Nữ chính Trà My vô tình lạc vào triều đại nhà Hậu Lê do chạm vào cổ vật lâu năm được thờ cúng tại chùa. Tại đây, Trà My sống lại với thân phận tiểu thư Thu Đào - con gái của quan đại thần Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung. Trong quá trình tìm cách trở về năm 2022, cô được gặp gỡ tiền kiếp của người yêu, vô tình chứng kiến sự mở đầu của triều đại cực thịnh nhất nhà Hậu Lê dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông. Bị rơi vào cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Lê Nhân Tông - Lê Nghi Dân - Lê Thánh Tông, trở thành người có liên quan đến huyết án Lệ Chi Viên, Trà My đã dùng kiến thức lịch sử mình học được và áp dụng những quan điểm của các sử gia thời hiện đại để vượt qua bao lần nguy khốn. Dần dần, Trà My ý thức được bản thân mình là ai, là Trà My hay Thu Đào?
Bên cạnh những đấu tranh quyền lực, tác giả đã kể thêm về chuyện tình của các bậc đế vương, nhiều hạnh phúc cũng không thiếu vị xót xa khi phải lựa chọn giữa mỹ nhân và giang sơn. Kết cục nào cho vị vua tài đức Lê Nhân Tông? Chọn mỹ nhân có đúng, chọn giang sơn có sai?
Nội dung tiểu thuyết mang màu sắc cá nhân của tác giả, tình tiết về nhân vật chính hoàn toàn hư cấu, chỉ mượn bối cảnh thật để kể ngoại truyện theo trí tưởng tượng. Tuy nhiên tác phẩm vẫn mang tinh thần tôn trọng lịch sử tối đa, khi kể các sự kiện lớn đều đã nghiên cứu cẩn thận để đảm bảo đúng với các tài liệu sử học hiện hành, vì vậy mong các sử gia và độc giả không quá khắt khe với tác phẩm. Bên cạnh mục đích giải trí, tác giả muốn dùng tác phẩm này để khơi gợi hứng thú cho các bạn trẻ chủ động tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, đáp ứng nhu cầu vừa học vừa chơi, khiến lịch sử không còn là bộ môn nhàm chán nữa!
* * * Lê Triều, hoàng cung đại nội, âm lịch ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459)..
Một đôi nam nữ dìu dắt nhau hết giấu mình trong các bụi cây, đến nấp sau các bức tường hoàng cung, cùng nhau gấp rút trốn chạy dưới cơn mưa như trút nước. Phía sau lưng, đội cấm vệ quân đang quyết chiến hộ giá. Vị vua đáng thương vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn những bầy tôi trung thành, nước mắt tuôn rơi.. Cô gái níu tay chàng hối thúc:
- Bệ hạ chạy mau, giữ lại tính mạng mai này sẽ có cơ hội phục thù!
Bỗng từ bốn phía quân phản loạn kéo đến vây quanh hai người. Vua cầm bảo kiếm trong tay tả xung hữu đột, vừa bảo vệ bản thân vừa che chắn cho cô gái. Đột nhiên một mũi kiếm từ phía sau bất thình lình lao tới, nhắm thẳng vào lưng vua.
Lưỡi kiếm sắc bén cứa vào không khí nghe vun vút, ánh sáng của nó dội vào mắt làm cô gáiphát hiện ra kẻ tập kích và nhanh như cắt lao ra dùng thân mình chống đỡ.
Xoạt!
Cô gái khựng lại, chầm chậm nhìn xuống bả vai lúc này đang bị thanh kiếm cắm vào sâu quá nửa. Máu tươi nóng ấm rịn ra thấm dần qua ba lớp áo. Lê Nghi Dân – kẻ đã ra tay đánh lén thấy đã đâm nhầm người nên vội rút thanh kiếm ra khỏi ngực nàng, dòng máu theo lưỡi kiếm mà phun ra văng khắp mặt hắn.
Cảm nhận được sự bất lành, vua quay đầu lại nhìn thì cô gái đã ngã gục xuống đất. Tiếng hét thất thanh của chàng lạc lõng trong mưa bão:
- Thu Đào!
Chàng lập tức đỡ nàng dậy, quân lính nhân cơ hội lao đến hòng chém đầu vị vua sa cơ đểnhận thưởng. Cô gái tên Thu Đào dốc hết sức tàn ôm lấy vua, mong thay chàng gánh hết tất cả những gươm đao bổ xuống.
Vốn không muốn giết Thu Đào, Lê Nghi Dân khẽ nhíu mày ra lệnh tất cả quân lính dừng tay để tránh làm tổn thương đến nàng.
Vua Lê Nhân Tông căm phẫn nhìn Nghi Dân mắng:
- Uổng cho ta luôn xem ngươi huynh trưởng, nay ngươi lại muốn giết em ruột của mình để cướp ngôi. Tội ác này người đời sẽ mãi mãi khinh miệt ngươi!
Lê Nghi Dân cười khẩy:
- Huynh trưởng? Em ruột? Đến tận bây giờ ngươi vẫn còn nghĩ mình là huyết thống hoàng tộc? Ta thấy ngươi là giả vờ không biết thôi, ta lấy lại giang sơn của Thái Tổ từ tay nghiệt chủng như ngươi có gì là sai?
Lê Nghi Dân nhìn Thu Đào thuyết phục:
- Niệm tình nàng từng cứu ta một mạng, nàng có thể đi, nhưng hãy để hắn lại đây!
Đào quỳ xuống, nước mắt giàn giụa cầu xin Nghi Dân:
- Lạng Sơn Vương, nếu người còn nghĩ chút ơn cứu mạng, xin trăm lạy nghìn lạy người tha cho chàng! Đại cục đã định, người nhất định lên ngôi kế vị, xin hãy tích phúc đức để hưởng thiên niên vạn tuế! Nếu người chịu tha cho chàng, tiện nữ đảm bảo từ đây Lê Nhân Tông hoàng đế đã chết, trên đời chỉ còn thường dân Lê Tuấn, trọn đời trọn kiếp không xuất hiện trước mặt người! Kiếp sau tiện nữ xin làm thân trâu ngựa báo đáp!
Lê Nhân Tông tức giận hét lớn:
- Ta thà chết cũng không cầu xin hắn!
Nghi Dân nheo mắt nhìn Nhân Tông:
- Là do ngươi tự tìm cái chết, đừng trách ta không niệm tình xưa!
Nói xong liền khoát tay ra hiệu quân lính tiến lên và hô lớn:
- Giết!
Thu Đào bất lực ôm lấy chàng van xin:
- Đừng!
* * *
Thành phố Hồ Chí Minh một đêm tháng 8 năm 2022.
Hai người đứng dưới gốc cây Hoàng Yến, trên phố đi bộ Nguyễn Huệ, tuy là buổi tối cuối tuần nhưng không đông đúc như mọi khi. Trà My chăm chú lắng nghe từng lời từng chữ người con trai trước mặt đang nói.
- Thật ra anh muốn nói với em từ lâu rồi, nhưng lại sợ em buồn!
Trà My đỡ lời để Sỹ Thành yên tâm nói tiếp:
- Ừ! Em hiểu mà!
Sau vài giây im lặng, Sỹ Thành lại tiếp tục ấp úng:
- Anh.. nghĩ rằng hiện tại không thể có đủ thời gian lo lắng cho em như người ta, anh!
Trà My ra chiều hiểu chuyện nói giúp cái lời mà Sỹ Thành loay hoay mãi vẫn không thể nào thốt ra được:
- Em hiểu mà! Chúc công ty của anh ngày càng phát triển, anh đừng ngại gì với em, cảm ơn anh đã nói ra chứ không để em phải đánh vật với câu hỏi rằng ta là gì của nhau nữa!
Rồi như muốn xoa dịu nổi trái tim của Trà My, Sỹ Thành định nói tiếp một câu "văn mẫu" của các chàng trai khi muốn chia tay mà không làm người con gái tổn thương:
- Em thật sự là cô gái rất tốt!
- Nhưng mà anh rất tiếc! Đúng không?
Trà My lần nữa nói thay Sỹ Thành bằng giọng hóm hỉnh. Cô muốn trêu đùa để không khí bớt căng thẳng, và hơn hết là cô không muốn để lại hình ảnh yếu đuối uỷ mị trong lòng anh.
Rồi như muốn cứu vớt lại chút gì mối quan hệ của hai người, anh lại hỏi một câu mà biết chắc chắn rằng câu trả lời sẽ là "không!" :
- Anh, sau này anh vẫn có thể là người bạn tốt của em được không?
- Không!
Trà My nửa đùa nửa thật trả lời ngay không do dự. Gần một năm bên nhau, anh biết ánh mắt ấy đang chất chứa niềm đau khổ, giận hờn, trách móc.. và anh cũng rất hiểu tính cách của Trà My, cô nói "Không" thì tức là "Không" thật sự.
Sau đôi lời tạm biệt gượng gạo, hai người quay lưng về phía nhau, ai đi đường nấy. Giữa chừng, Sỹ Thành lén quay đầu lại nhìn. Bóng dáng người con gái tóc dài thướt tha đang bỏ chạy thật nhanh, cố lẫn vào dòng người đông đúc khiến anh bỗng thấy lòng đau nhói. Lúc nãy Sỹ Thành đã ngỏ ý đưa Trà My về nhưng bị cô từ chối, anh cũng hết cách chỉ đành chiều theo.
- Em trước giờ vẫn vậy, cứ cãi nhau là không bao giờ cho phép anh được làm bất cứ điều gì cho em! Xin lỗi Trà My, nếu kiếp này còn cơ hội làm khác đi, anh nhất định không bao giờ buông tay em!
Lời tự nói với bản thân, cũng là lời Sỹ Thành muốn gửi đến người con gái anh hết lòng yêu thương. Nhưng cuộc sống là thế! Đôi lúc con người ta buộc phải đưa ra lựa chọn, dù là chọn cái nào đi nữa thì cũng không thể nào tránh khỏi mất mát, tổn thương! Thôi thì đành phải tự vấn bản thân mình, rốt cuộc điều gì với mình là quan trọng nhất? Bởi.. Ông trời sẽ không bao giờ cho ai tất cả!
* * *
Một tháng trở lại đây Trà My không đêm nào ngon giấc, muốn chợp mắt cô phải uống thuốc an thần. Có lẽ do suy nghĩ quá nhiều nên Trà My cứ liên tục mơ thấy mình phải chia ly với một người rất yêu và không biết bao giờ mới gặp lại. Tuy là mộng mị nhưng cái cảm giác "đau lòng thấu tận tâm can" đó lại rất chân thực, và khi tỉnh dậy nước mắt cô thấm ướt cả gối. Theo lời bác sĩ thì có thể Trà My bị trầm cảm nhẹ do áp lực cuộc sống, nên hạn chế uống thuốc an thần và thường xuyên ra ngoài để giải tỏa căng thẳng. Nếu có điều kiện thì nên tìm đến bác sĩ tâm lý để được hướng dẫn cũng là một việc tốt.
Trà My quyết định tạm xa thành phố này một thời gian để đi du lịch, tạm gác lại mọi chuyện để tận hưởng cuộc sống, sau đó phải lấy lại thăng bằng mà bước tiếp nữa chứ. Vốn thích văn hóa cổ xưa và những không gian lãng mạn cổ kính, Trà My đã chọn Hà Nội và buổi triển lãm cổ vật thời phong kiến tổ chức tại chùa Thánh Chúa.
Cô đến quán cà phê sách quen thuộc để đọc vài dòng, chờ đến giờ ra sân bay. Ngồi gục đầu trên quyển sách, Trà My nhắm mắt lại, cố để hơi thở không trượt dài. Vốn là một văn thư quản lý thư viện của trường đại học, Trà My rất thích đọc sách nên thường chọn nơi có không gian yên tĩnh để đắm chìm vào những dòng chữ. Nhưng hôm nay, cô không thể tập trung đọc được chút gì. Thế đấy, bên nhau một năm, tuy chưa lâu nhưng mối tình đầu lúc nào cũng vô cùng hoài niệm và day dứt! Trà My chỉ là một cô gái bình thường, tuy xinh đẹp nhưng rất mộc mạc, sở thích khi rãnh rỗi lại đúng chuẩn "good girl", chỉ biết vùi đầu vào những trang sách, chính vì thế mà tận hai mươi lăm cái xuân xanh mới biết yêu là gì. Trong khi Sỹ Thành rất năng động tài ba, chí hướng cao xa, luôn tập trung phát triển sự nghiệp, mới hai mươi lăm tuổi đã tự thành lập công ty riêng. Từ ngày anh thành đạt, Trà My vốn đã nhỏ bé bên cạnh vẻ phong lưu đa tài của anh, thì nay lại càng chẳng xứng đôi hơn nữa. Thôi thì ta phải mạnh mẽ sống tiếp cuộc đời của ta, hoa dại cũng có giá trị riêng, nhất định không được yếu đuối để người ta thương hại! – Trà My tự cổ vũ bản thân mình.
Bỗng màn hình điện thoại sáng lên, tin nhắn từ Thu Hằng, bạn thân của Trà My:
- Thu Hằng: Nè, mày đi Hà Nội khi nào về, đi bất ngờ không nói tao giận lắm!
- Trà My: Tao chỉ đi xem hội thảo về các cổ vật về hoàng thành Thăng Long mới khai quật được gần đây, hai ngày là về!
- Thu Hằng: Tưởng mày thất tình ra đó du lịch một mình không rủ tao chứ!
- Trà My: Tao làm gì mà yếu đuối vậy, mới một năm có sâu đậm gì mà thất với bát, thôi tao ra sân bay đây!
Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay mưa như trút nước, tiếng sét ầm ầm liên tiếp hai ba hồi vang lên như muốn xé toạt bầu trời. Buổi chiều hôm ấy mây từ đâu kéo đến dày đặc cuộn thành từng khối, ánh mặt trời lúc hoàng hôn sau cơn mưa có màu đỏ chói chiếu thẳng vào những đám mây, nhìn từ phía xa trông như một ngọn lửa trời đang cháy ngùn ngụt làm bốc lên làn khói xám đen dữ dội.
Trà My ngồi ghế chờ lên máy bay, sân bay quốc nội Tân Sơn Nhất hôm nay sao vắng vẻ đến lạ. Cô gục đầu tựa trên va li, cơn buồn ngủ ở đâu kéo đến không thể nào cưỡng lại..
* * * Trước mắt Trà My là một khung cửa sổ, cửa sơn son thiếp vàng, bên ngoài có một vị hoàng tử cầm ô chầm chậm tiến đến, chàng chìa một tay về phía Trà My tươi cười nói:
- Ta đợi nàng đủ lâu rồi đấy!
Bỗng sét nổ vang trời, bóng chàng cũng tan biến ngay tức khắc, chỉ còn vườn hoa trống không và cơn mưa ngoài cửa sổ. Trà My thấy lòng đau quặn thắt, gọi tên chàng thật to..
Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai khiến Trà My giật mình tỉnh giấc.
Nhân viên mặt đất của AB Airline:
- Có phải chị bay chuyến HN246 khởi hành 18: 30 không, sắp đến giờ rồi đấy!
Trà My nhìn xung quanh quả thật chẳng còn ai trong phòng chờ. Cô vội vàng rảo bước lên máy bay, trong đầu cố nhớ ra cái tên mình đã gọi trong mơ và không ngừng lẩm bẩm:
- Lúc nãy mình gọi tên người đó là gì vậy ta?
* * * Một chiếc máy bay vút lên bầu trời đêm, giữa cơn mưa tầm tã..
* * *
Giữa pháp trường, vài trăm phạm nhân bị trói tay chờ hành quyết.
Tuy là buổi trưa nhưng mây đen u ám, không một tia nắng nào lọt qua, cũng giống như tiếng kêu gào oan ức của những kẻ bị gông cùm trên pháp trường lúc này không cách nào thấu đến trời xanh. Trà My không biết tại sao mình lại đứng ở đây, ngay lúc này, trước mắt là một khung cảnh xa lạ và quỷ dị, mà bầu trời lúc này tại sao lại giống với cảnh tượng lúc chiều ở sân bay quá! Cô cảm thấy cơ thể nhẹ tênh như thể nếu có một cơn gió mạnh nào đi qua mình sẽ bị thổi bay ngay tức khắc. Rồi bất giác Trà My phát hiện dường như không ai nhìn thấy hoặc nghe thấy mình, cô cố gắng chạm thử vào một người bên cạnh, lay gọi ông ta, nhưng ông ta hết nhìn đứa bé đang bế trên tay, rồi lại nhìn lên pháp trường, hoàn toàn không nhận biết được sự có mặt của Trà My.
Vị quan già đầu tóc rủ rượi, hai tay bị cùm trong xích sắt, đôi mắt tuyệt vọng nhìn vợ con, anh, em, họ hàng thân quyến kẻ khóc, người cười như điên như dại. Thật không ngờ một đời trung quân ái quốc lại đổi lấy kết cục bi thảm thế này đây! Ông uất nghẹn nấc lên, giọt nước mắt tủi hận rơi xuống.
Dân chúng khắp nơi nghe tin dữ cũng đổ về chứng kiến buổi hành quyết, ai nấy đều khóc thương cho gia tộc vị đại thần tài hoa bạc mệnh. Lẫn khuất trong dòng người hiếu kỳ xung quanh pháp trường, một người đàn ông bế trên tay đứa bé gái mặt mũi lem luốt bùn đất, ông ta nhìn về phía vị quan già tội nghiệp, rồi vô tình ánh mắt hai người gặp được nhau. Nhìn đứa bé gái một lần xong, ông ta lại nhìn vị quan khẽ gật đầu ám chỉ. Hiểu ý, vị quan già cười sầu não, hai hàng nước mắt tuôn trào như suối đổ. Trước khi bị hành hình, ông bi phẫn mắng:
- Ta là công thần khai quốc, chúng bây sẽ bị quả báo, ta hối hận lắm, hối hận không nghe lời đồng liêu..
