72
0
Đề bài: Trong khi hầu hết những diễn giả nổi tiếng đều đưa ra lời khuyên cho lớp trẻ: Hãy là chính mình, thì trong bài phát biểu ở buổi lễ tốt nghiệp một trường trung học, John Roberts- Chánh án tòa án tối cao Hoa Kỳ lại đưa ra lời khuyên: Dù con là người hoàn hảo, không có nghĩa là con không thay đổi bản thân.
Hãy trình bày ý kiến của mình về hai lời khuyên trên.
Bài làm:
Trong thần thoại Hy Lạp, Narcissus đã lao mình xuống sông rồi chết sau khi nhìn thấy hình ảnh hoàn hảo của mình soi bóng xuống mặt nước. Cả cuộc đời tìm chiếc gương soi đến khi thấy chính mình lại rơi vào bi kịch. Phải chăng đó là cái phi lý của việc biết mình và cũng là lý do để con người mãi đi tìm mình? Nhiều diễn giả nổi tiếng từng khuyên chúng ta hãy là chính mình, nhưng John Roberts lại nói rằng dù con là người hoàn hảo, không có nghĩa là con không thay đổi bản thân. Trở thành chính mình không phải là đi tới đích định sẵn mà là luôn thay đổi để tìm cách định nghĩa mình.
Trong một cuộc sống bất an, bản sắc mờ nhoè, con người cô đơn, chúng ta luôn sẵn sàng uống lấy những lời khuyên từ người khác với niềm tin vào giá trị nhưng hiếm khi suy nghĩ thấu đáo về lời khuyên đó. "Hãy là chính mình" là một lời khuyên phổ biến, cổ vũ mỗi người đi tìm và khẳng định con người chân thật của mình. Đó là sự đề cao tính cá nhân, chống lại các chuẩn mực, kỳ vọng làm ta không còn là mình. Chính mình ngụ ý một điều gì đích xác, không thay đổi, tạo nên mộng tưởng rằng nếu ta đi tìm đến phiên bản cuối cùng đó, mọi thứ sẽ ổn định, hoàn hảo. Nhưng chánh án Roberts lại cho rằng, dù ta có hoàn hảo, ta cũng phải tự thay đổi mình. Hoàn hảo là cái đáng mơ ước- sự nhất quán trong nội tâm và cuộc sống, sự chính xác và đúng đắn tuyệt đối, không vênh lệch. Nhưng thay đổi nghĩa là đập vỡ cái hoàn hảo ấy, tái định nghĩa lại mình mới là điều giúp con người trưởng thành. Tóm lại, hai lời khuyên ấy bổ sung cho nhau và giúp ta hiểu rằng, không có một phiên bản cố định hoàn hảo của chính mình để hướng tới, mà chỉ có quá trình không ngừng thay đổi hoàn thiện để trở nên toàn vẹn hơn.
Con người là thực thể luôn khao khát tìm mình và được sống là chính mình. Heidegger gọi con người là "hiện thể người" (Dasein), tức một hữu thể luôn tìm cách nhận thức, kiến tạo ý nghĩa cho các hữu thể khác, các vật khác và cho chính mình. Mỗi cá nhân luôn có những tính cách, suy nghĩ, giá trị, thiên hướng phát triển riêng biệt, cùng một đời sống tinh thần phong phú, phức tạp, đòi hỏi được biểu lộ, được thấu hiểu. Khả năng con người cá nhân được sống, cống hiến và thừa nhận trong một tư cách "thật", gần gũi với con người bên trong mình cũng là khả năng người cảm thấy hạnh phúc, tự do. Trong cuộc tìm nghĩa và kiến tạo ý nghĩa cho cuộc đời mình, con người cần một điểm tựa vững chắc, nhất quán để đưa ra các phán đoán, quyết định và như vậy định nghĩa về chính mình trở thành điều đáng trăn trở, được con người quyết liệt bảo vệ. Đó là phần căn tính, phần bản thể cho ta cảm giác được hiện diện và hiện diện như thế nào.
