, mà lại không dám ban tước lộc, không dám thưởng trăm lạng vàng để dùng gián điệp, đến nỗi không biết tình hình quân địch, đó là hạng người hết sức bất nhân: Người ấy chẳng đáng làm chủ tướng của mọi người, chẳng đáng làm tôi phò chúa, không thể làm chủ được sự thắng lợi vậy!

    Cho nên các bậc vua sáng tướng tài, sở dĩ dấy binh thắng địch, thành công hơn người, đó là nhờ biêt trước vậy.

    Biết trước đây, không phải nhờ quỷ thần mách bảo, không phải nhờ so sánh các việc tương tự mà tìm biết được, phải nhờ người mà biết được tình hình của quân địch.

    Dùng gián điêp thì có năm loại :

    -Nhân gián (hương gián)



    - Tử gián



    - Nội gián;



    - Sinh gián



    - Phản gián

    Khi năm hạng gián điệp ấy cùng khởi sự, không ai biết được các đường lối dò xét hiểm hóc của họ như thế mới là thần bí, đáng gọi là vật báu của vua loài người vậy.

    Nhân gián, là nhân lấy người làng bên nước địch để dùng làm gián điệp.

    Nội gián là nhân lấy quan lại của địch để dùng làm gián điệp.

    Phản gián là nhân lấy gián điệp của địch để dùng làm gián điệp cho mình.

    Tử gián là ta phô trương các vật trả giá ngoài, báo cho gián điệp của ta biết để truyền tin cho địch ;

    Sinh gián là hạng gián điệp trở về được để báo cáo tình hình.

    Trong ba quân, xét chung những người thân thiết với tướng súy thì không ai thân thiết cho bằng gián điệp, xét chung những kẻ được thưởng thì không ai được thưởng nhiều cho bằng gián điệp, xét chung các việc bí mật thì không việc nào bí mật cho bằng gián điệp.

    Không phải là bậc thánh trí thì không dùng được gián điệp, không phải là bậc nhân nghĩa thì không sai khiến được gián điệp, không tinh vi khéo léo thì không biết được thực tình nhờ gián điệp

    Vi diệu thay! Vidiệu thay! Không có việc gì mà không dùng gián điệp.

    Gián điệp của địch chưa do thám ta xong mà ta nghe biết trước rồi, thì gián điệp của địch và kẻ cáo giác cho ta biết đều phải giết chết.

    Khi muốn đánh quân nào, đều phải biết rõ người tướng trấn giữ, các người thân tín của người tướng, người tiếp khách, người gác cửa, người giữ nhà (quản gia), tên họ của từng người, đều phải kiếm gián điệp của ta tìm tòi mà biết cho đủ

    Tìm cho ra gián điệp mà địch sai tới do thám ta, lấy điều lợi mà dụ dỗ họ, dẫn dắt họ, cho họ ăn ở: Như thế có thể dùng họ làm phản gián cho ta được.

    Nhờ họ làm phản gián mà ta biết tình hình của nước địch, do đó kiếm được hương gián và nội gián bên nước địch để mà lợi dụng.

    Nhân sự phản gián mà biết địch hình, cho nên khiến tử gián bày đặt việc dối trá để đến cáo giác với quân địch.

    Nhân sự phản gián mà biết địch tình, cho nên có thể sai phái sinh gián đi về đúng kì hạn.

    Năm việc gián điệp nói trên, nhà vua phải biết đủ.

    Biết đủ là nhờ ở phản gián, cho nên phản gián không thể không hậu đãi.

    Ngày xưa khi nhà Ân khởi nghĩa thì ông Y Doãn ở bên đất nhà Hạ để dò xét; khi nhà Chu khởi nghĩa thì ông Lã Vọng ở bên đất nhà Ân dò xét. Chỉ bậc vua sáng, tướng tài mới có thể dùng bậc Thượng Trí làm gán điệp nên đều thành công lớn. Đó là điều cốt yếu của việc binh bị, ba quân nhờ cậy vào đó mà hành động.
     
  5. Dương Thần

    Bài viết:
    76
    Bonus: Tam thập lục kế

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)

    Kế "Dương đông kích tây" là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tậy

    Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là "Dương đông kích tây" vậỵ

    Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.

    Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:

    - Tạo tin đồn. - Làm rối tai rối mắt địch. - Buộc đối phương lo nhiều mặt. - Mê hoặc ý chí của địch. - Nghi binh. - Làm phân tán lực lượng đối phương. - Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.

    Nguyên tắc của "Dương đông kích tây" là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch.

    Điều kỵ khi dùng kế "Dương đông kích tây" là để lộ cơ.

    Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.

    2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)

    Kế "Điệu hổ ly sơn" là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng.

    Kế "Điệu hổ ly sơn" có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.

    3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)

    Kế "Nhất tiễn song điêu" là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim.

    Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.

    4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)

    Kế "Minh tri cố muội" là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì.

    Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu.

    Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ.

    Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế "Minh tri cố muội" vậỵ

    5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)

    Kế "Du long chuyển phượng" là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng.

    Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là "Treo đầu dê, bán thịt chó".

    6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)

    "Mỹ nhân kế" là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được.

    Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.

    Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân.

    Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.

    7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)

    Kế "Sấn hỏa đả kiếp" là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn.

    Có hai loại "Sấn hỏa đả kiếp" : Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp.

    Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm.

    Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta.

    Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta.

    Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có.

    Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.

    Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.

    Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở.

    Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần.

    Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam - Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu.

    "Sấn hỏa đả kiếp" đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.