Một nhát đao chém xuống, máu tươi bắn khắp mặt đất, tiếng hét kêu oan cầu cứu vang vọng rợn người:
- Oan, oan lắm!
Thêm một nhát đao nữa chém xuống, vệt máu lạnh ngắt hắt thẳng vào mặt Trà My khiến cô giật mình hét lên:
- Á!
Trà My mở choàng mắt ngồi bật dậy sau cơn ác mộng dị thường, cô thở dài nhẹ nhõm khi biết đó chỉ là giấc mơ. Cô tự hỏi bản thân:
- Mệt quá, mình có đang gặp triệu chứng của bệnh hoang tưởng không vậy?
Phòng khách sạn im lặng tĩnh mịch, ánh đèn ngủ mờ ảo soi xuống nền gạch lạnh ngắt. Quyển sách đang đọc dở dang bị cô đánh rơi nằm đó từ lúc nào.
Cô cảm thấy lạnh nhưng mồ hôi lại ướt cả áo. Từ cửa sổ ùa vào một cơn gió nhẹ nhàng mang theo hương hoa sứ ngọt lịm. Thì ra Trà My đã quên đóng cửa sổ. Cô nhìn ra ngoài, trăng tròn sáng vằng vặc in xuống mặt nước hồ bơi như một cái đĩa to màu vàng óng ả. Ánh trăng đẹp đẽ làm cô nổi hứng pha một ly cà phê, hướng ra hồ bơi ngồi ngắm cảnh. Nhớ khi còn bên nhau, Sỹ Thành cũng rất chiều chuộng cô, anh thường xuyên cùng cô thức suốt đêm, cô đọc sách hoặc xem phim, trong khi anh cắm cúi với những kế hoạch tài chính, nhân sự, đơn hàng vv.. Trong mắt cô anh là người con trai ưu tú và thanh lịch nhất, anh quá xuất sắc đến nỗi cô cảm thấy mình quá nhỏ nhoi bên cạnh người thương, đôi lúc chẳng dám nghĩ đến tương lai xa, bởi.. cổ tích chẳng khi nào có thật!
Mười sáu âm lịch trăng thật đẹp, cô bật đèn lên, đồng hồ điểm một giờ khuya. Nhìn tấm vé mời tham dự triển lãm cổ vật, Trà My thấy phấn khích mong đến hai giờ chiều mai để đi xem cho thõa mắt. Ngoài sách, Trà My có sở thích là học tiếng Hoa và chữ Hán, tìm hiểu văn hóa lịch sử. Đặc biệt là nhìn ngắm cổ vật của người xưa. Cũng không hiểu vì đâu mỗi lần nhìn thấy cổ vật cô lại có cảm giác bồi hồi khó tả, các cổ vật trông vừa quen vừa lạ, vừa gần gũi lại vừa xa xăm. Và cô thích cảm giác cố truy tìm miền ký ức bị chôn sâu ở nơi nào trong tiềm thức, biết là nó ở đấy nhưng mãi không thể chạm đến được.
Gió khuya bỗng thổi mạnh, mây lại che kín bầu trời.
- Lại mưa!
Trà My mất hứng nhún vai, cô đành kéo rèm lại rồi lên giường đắp chăn.
* * *
Ngày 7 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), tại điện Tường Quang trong Hoàng Thành Thăng Long, Lệ Đức Hầu Lê Nghi Dân (*) đăng cơ hoàng đế Đại Việt.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Đại Việt Thông Sử có ghi chép chiếu chỉ tuyên cáo đăng cơ của Lê Nghi Dân như sau:
"Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn Hoàng Đế (*), trước đây đã được phong là Hoàng thái tử, giữ ngôi chính ở Đông cung. Chẳng may tiên đế đi tuần miền Đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu (*) muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ lên làm đế, bắt trẫm làm phiên vương xứ Lạng Sơn. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái uý Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc (*) Phục, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt khẩu. Cho nên từ đó đến giờ, hạn hán sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện, đói kém tràn lan, trăm họ cùng khốn. Diên Ninh (*) tự biết mình không phải là con của tiên đế, hơn nữa lòng người ly tán, nên ngày mồng 3, tháng 10 năm nay, đã ra lệnh cho Trẫm lên thay ngôi báu. Trẫm nhờ người trông xuống, tổ tông phù hộ, cùng các vương, đại thần, các quan văn võ trong ngoài đồng lòng suy tôn, xin Trẫm nên nối ngôi đại thống, hai ba lần khuyên mời, Trẫm bất đắc dĩ đã lên ngôi vào ngày mồng 7 tháng 10 năm nay, đổi niên hiệu là Thiên Hưng."
* * * Hết chương 1----
Chú thích:
1. Thái Văn Tông Hoàng Đế: Lê Thái Tông, tên huý là Lê Nguyên Long, vị hoàng đế thứ hai của triều Hậu Lê.
2. Nguyễn Thái hậu: Tuyên Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh, mẹ ruột của Lê Nhân Tông.
3. Trịnh Khả: Tể tướng Đại Việt thời Lê Sơ, được xem là một trong những công thần khai quốc của Lê Triều.
4. Trịnh Khắc Phục: Công thần khai quốc nhà Lê Sơ, có công giúp Thái Tổ đánh đuổi nhà Minh, được phong hai tước vị là Thượng Trí Tự và Trước Phục Hầu, được ban họ Lê nên còn gọi là Lê Khắc Phục.
5. Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu thứ hai dưới thời trị vì của Lê Nhân Tông (hay còn gọi là Lê Bang Cơ). Ông lên ngôi năm 1442 lúc mới một tuổi, thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính, niên hiệu là Thái Hòa. Đến nằm 1453 ông đích thân chấp chính, đổi niên hiệu lại là Diên Ninh. Từ "Diên Ninh" ở đây ý nói về Lê Nhân Tông.
Một ngày đầu hạ năm 1456, Lê Nhân Tông sai thái giám Đào Biểu đến phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung để truyền khẩu dụ. Nghe xong thánh ý của Nhân Tông về việc trực tiếp nạp đại tiểu thư Thu Đào làm lục giai Mỹ Nhân, đầu Thu tiến cung, quan đại thần Nguyễn Đức Trung rất đổi vui mừng quỳ bái tạ long ân.
Bên ngoài cửa sổ, người con gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung tên là Thu Hằng sau khi nghe lén biết được toàn bộ sự việc liền vội vàng rời đi để tránh bị phát hiện.
* * *
Bên bờ hồ cẩm lý thuộc khuôn viên Huy Văn Tự (*)
Thu Đào nhìn vào mắt Lê Hạo hỏi:
- Chàng có vì ta mà đi cầu xin Hoàng Thượng rút lại thánh ý không?
Lúc biết tin đại tiểu thư Thu Đào của đại thần Nguyễn Đức Trung đã lọt vào mắt Nhân Tôngtrong đợt tuyển tú sắp tới, Lê Hạo vốn định đi tìm vua cầu xin, hi vọng bệ hạ sẽ vì tình anh em mà thay đổi ý định. Nhưng lúc vừa định ra khỏi cửa chàng đã bị mẹ là Ngô Tiệp Dư (*) của Lê Thái Tông ngăn cản. Vì nếu dám tranh chấp nữ nhi với Nhân Tông, hai mẹ con bà sẽ nảy sinh mâu thuẫn với triều đình, trong khi mối họa bị ám sát để tranh đoạt ngôi vị vẫn còn treo trên đầu, bà không thể vì chuyện này mà gây thêm mâu thuẫn với Thái Hậu. Ngô phu nhân lấy mạng sống ra uy hiếp con trai, buộc Lê Hạo phải đoạn tuyệt tình cảm với Thu Đào. Lê Hạo phần vì chữ hiếu, phần vì lòng mang chí lớn nên sau khi nghe mẹ can gián, chàng cảm thấy thật sự không thể vì nữ nhi thường tình mà hỏng đại sự, đành chấp nhận hi sinh tình yêu của mình.
Nghe xong câu hỏi của Thu Đào, Lê Hạo quay mặt đi để tránh bị ánh mắt của nàng nhìn thẳng, chàng đáp:
- Hoàng Thượng là bậc minh quân hiếm có, nàng sẽ được bình an hạnh phúc cả đời! Nếu có kiếp sau..
Nghe đến đây Thu Đào gào lên:
- Ta không biết việc của kiếp sau, nhưng kiếp này thà chết cũng không muốn gả cho người mình không yêu!
Lê Hạo nhắm chặt đôi mắt, giọt lệ nam nhi rơi xuống. Chàng hạ quyết tâm:
- Là ta có lỗi với nàng! Lệnh vua khó cải, mong nàng hiểu cho ta!
Thu Đào tức giận rút chiếc trâm bạc trên tóc xuống đưa lên mặt nói:
- Chẳng qua Hoàng Thượng yêu thích gương mặt này thôi, nếu ta huỷ đi nó, người chắc chắn chê bai không cần ta nữa. Vậy còn chàng, dù ta có xấu xí chàng vẫn không thay lòng chứ!
Thấy Thu Đào sắp làm điều dại dột, Lê Hạo chạy đến muốn giằng lấy chiếc trâm và nói:
- Nàng thôi trẻ con đi! Đây là việc lớn ảnh hưởng đến tiền đồ của Nguyễn Đại Nhân, đến an nguy của ta và mẫu thân..
- Ta không cần biết!
Thu Đào gào lên và toang dùng trâm bạc rạch mặt.
Lê Hạo hoảng hốt cố chụp lấy tay nàng, nhưng do Thu Đào có võ công nên chàng rất vất vả vẫn chưa đoạt được chiếc trâm nhọn. Một người cố tự làm hại bản thân, một người cố ngăn cản, hai bên giằng co gần mươi hiệp chưa phân thắng bại. Cuối cùng trong lúc bất cẩn Lê Hạo trót ra đòn hiểm, Thu Đào vì né tránh mà sảy chân rơi xuống hồ cẩm lý. Chàng vừa gọi tên vừa đưa tay ra muốn kéo nàng lại nhưng không kịp nữa!
- Cẩn thận!
* * *
Hà Nội, một ngày hè tháng tám năm 2022.
Triển lãm cổ vật lần này Trà My tham dự được tổ chức tại chùa Thánh Chúa, nằm trong khuôn viên trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.
Đây là ngôi chùa có lịch sử gần sáu trăm năm, gắn liền với giai thoại về hai vị vua Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông (*). Vốn yêu thích văn hóa lịch sử, Trà My không khỏi hiếu kỳ mà đi thăm thú khắp nơi trong chùa. Từ cổng chính và cổng phụ phía mặt đường Xuân Thủy (phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy), đi qua các giảng đường của trường chừng hơn một trăm mét là bắt gặp không gian thiền môn, phía trước là tấm biển lớn bằng đá hoa cương đặt ngoài cổng chùa: Chùa Thánh Chúa - Di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng. Từ bên ngoài nhìn vào chùa nổi bật với thiết kế cổng tam quan (*), giữa sân là hai cây Muỗm hơn 500 tuổi cành lá sum suê, làm tăng thêm nét trầm mặc cổ kính cho ngôi chùa. Trà My vô cùng thích thú ngắm những bức hoành phi trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, nhiều tượng Phật uy nghi mang phong cách văn hóa thế kỷ mười bảy, mười tám.
Vào đến nơi thờ Phật ở thượng điện sâu năm gian, nhìn thẳng vào chính điện, làn khói hương nghi ngút mang mùi trầm thoang thoảng, Trà My bất giác thấy quen thuộc vô cùng, bồi hồi nôn nao khó tả. Tiến vào gần hơn, sau làn khói hương, cô thấy một giá nến hình hoa đào bằng đồng, trông khá lâu đời nhưng được lau chùi sạch sẽ. Bỗng dưng không kiềm nổi hiếu kỳ nên nhìn quanh dò xét, nhân lúc không ai chú ý cô cầm lên xem. Có lẽ do là cổ vật vài trăm năm nên màu đồng không còn sáng nữa, nhưng họa tiết trên đóa hoa vẫn còn rõ nét. Trà My xem mặt dưới của giá nến có khắc chữ Hán "桃" (Đào).
Một vệt nắng chiều chiếu thẳng vào đóa hoa bằng đồng, tia sáng bị giá nến phản chiếu lại hắt vào mắt bất ngờ khiến Trà My bị chói nên xoay mặt tránh đi. Trong phút chốc cô thấy đầu óc quay cuồng như sắp ngất, thầm nghĩ có lẽ do tối qua thiếu ngủ. Lúc mở mắt cô hốt hoảng thấy một vị mặc áo mão màu vàng đứng ngay trước mắt, nhưng lạ lùng thay chỉ là một cái bóng nhạt nhòa xuyên thấu. Cô chết lặng đứng quan sát, bóng dáng ấy sao quá đỗi thân thuộc, đang chấp hai tay khấn nguyện trước bàn thờ Phật, và có vẻ như vị ấy không nhận thức được ánh nhìn của Trà My cũng như sự tồn tại của cô.
Khoảng một phút trôi qua, đủ lâu để Trà My xác định rằng mình không phải đang mơ như bao lần cô tỉnh dậy sau ác mộng. Sau khi thắp hương xong vị ấy xoay người đi ra phía cây Muỗm giữa sân chùa. Trà My lập tức nối gót theo sau, kỳ lạ thay! Cô đang nhìn thấy một chiếc bóng tuy nhạt nhòa nhưng rất chân thực, và xem biểu hiện của những người xung quanh thì chắc chắn chỉ có cô đang nhìn thấy điều thần diệu này. Trà My đuổi theo vị ấy ra đến tận cây Muỗm, quên mất vẫn còn cầm chiếc giá nến hoa đào trong tay. Ngài dừng lại dưới gốc cây, rồi bỗng nhiên giá nến sáng lên một cách kỳ dị dù không bị ánh nắng nào chiếu vào, trong khoảnh khắc Trà My thấy vị ấy quay lại nhìn cô như thể bị theo dõi từ nãy đến giờ nhưng chỉ vừa mới phát hiện ra. Một tiếng sấm vang trời giữa trưa hè nắng gắt. Trà My ngã xuống ngất lịm dưới gốc cây Muỗm.
Không biết đã trãi qua bao nhiêu thời gian..
Mùi của những nén hương lúc sáng vẫn thoang thoảng trong không khí.
Trà My từ từ mở mắt, trời đã tối, xung quanh chỉ có ánh nến lập loè không đủ thắp sáng bất cứ vật gì.
Sau vài phút nằm yên để suy nghĩ xem chuyện gì đã xảy ra, và mình đang ở đâu. Trà My biết mình đã bị ngất lúc sáng khi chưa kịp tham gia buỗi triển lãm. Cô bần thần tự hỏi:
- Đây là đâu? Hôm nay bị cúp điện à?
Khi mắt đã quen dần với bóng tối, Trà My nhìn xung quanh một lượt, cô vừa ngạc nhiên vừa có chút sợ hãi. Vật dụng trong phòng đa số bằng một loại gỗ màu đen, trạm trổ cầu kỳ, rèm treo bằng một loại vải mềm có lẽ là màu xám và rất thủ công, chỉ bằng dây vải, chẳng hề thấy móc treo kim loại như ở khách sạn. Màn chắn muỗi cô đang nằm cũng là loại vải mỏng mà cô chưa từng thấy qua, khác hẳn lại vải lưới hay voan vẫn thường dùng ở quê.
Trà My mở to mắt, thử cử động tay chân thì thấy toàn thân ê ẩm, cố hết sức mới nâng được cánh tay lên. Chưa kịp nghĩ tiếp theo sẽ làm gì, thì từ cửa phòng một cô gái hai tay bưng chậu gì đấy bước vào, nhìn thấy Trà My đang cử động, cô gái lao đến phía Trà My và nói to:
- A! Đại tiểu thư tỉnh rồi! Ông bà ơi tiểu thư tỉnh rồi!
Đặt cái chậu màu vàng xuống chân giường, cô gái đó vội nắm lấy tay Trà My hỏi:
- Tiểu thư đã tỉnh, cô thấy trong người thế nào?
Trà My nhìn kiểu dáng cái chậu mà không khỏi hoang mang, trông nó giống hệt những cái chậu đồng mà cô từng thấy qua tại các bảo tàng cổ vật thời phong kiến, chỉ là cái này thì mới tinh, sáng bóng, khác hẳn những cổ vật bị rỉ, xỉn màu. Mãi quan sát và suy nghĩ Trà My đã không trả lời cô tì nữ.
Lúc đó, có hai người một nam một nữ trung niên, ăn mặc rườm rà áo mũ như người bước ra từ phim cổ trang nhưng hoàn toàn khác với các bộ phim cô vẫn xem. Người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi nét mặt phương phi, mặc loại áo vạt dài quá gối, có thắt lưng ngang hông, quần ống rộng dài tóc búi gọn trên đỉnh đầu. Người phụ nữ cũng khoảng bốn mươi, gươngmặt tròn phúc hậu vẫn còn nét tươi tắn, chưa nhiều nếp nhăn. Bà mặc loại áo vải lụa mềm màu trắng đục, cũng dài quá mông, quần rộng màu trắng, tóc vấn vội thành bím dài kéo sang một bên, có vẻ bà ta đang ngủ và vội vàng chạy đến theo tiếng gọi của cô gái.