Sở dĩ "hãy là chính mình" trở thành lời khuyên đầy cảm hứng vì con người luôn loay hoay tìm mình đồng thời luôn bị các khuôn mẫu xã hội chi phối, chèn ép và làm cho tha hóa. Đứng trước những quyết định quan trọng, những lựa chọn đạo đức, vấn đề tồn tại hay không tồn tại, một câu hỏi lại loé lên: "Lối rẽ nào mới làm cho mình thật là mình?". Nhưng khi đã biết rõ điều gì là đúng với mình, liệu ta có dám "là chính mình"? Người phụ nữ xưa có được "là mình" hay không khi ngay từ lúc sinh ra, họ đã bị quyền lực xã hội định nghĩa và quàng lên vô số bổn phận, trách nhiệm, định kiến? Người Do Thái trong thế chiến thứ hai có được "là người", chứ chưa nói đến "là mình", hay không khi mỗi người bị gắn một mã số và chờ ngày chết? Trong xã hội hiện đại, dù đã có nhiều tổ chức bênh vực, nhưng liệu có phải bất cứ người đồng tính nào cũng dám thừa nhận mình, phủ nhận những định nghĩa mà bấy lâu nay gia đình và xã hội áp đặt? Được sống là người, là một cá nhân, là nhu cầu cơ bản, khát khao muôn thuở mà con người luôn phải đấu tranh để có được. Một khi đã đấu tranh, ta phải xác định rõ mình đấu tranh vì cái gì và bằng cách nào. Lời khuyên "hãy là chính mình" đã xác định một mục tiêu để ta hướng tới. Là chính mình, ta sẽ không ân hận, tủi thẹn trước những lựa chọn đạo đức, những điều mình đánh đổi. Là chính mình ta sẽ tạo lập giá trị riêng, chỗ đứng riêng của mình.
Tuy vậy, "là chính mình" không phải là mãi mãi tuân theo khuôn mẫu nào đó về mình, mà là luôn chất vấn lại khuôn mẫu đó, phá vỡ và tái lập khuôn mẫu khác. Đó là một quá trình va chạm, thích ứng và hoàn thiện. Có người từng nói rằng, những ai không chấp nhận sự mạo hiểm là đang đặt mình vào tình thế nguy hiểm nhất. Đời sống và xã hội luôn vận động, thay đổi, đòi hỏi, con người cũng phải thay đổi để thực sự hiện diện và tạo nên giá trị, chứ không chỉ sống lay lắt qua ngày tháng. Với cách nhìn, cách tư duy cũ, một bộ công cụ cũ, con người không thể tạo ra thành quả lớn trong một xã hội đã khác. Mark Cuban là một người đã đi từ chỗ trắng tay đến việc trở thành tỷ phú nhờ sự thức thời. Ông bắt đầu sự nghiệp kinh doanh bằng việc bán phần mềm máy tính, nhưng ông không định nghĩa sự nghiệp của mình bằng công việc đó. Ông đón đầu sự phát triển của Internet, thành lập công ty AudioNet để phát sóng chương trình trực tuyến đầu tiên trên thế giới. Có lúc ông bán cả công ty mình gây dựng nên khi nhận ra xu thế thời đại thay đổi. Nhưng sự thay đổi căn cốt nhất không phải là thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội như các doanh gia, mà là thoát khỏi vòng lặp của thói quen, những khuôn thước về chính mình để mở rộng các giá trị của mình. Không ai có thể đặt đến sự hoàn hảo. Một phiên bản hoàn hảo chỉ nằm trong "ý niệm tuyệt đối" (Plato). Dẫu cho ta chấp nhận một phiên bản nào đó là hoàn hảo, điều gì đã bảo rằng nó sẽ không bị xã hội chất vấn? Và có một nghịch lý rằng, khi một hệ giá trị tuyên xưng nó là hoàn hảo, xóa bỏ các khả thể khác thì chính nó cũng đánh mất đi phẩm chất đa dạng, vốn là nền tảng cho cái hoàn hảo. Lý tưởng nghệ thuật hoàn hảo của Van Gogh khiến đời sống của ông bị bủa vây trong đau khổ. Và để được sống, Galileo từ bỏ thuyết nhật tâm trong sự phẫn uất. Sống là chính mình chưa chắc sẽ mang lại cho ta sự ổn định, bình yên trong cuộc sống. Nhưng có lẽ thà vật lộn với sự không hoàn hảo còn hơn chấp nhận tư cách một gã độc tài với người khác, với chính mình- sẵn sàng loại thải bất cứ điều gì nằm ngoài hệ thống.