    8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)

    Kế "Vô trung sinh hữu" là từ không mà tạo thành có.

    Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ "chọc trời khuấy nước". Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.

    Kế "Vô trung sinh hữu" hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.

    9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)

    "Tiên phát chế nhân" là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng.

    Kế "Tiên phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất.

    Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung.. Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn "chớp nhoáng" không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp.

    Vẫn có câu "Tiên hạ thủ vi cường" là vậỵ

    10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)

    Kế "Đả thảo kinh xà" là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.

    11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)

    Kế "Tá đao sát nhân" là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.

    Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: "Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng". (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng).

    Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.

    12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)

    Kế "Di thể giá họa" là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa.

    Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là "giết người không thấy máu".

    13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)

    "Khích tướng kế" là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình.

    Mạnh Tử nói: "Nhất nộ nhi an thiên hạ".

    Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận.

    Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân.

    Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta.

    Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ.

    Tuân Tử bảo rằng: "Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác".

    Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: "Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh". (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu).

    Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến.

    - Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện.

    - Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói.

    - Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người.

    - Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc.

    Mục đích của thuyết có năm điều:

    - Làm cho người hiểu rõ.

    - Làm cho người tin tưởng.

    - Làm cho người đồng tình.

    - Làm cho người phục.

    - Làm cho người theo.

    Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.

    14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)

    Kế "Man thiên quá hải" là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.

    Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó.

    Kế "Man thiên" đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: Tiêu cực lẫn tích cực.

    Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt.

    Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.

    Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.

    15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)

    Kế "Ám độ trần sương" là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua.

    Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau.

    Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương.

    Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như "Tôn Tử Binh Pháp" viết: "Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định.

    Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.

    16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)

    Kế" Phản khách vi chủ "là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.

    " Phản khách vi chủ "là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp.

    " Phản khách vi chủ "là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.

    17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)

    " Kim thiền thoát xác "là con ve sầu vàng lột xác.

    Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác.

    Kế" Kim thiền thoát xác "có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.

    18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)

    " Không thành kế "là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ.

    Kế này có hai loại:

    - Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.

    - Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt.

    " Không thành kế "thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

    19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)

    " Cầm tặc cầm vương "là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.

    Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như" Điệu hổ ly sơn "," Mỹ nhân kế "hay" Man thiên quá hải "đều có thể dùng cho kế" Cầm tặc cầm vương ". Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau.

    Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế.

    " Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc "là vậy.

    Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.

    20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)

    Kế" Ban chư ngật hổ "là giả làm con heo để ăn thịt con hổ.

    Lão Tử nói:" Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về ", cũng như câu" đại trí nhược ngu ". Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.

    Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.

    - Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.

    - Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.

    - Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.

    - Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.

    - Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe.

    - Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.

    Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế" Ban chư ngật hổ "vậy.

    21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)

    " Quá kiều trừu bản "là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình.

    Kế" Quá kiều trừu bản "thường trái ngược với kế" Ban chư ngật hổ ". Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt.

    Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa.

    Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần.

    Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái.

    Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.

    22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)

    " Liên hoàn kế "là nối liền với nhau thành một dây xích.

    " Liên hoàn kế "còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.

    Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng" Liên hoàn kế ". Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra.

    Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ.

    Tuy vậy, vẫn phải phân biệt" Mỹ nhân kế "với" Liên hoàn kế ".

    Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

    23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)

    Kế" Dĩ dật đãi lao "là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức.

    Kế này viết ở trong thiên" Quân Tranh "của bộ" Tôn Tử Binh Pháp ":" Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt "nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch.

    Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.

    Tôn Tử gọi thế là:" Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời ".

    Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể.

    Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn.

    Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích.

    Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ.

    Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy.

    Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược" Dĩ dật đãi lao ".

    24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)

    " Chỉ tang mạ hòe "là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.

    25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)

    " Lạc tỉnh hạ thạch "là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng.

    Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng - Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.

    Căn bản triết lý của" Lạc tỉnh hạ thạch "là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta.

    Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn" Lạc tỉnh hạ thạch "nhất.

    Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình.. Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo:" Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao? "(Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố.

    Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc" Lạc tỉnh hạ thạch "hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!

    26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)

    " Hư trương thanh thế "là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.

    Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào.

    Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.

    27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)

    Kế" Phủ để trừu tân "là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào).

    Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt.

    Chỗ diệu dụng kế" Phủ để trừu tân "là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.

    Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế" Phủ để trừu tân "lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ.

    Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng!

    Ở chiến trường, kế" Phủ để trừu tân "lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

    28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)

    " Sát kê hách hầu "nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.

    Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt.

    " Sát kê hách hầu "có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.

    29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)

    " Phản gián kế "là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.

    Tôn Tử nói:" Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp ".

    30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)

    " Lý đại đào cương "là đưa cây lý chết thay cho cây đào.

    Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.

    31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)

    " Thuận thủ khiên dương "theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.

    Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.

    32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)

    " Dục cầm cố tung "theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra.

    Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó.

    Kế" Dục cầm cố tung "không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.

    33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)

    " Khổ nhục kế "là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.

    34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)

    " Phao bác dẫn ngọc "nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy.

    Dân gian thường nói" thả con tép bắt con tôm "cũng là kế này.

    35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)

    " Tá thi hoàn hồn "nghĩa là mượn xác để hồn về.

    Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình.

    Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ.

    Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

    6. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)

    " Tẩu kế "nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.

    Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là" kế chạy "?

    Lại có câu:" Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách ". (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết)

    Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài.

    Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy.. Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.

    " Tẩu kế "không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng.

    Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là" Tẩu kế ".

    Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì" tẩu"không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...