Phút chốc cả ba người đều đã đến bên cạnh Trà My, người đàn ông đặt tay lên trán cô và hỏi:
- Con thấy sao rồi?
Người phụ nữ cũng ngồi xuống bên cạnh nắm lấy tay cô rơi nước mắt:
- Tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho con khoẻ lại!
Quá hốt hoảng với những gì đang xảy ra, Trà My cố gượng dậy, cô tựa lưng lên gối với sự giúp sức của cô hầu gái, muốn hỏi thật to nhưng sức lực như biến đi đâu hết cả, chỉ có thể thều thào:
- Đây là đâu? Hai người là cha mẹ tôi?
Người phụ nữ nhìn sắc mặt và ánh mắt của Trà My, bà tỏ vẻ hoảng hốt và nắm chặt tay cô khóc nấc:
- Con làm sao vậy, đừng dọa mẹ con ơi!
Cô gái và người đàn ông cũng tròn mắt nhìn Trà My ngạc nhiên tột cùng.
Người đàn ông tiến ngay đến gần và hỏi giọng đầy hoang mang:
- Con làm sao vậy, đến cha mẹ cũng không nhận ra?
Trà My lúc này bối rối tột cùng, đầu óc cứ mơ hồ không phân biệt thực hay mộng, cô ngơ ngác nhìn quanh, chớp mắt nhiều lần, thở sâu, tự nói với bản thân rằng "Hãy tỉnh lại, tỉnh lại", cô đang cố đánh thức bản thân thoát khỏi giấc mộng kỳ quái như bao lần trước.
Trà My một lần nữa thều thào:
- Đây là đâu? Ông bà là ai? Tôi đã bị làm sao? Sao tôi lại ở đây?
Người đàn ông ra lệnh cho cô tì nữ:
- Con mau mời thầy lang sang đây ngay cho ta, nói là tiểu thư đã tỉnh, nhờ thầy sang thăm giúp!
Cô gái chạy đi ngay sau tiếng "Dạ", người phụ nữ ôm chầm lấy Trà My nức nở:
- Con sao vậy con ơi?
* * *
- Boong.. Boong.. Boong! - Ba tiếng chuông chùa vang lên báo đã đúng ngọ.
Lê Hạo ngồi cạnh cửa sổ, chàng mặc áo nâu giản dị, dáng vóc cao lớn, dung mạo uy nghiêm đỉnh đạc. Chàng đặt quyển sách xuống bàn, gác bút lên nghiên mực rồi rót một tách trà, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào vô định.
Ngô phu nhân vào phòng sách, bà cũng như Lê Hạo, tuy ăn mặc đơn giản nhưng khó lòng che giấu khí chất sang trọng cao quý của hoàng tộc. Phu nhân nhìn chàng rồi lắc đầu ra chiều tiếc rẻ:
- Mẹ biết con đã rất khó khăn khi lựa chọn rời bỏ Thu Đào! Cũng may ông trời còn thương xót hồng nhan!
Chàng cúi mặt không nói gì, nhưng chỉ một lúc sau không kiềm lòng được lại hỏi:
- Đào thế nào rồi mẹ?
Ngô phu nhân ngồi xuống nâng tách trà lên uống, chậm rãi đáp:
- Sau khi tỉnh lại nó đột nhiên chẳng còn nhận ra ai. Đến bản thân mình là ai cũng không biết!
Chàng lộ vẻ ngạc nhiên:
- Là sao hả mẹ?
Ngô phu nhân lắc đầu thở dài..
* * *
Ở phủ đệ đương kim Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (*).
Trà My ngồi trên giường tựa lưng vào gối, tay cầm miếng bánh đậu xanh, trên mặt bánh có in chữ Hán phồn thể nhưng do vốn phồn thể cũng "khiêm tốn" nên cô chẳng biết là chữ gì. Chỉ ngắm cho vui thôi chứ hiện tại cô chẳng còn lòng dạ gì mà ăn với uống.
Qua lời thuật của cô tì nữ Xuân Mai đã chăm sóc cho Trà My từ đêm qua đến giờ, hiện tại Trà My có tên là Thu Đào, con gái lớn của một vị Điện Tiền Chỉ Huy Sứ trong triều đình, còn có một người em gái song sinh là Thu Hằng. Nghe đến hai chữ "triều đình", Trà My liền ngờ vực hỏi Xuân Mai:
- Hiện giờ nước ta đang là triều của vua nào?
Xuân Mai biết rõ tình trạng như "vừa mới sinh ra hôm qua" của Trà My nên kiên nhẫn giảng giải:
- Đại Việt ta đang là năm Diên Ninh (*) thứ tư, đương kiêm thánh thượng là đời thứ ba của triều ta.
Tuy Trà My là nhân viên quản lý một thư viện lớn của trường đại học, cũng gọi là có một chút kiến thức lịch sử, nhưng mà chỉ bằng niên hiệu thì khó mà nhớ nổi là vị vua triều nào, cô vừa nhai miếng bánh trong miệng vừa hỏi thêm:
- Vua Triều ta họ gì?
- Đang là thiên hạ của họ Lê đấy thưa tiểu thư! – Xuân Mai rót tách trà cho Trà My và trả lời.
Đời thứ ba, triều Lê.. Đôi mắt Trà My sáng lên như định thốt ra lời gì, nhưng dường như lại có điều thắc mắc thêm, bèn nhìn Xuân Mai hỏi tỉnh rụi:
- Họ Lê, đời thứ ba hả? Mà tiền Lê hay hậu Lê? Giờ đang là triều đại của Lê Long Đĩnh hay Lê Bang Cơ vậy?
Nghe xong câu nói của Trà My, Xuân Mai mặt xanh như tàu lá hốt hoảng nhào tới đưa tay bịt miệng vị tiểu thư to gan rồi nói khẽ:
- Trời ơi sao cô lại dám gọi tên huý của bệ hạ nếu ai nghe thấy là mắc phải tội chết đấy! Bây giờ là thiên hạ do Lê Thái Tổ Lê Lợi lập nên..
Nghe thấy hai chữ "Lê Lợi" thì Trà My liền reo lên:
- À! Đời thứ ba nhà hậu Lê, Lê Bang Cơ đúng không?
Xuân Mai đến là bất lực với lá gan to bằng trời của Trà My, cô bé khổ sở xua tay lắc đầu nguầy nguậy:
- Trời ơi, đại tiểu thư ơi cô chán sống rồi sao? Xin cô đừng gọi húy danh của bệ hạ nữa!
Trà My rụt đầu thè lưỡi, im lặng được một lúc thì lại trêu chọc Xuân Mai:
- Thì em cũng vừa gọi tên húy của Lê Thái Tổ đấy thôi! Cái tên thôi mà căng dữ vậy sao?
Xuân Mai tất nhiên không hiểu được người hiện đại không hề sợ vua chúa, nàng ta nghe Trà My nhắc thì liền lấy tay bịt miệng mình, mắt liếc ngang dọc như sợ ai nghe thấy.
Trà My thấy vẻ mặt sợ hãi của cô bé nên tội nghiệp và tha cho, đoạn cười xòa ra chiều ngoan ngoãn:
- Rồi ô kê không nói tên của thánh thượng nữa! Nhưng mà.. vị đại nhân tối qua ấy, à.. "cha" ta ấy, người tên là gì thì có nói ra được không?
Tiếng "cha" thốt ra từ miệng mình mà Trà My còn thấy hơi sống sượng nên nói xong liền tằng hắng mấy cái cho đỡ ngại, cô đang hướng mắt về phía Xuân Mai chờ đợi câu trả lời, thì một giọng nói nhẹ nhàng từ ngoài cửa phòng vọng đến:
- Là Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung đại nhân, thưa đại tiểu thư của tôi!
Một người con gái dáng vẻ mảnh mai bước vào, nàng có dung mạo đoan trang sáng sủa, lại ăn mặc trên người lụa là gấm vóc, thoạt nhìn Trà My đoán đó chính là nhị tiểu thư Thu Hằng mà Xuân Mai đã nhắc đến. Nàng bước đến ngồi xuống bên cạnh Trà My, đưa tay lên trán cô sờ thử rồi than thở:
- Đại tiểu thư của ta, đang yên đang lành sao lại ra nông nỗi này!
Trà My nhìn nàng một lúc rồi quay sang Xuân Mai hỏi:
- Nếu ta đoán không lầm thì đây là em gái song sinh của ta, Thu Hằng có đúng không?
Xuân Mai gật đầu xác nhận.
Thu Hằng nhìn Trà My với ánh mắt ngờ vực, như không tin rằng một người đang bình thường sao có thể mất đi hết ký ức được. Nàng ta bèn hỏi một câu để thử chị gái:
- Là chàng đã cứu chị đưa về đây, khi khoẻ lại chúng ta sẽ cùng đến đa tạ chàng!
Trà My ngơ ngác:
- Chàng nào?
Thu Hằng hết sức bất ngờ trước câu trả lời của chị. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu khiếnnàng thầm mong cho Thu Đào đúng thật là đã vì bạo bệnh mà mất đi ký ức, mãi mãi cũng đừng nhớ lại chuyện cũ.
Vì vậy, Thu Hằng chỉ kể một cách sơ sài:
- À, chúng ta có một người bằng hữu cùng nhau lớn lên, chàng và chị em ta học cùng một thầy, có lẽ vài hôm nữa chị sẽ có dịp gặp chàng!
Trà My gật đầu thay lời đáp, nhưng trong lòng lúc này đang nghĩ về đại thần Nguyễn Đức Trung. Phút chốc Trà My nhận ra mình đang có cơ duyên kỳ ngộ, bằng một cách thần kỳ nào đó lại đường đường là vị tiểu thư con của một đại thần nổi tiếng trong lịch sử. Nếu tiếp cận được đại thần Nguyễn Đức Trung, cô sẽ có cơ hội tìm hiểu lễ nghi cung đình và vô số điều hay ho khác của thời phong kiến, thậm chí sẽ tìm ra đáp án cho những bí ẩn lịch sử mà đến sáu trăm năm sau - thời đại của Trà My- các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn chưa tìm ra đáp án. Cô phấn khởi nghĩ thầm:
- Phải nhanh chóng lên kế hoạch tiếp cận "cha" nhanh thôi, chỉ cần xin được chữ do chính tay ông viết thì ở năm 2022 nó sẽ là cổ vật vô giá, không khéo mình sẽ giàu to!
Còn về Thu Hằng, nàng nhìn người chị mới mẻ đang ngồi trước mắt mà không khỏi ngờ vực:
- Chị đã thật sự quên chàng sao? Phải chăng đây là cơ hội để mình tranh thủ chiếm lại tình cảm của chàng?
* * *Hết chương 2----
Chú thích:
(*) Chùa Thánh Chúa là nơi vua Lý Thánh Tông cầu tự sinh được Lý Nhân Tông. Vào triều hậu Lê thì vua Lê Thánh Tông ở để tu hành và lánh nạn trong cuộc chiến tranh đoạt ngôi vua.
(*) Huy Văn Tự: Tên của Chùa Thánh Chúa dưới thời Lê
(*) Ngô Tiệp Dư: Bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Dao của Lê Thái Tông, từng được Nguyễn Trãi giúp đỡ thoát khỏi mưu hại của bà Thần Phi Nguyễn Thị Anh (Tức Tuyên Từ Thái Hậu), sau được sắp xếp sống tại chùa Huy Văn để lánh nạn và hạ sinh hoàng tử Lê Tư Thành (Tức Lê Thánh Tông sau này) tại đây.
(*) Cổng tam quan: Kiểu thiết kế cổng có ba cửa, cửa lớn nhất ở giữa, hai cổng phụ nhỏ ở hai bên.
(*) Điện Tiền Chỉ Huy Sứ: Chức tổng chỉ huy quân vệ binh của nhà vua. Lúc bấy giờ do đại thần Nguyễn Đức Trung đảm nhiệm.
Quan đại thần Nguyễn Đức Trung trở về phủ sau buổi chầu sáng. Thay y phục xong ngài ngồi uống trà tại thư phòng. Thu Đào đứng nấp ngoài cửa, trộm nhìn vị quan đại thần có công lớn với đất nước được sử sách lưu danh, cô bồi hồi xúc động, làm sao cô dám tin ở nơi đây, vào lúc này, con người ấy lại chính là cha ruột của mình.
Nghe ngoài cửa có tiếng động, Nguyễn Đức Trung nhìn ra cười hiền từ:
- Thu Đào, con vào đây cho cha xem! Con đã khoẻ chưa?
Thu Đào rụt rè bước vào, tim đánh trống trong lồng ngực. Nguyễn đại nhân nhìn con gái ánh mắt chất chứa nỗi lo lắng:
- Con vẫn không nhớ ra gì sao? Sao con lại sợ cha như người xa lạ vậy?
Thu Đào cảm động trước người cha hiền từ. Nàng ái ngại lắm vì mình vốn không phải là Thu Đào, biết nói sao đây để ông chấp nhận con gái mình đã chết, Thu Đào bây giờ thật ra là Trần Trà My đến từ năm 2022. Ôi thật điên rồ làm sao?
Nhưng trước mắt, nàng chỉ biết sống cuộc đời tiếp theo của Thu Đào, mọi chuyện đành tuỳ cơ ứng biến. Thu Đào nhìn cha trấn an:
- Cha đừng lo, con vẫn đang khoẻ mạnh đây. Có thể một thời gian sau con sẽ từ từ nhớ lại!
Nguyễn đại nhân xoa đầu đứa con gái tội nghiệp, ông chẳng còn biết nói gì.
Lúc đó, bác Ký - lão quản gia trong phủ bước vào, chấp tay trước ngực vái chào Nguyễn Đại nhân rồi thưa:
- Bẩm đại nhân, Ngô phu nhân và công tử đến, đang chờ ở phòng khách!
Nói xong bác Ký có ghé sát vào tai Nguyễn đại nhân để nói nhỏ vài điều.
Nghe xong, Nguyễn Đức Trung đại nhân đưa mắt sang nhìn Thu Đào một lần, rồi dặn dò bác quản gia:
- Đi báo với Ngô phu nhân ta sẽ ra ngay!
Bác quản gia vừa đi khỏi, Nguyễn đại nhân nói với Thu Đào:
- Con cứ về phòng, nếu cần cha sẽ gọi ra để gặp Ngô phu nhân một lúc, cho nên con đừng đi đâu xa đấy!
Thu Đào "dạ" một tiếng rồi về phòng theo lời cha dặn.
Phủ đệ của một vị quan đại thần đúng là có khác, rộng lớn khoảng ba hecta nếu tính theo đơn vị đo lường thời hiện đại. Thu Đào vừa đi vừa ngắm nhìn không chán mắt. Quả đúng là văn hóa thời kỳ này ưa chuộng lối kiến trúc tứ hợp viện, xây theo hình chữ nhật, cổng vào ở phía trước, hai cạnh dài trái và phải của hình chữ nhật là hai dãy phòng ở của gia chủ, phòng sách, phòng của gia nhân, nhà kho vv.. Giữa lòng hình chữ nhật là một hồ nhỏ do gia chủ cố ý tạo ra để trồng sen, nuôi cá cảnh. Ven bờ hồ còn có ba gốc dương liễu to, cành liễu thướt tha rủ xuống như những bức rèm trên mặt nước. Phía sau khu nhà hình chữ nhật còn có một vườn hoa nhỏ và đình hóng mát, vài ngày trước Thu Đào và Thu Hằng đã ngồi đó trò chuyện. Trời nắng dịu, đứng dưới gốc dương liễu ngắm hoa sen đang nở thật không có gì thích thú bằng. Nhìn quanh không có ai, Thu Đào hít một hơi sâu và vươn vai một cái thật dài, cô nhắm mắt, ngửa mặt lên trời, hai tay dang rộng ra như muốn ôm lấy cảnh vật xinh tươi trước mặt.
Gió mát ở đâu thổi đến mang theo hương hoa hồng thoang thoảng, cái mùi hương tuy lạ mà quen cứ vấn vương bên mũi buộc Thu Đào phải mở mắt ra để tìm nguồn gốc của nó. Ở bờ bên kia bờ hồ, một chàng trai trong chiếc áo giao lĩnh màu xanh da trời, dây đai màu xanh đậm hơn một tí quấn ngang thắt lưng, ống tay áo rộng vừa phải gặp cơn gió luồng vào nên căng phồng lên mà lả lướt quanh cánh tay, quán kích (*) trên búi tóc cũng màu xanh nhạt trông rất hài hòa. Nụ cười của chàng rất đẹp, vừa đẹp vừa thân thuộc đến nao lòng làm Thu Đào phải cố lục tìm trong trí nhớ xem đã gặp chàng ở đâu.
Thu Đào cứ thế đứng ngây ngốc mà nhìn. Từ phía xa, chàng trai cũng cảm nhận được mình đang bị ánh mắt ai đó xoáy vào nên hướng về phía Thu Đào mà nhìn lại. Từng bước, từng bước, chàng tiến về phía Thu Đào, hương hoa hồng và gương mặt sáng ngời cứ thế mỗi lúc một rõ dần, rồi hiện ra ngay trước mắt Thu Đào. Chàng trai cất giọng bắt chuyện:
- Chào tiểu thư, xin hỏi sảnh điện của phủ Điện Tiền ở đâu?
Thu Đào mãi mê ngắm nghía đôi mắt to hút hồn và cái sóng mũi cao thẳng tắp nên bị câu hỏi làm giật mình, nàng nhìn người con trai lạ mặt từ đầu tới chân một lượt rồi ngập ngừng hỏi:
- Người là ai, đến phủ nhà ta mà không biết đường đến sảnh điện à?