Ta không phủ nhận ý nghĩa của việc là chính mình cũng không tuyệt đối hóa sự thay đổi, mà ta nhận ra trong sự đổi thay có cái nhất quán, trong cái ổn định có sự tương tranh các giá trị. Theo thời gian, con người có thể loại bỏ vài đặc điểm tính cách, suy nghĩ, dung nạp những thứ khác nhưng luôn có nền tảng làm cho cá nhân trở nên nhất quán, đó là ký ức về những trải nghiệm sống. Những gì ta "từng là" sẽ trở thành nền tảng cho những gì ta "sẽ là". Tương lai ta sẽ lại hồi tưởng, chất vấn định nghĩa lại quá khứ và rồi quá khứ lại được phục hiện ấy trở thành nền tảng cho tương lai. Sự vận động, phát triển đó làm nên ý thức cá nhân và ý thức ấy càng trở nên rõ ràng hơn theo thời gian trải nghiệm cuộc sống. Schopenhauer cho rằng tuổi già là thời điểm tinh nhìn nhận sáng suốt về chính mình nhất. Nhưng ngay cả lúc đó, sự chất vấn và thay đổi vẫn phải diễn ra nếu không người ta sẽ quên mất mình là ai và phải đối diện với cái chết như thế nào. Hành trình tìm mình và tái định nghĩa mình là hành trình liên tục, không có điểm dừng nào khác ngoài cái chết.
Lời khuyên "hãy là chính mình" nhiều khi bị hiểu sai và khiến ta trở nên ích kỷ, độc ác, bản năng. Nhiều người nghĩ "là chính mình" là quyền hành xử, nói năng theo cách mình muốn mà không cần quan tâm đến suy nghĩ của người khác. Nhưng con người hoàn thiện không phải bằng cách tuyệt đối hóa chính mình mà là tương tác với người khác và với hoàn cảnh để định vị mình, trau dồi các phẩm chất để bản thân trở nên tốt đẹp hơn. Sống là sống với người khác và điều kiện tự do của mình là tôn trọng người khác. Nhiều khi ta cần biết trở thành người khác, không phải trong tâm thế đô lệ mà là để hiểu, để đồng cảm với hoàn cảnh cảm xúc của họ. Sự soi chiếu, nhập vai ấy thực chất cũng là cách ta nhìn lại mình, chỉnh đốn mình, nhắc nhở mình. Không có một bản ngã tuyệt đối để ta trở thành mà chỉ có một cá nhân đang sống, lắng nghe sự biến chuyển của đời sống và hoàn thiện chính mình.
Bi kịch của chàng Narcissus xảy ra bởi chàng đã mê đắm chính vẻ đẹp hoàn hảo của mình. Hoàn hảo là bất động, tĩnh tại và xúi giục cái chết. Nhưng nếu hoàn hảo không phải là cái đạt được mà là sự hướng đến mãi mãi thì con người sẽ có động lực để sống và tìm kiếm ý nghĩa đời sống qua việc hòa thiện mình.
(Thuỷ Tô)
Hãy trình bày ý kiến của mình về hai lời khuyên trên.
Bài làm:
Trong thần thoại Hy Lạp, Narcissus đã lao mình xuống sông rồi chết sau khi nhìn thấy hình ảnh hoàn hảo của mình soi bóng xuống mặt nước. Cả cuộc đời tìm chiếc gương soi đến khi thấy chính mình lại rơi vào bi kịch. Phải chăng đó là cái phi lý của việc biết mình và cũng là lý do để con người mãi đi tìm mình? Nhiều diễn giả nổi tiếng từng khuyên chúng ta hãy là chính mình, nhưng John Roberts lại nói rằng dù con là người hoàn hảo, không có nghĩa là con không thay đổi bản thân. Trở thành chính mình không phải là đi tới đích định sẵn mà là luôn thay đổi để tìm cách định nghĩa mình.
Trong một cuộc sống bất an, bản sắc mờ nhoè, con người cô đơn, chúng ta luôn sẵn sàng uống lấy những lời khuyên từ người khác với niềm tin vào giá trị nhưng hiếm khi suy nghĩ thấu đáo về lời khuyên đó. "Hãy là chính mình" là một lời khuyên phổ biến, cổ vũ mỗi người đi tìm và khẳng định con người chân thật của mình. Đó là sự đề cao tính cá nhân, chống lại các chuẩn mực, kỳ vọng làm ta không còn là mình. Chính mình ngụ ý một điều gì đích xác, không thay đổi, tạo nên mộng tưởng rằng nếu ta đi tìm đến phiên bản cuối cùng đó, mọi thứ sẽ ổn định, hoàn hảo. Nhưng chánh án Roberts lại cho rằng, dù ta có hoàn hảo, ta cũng phải tự thay đổi mình. Hoàn hảo là cái đáng mơ ước- sự nhất quán trong nội tâm và cuộc sống, sự chính xác và đúng đắn tuyệt đối, không vênh lệch. Nhưng thay đổi nghĩa là đập vỡ cái hoàn hảo ấy, tái định nghĩa lại mình mới là điều giúp con người trưởng thành. Tóm lại, hai lời khuyên ấy bổ sung cho nhau và giúp ta hiểu rằng, không có một phiên bản cố định hoàn hảo của chính mình để hướng tới, mà chỉ có quá trình không ngừng thay đổi hoàn thiện để trở nên toàn vẹn hơn.
