I. Tìm hiểu chung a) Xuất xứ - Bài thơ được in trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. b) Bố cục - 13 câu đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, ngất ngây, tha thiết. - 16 câu tiếp: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời. - 10 câu còn lại: Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả. c) Chủ đề - Tình yêu cuộc sống mãnh liệt, niềm khát khao giao cảm, nỗi lo âu khi thời gian trôi mau và quan niệm sống mới mẻ tích cực của nhà thơ. II. Đọc – hiểu văn bản 1) 13 câu đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, ngất ngây, tha thiết a) 4 câu đầu: Ước muốn táo bạo, muốn đoạt quyền tạo hóa "Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi" - Bốn câu thơ năm chữ, kiểu câu khẳng định. - Điệp ngữ "tôi muốn" à điệp cấu trúc, nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương. - Khẳng định ước muốn táo bạo, mãnh liệt: Muốn ngự trị thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hóa. Ý tưởng có vẻ như ngông cuồng của thi nhân xuất phát từ trái tim yêu cuộc sống thiết tha, say mê và ngây ngất. b) 9 câu còn lại: Niềm ngất ngây của nhà thơ trước cảnh sắc trần gian b1) 7 câu kế: Bức tranh vườn xuân tràn đầy sức sống "Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần" Bức tranh thiên nhiên như một thiên đường ngay trên mặt đất, có: Yến anh, ong bướm, hoa lá, ánh sáng chớp hàng mi.. Thiên nhiên hiện hữu có đôi có lứa, có tình như mời gọi, như xoắn xuýt. - Điệp khúc "này đây" và phép liệt kê tăng tiến cùng một số cụm từ "tuần tháng mật", "khúc tình si" à sự sung sướng, ngất ngây; hối hả, gấp gáp như muốn nhanh chóng tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống. - Cách diễn đạt độc đáo: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"; so sánh à Vật chất hóa khái niệm thời gian qua hình ảnh "cặp môi gần" à vừa gợi hình thể, vừa gợi tính chất (thơm ngon và ngọt ngào). b2) Hai câu cuối: Tình yêu cuộc sống mãnh liệt "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân." - Hai tính từ "sung sướng, vội vàng" à quan niệm mới mẻ về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. - Đối với Xuân Diệu, thế giới này đẹp nhất vì có con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thời gian quý giá nhất của mỗi đời người là tuổi trẻ mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. - Biết thụ hưởng chính đáng những gì mà cuộc sống dành cho mình, sống hết mình nhất là những tháng năm tuổi trẻ, đó là một quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn. 2) 16 câu tiếp theo: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời "Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian; Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.. Con gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.." - Cụm từ "Xuân đương tới.." à sợ độ phai tàn sắp sửa. • Xuân Diệu cảm nhận về thời gian trôi mau. Giọng thơ tranh luận, biện bác – một dạng thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc. Nhịp thơ sôi nổi, những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên. • Xuân Diệu không đồng tình với quan niệm: Thời gian tuần hoàn (quan niệm này xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian). • "Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua.. sẽ già" : Điệp từ, nghệ thuật tương phản: Theo Xuân Diệu, thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động: Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. • "Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật.. tiếc cả đất trời". Nghệ thuật tương phản, từ láy "bâng khuâng" à cảm xúc lưu luyến tuổi trẻ, mùa xuân, cuộc đời à Nhà thơ yêu say đắm cuộc sống. - "Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.. tiễn biệt" : Nhân hóa, cảm nhận bằng mọi giác quan. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát. Cảm nhận tinh tế dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị chia lìa. Khắp vũ trụ là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian. Mỗi sự vật đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó à cùng với sự ra đi của thời gian là sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể. Giọng thơ triết luận, ngôn ngữ thơ biểu cảm, giàu hình ảnh. Nhà thơ ý thức sâu xa về giá trị của mỗi cá thể sống. Mỗi khoảnh khắc trong đời con người đều vô cùng quý giá vì một khi đã mất đi là mất vĩnh viễn. Quan niệm này khiến cho con người biết quý từng giây từng phút của đời mình và biết làm cho từng khoảnh khắc đó tràn đầy ý nghĩa. Đây chính là sự tích cực rất đáng trân trọng trong quan niệm sống của Xuân Diệu. 3) 10 câu cuối: Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả a) Quan niệm sống vội vàng "Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm" - Câu cảm thán "Mau đi thôi!" : Giục giã sống "vội vàng" để tận hưởng tuổi trẻ và thời gian, không sống hoài, sống phí.. b) Niềm khát khao sống đến cuồng nhiệt "Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!" - Điệp ngữ "Ta muốn" : Khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được yêu thương. - Liệt kê: Hình ảnh "mây, gió, cánh bướm, non nước, cây, cỏ..". Thị giác cảm nhận về không gian của cuộc sống mới mơn mởn, đầy ánh sáng rất đáng yêu. Khứu giác cảm nhận về mùi vị "thơm" hương cuộc sống. Thính giác cảm nhận "thanh sắc của thời tươi". - "Cái hôn", "cắn" à cảm giác mãnh liệt, vồ vập, yêu thương. - "Ta muốn ôm à riết à say à thâu à cắn" : Các động từ, tăng tiến, phép điệp cho thấy tình yêu mãnh liệt táo bạo của một cái "tôi" thi sĩ yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tha thiết với niềm vui trần thế, tâm thế sống tích cực. Ba đoạn thơ vận động vừa rất tự nhiên về cảm xúc, vừa rất chặt chẽ về luân lý: Thấy cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, nhà thơ sung sướng ngây ngất tận hưởng nhưng với một tâm hồn nhạy cảm trước bước đi của thời gian, nhà thơ nhận thấy "xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua". Vì thế, thi nhân bỗng chợt buồn rồi băn khoăn, day dứt. Không thể níu giữ thời gian, không thể sống hai lần tuổi trẻ nên thi nhân vội vàng cuống quýt nỗi khát khao giao cảm với đời. Bài thơ kết ở giây phút đỉnh điểm: "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi". III. Kết luận - Kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc. - Cách sử dụng ngôn từ mới mẻ, độc đáo, sáng tạo. Xuân Diệu thực sự là một bậc thầy của tiếng Việt ngay từ khi ông còn trẻ. - Cách nhìn nhận thiên nhiên, quan niệm về thời gian, quan niệm sống của Xuân Diệu diễn tả một tiếng lòng khát khao mãnh liệt và cho thấy ông ý thức sâu sắc về giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ, hạnh phúc lớn nhất của con người là tình yêu; thời gian ra đi không trở lại nên ta phải quý trọng thời gian, sống sao cho có ý nghĩa. À Cách nhìn nhận của Xuân Diệu rất tích cực với một tinh thần nhân văn mới.