Chàng trai bị hỏi ngược lại thì ánh mắt khẽ động, suy nghĩ vài giây rồi trả lời:
- À, ta là Lê Tuấn, em họ của Lê Hạo công tử ở chùa Huy Văn, cũng là thị vệ bên cạnh bệ hạ. Hôm nay được lệnh đến thăm phủ Điện Tiền cùng anh họ. Lúc bước vào thấy phủ đệ khang trang nên định đi dạo một vòng rồi mới đến sảnh điện, không may bị lạc nên chưa đến sảnh điện gặp Nguyễn đại nhân được, thất lễ với quý phủ rồi!
Nói xong, chàng trai mím môi đưa mắt nhìn chỗ khác như thể đang cố để không bật cười. Thu Đào thấy biểu cảm lạ lùng nên giật thót tự nhìn lại mình. Ôi cha mẹ ơi, con gái con đứa đứng giữa đường giữa sá mà hai thì chống nạnh, chân thì không thể nào dạng rộng hơn được nữa, lại còn trơ trơ mắt ra mà nói chuyện với con trai nhà người ta nãy giờ. Thu Đào hơi ngượng nên vội chấn chỉnh lại tư thế, xong còn xếp hai tay trước bụng nghiêng nhẹ người một góc bốn mươi lắm độ cuối chào, theo cái cách mấy hôm nay nàng thấy những người ở đây hay làm, nhưng nó vụn về đến buồn cười, xong bèn khom người đưa tay hướng về sảnh điện nói:
- À, à, không cần khách khí. Sảnh điện bên này!
Chàng trai gật đầu cười hiền, chàng lướt nhẹ ánh mắt lên trang phục trên người Thu Đào, vừa đi bên cạnh nàng vừa hỏi thăm bắt chuyện:
- Xin hỏi, nàng có phải là đại tiểu thư Thu Đào của Nguyễn đại nhân không?
Thu Đào hơi khựng lại một chút vì vẫn chưa quen với thân phận mới của mình, nàng chớp chớp mắt để nhớ lại rồi trả lời:
- Đúng rồi!
Trong khoảnh khắc chợt nghĩ ra điều gì đó, Thu Đào cười híp đôi mắt hí hửng hỏi:
- Ngươi là thị vệ của vua đó hả? Là kiểu trong phim hay gọi là "ngự tiền thị vệ" đó đúng không?
Lê Tuấn nghe xong thì bước chân chậm lại, chàng nhẹ nhàng gật đầu đáp:
- Ngự tiền thị vệ thì đúng rồi. Còn "phi.. im" là..
Không để chàng kịp nói hết câu, Thu Đào đã vỗ tay đôm đốp nói như reo:
- Ngự tiền thị vệ! Oai phong ghê ta, như vậy thì ngươi chắc giỏi võ lắm. Ta muốn xem ngươi đánh vài chiêu.
Rồi như sợ Lê Tuấn không đồng ý, Thu Đào huých chỏ vào cánh tay chàng ra oai:
- Ta là đại tiểu thư của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, ngươi là thị vệ, vậy ai lớn chức hơn ai?
Lê Tuấn nghe xong khóe môi hơi cong lên một chút, trong cổ họng phát ra tiếng cười nho nhỏ:
- Hà hà, ừ thì tiểu thư con nhà quan vai vế phải lớn hơn thị vệ rồi!
Thu Đào lúc này yên tâm về thân phận vượt trội của mình nên vỗ vỗ vào vai Lê Tuấn nói tiếp:
- Vậy thì ngươi làm theo lệnh đánh thử vài chiêu cho ta xem võ nghệ của người Việt cổ với, xong việc ta xin tiền cha thưởng thật hậu hĩnh, chịu không?
Lê Tuấn ngẩng người, nụ cười méo xệch hiển hiện trên gương mặt. Chàng chưa biết phải trả lời thế nào thì có tiếng bước chân hấp tấp bước tới làm cả hai phải ngoái nhìn. Nguyễn Đức Trung cùng hai ba người nữa đang vội vã chạy đến chỗ Lê Tuấn và Thu Đào đang đứng trò chuyện. Trong thoáng chốc, Lê Tuấn liếc mắt sang thì thấy Thu Đào đang mãi nhìn về hướng cha, chàng chớp thời cơ đưa ngón tay lên miệng ra hiệu "suỵt" cho những người trước mặt.
Còn Thu Đào, lúc thấy cha mình cùng hai người nữa đi đến thì nàng liền đứng yên như trời trồng, da gà da vịt nổi khắp người vì cảm thấy chấn động trong lòng. Bên cạnh Nguyễn Đức Trung lúc này chính là dáng hình yêu thương ấy, chính là gương mặt khiến trái tim nàng khôn nguôi đau đớn suốt thời gian qua. Vẫn là anh, vẫn là nét lạnh lùng kiêu hãnh của một chàng trai phong độ tài năng. Chỉ có điều, với trang phục cổ trên người, nhìn anh có thêm cả khí chất uy nghi cao quý nữa.
- Cái quái quỷ gì đây trời? – Thu Đào tự hỏi.
Kỳ lạ hơn nữa là chàng trai ấy cũng đang nhìn Thu Đào với ánh mắt chứa đựng thâm tình, như thể chính là.. anh, như thể anh đã cùng Trà My lạc về thời không này!
Người đứng giữa Nguyễn Đức Trung và một người phụ nữ ăn mặt chỉn chu sang trọng, là một người con trai.. nếu xét về ngoại hình thì đó là Sỹ Thành, người bạn trai mới chia tay với Trà My một tháng trước. Chàng trai giống Sỹ Thành như đúc cất tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của Thu Đào:
- Nàng đã khoẻ chưa?
Như đang đứng trước mối tình đầu đầy chua xót, Thu Đào bị cảm giác bất ngờ cộng với nghẹn ngào u uất bủa vây nên cứ đứng yên như tượng. Mãi một lúc sau mới lấy lại bĩnh tĩnh, hành lễ chào rồi thưa:
- Ta vẫn khoẻ mạnh, đa tạ công tử có lời hỏi thăm!
Chàng lại nói tiếp:
- Nàng hãy điều dưỡng cho tốt để còn cùng chúng ta học cưỡi ngựa bắn cung, nàng đâu dễ dàng chịu thua chúng ta đúng không?
Tạm bỏ qua điều kỳ lạ rằng tại sao chàng trai này lại giống Sỹ Thành như đúc, Thu Đào bị câu nói của chàng làm cho ngạc nhiên tiếp lần thứ hai, nàng tự hỏi:
- Cái cô tiểu thư Thu Đào này sao thích toàn những trò đàn ông vậy ta?
Rồi ngập ngừng trả lời:
- Ta.. không biết mấy cái này, sao mà so tài gì được?
Chàng tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn Nguyễn Đức Trung như cần một lời giải thích. Nguyễn Đức Trung cũng chỉ đành thở dài xác nhận:
- Quả thật sau khi tỉnh lại Thu Đào đã không còn nhớ gì, cứ như một người khác vậy!
Nói xong, Nguyễn Đức Trung mặt mày lấm lét nhìn Lê Tuấn một lần rồi hỏi con gái:
- Thu Đào, từ nãy đến giờ con không có thất lễ với.. với công tử đây đó chứ?
Nghe cha hỏi, Thu Đào cong môi phân trần:
- Đâu có! Con còn đang chỉ đường cho thị vệ này vào tìm cha nữa đó.
Nguyễn Đức Trung mặt tái như xác chết, lắp bắp:
- Cái gì, thị vệ?
Lê Tuấn nhanh chóng chen vào:
- Phải! Mạt tướng là Lê Tuấn, thị vệ của bệ hạ, Nguyễn đại nhân chưa gặp mạt tướng nên chưa biết.
Nói xong chàng liền nháy mắt ra hiệu cho chàng trai có gương mặt giống Sỹ Thành. Hiểu ý anh, chàng ta bèn giải thích thêm:
- Đây là Lê Tuấn, em họ của ta. Mãi hôm nay mới có dịp ra mắt Nguyễn đại nhân.
Nguyễn Đức Trung lau mồ hôi đang rịn ra trên trán, ấp úng chấp tay vái chào Lê Tuấn bằng giọng sượng sùng:
- Xin.. xin chào Lê công tử!
Lê Tuấn theo lễ nghĩa giữa quan lại với nhau cũng khóm người vái chào lại, Nguyễn Đức Trung nhận xong cái "vái chào" đó thì cả loạng choạng đứng không vững, mặt mày trắng bệch như gặp ma. Thu Đào đỡ cha rồi hỏi:
- Cha có sao không? Sao tự nhiên lại té lên té xuống như vậy? Cha bị chứng tăng huyết áp của người già hả?
Nguyễn Đức Trung vì sợ thất lễ nên hai tai cứ ù ù cạc cạc, không còn hơi sức mà nghe những lời quái đản của Thu Đào. Ông chỉ nhíu mày nhắc nhở con:
- Con gái nhà quan, gặp người ngoài con nên hành xử cho đoan trang, biết chưa?
Lê Tuấn biết Nguyễn Đức Trung đang lo lắng điều gì, chàng mỉm cười kín đáo rồi trấn an:
- Tiểu thư còn nhỏ tuổi lại ít gặp quan lại triều đình, Nguyễn Đại Nhân cứ yên tâm, mạt tướng không hề gì!
Nguyễn Đức Trung lại chấp tay vái lấy vái để, nói:
- Con gái ta có điều gì chưa phải phép mong công tử bỏ quá cho!
Thu Đào chép miệng liếc nhìn cha vẻ bất mãn. Không hiểu sao mà mấy người thời phong kiến này lại quá quan trọng lễ nghĩa tới như vậy. Hở chút là quỳ, hở chút là bái, nhìn thôi cũng muốn rối loạn tiền đình rồi.
Đang làu bàu trong lòng vì cảm thấy phiền hà với những lễ nghi quá mức trang trọng này, Thu Đào chợt nghe mặt nóng hừng hừng vì cảm nhận được ánh nhìn ai đó đang dán chặt trên người mình. Nàng theo linh cảm ngẩng đầu lên thì đúng là chàng trai có gương mặt giống Sỹ Thành đúng là đang nhìn nàng chầm chập. Hệt như cảm giác bị Sỹ Thành nhìn, Thu Đào nhanh chóng nhìn qua chỗ khác để tránh va chạm ánh mắt với chàng.
Gió mùa hè lướt qua làm mấy sợi tóc mai nghịch ngợm bám riết vào khuôn mặt bầu bĩnh, Thu Đào đưa tay vuốt lấy vuốt để hòng che giấu vẻ ngượng ngùng. Lúc ấy, người đó tự dưng lại dời bước hướng về phía Thu Đào mà đi làm trống ngực nàng cứ vỗ thình thịch liên hồi. Nàng không ngừng tự hỏi:
- Chết rồi, muốn làm gì đây trời? Nhìn thì giống lắm nhưng mà hình như không phải là Sỹ Thành! Làm sao đây, làm sao đây?
Đang hoang mang không biết phải làm gì tiếp theo thì người phụ nữ nãy giờ vẫn đứng yên bèn vỗ vào vai chàng trai ấy và cất lời:
- Hôm nay Lê thị vệ đến tìm Nguyễn đại nhân chắc là có việc cần. Ta mau đến sảnh điện đi thôi!
Chàng nhìn mẹ, đôi môi mấp máy như muốn nói thêm điều gì nhưng đã bị cái lắc đầu của bà ngăn lại.
Đúng lúc, Lê Tuấn rút trong ống tay áo ra một cái hộp hình trụ như ống tre, bọc xung quanh bằng loại vải màu vàng thêu rồng kim tuyến lấp lánh, chàng nói:
- Phải, bệ hạ có chiếu thư muốn ta giao tận tay cho Nguyễn Đại Nhân!
Nguyễn Đức Trung vội vàng đỡ lấy chiếu thư, đoạn ông dặn dò Thu Đào ngoan ngoãn trở về phòng rồi cùng Lê Tuấn cùng hai người kia đi đến sảnh điện.
Thu Đào lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy chiếu thư của vua nên rất tò mò, hai mắt cứ dán chặt vào đó, trong đầu thì nghĩ mọi cách để "mượn xem cho biết".
Sau khi vái chào cha và khách, Thu Đào đứng lại nhìn bóng lưng họ bước dần về phía xa. Đi được một lúc, chàng trai giống Sỹ Thành quay đầu lại nhìn nàng, khoảnh khắc bốn mắt chạm nhau ấy làm Thu Đào nhớ ra một việc, nàng réo thầm trong tâm tưởng:
- Úi trời, sao mình lại quên hỏi tên người đó mất rồi!
* * *
Lại nói về duyên cớ vì sao Lê Tuấn lại chú ý đến đại tiểu thư Thu Đào - Con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung. Mùa Xuân năm 1456, nhận thấy Bang Cơ đã mười sáu tuổi, cũng là lúc nên lập hậu phi, sớm có hoàng tôn để Đông cung có chủ, tránh được những tranh đấu đẫm máu như thời Lê Thái Tông, Tuyên Từ thái hậu hối thúc nhà vua sớm lập hoàng hậu, hay ít nhất cũng là nạp vài cung tần. Lúc đó, các quan lại và hoàng thân quốc thích tranh nhau tiến cử khuê nữ của mình cho hoàng đế. Nguyễn Đức Trung đại nhân cũng không ngoại lệ, ngài luôn rất tự hào có hai vị tiểu thư xinh đẹp tài năng, nay có cơ hội giúp con gái bay lên cao thành phượng hoàng, lại rất có lợi cho quan lộ, vì vậy đã cho vẽ chân dung của Thu Hằng và Thu Đào mang đến Nội Phủ Giám (*) ứng tuyển.
Lê Nhân Tông lúc đó nổi tiếng là vị vua cần chính (*), lại chưa phải lòng nữ nhi nào nên không quá để tâm việc tuyển tú, chỉ mặc cho thái hậu sắp đặt. Thái giám thân cận Đào Biểu cũng mong hoàng đế sớm có cung phi hầu hạ nên hết lòng thúc giục. Một đêm nọ, Đào Biểu ôm hơn mười bức tranh chân dung các tiểu thư con nhà quan lại đến, khẩn khoản mong nhà vua dành chút thời gian xem qua. Nhưng trong lúc bận rộn phê duyệt tấu chương, Nhân Tông đã quên mất, bỏ mặc Đào Biểu đứng ngủ gật bên cạnh, trong lúc mơ màng Đào Biểu đã đánh rơi một bức tranh trúng ngay đầu vua, bèn hốt hoảng quỳ xuống xin tội. Vốn là vị vua nhân từ luôn xem thái giám thân cận là bậc cha anh, chàng chỉ cười hiền từ, nhặt bức tranh lên thuận tay để lên bàn, xong lệnh cho Đào Biểu:
- Đào công công, Trẫm biết ngươi muốn tốt cho Trẫm, nhưng đã khuya rồi, cho phép ngươi về nghỉ ngơi, cứ để các bức họa lại đây. Trẫm hứa với ngươi sẽ xem hết trong vòng ba ngày!
Đào Biểu vui mừng lạy tạ:
- Đạ hoàng thượng ân điển, chỉ cần người mau chóng lập cung tần là thái hậu và thần sẽ hết sức vui mừng!
Đào Biểu khấu đầu rồi lui ra. Nhân Tông lắc đầu cười thay cho thái hậu và Đào Biểu, lúc nào cũng nghĩ việc mau chóng có hoàng tôn.
Khoảng giờ Sửu (*), nến sắp tàn chỉ còn ánh sáng yếu ớt.
Một cơn gió lạnh thổi vào làm tắt đi vài ngọn nến.
Căn phòng chìm vào bóng tối mờ ảo.
Lê Nhân Tông thấy mình đang đứng trong một vườn hoa nhỏ, tay cầm chiếc ô đứng nhìn về cửa sổ của một căn phòng. Một mỹ nhân đang ngồi trong đó, ánh mắt hướng về chàng mỉm cười, bất giác chàng nhận ra đây chính là nữ tử kiếp này mình sẽ hết lòng thương yêu, bèn vui mừng nói:
- Ta đợi nàng đủ lâu rồi đấy!
Bổng nhiên Đào Biểu xuất hiện sau lưng, vỗ vào vai chàng nói:
- Hoàng thượng, đã đến giờ Dần (*), mời hoàng thượng tỉnh dậy chuẩn bị thượng triều!
Nhân Tông mở choàng mắt tỉnh dậy, hóa ra là một giấc mơ.. Nhưng lạ thay, thấy Đào Biểu mỉm cười nhìn xuống bàn nên chàng mới nhìn lại. Bức tranh vẽ Thu Đào - Người con gái trong giấc mơ của chàng - đang mở ra đặt ngay ngắn trên bàn, và có lẽ chàng đã gục đầu ngủ trên bức tranh ấy cả đêm qua.
* * *Hết chương 3----
Chú thích:
1. (*) Quán kích: Chiếc mũ nhỏ dùng đội trên búi tóc của nam giới thời nhà Lê.
2. (*) Tư nghiệp: Chức vụ như hiệu phó của một trường học.
3. (*) Cần chính: Chỉ một vị vua chăm lo việc nước.