Con người là thực thể luôn khao khát tìm mình và được sống là chính mình. Heidegger gọi con người là "hiện thể người" (Dasein), tức một hữu thể luôn tìm cách nhận thức, kiến tạo ý nghĩa cho các hữu thể khác, các vật khác và cho chính mình. Mỗi cá nhân luôn có những tính cách, suy nghĩ, giá trị, thiên hướng phát triển riêng biệt, cùng một đời sống tinh thần phong phú, phức tạp, đòi hỏi được biểu lộ, được thấu hiểu. Khả năng con người cá nhân được sống, cống hiến và thừa nhận trong một tư cách "thật", gần gũi với con người bên trong mình cũng là khả năng người cảm thấy hạnh phúc, tự do. Trong cuộc tìm nghĩa và kiến tạo ý nghĩa cho cuộc đời mình, con người cần một điểm tựa vững chắc, nhất quán để đưa ra các phán đoán, quyết định và như vậy định nghĩa về chính mình trở thành điều đáng trăn trở, được con người quyết liệt bảo vệ. Đó là phần căn tính, phần bản thể cho ta cảm giác được hiện diện và hiện diện như thế nào.
Sở dĩ "hãy là chính mình" trở thành lời khuyên đầy cảm hứng vì con người luôn loay hoay tìm mình đồng thời luôn bị các khuôn mẫu xã hội chi phối, chèn ép và làm cho tha hóa. Đứng trước những quyết định quan trọng, những lựa chọn đạo đức, vấn đề tồn tại hay không tồn tại, một câu hỏi lại loé lên: "Lối rẽ nào mới làm cho mình thật là mình?". Nhưng khi đã biết rõ điều gì là đúng với mình, liệu ta có dám "là chính mình"? Người phụ nữ xưa có được "là mình" hay không khi ngay từ lúc sinh ra, họ đã bị quyền lực xã hội định nghĩa và quàng lên vô số bổn phận, trách nhiệm, định kiến? Người Do Thái trong thế chiến thứ hai có được "là người", chứ chưa nói đến "là mình", hay không khi mỗi người bị gắn một mã số và chờ ngày chết? Trong xã hội hiện đại, dù đã có nhiều tổ chức bênh vực, nhưng liệu có phải bất cứ người đồng tính nào cũng dám thừa nhận mình, phủ nhận những định nghĩa mà bấy lâu nay gia đình và xã hội áp đặt? Được sống là người, là một cá nhân, là nhu cầu cơ bản, khát khao muôn thuở mà con người luôn phải đấu tranh để có được. Một khi đã đấu tranh, ta phải xác định rõ mình đấu tranh vì cái gì và bằng cách nào. Lời khuyên "hãy là chính mình" đã xác định một mục tiêu để ta hướng tới. Là chính mình, ta sẽ không ân hận, tủi thẹn trước những lựa chọn đạo đức, những điều mình đánh đổi. Là chính mình ta sẽ tạo lập giá trị riêng, chỗ đứng riêng của mình.
Tuy vậy, "là chính mình" không phải là mãi mãi tuân theo khuôn mẫu nào đó về mình, mà là luôn chất vấn lại khuôn mẫu đó, phá vỡ và tái lập khuôn mẫu khác. Đó là một quá trình va chạm, thích ứng và hoàn thiện. Có người từng nói rằng, những ai không chấp nhận sự mạo hiểm là đang đặt mình vào tình thế nguy hiểm nhất. Đời sống và xã hội luôn vận động, thay đổi, đòi hỏi, con người cũng phải thay đổi để thực sự hiện diện và tạo nên giá trị, chứ không chỉ sống lay lắt qua ngày tháng. Với cách nhìn, cách tư duy cũ, một bộ công cụ cũ, con người không thể tạo ra thành quả lớn trong một xã hội đã khác. Mark Cuban là một người đã đi từ chỗ trắng tay đến việc trở thành tỷ phú nhờ sự thức thời. Ông bắt đầu sự nghiệp kinh doanh bằng việc bán phần mềm máy tính, nhưng ông không định nghĩa sự nghiệp của mình bằng công việc đó. Ông đón đầu sự phát triển của Internet, thành lập công ty AudioNet để phát sóng chương trình trực tuyến đầu tiên trên thế giới. Có lúc ông bán cả công ty mình gây dựng nên khi nhận ra xu thế thời đại thay đổi. Nhưng sự thay đổi căn cốt nhất không phải là thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội như các doanh gia, mà là thoát khỏi vòng lặp của thói quen, những khuôn thước về chính mình để mở rộng các giá trị của mình. Không ai có thể đặt đến sự hoàn hảo. Một phiên bản hoàn hảo chỉ nằm trong "ý niệm tuyệt đối" (Plato). Dẫu cho ta chấp nhận một phiên bản nào đó là hoàn hảo, điều gì đã bảo rằng nó sẽ không bị xã hội chất vấn? Và có một nghịch lý rằng, khi một hệ giá trị tuyên xưng nó là hoàn hảo, xóa bỏ các khả thể khác thì chính nó cũng đánh mất đi phẩm chất đa dạng, vốn là nền tảng cho cái hoàn hảo. Lý tưởng nghệ thuật hoàn hảo của Van Gogh khiến đời sống của ông bị bủa vây trong đau khổ. Và để được sống, Galileo từ bỏ thuyết nhật tâm trong sự phẫn uất. Sống là chính mình chưa chắc sẽ mang lại cho ta sự ổn định, bình yên trong cuộc sống. Nhưng có lẽ thà vật lộn với sự không hoàn hảo còn hơn chấp nhận tư cách một gã độc tài với người khác, với chính mình- sẵn sàng loại thải bất cứ điều gì nằm ngoài hệ thống.
Ta không phủ nhận ý nghĩa của việc là chính mình cũng không tuyệt đối hóa sự thay đổi, mà ta nhận ra trong sự đổi thay có cái nhất quán, trong cái ổn định có sự tương tranh các giá trị. Theo thời gian, con người có thể loại bỏ vài đặc điểm tính cách, suy nghĩ, dung nạp những thứ khác nhưng luôn có nền tảng làm cho cá nhân trở nên nhất quán, đó là ký ức về những trải nghiệm sống. Những gì ta "từng là" sẽ trở thành nền tảng cho những gì ta "sẽ là". Tương lai ta sẽ lại hồi tưởng, chất vấn định nghĩa lại quá khứ và rồi quá khứ lại được phục hiện ấy trở thành nền tảng cho tương lai. Sự vận động, phát triển đó làm nên ý thức cá nhân và ý thức ấy càng trở nên rõ ràng hơn theo thời gian trải nghiệm cuộc sống. Schopenhauer cho rằng tuổi già là thời điểm tinh nhìn nhận sáng suốt về chính mình nhất. Nhưng ngay cả lúc đó, sự chất vấn và thay đổi vẫn phải diễn ra nếu không người ta sẽ quên mất mình là ai và phải đối diện với cái chết như thế nào. Hành trình tìm mình và tái định nghĩa mình là hành trình liên tục, không có điểm dừng nào khác ngoài cái chết.
Lời khuyên "hãy là chính mình" nhiều khi bị hiểu sai và khiến ta trở nên ích kỷ, độc ác, bản năng. Nhiều người nghĩ "là chính mình" là quyền hành xử, nói năng theo cách mình muốn mà không cần quan tâm đến suy nghĩ của người khác. Nhưng con người hoàn thiện không phải bằng cách tuyệt đối hóa chính mình mà là tương tác với người khác và với hoàn cảnh để định vị mình, trau dồi các phẩm chất để bản thân trở nên tốt đẹp hơn. Sống là sống với người khác và điều kiện tự do của mình là tôn trọng người khác. Nhiều khi ta cần biết trở thành người khác, không phải trong tâm thế đô lệ mà là để hiểu, để đồng cảm với hoàn cảnh cảm xúc của họ. Sự soi chiếu, nhập vai ấy thực chất cũng là cách ta nhìn lại mình, chỉnh đốn mình, nhắc nhở mình. Không có một bản ngã tuyệt đối để ta trở thành mà chỉ có một cá nhân đang sống, lắng nghe sự biến chuyển của đời sống và hoàn thiện chính mình.
Bi kịch của chàng Narcissus xảy ra bởi chàng đã mê đắm chính vẻ đẹp hoàn hảo của mình. Hoàn hảo là bất động, tĩnh tại và xúi giục cái chết. Nhưng nếu hoàn hảo không phải là cái đạt được mà là sự hướng đến mãi mãi thì con người sẽ có động lực để sống và tìm kiếm ý nghĩa đời sống qua việc hòa thiện mình.
(Thuỷ Tô)