Thu Đào ngồi trong phòng sách cùng Thu Hằng và Nguyễn đại nhân, nàng lật hết trang này đến đến trang khác nhưng chỉ đọc được bập bẹ vài chữ làm cha và chị gái vừa ngạc nhiên vừa tiếc nuối cho văn tài trước đây. Thu Đào cũng "bất lực" tự trách bản thân lúc trước học tiếng Hoa không chịu học chữ phồn thể, để bây giờ trở thành kẻ "mù chữ". Cô đấm ngực tự nghĩ:
- Thời này làm gì đã có chữ giản thể (*), biết trước thì mình đã chăm chỉ học chữ phồn (*) hơn rồi!
Thu Đào thở dài nhìn cha:
- Trước đây con giỏi chữ lắm sao?
Nguyễn đại nhân gật đầu:
- Nữ nhi của các quan đại thần chỉ có hai chị em con được cho học cùng với ba vị hoàng tử, con lúc trước tài học không kém nam nhi đâu!
Thu Đào nhìn sang em gái:
- Lợi hại dữ vậy sao?
Thu Hằng cũng gật đầu:
- Em cũng nhờ chị mới được học ở Quốc Tử Giám, chị rất được Tư Nghiệp đại nhân khen ngợi, nên đã xin Hoàng Thượng và Thái Hậu đặc cách cho chị em ta đó!
Thu Đào chớp mắt tò mò:
- Ngô Tư Nghiệp là ai?
Thu Hằng đáp:
- Là người thầy đã dạy chữ cho chúng ta từ nhỏ, Ngô Sĩ Liên đại nhân chứ còn ai?
Nghe đến Ngô Sĩ Liên thì Thu Đào há hốc mồm không nói nên lời.
Cô tiểu thư Thu Đào này đúng là quá lợi hại, bậc danh nhân như sử gia Ngô Sĩ Liên lại là thầy dạy chữ của cô ta! Thu Đào thích thú tự nhủ:
- Vậy là từ đây ta chính là học trò của Ngô Sĩ Liên sao? Trời ơi, quá ngầu! Trà My ơi mày thật là "không phải dạng vừa!"
Nguyễn Đức Trung vuốt râu gật gù như vẫn còn chìm đắm trong niềm tự hào về đứa con gái tài giỏi. Nhưng thực tại lại kéo ông về ngay, ông nhìn Thu Đào tiếc nuối:
- Phận nữ nhi mà lại có văn tài võ lược, triều ta chỉ có con, vậy mà bây giờ con lại quên hết chữ nghĩa, võ nghệ lại càng không biết! Thật sự là đáng tiếc!
Chưa vui được bao lâu, Thu Đào đã phải cuối đầu hổ thẹn:
- Con xin lỗi!
Nguyễn đại nhân thông cảm xoa đầu con gái:
- Con vẫn bình an là cha vui rồi, nữ nhi không có tài thì trau dồi đức hạnh, không sao đâu con!
Xong ông nhìn sang Thu Hằng:
- Bệ hạ có chỉ gọi chị con đến học tiếp, thôi thì con cố gắng chỉ dẫn thêm cho Đào!
Thu Hằng gật đầu:
- Dạ, thưa cha!
Nguyễn Đức Trung quay lưng bước ra khỏi phòng.
Thu Hằng nhìn chị gái lật giở từng trang sách mà bật cười. Nàng biết vui mừng vì chị mình mất hết ký ức và tài năng là điều không tốt, nhưng bản tính con người vốn ích kỷ, từ nhỏ Thu Đào luôn vượt trội hơn nàng về nhan sắc, học vấn, Thu Đào còn thông minh khéo léo làm cho cha mẹ và ân sư là Tư Nghiệp Ngô Sĩ Liên yêu quý hơn. Thu Hằng tự cảm thấy mình chỉ luôn là cái bóng của chị gái. Bất kỳ nơi nào nàng xuất hiện một mình thì đều bị mọi người hỏi: Thu Đào đâu rồi? Thu Hằng đã lớn lên trong sự so sánh như thế, vì vậy nàng luôn siêng năng hơn, rèn giũa lễ nghi để có phong cách đoan trang hiền thục, mong sẽ phần nào bù đắp lại, để không quá lu mờ trước Thu Đào.
Nhưng dù sao chuyện mất hết ký ức sau trọng bệnh vẫn thật kỳ lạ, Thu Hằng đã nhiều lần cố ý thử, nhưng Thu Đào quả thật không nhớ gì, nàng luôn tự hỏi:
- Chị thật sự không còn nhớ chàng sao? Nếu gặp lại nhau thì hai người có tiếp tục phải lòng nhau không?
Về phần Thu Đào, từ lúc gặp Lê Hạo bên hồ thì không thôi suy nghĩ về chàng, về Sỹ Thành trong lòng nàng. Họ là hai người hay một người? Hay Lê Hạo chính là kiếp trước của Sỹ Thành giống như những câu chuyện luân hồi nàng đã đọc trong sách, hay họ vốn không liên quan gì nhau? Sao ánh mắt và thần thái của chàng cứ như chính là Sỹ Thành đã bị lạc về thời đại này cùng nàng vậy? Bao nhiêu câu hỏi không ngừng ám ảnh Thu Đào. Về "em gái" Thu Hằng thì lại là một sự ngạc nhiên khác, em gái ruột của nàng ở thời đại này lại có tên giống hệt với người bạn thân nhất tại thời hiện đại. Mọi chuyện cứ như có một bàn tay vô hình nào đó sắp đặt sẵn.
Đúng vậy, dù sao cũng không biết cách trở về năm 2022, nên trước mắt cứ xem như Thu Đào chính là tiền kiếp của Trà My, may mắn được quay về để sống lại kiếp này, nàng quyết định sống thật tốt để Trà My của sau này có hậu phúc. Còn nếu đây là một giấc mơ, khi tỉnh lại ít ra cũng đã có một giấc mơ thật tuyệt vời! Đấy là còn chưa nhắc đến việc Trà My lại được tiếp cận với những nhân vật lịch sử tiếng tăm lẫy lừng, đối với nàng thì chẳng còn gì hấp dẫn hơn được nữa!
Hai cô gái đang mãi mê theo đuổi ý nghĩ riêng của mình thì bỗng Nguyễn Đức Trung quay trở lại thư phòng, trên tay cầm thánh chỉ. Ông nhìn Thu Đào nói:
- Lúc trước cha đã định nói cho con biết, nhưng chưa biết bắt đầu thế nào thì đột nhiên con lại không may ngã xuống hồ Cẩm Lý rồi bệnh nặng.
Thu Hằng thấy thánh chỉ trên tay cha nên nóng lòng hỏi:
- Có thánh chỉ từ triều đình sao cha?
Nguyễn Đức Trung chậm rãi nhìn Thu Đào nói:
- Mùa thu năm nay bệ hạ tuyển tú, trước đây người có hỏi cha về Đào và tỏ ý muốn nạp làm cung tần. Quả nhiên hôm nay đã có thánh chỉ, con được tấn phong trực tiếp làm Lục Giai Mỹ Nhân, không cần phải bắt đầu từ cung nhân. Ân sủng này không phải ai cũng có, là phúc hay họa, sau này là tuỳ vào bản lĩnh của con đó!
Thu Đào vừa nghe xong thì đứng phắt dậy lên tiếng phản đối:
- Không, con không chịu đâu, con có quen biết gì bệ hạ đâu, tại sao chọn trúng con! Cha ơi con chưa muốn lấy chồng!
Nguyễn đại nhân mắt tròn xoe lập lại lời của Thu Đào, vì nàng trót dùng từ hiện đại:
- Lấy chồng?
Thu Đào chắt lưỡi giải thích:
- À là "thành thân, gả đi" đó cha, mà quan trọng là con không muốn, xin cha cứu con!
Nguyễn đại nhân tỏ ý không đồng tình, dạy dỗ con gái:
- Xưa nay việc chung thân đại sự nữ nhi làm sao có quyền quyết định, huống chi con được bậc minh quân chọn, là người khác thì đã mừng còn không kịp, con lại từ chối là thế nào? Ý cha đã quyết, con liệu mà cẩn trọng ngôn hành, không khéo cả họ ta mang đại tội khi quân!
Nói xong Nguyễn đại nhân bỏ đi, mặc cho Thu Đào gọi với theo:
- Cha ơi, cha!
* * *
Lê Hạo đứng chấp tay trước bàn thờ Phật tại chính điện của Huy Văn Tự. Ngô phu nhân đứng sau lưng chàng, chờ con trai lễ Phật xong mới mở lời:
- Con nghĩ sao về lời đề nghị hồi cung của hoàng thượng?
Chàng nhìn mẹ như muốn xem ý của bà thế nào. Ngô phu nhân nói tiếp:
- Mẹ con ta đã chọn ẩn thân cầu bình an, cả gia tộc của Nguyễn đại nhân bị liên luỵ mà mất cả mạng sống, chẳng lẽ nay con lại muốn dấn thân vào hang hổ, phụ công người đã khuất sao?
Chàng trầm ngâm một chút rồi trả lời mẹ bằng ánh mắt cương nghị:
- Thưa mẹ, Nguyễn đại nhân cứu mẹ con ta khỏi tay kẻ gian, không đơn giản là để giữ lại mạng sống. Bậc khai quốc công thần như Nguyễn đại nhân chắc chắn lòng mang nghĩa lớn, tất cả đều suy nghĩ cho đại cuộc. Con nghĩ trong lúc kẻ gian có ý đồ mưu phản, muốn khuấy động thái bình của giang sơn phụ hoàng để lại, con thân là hoàng tử sao có thể khoanh tay đứng nhìn. Huống hồ tam ca đối đãi thật lòng với con, nếu tham sống sợ chết làm con rùa rụt cổ, kiếp này con sẽ phụ ơn cứu mạng của Nguyễn đại nhân, hổ thẹn là con cháu hoàng tộc!
Ngô phu nhân chưa hết lo lắng:
- Mẹ biết ý con đã quyết không thể thay đổi được, chỉ mong con cương nhu đúng lúc, không nên sớm tỏ rõ chính kiến mà đắt tội với thế lực nào, mẹ chẳng mong vinh hoa phú quý, chỉ mong con một đời bình an!
Lê Hạo nắm tay mẹ nói thêm:
- Xin mẹ hãy yên tâm, con sẽ biết cân nhắc. Con hứa với mẹ mọi việc đều sẽ nghĩ cho tâm trạng của mẹ mà hành động.
Ngô phu nhân ôm con trai vào lòng:
- Nếu đã vậy, con đi đâu mẹ cũng đi theo! Con của mẹ không thẹn là con cháu của Thái Tổ Hoàng Đế!
* * *
Tại đình hóng mát bên hồ sen phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Nguyễn phu nhân ngồi cùng hai con gái, bà khuyên giải Thu Đào:
- Được hoàng thượng chọn tiến cung, lại còn được phúc lớn phong làm Mỹ Nhân, không cần bắt đầu từ một cung nhân bé nhỏ, tại sao con không đồng ý?
Thu Đào phân trần:
- Mẹ à, con biết nói ra suy nghĩ của mình thì cha mẹ khó lòng chấp nhận, nhưng con còn quá trẻ để thành thân, càng không muốn phải chung một phu quân với người khác. Hơn nữa con chưa từng quen biết hoàng thượng, làm sao có thể lấy người được?
Nguyễn phu nhân nghe con gái nói đến đâu thì há hốc miệng, mắt tròn mắt dẹt đến đấy, bà không hiểu nổi đứa con gái bà dốc lòng dạy dỗ mười lăm năm nay, thông hiểu lễ giáo con nhà quan lại có những suy nghĩ quái lạ như vậy. Bà cũng như Nguyễn đại nhân, rất phật lòng vì đứa con gái mang ý nghĩ kỳ lạ:
- Con nói gì lạ vậy, xưa nay chung thân đại sự đều do cha mẹ sắp đặt, không nhất thiết phải biết mặt phu quân trước. Phận nữ nhi thì chung một phu quân có gì là lạ, sao con dám nghĩ sẽ được một nam nhi nào chỉ cưới duy nhất một mình con? Ngày trước mẹ năm mười sáu tuổi đã sinh ra hai đứa, con năm nay đã mười lăm thì sao lại còn quá trẻ? Thôi, ý cha mẹ đã quyết, hơn nữa việc này còn liên quan đến con đường thăng quan tiến chức của cha con, con liệu mà suy nghĩ cho kỹ. Mẹ rất thương con, lẽ nào đẩy con vào chỗ không tốt?
Nguyễn phu nhân nhìn sang Thu Hằng đang lắng nghe nãy giờ, bà nói:
- Con hãy khuyên bảo cho chị thêm giúp mẹ!
Nói xong Nguyễn phu nhân đứng dậy rời đi. Thu Đào đứng lên nói với theo:
- Nhưng mẹ ơi!
Thu Hằng cầm tay chị khẽ lắc đầu ra hiệu đừng phí công vô ích.
Thu Đào ngồi phịch xuống, ngửa mặt lên trời khẽ than:
- Trời ơi cứu con! Sao tự nhiên con lại ở đây, rồi tự nhiên phải đi lấy ông vua, trong cung ba nghìn giai lệ, chẳng lẽ con lạc đến đây để rồi chết già trong cung hả trời?
Trong lòng Thu Đào thật sự bế tắc, vì nàng biết rõ Nhân Tông Lê Bang Cơ sẽ bị ám sát khi còn rất trẻ, số phận cung nhân mỹ nữ của ông ta chắc chắn rất bi thảm, không bị giết cũng sẽ bị bắt làm thê thiếp cho quân làm đảo chính. Nghĩ đến đây nàng chỉ còn biết thở dài, làm sao thoát khỏi cục diện này đây!
Thu Hằng nhìn vẻ mặt chán nản của chị gái cũng thấy tội nghiệp nên nắm tay khuyên nhủ:
- Hoàng Thượng hiện chưa có cung tần mỹ nữ nào bên cạnh, nếu chị vào cung cơ hội độc sủng xem như nằm trong tay, rạng danh gia tộc, chị nên vui mới phải chứ!
Thu Đào trợn tròn mắt:
- Trời ơi rạng danh đâu không thấy, chỉ thấy sẽ bị ở giá sớm, có nói em cũng không hiểu!
Xong Thu Đào ôm đầu gục xuống bất lực.
Thu Hằng ngạc nhiên:
- Ở.. giá!
Thu Đào ngẩng mặt lên trời ngán ngẩm than:
- Chán thật, bây giờ thì một câu nói đơn giản của mình cũng không ai hiểu!
Thu Hằng ra vẻ nghi ngờ:
- Hay là tuy chị quên hết mọi người nhưng vẫn nhớ chàng? Cho nên mới không muốn hầu hạ Hoàng Thượng?
- Chàng nào?
Thu Hằng nhíu mày một lúc rồi nói tiếp:
- Là người đã lớn lên cùng chị em ta, Lê Hạo! Là người hôm qua cùng Ngô phu nhân đến gặp cha đó!
Thu Đào nghe cái tên rất quen tai, dường như cô đã đọc được ở đâu đó, miệng lẩm bẩm:
- Lê Hạo.. nghe tên quen quen!
Xong lại nhìn em gái rồi e dè hỏi:
- Lúc trước chị đã thích người đó à? Người hôm qua đến nhà mình ấy?
Thu Hằng gật đầu rồi chậm rãi kể lại..
Từ nhỏ Lê Hạo đã cùng mẹ là Ngô phu nhân sinh sống tại chùa Huy Văn. Mặc dù là hoàng tử và Tiệp Dư của Thái Tông hoàng đế, nhưng hai mẹ con chàng đã chọn cách sống thanh nhàn nơi cửa Phật, tránh xa tranh đấu quyền lực chốn cung đình. Nguyễn Quốc Trung đại nhân lúc đó đã nhận uỷ thác của đại thần Nguyễn Trãi rằng hãy chăm sóc cho mẹ con Ngô Tiệp Dư, vì vậy từ nhỏ hai chị em cô rất thường xuyên theo cha tới lui chùa Huy Văn. Năm mười hai tuổi, có một lần Thu Đào được theo Nguyễn Đức Trung đến Quốc Tử Giám gặp Tiến Sĩ - Tư Nghiệp Ngô Sỉ Liên xử lý công vụ. Lúc đó Ngô Tư Nghiệp đang dạy học cho ba vị hoàng tử: Nghi Dân, Khắc Xương, Lê Hạo, và có ra một câu đố chữ:
"Đất thì là đất bùn ao,
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay.
Con ai mà đứng ở đây,
Đứng thì chẳng đứng vịn ngay cây sào!"
Thu Đào đứng ở bên ngoài chờ cùng với cha cũng nghe được câu đố, tuổi nhỏ chưa hiểu chuyện nên khi nghĩ ra đáp án, tiểu cô nương chạy ngay đến bên cạnh Ngô Tư Nghiệp hớn hở thưa:
- Thu Đào biết, đó là chữ Hiếu (孝), Hiếu trong "Hiếu thuận"!
- Con gái của Nguyễn Đức Trung đại nhân quả nhiên thông minh hơn người!
Nguyễn đại nhân tuy có hơi ngại ngùng vì con gái chưa hiểu lễ nghĩa, nhưng cũng khó giấu được niềm tự hào trong ánh mắt:
- Con trẻ tuổi nhỏ chưa biết khiêm nhường, xin ba vị điện hạ và Ngô Tư Nghiệp bỏ qua cho!
Từ đó Ngô Tư Nghiệp rất chú ý đến Thu Đào, phần vì nàng là con gái của bằng hữu, phần vì cô bé thật sự thông minh lanh lợi, vì vậy đã xin phép triều đình đặt cách cho hai vị tiểu thư của Nguyễn Đức Trung đại nhân được đến Quốc Tử Giám học cùng ba vị hoàng tử. Lúc đó Tuyên Từ thái hậu vừa trao lại quyền lực cho Lê Nhân Tông, Nhân Tông vốn ưa chuộng nhân tài, tấm lòng lại độ lượng nhân đức nên chuẩn tấu cho hai chị em Thu Đào được đi học. Và cũng vì vậy hai chị em Thu Đào cùng Lê Hạo thường xuyên gặp gỡ, trao đổi văn chương chữ nghĩa, tình cảm giữa ba người cứ thế lớn dần theo năm tháng..
* * * Hết chương 4 ----
Chú thích:
1. (*) Chữ Hán phồn thể (繁體漢字/正體漢字) hay chữ Hán chính thể là một trong hai bộ chữ in tiêu chuẩn của tiếng Trung. Dạng chữ viết phồn thể hiện nay đã xuất hiện lần đầu cùng với các văn bản ghi chép thời nhà Hán và ổn định từ thế kỷ 5 trong thời Nam Bắc triều. (Tương đương cuối thời Văn Lang, đầu thời kỳ Âu Lạc của nước ta).
Hiện nay, chữ Phồn thể được dùng nhiều ở Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao.
2. (*) Chữ Hán giản thể(简体字)cũng như tên gọi của nó là đơn giản hóa. Được xúc tiến từ sau Thế Chiến thứ II bởi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. So với chữ phồn thể thì chữ giản thể đã lược đi nhiều nét phức tạp tinh vi để chữ viết đơn giản dễ học hơn. Chữ giản thể được dùng phổ biến ở Trung Quốc đại lục, Singapore, Malaysia hay trong các ấn phẩm giáo dục cho người nước ngoài.
Trở về phòng sau cuộc nói chuyện với Thu Hằng, Thu Đào thấy đầu óc mơ hồ, nhất thời chưa tiếp nhận nỗi "thân thế" quá lớn của Sỹ Thành phiên bản Lê Hạo này! Hèn gì nghe hai chữ "Lê Hạo" đã có cảm giác ngờ ngợ rồi. Hoàng tử Lê triều phải cùng mẹ đến chùa sinh sống từ nhỏ còn ai khác hơn ngoài Lê Thánh Tông!
Lúc này, Thu Đào triệt để tin tưởng rằng thật sự có luân hồi chuyển kiếp, chẳng trách Sỹ Thành của cô lại thành đạt khi tuổi đời còn rất trẻ, thần thái khí chất của anh cũng hơn hẳn người thường, và có lẽ Lê Hạo hiện tại chính là Sỹ Thành của sáu trăm năm sau. Và cũng vì cảm giác của nàng khi gặp Lê Hạo, trái tim cũng loạn nhịp như khi gặp Sỹ Thành vậy, vừa yêu vừa hận, nếu không phải cùng một người, không phải do nhân duyên truyền kiếp, thì lấy đâu ra linh cảm như thế này!
- Sỹ Thành, có phải là anh đấy không? Giữa chúng ta còn có thể nào không?
Thu Đào thiếp đi với bao nỗi niềm chất chứa.
* * *
Hôm nay là ngày đầu tiên Thu Đào trở lại lớp học sau khi khỏi bệnh. Đối với mọi người thì là "trở lại lớp học", nhưng với Thu Đào thì là "ngày đầu tiên đi học". Vốn rất háo hức xem lớp học của trường Quốc Tử Giám ra sao, trong lớp học thời tôn sùng nho giáo họ đã dạy các sĩ tử những gì vv, với Trà My - Thu Đào phiên bản lậu này thì đây là một việc vô cùng thú vị, có chết cũng phải đến xem thử.
Nhớ ra việc trọng đại này, Thu Đào lập tức ngồi dậy, làm tì nữ Xuân Mai vốn đang đứng chuẩn bị khăn lau mặt giật nảy người:
- Đại tiểu thư dậy rồi, cô làm em giật cả mình!
Thu Đào hào hứng trả lời:
- Tốt lắm! Thì ra osin ngày xưa chăm chỉ như vậy, mình không còn cần báo thức nữa! Mau, mang quần áo đến cho ta!
Nói xong Thu Đào bước nhanh đến đón lấy chiếc khăn nhúng vào nước lau mặt, và khoái chí cười phá lên khi thấy vẻ mặt cô hầu gái ngẩn ngơ nhẩm lại mớ từ vựng "trên trời" lần đầu được nghe:
- Ố sin.. báo thức gì?
Cô hầu gái mang đến một bộ quần áo được xông hương thơm ngát, lễ phép mời Thu Đào đến thay như một tháng nay cô ta vẫn làm. Nhưng hôm nay đặc biệt có nhiều phụ kiện kèm theo, nào là thắt lưng, áo trong áo ngoài, Thu Đào lay hoay mãi vẫn không biết cái nào nên mặc trước, cái nào nên mặc sau. Cô hầu gái che miệng cười rồi đón lấy bộ quần áo vừa giúp Thu Đào mặc vừa giải thích:
- Nói ra thì hôm nay là ngày đầu tiên cô ra khỏi phủ từ khi khỏi bệnh nhỉ, cô xem này, áo mặc trong thì mỏng và dài hơn, sắp vào Thu nên cô phải mặc thêm một lần áo lót cho ấm, rồi mới đến áo trong. Kiểu áo này thì cô thắt lưng xong mới đến mặc áo lụa bên ngoài..
Thu Đào thích thú lắm, cô chú ý nghe từng lời cô hầu gái hướng dẫn. Trang phục của quý tộc Hậu Lê hóa ra là thế này. Tuy hôm nay là đồng phục đi học, màu xanh da trời nhạt giản dị, nhưng chất liệu vãi rủ mềm, trông Thu Đào thật thướt tha tươi tắn.
Thu Đào ngắm mình trong chiếc gương đồng và mỉm cười thầm nghĩ:
- Thật ra nếu mình là con nhà tài phiệt ở thế kỷ 21 thì chắc mình cũng xếp vào hàng mỹ nhân như bây giờ cũng nên!
Cô hầu gái đứng kế bên buộc miệng khen:
- Đại tiểu thư nhà ta quả nhiên xinh đẹp! Từ lúc cô bệnh dậy em trông thần thái cô tuy có khác một chút, nhưng vẫn là cô trời sinh tướng mạo xinh đẹp!
Thu Đào vui trong lòng vỗ vai trêu đùa cô hầu gái bằng một câu mà cô biết chắc nghe xong em ấy sẽ lại ngẩn tò te lẩm bẩm lại "từ vựng" tiếp:
- Giỏi, để ta nói cha tăng lương cho!
Và quả nhiên Thu Đào đã bước ra khỏi phòng với nụ cười khoái chí vì bộ mặt ngẩn ngơ của cô hầu gái:
- Tăng.. lương?
* * *
Thu Hằng ngồi trước gương, cẩn thận căn dặn người hầu thắt chiếc nơ trên đầu ngay ngắn, kết bím tóc thật đều tay. Nàng còn tự tay kẻ mày lá liễu sao cho yểu điệu, dặm thêm phấn cho hai má ửng hồng. Hôm nay đối với nàng cũng là một ngày rất quan trọng, kể từ lúc Thu Đào ốm dậy thì xem như là lần đầu Thu Đào và nàng cùng xuất hiện trước mặt Lê Hạo. Nàng tự nhủ không được để thua kém Thu Đào lần nữa trong mắt chàng. Từ nhỏ tuy không được khen ngợi nhan sắc nhiều như Thu Đào, nhưng Thu Hằng cũng là một mỹ nhấn hiểu biết lễ nghĩa, đoan trang và có học vấn. Huống hồ Thu Đào của hiện tại cũng không còn văn võ song toàn như trước, Thu Hằng cũng vì vậy tự tin hơn trước rất nhiều. Nàng hài lòng ngắm mình trong gương lần nữa rồi cũng ra khỏi phòng.
* * *
Trong tẩm điện của Lê Nhân Tông hoàng đế.
Lê Tuấn đang vội vàng thay bộ đồng phục xanh lam của trường Quốc Tử Giám, thái giám thân cận Đào Biểu chỉnh sửa thắt lưng cho chàng và than:
- Hoàng thượng lo việc nước vất vả nhiều rồi, sao không tranh thủ nghỉ ngơi mà đến Quốc Tử Giám thị sát làm gì nữa?
Lê Tuấn thân mật như đang trả lời với người thân trong gia đình:
- Ta biết ngươi lo cho ta còn hơn cả mẫu hậu, nhưng ta cũng là vì tìm kiếm nhân tài cho triều đình thôi..
Từ ngoài cửa, giọng nói của Tuyên Từ thái hậu vang lên cắt ngang lời của Lê Tuấn:
- Tìm kiếm nhân tài hay tìm kiếm mỹ nhân về lập làm cung tần?
Thái Giám Đào Biểu chấp hay tay ngang đầu cúi chào:
- Đức Thái Hậu vạn phúc!
Nói xong bèn ý tứ cáo lui.
Lê Tuấn cúi chào mẹ:
- Mẫu hậu vạn phúc!
Tuyên Từ thái hậu hỏi Lê Tuấn:
- Gần đây hoàng thượng hay đến Huy Văn Tự gặp mẹ con Ngô Tiệp Dư đúng không, nếu tình cảm anh em đã tốt như vậy chi bằng đón hẳn về cung, dù sao cũng đường đường là hoàng tử và thái cung tần (*), ở bên ngoài lâu không tốt cho danh tiếng hoàng tộc.
Lê Tuấn vui mừng vì sau bao năm rốt cuộc thái hậu đã chấp nhận quên đi hiềm khích cũ, đồng ý đón hai mẹ con Ngô Tiệp Dư về cung, chàng chấp tay ngang đầu cảm tạ mẹ:
- Đa tạ mẫu hậu, nhi thần biết người vốn nhân từ, sẽ không nhớ chuyện cũ, ngày mai con lập tức truyền chỉ đón Ngô Tiệp Dư và tứ đệ về cung.
Tuyên Từ thái hậu xoa đầu Lê Tuấn:
- Con trai của ta lòng dạ lương thiện, nhưng con phải luôn có lòng đề phòng các huynh đệ, không phải ai cũng như con, hoàn toàn không mưu tính tranh đoạt ngôi vị!
Lê Tuấn nắm tay mẹ đảm bảo:
- Hiện nay đại cục đã định, ai muốn thay đổi cũng khó lòng phục chúng, huống hồ tứ đệ với con có tình thủ túc, tứ đệ nhất định không có lòng riêng, mẫu hậu cứ yên tâm!
Tuyên Từ thái hậu cười cho qua, rồi hỏi tiếp:
- Vậy còn vị mỹ nhân con định tấn phong thì sao? Khi nào cho mẹ gặp mặt đây!
- Mẫu hậu nhất định sẽ rất thích nàng, chính là đại tiểu thư của Nguyễn Đức Trung đại nhân, nhi thần tình cờ xem tranh vẽ nàng, nhưng dung nhan thật của nàng còn xinh đẹp hơn nhiều!
Thái hậu nhắc nhở con trai:
- Xưa nay hồng nhan họa thuỷ, con chớ nên quá si mê nhan sắc!
- Nhi thần cẩn tuân mẫu hậu giáo huấn!
Lê Tuấn chấp tay ngang đầu cuối chào Tuyên Từ thái hậu.
Lê Tuấn trong lòng phấn khởi, chàng bước thật nhanh chỉ mong mau chóng đến báo tin vui cho Lê Hạo.
Tuyên Từ thái hậu nhìn theo Lê Tuấn đến khi bóng chàng khuất sau tầng tầng lớp lớp những cánh cửa hoàng cung. Bà thầm nghĩ:
- Ở gần bên cũng tốt, ta dễ dàng đoán được tâm tư của mẹ con ả! Vì hoàng vị của con, mẹ bằng lòng đánh đổi tất cả!
* * *
Thu Đào và Thu Hằng cùng nhau bước vào cánh cổng ngôi trường nổi tiếng dưới thời Hậu Lê - "Quốc Tử Giám".
Vừa bước vào cổng trường, Thu Đào cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ tung ra vì phấn khích và hạnh phúc. Ai có thể ngờ một con người của năm 2022 lại có thể bước vào nơi đây, ngôi trường nổi tiếng đào tạo ra một thế hệ văn nhân tài năng của đất nước, những con người đã dựng nên trang sử vàng của dân tộc. Ôi, cuộc sống này thật vi diệu làm sao! Một tháng nay Thu Đào gần như không còn muốn quay về thời đại của mình bởi nơi này đã quá sức hấp dẫn, cô như con chim bé nhỏ trong lồng nhìn ra thế giới bên ngoài rộng lớn, vừa khát khao trãi nghiệm, vừa sợ sệt dè chừng.
Khuôn viên trường rộng lớn gấp đôi phủ đệ, gồm hai dãy phòng học hình chữ U lồng vào nhau theo thứ tự trong cùng là chữ U nhỏ, chữ U lớn ở ngoài và cuối cùng là lớp tường bằng gạch nung đỏ, sơn son thiếp vàng đúng theo phong cách triều đình thời đại này. Giữa sân trường có một cái trống da trâu rất to được sơn màu đỏ, nó được đặt dưới gốc cột cờ. Thu Đào vui mừng liền ngẫng đầu lên để chiêm ngưỡng ngay lá cờ của triều đại rực rỡ nhất lịch sử phong kiến Việt Nam. Lá cờ được may viền hình vây lưng rồng màu đỏ xung quanh hình chữ nhật màu vàng. Ở giữa lá cờ là một vòng tròn nền trắng viền đỏ có ghi chữ Hán tự 黎 (Lê). Thật may mắn làm sao, dù không biết nhiều chữ Hán phồn thể nhưng với khả năng tiếng Hoa trung cấp Thu Đào cũng nhìn ra chữ "Lê", thì ra chữ Hán tự phồn thể dù đã cách gần sáu trăm năm vẫn không khác biệt là mấy - Thu Đào thầm nghĩ và cười thõa mãn!
Sân trường đã bắt đầu đông đúc hẳn lên, trang phục học trò màu xanh lam phấp phới nơi nơi.. trời xanh, mây trắng, nắng vàng.. lá cờ Lê Triều tung bay trong gió! Cảm xúc hoài cổ dâng trào, Thu Đào có cảm giác mình đang trở về nơi thân thuộc sau rất rất rất nhiều năm, nàng chẳng thể hình dung cảm giác ấy là gì, chỉ biết reo thầm cho thõa niềm vui sướng:
- Tuyệt! Tuyệt diệu!
Bỗng một giọng nói quen thuộc, ấm áp phát ra ngay bên cạnh:
- Nhìn thần sắc nàng phấn khởi như vậy, được quay lại học chắc vui lắm đúng không?
Thu Đào quay lại nhìn, Lê Hạo nở nụ cười hiền hậu chào nàng. Ôi cha mẹ ơi, đứng trước mặt mình bây giờ không chỉ là người thương, mà còn là vị vua nổi tiếng của triều hậu Lê, làm sao có thể giữ bình tĩnh được đây? – Thu Đào bối rối vô cùng, trong lúc chưa biết nên nói gì thì Thu Hằng đứng bên cạnh ánh mắt sáng lên khi thấy người thương, liền bước đến chào hỏi ngay:
- Hôm nay chàng đến thật sớm, chắc hẳn chàng đã hoàn thành bức tranh Ngô Tư Nghiệp giao phó, có thể cho ta mượn xem không?
Lê Hạo rút trong tay nải (*) ra một bức tranh trao cho Thu Hằng và đáp với thái độ rất giữ lễ nghĩa:
- Mời nhị tiểu thư!
Trái ngược với sự giữ kẽ dành cho Thu Hằng, chàng luôn nhìn Thu Đào bằng ánh mắt thân thương và lúc nào cũng chủ động bắt chuyện.
Gặp lại chàng ở đây, trong thân phận "khủng" như thế này, Thu Đào không chỉ còn yêu, mà bây giờ còn bị "kính nể" Lê Hạo, và rồi quá bối rối nàng đã trả lời một câu "chẳng ra làm sao" :
- Đúng là ta rất vui vì được đến đây..
Nàng bỏ lửng câu nói và vội vàng đưa mắt nhìn nơi khác, phần vì chẳng biết nên mô tả thế nào cảm xúc trong lòng lúc này, phần vì đứng trước mặt Lê Hạo thật sự câu cú ngôn từ cứ bay đi đâu mất hết.
Thật may mắn, vào lúc khó xử ấy thì tiếng trống báo giờ Thìn vang lên. Thu Đào nhanh chóng nắm bắt cơ hội tự giải vây cho bản thân, nàng nhìn sang Thu Hằng hỏi:
- Giờ học đã đến rồi đúng không?
Mãi chú ý đến thái độ của Lê Hạo đối với Thu Đào nên khi bất chợt bị hỏi Thu Hằng mới ấp úng nói:
- À, ờ đúng rồi, chúng ta đi thôi!
Lê Hạo nhìn thái độ cố tình né tránh của Thu Đào mà lòng ngổn ngang trăm mối, ánh mắt ngập tràn ý tứ của nàng lúc trộm nhìn mình, chàng không thể tin được là Thu Đào đã quên hết mọi việc. Nếu không có tình, thì ý trong ánh mắt ở đâu ra? Nếu không có ký ức, thì sao lại ngại ngùng né tránh không dám nhìn thẳng vào ta? - Lê Hạo tự hỏi.
* * *
Tạm gác lại những ưu tư về người yêu, Thu Đào háo hức chờ được gặp Ngô Tư Nghiệp.
Tiến bước chân ngoài cửa càng lúc càng gần, Thu Đào mãi miết nhìn ra cửa chờ đợi. Và rồi Ngô đại nhân đã xuất hiện, ngài tuổi ngoài 50, thân hình cao lớn, ít nhất cũng là 1m75 nếu tính theo thời hiện đại, gương mặt sáng, trán cao, bộ râu đen chỉ dài qua khỏi cằm không làm ngài già đi mà còn tô rõ nét chững chạc điềm tĩnh. Ngô đại nhân áo mũ chỉnh tề, tay cầm quyển sách và đoạn gỗ khoảng ba tấc, có lẽ dùng để gõ nhịp khi đọc thơ giống như Thu Đào thường thấy trong các bộ phim cổ trang. Thật đúng chuẩn văn nhân nho nhã! Thu Đào thầm khen và đang lên kế hoạch xin cho bằng được "chữ ký" của ngài, biết đâu khi trở lại năm 2022 đó sẽ là một báu vật vô giá!
Ngô Sĩ Liên bước vào lớp, ngài chấp tay ngang đầu hành lễ chào xong, cả lớp định ngồi xuống thì Lê Tuấn cũng vừa bước chân vào cửa lớp. Như một thói quen, tất cả mọi người vừa định đứng dậy hành lễ với Lê Tuấn, nhưng chợt nhớ ra điều gì nên lại thôi. Lê Tuấn cất tiếng chào cả lớp:
- Ta có công vụ nên đến hơi trễ, phiền Ngô Tư Nghiệp và các vị chờ lâu, thất lễ rồi!
Ngô Tư Nghiệp đưa tay về phía vị trí cạnh Thu Đào để hướng dẫn cho Lê Tuấn, vui vẻ đáp lời:
- Vẫn chưa muộn! Chỗ này, xin mời Lê công tử!
Thu Đào tròn mắt nhìn sang chỗ ngồi trống bên cạnh mình rồi nhìn Lê Tuấn đang bước đến gần. Vừa ngồi xuống bên cạnh nàng, Lê Tuấn đã lém lỉnh bắt chuyện:
- Xin thỉnh giáo văn tài của đại tiểu thư vang danh khắp Quốc Tử Giám vậy!
Thu Đào ngượng ngùng trả lời:
- Ta không biết vị Thu Đào tiểu thư trong lòng người trước kia tài giỏi thế nào, chỉ biết Thu Đào ta bây giờ một chữ bẻ đôi cũng không biết!
Lê Tuấn rất thích thú với cách trò chuyện tự nhiên hóm hỉnh của nàng, khác xa với dáng điệu e thẹn lễ giáo của các tiểu thư nhà quan mà chàng từng gặp. Rồi chàng cười tươi nói:
- Cho dù là vậy cũng không sao, có ta bên cạnh nàng sẽ mau chóng biết được nhiều chữ ngay thôi!
Nhìn gương mặt và nụ cười này, Thu Đào thấy vô cùng quen thuộc và ấm áp, cảm giác giống hệt lần đầu tiên gặp chàng ở ao sen trong phủ đệ. Bất giác nàng buộc miệng nói một mình:
- Mình đã gặp người này ở đâu rồi thì phải!
Lời hỏi bài của Ngô Tư Nghiệp cắt ngang dòng suy nghĩ của Thu Đào.
- Lần trước ta có ra đề làm một bài thơ thất ngôn bát cú về một loài hoa, chẳng hay các vị điện hạ, tiểu thư đã hoàn thành chưa?
Nhìn khắp lớp một lượt không thấy ai trả lời, Ngô Tư Nghiệp nói tiếp:
- Vậy ta xin được mời tứ điện hạ bắt đầu trước vậy!
Lê Hạo đứng lên đọc bài thơ "Hoa Sen Non" như thể xác nhận với Thu Đào về thân thế của chàng:
"Dìu dịu lam điền ngọc mới tương (1) *
Hồ thanh, sắc ánh, mặt dường gương
Ngọc in làm dáng tiền sơ đúc (2) *,
Chàm nhuộm nên màu tán chửa giương.
Lạt biếc mới khai mày Thái Mẫu (3) *,
Thắm hồng còn kín má Vương Tường (4) *.
Khách thơ hứng nghĩ hiềm (5) * chưa đủ,
Mười trượng hoa thì mười trượng hương!"
Đây chính là bài thơ "Hoa Sen Non" của Lê Thánh Tông mà Thu Đào - Trà My của thời hiện đại- đã dùng để thi vào trường cấp ba chuyên văn khi còn ở ghế nhà trường.
* * * Hết chương 5 ----
Chú thích:
1. Thái cung tần: Chỉ các vị cung tần của đời vua trước.
2. Tay nải: Túi vải để đựng vật dụng mang theo bên mình của người xưa.
3. Giờ Thìn: 7 đến 9h sáng.
4. (1) *: Ngọc xứ Lam Điền vừa mới ra
5. (2) *: Lá sen non như hình đồng tiền vừa mới đúc ra.
6. (3) *Thái mẫu: Dương Quý Phi thời nhà Đường, một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc xưa.
7. (4) * Vương Tường: Vương Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế, một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc xưa.
Trong khoảnh khắc nhìn thấy Lê Hạo bộc lộ văn tài, cùng với những lời khen có cánh của Ngô Tư Nghiệp dành cho chàng, Thu Đào càng cảm thấy ngưỡng mộ chàng hơn bao giờ hết. Nàng ngồi một mình ở hoa viên của Quốc Tử Giám, tay chống cằm đang mãi nghĩ về Lê Hạo và Sỹ Thành thì Lê Tuấn không biết từ đâu bước đến ngồi cạnh nàng, chàng hóm hỉnh buông lời trêu ghẹo nhưng cũng là để dọ ý:
- Nàng thấy tứ đệ của ta khôi ngô tuấn lại tài hoa nên động lòng rồi đúng không?
Thu Đào thẹn nên chối ngay lập tức:
- Đừng có nói lung tung, ta ngồi đây chờ Thu Hằng, muội ấy đang trao đổi về bức họa lúc sáng với Lê Hạo công tử thôi!
Nói xong câu này, Thu Đào liền đưa mắt đến chỗ Thu Hằng đang đứng cùng Lê Hạo cười cười nói nói, chợt nàng thấy chạnh lòng và ganh tỵ với Thu Hằng lúc này đang được kề cận cùng chàng. Nàng đang rất muốn có cơ hội tiếp cận Lê Hạo để được nhìn chàng, để tìm hiểu xem chàng và Sỹ Thành có điểm nào khác nhau không vv.. và rất nhiều lý do vụn vặt khác, nhưng chung quy là do nàng còn yêu Sỹ Thành, trong mắt nàng thì Lê Hạo chính là Sỹ Thành.
Lê Tuấn thấy nàng nhìn Lê Hạo mà vẻ mặt đượm ưu tư, chàng lại tiếp:
- Thấy ý trung nhân thân thiết với người khác nàng buồn à?
Bị tấn công liên tục và nói trúng tim đen, Thu Đào bất chợt nhìn thẳng vào mắt Lê Tuấn hỏi một câu mà chính nàng cũng không hiểu tại sao bản thân lại dám hỏi:
- Khi nhìn thấy ý trung nhân bên cạnh người khác, Lê công tử có buồn không?
Lê Tuấn bị ánh mắt của Thu Đào nhìn thẳng, chàng thoáng chút bối rối, tim đập sai mất vài nhịp. Chàng cũng bóng gió trả lời:
- Trước kia ta chưa từng phải lòng ai nên không biết!
- Vậy còn bây giờ thì sao? – Thu Đào phản công, như để trả thù Lê Tuấn vì lúc nãy dám làm nàng phải thẹn đỏ mặt.
Không ngờ Lê Tuấn lại có màn đáp trả hoàn toàn áp đảo, khiến cô gái vốn không quá táo bạo như Thu Đào phải chịu thua:
- Người ta thích đang ngồi ngay cạnh ta, nên cũng chưa hiểu cảm giác đó như thế nào!
Quá bất ngờ trước câu pha trò và tán tỉnh cực kỳ duyên dáng, Thu Đào bất giác bật ra một câu "mắng yêu" bằng tiếng Hoa mà lúc học trong lớp nàng vẫn hay sử dụng như một ngôn ngữ của gen Z:
- 渣男! (Tra Nam *)
Lê Tuấn nghe phải từ ngữ hiện đại có chút không hiểu, nhưng lại nhanh chóng đưa Thu Đào sang một bất ngờ khác khi đáp trả ngay bằng Hán văn:
- 什么是 "渣男" 哦? 可是, 你也学过北方的语言呢? (Tra Nam là gì? Nhưng mà, nàng cũng học qua tiếng của người phương Bắc à)
Thu Đào bật cười thành tiếng vì quá thích thú với chàng trai này. Tiện thể nàng hỏi thêm để biết về học vấn của các công tử nhà quan của Lê Triều:
- Có phải các vị đại thần trong triều đình có rất nhiều biết tiếng Hán không? Người cũng từng học qua có phải là để trao đổi với sứ thần phương Bắc không?
Lê Tuấn thấy hiếm có nữ nhi quan tâm vấn đề này nên cũng vui vẻ giải thích cho Thu Đào:
- Đúng vậy, đương kiêm hoàng thượng có chỉ, những vị đại thần có chức vị cao đều cần phải giao tiếp được bằng tiếng Hán, không nói được thì ít nhất cũng phải thông thạo đọc và viết, nhưng quan trọng là phải giữ gìn tiếng nói của Đại Việt ta, tiếng nói của dân tộc còn thì dân tộc ta mãi mãi trường tồn!
Thu Đào nghe đến đây liền nhớ đến câu nói "Tiếng ta còn, nước ta còn" trong bài diễn thuyết quốc văn về Truyện Kiều của tác giả Phạm Quỳnh. Bất giác nàng cảm thấy Lê Bang Cơ đúng là một vị vua tài đức, có tầm nhìn, chỉ tiếc số phận trái ngang khiến người phải ra đi sớm, liền chép miệng cảm than:
- Đương kiêm hoàng thượng quả nhiên là bậc minh quân như lời các sử gia!
Lê Tuấn nghe chưa rõ nên không hiểu lắm, bèn hỏi lại:
- Nàng có nghe qua về đương kiêm hoàng thượng à, nghe như thế nào?
Xong chàng còn đá lông nheo trêu ghẹo Thu Đào, háo hức muốn nghe suy nghĩ của nàng về bản thân mình.
Nhắc đến nhà vua, Thu Đào chợt nhớ đến việc sắp phải tiến cung làm cung tần, nét mặt chùng hẳn xuống, nhưng cũng không quên châm chọc lại Lê Tuấn:
- Lê công tử người cũng to gan lắm, dám trêu ghẹo người Hoàng Thượng để mắt! Vào cung rồi ta sẽ bẩm cáo với Hoàng Thượng xử tội người!
Lê Tuấn nghe đến đây liền bật cười sảng khoái. Xong lại hỏi Thu Đào:
- Nàng thấy Hoàng Thượng sẽ vì một nữ nhân mà "xử tội" thần tử trung thành bên cạnh người không? Nói cho nàng biết, ta là ngự tiền thị vệ của Hoàng Thượng đó!
Nghe đến đây Thu Đào tin ngay, trong lòng nàng thì chức quan "ngự tiền thị vệ" chắc cũng to, vì được tiếp xúc với nhà vua, thấy bản thân yếu thế bèn giận dỗi:
- Hoàng thượng đã ỷ vào quyền lực ức hiếp ta, nên có lẽ sẽ không bênh vực cho ta đâu! Thôi, tiểu nữ xin chịu thiệt thòi để Lê công tử trêu ghẹo vậy!
Lê Tuấn rất ngạc nhiên, không hiểu sao tự nhiên lại bị cho là ức hiếp nữ nhi, đối với nam nhi thời cổ mà nói, hành động này là người quân tử không bao giờ làm. Chàng không muốn ấn tượng của mình trong mắt người thương bị xấu đi, bèn tìm hiểu ngọn nguồn:
- Người không biết đấy thôi, ta và Hoàng Thượng chưa từng gặp mặt, người lại muốn nạp ta làm cung tần. Người hoàn toàn không để ý cảm nhận của ta, ta không muốn suốt đời chung sống với người mình không có chút tình cảm. Ở nơi ta sống như vậy gọi là "ép gả", nữ nhi ở đó có quyền chọn chồng, hơn nữa một người chỉ được lấy một người, không thể tam thê tứ thiếp như Hoàng Thượng được!
Lê Tuấn nghe Thu Đào nói đến đâu thì há hốc mồm đến đó vì ngôn từ của nàng, hơn nữa chàng không ngờ trên đời lại có cô gái không thấy vui mừng khi được bậc đế vương để mắt. Cũng như những người khác, Lê Tuấn rất cần Thu Đào "chú thích từ vựng" :
- Nàng nói sao? "Ép gả" là gì? Mỗi người chỉ được lấy một người à? Mà chẳng phải nàng đã lớn lên ở phủ đệ của Nguyễn đại nhân sao? "Nơi nàng sống" là ở đâu?
Thu Đào phì cười trước vẻ mặt ngốc nghếch của chàng:
- "Ép gả" tức là bắt ép phải thành thân với người mình không yêu thích. Còn về "nơi ta sống"..
Nói đến đây Thu Đào lém lỉnh đưa tay ngoắc ngoắc, ra hiệu Lê Tuấn đến gần hơn để nói nhỏ vì sợ ai nghe thấy. Lê Tuấn có chút ngượng ngùng, vì ở thời đại của chàng, chàng chưa từng thấy qua cô gái nào lại dám chủ động tiếp cận nam nhi như vậy. Nhưng vì tò mò, chàng nhìn trước ngó sau một lượt rồi cũng đến gần, kê sát tai hơn một tí để nghe.
- Nói cho người biết, ta không phải Thu Đào, ta đến từ một nơi so với chỗ này thì xứng đáng gọi là thiên đường, nơi đó không có ai bị "ép gả", cũng không cần chung lang quân với ai hết!
- Nơi đó là lãnh thổ của vị quốc vương nào? Quốc hiệu là gì? – Lê Tuấn rất hứng thú với lời nói kỳ lạ của Thu Đào, chàng nghi hoặc hỏi.
- Thành phố Hồ Chí Minh – Thu Đào trả lời xong liền bật cười thành tiếng vì thấy thật sự quá hài hước. Nàng đang nói về một nơi văn minh hiện đại cho người của sáu trăm năm trước nghe, chắc hẳn chàng sẽ chẳng hiểu gì cả, và cảm thấy nàng bị ấm đầu. Nhưng không sao, nàng giờ đây cảm thấy mình giống với những vĩ nhân như Nicolas Tesla hay Edison, người đi trước thời đại luôn bị cho là kẻ điên!
Trái với dự đoán của Thu Đào, Lê Tuấn tỏ ra rất tôn trọng lời nói của nàng, không hề trêu ghẹo hay cho là nàng điên như bao người khác. Chàng trả lời với thái độ như rất tin tưởng và sẵn sàng nghe nàng kể tiếp:
- À, thì ra trong ba ngày hôn mê bất tỉnh, nàng nói đã đến nơi khác, là chỗ thành phố Hồ Chí Minh đó à?
Khá bất ngờ với phản ứng của Lê Tuấn:
- Lê công tử tin ta? Không nghĩ ta điên hay là đang cố tình trêu ghẹo người sao?
Lê Tuấn cười hiền, nói từng câu từng chữ lập luận chặc chẽ, nói đúng hết ý nghĩ của Thu Đào:
- Ta tin nàng, thứ nhất là vì tư tưởng nữ nhi thành thân cần phải có tình cảm, lại được phép tự chọn lang quân thật sự rất mới lạ. Nam nhi ngao du tứ hải như ta cũng mới lần đầu được nghe, nếu như không phải nàng đến từ nơi khác, thì một tiểu thư khuê môn như nàng đã biết được điều đó từ đâu? Thứ hai, ta từng đọc trong sách Phật học của các thiền sư Tây Tạng, trên đời có đến ba vạn tám nghìn thế giới, tâm vào định tự khắc sẽ nhìn thấy hoặc thậm chí tiến nhập vào thế giới ấy được. Nàng trãi qua đại nạn không chết, chưa biết chừng nàng thật sự đến từ một nơi không phải thế gian này. Thứ ba là..
Lê Tuấn bỏ dở câu nói, nhìn Thu Đào mỉm cười với ánh mắt tinh nghịch, khác hẳn với gương mặt cảm thông nghiêm túc như từ nãy đến giờ. Thu Đào sốt ruột:
- Thứ ba là gì?
- Mỹ nhân như nàng chắc chắn là tiên nữ, sao có thể là người phàm được! – Lê Tuấn nhìn vào mắt nàng nói.
Chạm vào ánh mắt chàng, mặt Thu Đào đỏ bừng lên vì thẹn. Nàng lại ném cho Lê Tuấn một câu đậm chất hiện đại:
- Lại "thả thính" nữa!
Lê Tuấn đang thể hiện mình là một chàng trai phong độ ngút trời, lại bỗng hóa "đần" vì ngôn ngữ hiện đại của Thu Đào:
- Thả thính?
Thu Đào đứng lên bỏ chạy:
- Không nói cho người biết!
Lê Tuấn đuổi theo xin xỏ:
- Tiên nữ, nói cho biết đi mà, ta muốn học tiếng nói của thiên đình!
Một người chạy, một người đuổi, tiếng cười đùa vang khắp một góc trời của Quốc Tử Giám.
Nhìn Thu Đào nói cười tự nhiên, Lê Tuấn cảm thấy bản thân thật sáng suốt khi cố tình che giấu thân phận trước mặt Thu Đào, chỉ có như thế mới có thể tự nhiên tiếp cận, hiểu được con người thật nhất của nàng. Không biết Thu Đào tiểu thư trước kia là người như thế nào, nhưng Thu Đào ngôn hành kỳ quái, hoạt bát tinh nghịch lúc này đã chiếm trọn trái tim chàng!
- Bên cạnh nàng ta chỉ muốn là Lê Tuấn, không phải hoàng đế gì cả! – Chàng tự nói với bản thân mình.
* * *
Cầm bức tranh vẻ đóa hoa sen trên tay, Thu Hằng tấm tắc khen tài hội họa của Lê Hạo. Đây là bức tranh chàng vốn định sẽ dùng để đề bài thơ "Hoa Sen Non" lên đấy - đúng như đề bài phải có tranh kèm theo bài thơ của Ngô Tư Nghiệp.
- Đúng là tuyệt bút! Tranh thuỷ mặc (*) vẽ trên nền vải, màu sắc hài hòa, sau khi đề bài thơ tả hoa sen của chàng lên thì chắc chắn đây sẽ là tuyệt tác! Lê công tử quả nhiên.. - Thu Hằng đang nói thì ngước lên nhìn Lê Hạo, để rồi im lặng bỏ dở giữa chừng, vì nàng bắt gặp Lê Hạo đang mãi nhìn Thu Đào và Lê Tuấn chơi đùa cùng nhau, hoàn toàn không để ý đến lời nói của mình.
- Lê công tử! – Thu Hằng gọi một tiếng để kéo chàng quay về câu chuyện của hai người.
Lê Hạo bừng tỉnh, và vì ngại ngùng nên đã chữa thẹn bằng một câu trả lời vô thưởng vô phạt:
- À, được, ta sẽ vẽ tặng nàng một bức!
Thu Hằng ánh mắt hơi trách móc:
- Ta đang nói rằng chàng quả nhiên có tài hội họa mà!
Lê Hạo đành thú nhận rằng đã không chú ý đến lời nói của nàng và thành khẩn nhận lỗi:
- Thật sự xin lỗi nhị tiểu thư, ta đúng là đang có chút chuyện bận lòng nên không tập trung trò chuyện cùng nàng, bức tranh này sau khi đề thơ xong ta sẽ tặng nàng để chuộc lỗi!
Thu Hằng mừng rỡ:
- Vậy tiểu nữ không khách sáo, đa tạ chàng!
- Đừng khách khí – Lê Hạo dịu dàng trả lời nàng.
Thu Hằng vui vẻ nhìn ngắm bức tranh thêm một lượt nữa rồi cẩn thận cuốn lại trao cho chàng mang về đề thơ.
Lê Hạo nhìn Thu Hằng một lúc rồi ngập ngừng:
- Nhị tiểu thư, nàng có nhắc với Thu Đào chuyện của ta và nàng ấy không? Nàng ấy thật sự không nhớ chuyện giữa chúng ta thật à?
Thu Hằng hỏi lại chàng:
- Vậy chàng muốn tỷ ấy quên hay nhớ?
Lê Hạo không nói gì, chỉ cúi đầu vân vê bức tranh trên tay.
Thu Hằng lại tiếp:
- Ta biết từ đầu chàng chỉ dành tình cảm cho tỷ ấy, nhưng lẽ nào ta đối với chàng thế nào chàng quả thật không hề hay biết?
- Nhị tiểu thư.. - Lê Hạo chỉ kịp nói ba chữ đã bị Thu Hằng cướp lời tiếp.
- Sao chàng không thể gọi tên ta như vẫn gọi tên muội ấy, ta rất ghét ba chữ "nhị tiểu thư" này của chàng!
- Tình cảm là không thể miễn cưỡng, xin nàng hiểu cho ta! – Lê Hạo phân trần.
Câu nói của chàng như gươm đao cứa vào tim Thu Hằng, mắt nàng đỏ hoe, mặt nóng bừng lên vì ấm ức, thất vọng. Song nàng vốn là một người rất dõi điều chỉnh cảm xúc, hiếm khi bộc lộ tâm tư trước mặt người khác, nên đã nén cơn giận mà tiếp tục xây dựng hình ảnh một cô nương dịu dàng hiểu chuyện:
- Không cần để ý đến ta đâu, nhưng có lẽ chàng đã biết việc Hoàng Thượng chọn muội ấy làm cung tần, về tình về lý chàng không nên tơ tưởng gì thêm nữa! Để tỷ ấy quên đi cũng tốt, ít ra tỷ ấy không chịu đau khổ cùng chàng, có đúng không?
Lê Hạo không nói gì, chỉ thấy lời của Thu Hằng rất có lý, nên chàng chỉ lặng lẽ gật đầu rồi thở dài, ánh mắt lại lần nữa hướng về phía Thu Đào đang mãi trò chuyện cùng Lê Tuấn.
* * *
Thu Hằng ngồi trước gương đồng trong khuê phòng. Nàng cầm chiếc lược gỗ hờ hững chải mái tóc đen dài, mắt đăm chiêu nhìn ra ánh trăng ngoài cửa sổ. Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nàng quay sang tì nữ Xuân Hoa dặn dò:
- Sáng mai ngươi giúp ta mang một bức thư đến Huy Văn Tự cho Lê Hạo công tử, nhớ là phải đi lúc ta và Thu Đào đá cầu buổi sáng, nếu đại tiểu thư có hỏi thì cứ nói là đi đưa thư cho chàng giúp ta!
- Dạ, nhị tiểu thư!
Xong, Thu Hằng mỉm cười thõa mãn, tự nghĩ:
- Thu Đào đừng trách ta, kiếp này dù sao chị cũng là người của hoàng thượng, vinh hoa phú quý hưởng không hết, hà cớ gì chút tình cảm của chàng lại không thể nhường cho ta?
* * *
Trở về hoàng cung, Lê Tuấn đứng trước bức họa vẽ Thu Đào ngắm nhìn không chán mắt và tủm tỉm cười một mình, chàng không thể ngưng nhớ về khuôn mặt xinh đẹp và tính tình cởi mở phóng khoáng của nàng. Tuy ngôn hành có hơi cổ quái, nhưng lại rất thú vị! Là nữ nhi nhưng rất có chính kiến, lời ăn tiếng nói mạch lạc tự tin, khác hẳn các tiểu thư con nhà quan lại lúc nào cũng khách sáo cung kính, một dạ hai thưa, cố sức tỏ vẻ đoan trang đức hạnh khiến chàng nhàm chán vô cùng. Đặc biệt, cách nghĩ "mỗi một người chỉ được thành thân với một người" khiến chàng bật cười. To gan! Dám bắt Trẫm chỉ được yêu thương một mình nàng! – Chàng tự nói một mình.
Đoạn, Lê Tuấn sai Đào Biểu mang đến cho chàng vải và bút mực vẽ tranh, sau đó tự tay treo mảnh vải trắng hoàn toàn chưa vẽ gì kế bên bức họa của Thu Đào, chàng cầm bút lên, suy nghĩ một chút rồi lại mỉm cười phát họa những nét đầu tiên.
* * * Hết chương 6 ----
Chú thích:
(*) Tranh thuỷ mặc: Hay còn gọi là thuỷ mạc, là một loại tranh xuất xứ từ Trung Quốc, thường là vẽ thiên nhiên, non nước kết hợp với nghệ thuật thư pháp.
Lại nói về Lê Hạo, từ lúc được Thu Hằng nhắc nhở rằng trước sau gì Thu Đào cũng là cung tần của hoàng thượng, chàng không ngừng nhớ đến tháng ngày bên nhau của hai người mà nghe đắng chát trong lòng, vừa muốn níu giữ, vừa cảm thấy quá muộn màng, quá xa vời.
Giữa mùa hè oi ả, Quốc Tử Giám cho miễn đến trường bảy ngày để tránh nóng, mấy ngày không gặp Thu Đào, Lê Hạo cứ luôn canh cánh trong lòng hình ảnh nàng và Lê Tuấn vui đùa bên nhau.
- Ta làm vậy có đúng không? Tam ca có giữ lời suốt đời đối xử tốt với nàng không?
Chàng tự dằn vặt hỏi chính mình. Phút ngậm ngùi, Lê Hạo lấy trên giá sách xuống một quyển sách, trang cuối có bốn câu thơ:
"Canh đã tàn, nhưng trăng non còn đó,
Tiếc đêm trường đóa Quỳnh cố tỏa hương.
Vết thương lòng ngưng kết lại thành sương,
Trên cánh mỏng giọt sương hay giọt sầu!"
Chàng vuốt ve từng dòng chữ và cả hình vẽ đóa hoa đào ở cuối bài thơ.
Thật ra, sau khi Lê Tuấn biết người con gái trong bức họa là đại tiểu thư Thu Đào, chàng đã truyền cho Nguyễn Đức Trung vào yết kiến, tin tức cũng nhanh chóng đến tai Ngô phu nhân và Lê Hạo. Lúc đó, vì muốn ẩn mình tránh xung đột với triều đình, Ngô phu nhân đã hết sức khuyên giải Lê Tuấn nên lùi bước, đừng vì nữ nhi bé nhỏ ảnh hưởng đến đại sự. Vì vậy, mặc dù lòng đau lắm, nhưng chàng đành phải nói ra lời từ chối chân tình của Thu Đào, khiến nàng trong lúc tranh cãi mất bình tĩnh mà trượt chân rơi xuống hồ cẩm lý, khí lạnh nhập thể sinh ra bạo bệnh mà hôn mê hơn ba ngày, lúc tỉnh lại được thì ra cục diện như bây giờ!
Đang mãi suy nghĩ thì Lê Hạo nhận được tin báo có tì nữ Xuân Hoa của Thu Hằng đến đưa thư, chàng ra gặp thì nhận được bức thư Thu Hằng hối thúc giao lại bức tranh đã được đề thơ, lý do là nàng muốn nhân bảy ngày không cần đến lớp ở nhà từ từ thưởng thức. Đọc thư xong Lê Hạo liền vào trong lấy bức tranh giao cho Xuân Hoa mang về phủ. Chàng vô tư chẳng nghĩ ngợi gì thêm, không biết rằng chính chàng đã góp phần vào mối hiểu lầm sâu sắc với Thu Đào trong những ngày tiếp theo.
Cũng trong lúc đó, Ngô phu nhân nấp sau cánh cửa phòng khách, nhìn thấy tì nữ Xuân Hoa vui vẻ mang theo bức tranh ra về trong lòng cũng nhen nhóm hi vọng Lê Hạo sẽ mở lòng chấp nhận Thu Hằng. Tất nhiên nhìn bọn trẻ lớn lên cùng nhau bà đã sớm biết được ý tứ của từng người. Thấy Thu Hằng tiểu thư nhất mực chung tình với con trai, bà cũng cảm động nên luôn tìm các gán ghép, tiếc thay lòng chàng chỉ có Thu Đào, Ngô phu nhân cũng đành bó tay tạm gác lại ý định. Nhưng nay có lẽ ông trời hiểu được lòng người, nên ban cơ hội để bà hoàn thành tâm nguyện. Phần vì bí mật giữa bà và Nguyễn Đức Trung đại nhân, cả hai đều muốn báo đáp ơn cứu mạng, ơn tương trợ của Nguyễn Trãi (*), phần vì e sợ tâm tư của Tuyên Từ thái hậu, trước nay chưa một lần bà dám phản kháng, nay lại càng không muốn vì một Thu Đào mà nảy sinh mâu thuẫn với hai mẹ con thái hậu, bà đã chọn cách âm thầm giúp đỡ Thu Hằng – con gái duy nhất thoát chết của ân nhân - được toại nguyện, quyết định cắt đứt duyên phận của Lê Hạo và Thu Đào.
* * *
Cũng là buổi sáng ngày hôm ấy, tại hoa viên của phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Tì nữ thân cận của Thu Đào là Xuân Mai cầm quả cầu lông chim có ba màu vàng, xanh, trắng rất đẹp mắt đưa ra. Nàng vui mừng chụp lấy "nghiên cứu" ngay. Thì ra quả cầu của người xưa lại như thế này, đế cầu làm bằng một loại vãi mềm, chắc là đã độn nhiều lớp nên vừa mềm vừa đàn hồi. Trên đế là năm khoen đồng giống như đồng tiền có lỗ nhỏ ở giữa, cuối cùng là những chiếc lông chim màu sắc sặc sỡ được may chặt vào đế, khoen đồng bao quanh chân những chiếc lông vũ trông như một bụi cỏ nhỏ mọc ra từ đế và khoen vậy! Thu Đào tấm tắc khen:
- Dễ thương quá! Ở đây ai cũng đá loại cầu đẹp như vậy à?
Xuân Mai mỉm cười giải thích:
- Đây là quả cầu của hoàng thượng tặng cho tiểu thư vào nửa năm trước, lúc người ngỏ ý muốn cô tiến cung đó.
- Hả? – Thu Đào tròn mắt ngạc nhiên.
Xuân Hoa lại tiếp:
- Trước kia cô đá cầu giỏi lắm, hoàng thượng biết được nên mới tặng vật này để bày tỏ thành ý, mong sau này cô sẽ đá cho người xem đó!
- Trước đây ta và hoàng thượng đã gặp nhau chưa?
- Tất nhiên là chưa rồi, hoàng thượng chỉ xem qua tranh vẽ của tiểu thư thôi!
Thu Đào nghe xong cảm thấy hoàng đế Nhân Tông thật là một kẻ si tình, chỉ được thấy tiểu thư Thu Đào của trước kia qua tranh vẽ mà đã ngày đêm tơ tưởng như vậy rồi. Tiếc rằng thời gian trị vì quá ngắn, sử sách không có nhiều tư liệu về người, nhưng đa số đều viết Lê Nhân Tông cần chính, không đam mê tửu sắc, bằng chứng là tại vị lúc tuổi trẻ nhưng hậu cung vắng vẻ, con cái của ngài cũng không có ghi chép gì.
Nàng chợt thở dài, tự lo lắng cho bản thân:
- Chẳng lẽ ta phải vào làm cung tần cho Nhân Tông, rồi lúc binh biến số phận ta sẽ ra sao?
Xuân Hoa kéo tay Thu Đào lôi về phía vườn hoa ở hậu viện.
- Đại tiểu thư đi thôi, nhị tiểu thư đang chờ kìa!
* * * Hai mươi lăm, hai mươi sáu, hai mươi bảy.. quả cầu tung lên rồi rơi xuống đều đặn theo nhịp chân đá của Thu Hằng.
Bốn mươi mốt, bốn mươi hai.. Thu Hằng trót dùng lực quá mạnh, quả cầu bay vút lên cao, nàng chạy theo nhắm hướng rơi xuống mà đón trong tiếng reo hò của Thu Đào và Xuân Mai.
- Thu Hằng cố lên!
- Nhị tiểu thư đừng để rơi!
Thu Hằng cố hết sức vươn dài chân ra để đón lấy quả cầu, tiếc thay, chỉ còn một tí nữa là chạm được thì lại trượt mất. Quả cầu rơi xuống đánh "bộp" trong sự tiếc nuối của ba cô gái.
Thu Hằng cúi xuống nhặt cầu lên, nàng cười nhưng vẫn không giấu được vẻ tiếc nuối:
- Chán thật, ta rất ít khi đá được năm mươi lần!
Xong, nàng đưa quả cầu cho Thu Đào:
- Chị thử đi, trước kia chị từng đá hơn hai trăm lần đó!
- Ghê vậy luôn? – Thu Đào thích thú khi nghe chiến tích của "Thu Đào phiên bản real"
Nàng đón lấy quả cầu từ tay Thu Hằng rồi hớn hở tự nói như chỉ để bản thân mình nghe, ai hiểu hay không cũng mặc:
- Để xem Thu Đào "bản supper pha ke (Supper fake)" này đá được bao nhiêu lần!
Nàng nói xong liền ra giữa sân bắt đầu đá thử, bỏ mặc Thu Hằng và Xuân Mai mặt đần hẳn ra vì nghe phải "từ vựng mới" – cách mà Thu Đào vẫn dùng để nói về từ hiện đại của mình.
* * *
Một, hai, ba.. "Bộp." Quả cầu rơi xuống đất chóng vánh bất ngờ.
Thu Hằng và Xuân Mai đồng loạt che miệng cười. Thu Hằng vừa nói vừa cố nhớ lại "từ vựng" :
- Đúng là Thu Đào bây giờ là Thu Đào pha, pha cái gì đó!
Xuân Mai nhanh nhảu nhắc:
- Là "Pha ke"!
Ba cô gái phá lên cười thích thú.
Đá cầu tuy rất khó, nhưng quả cầu lông chim thật sự rất đẹp, hơn nữa nhìn Thu Hằng và Xuân Hoa thay phiên nhau đá, ai nấy đều được ít nhất hai mươi lần, làm Thu Đào cảm thấy thích thú và quyết tâm tập luyện.
Vốn là nhân viên trong một thư viện của trường đại học, Trà My của trước kia từng đọc qua một quyển sách viết về các trò chơi dân gian Việt Nam, trong đó môn đá cầu có bắt nguồn từ rất lâu rồi. Tương truyền rằng năm Nhâm Tuất (722), Mai Hắc Đế lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Đường, ông là người đã khuyến khích và tổ chức cho nghĩa quân thường xuyên tập luyện, giải trí bằng trò chơi đá cầu, nhằm rèn luyện sức khoẻ cho binh sĩ. Từ đó nhân dân quanh vùng Vạn An (Nay là Nam Đàn - Nghệ An) dần dần cũng tập luyện đá cầu, phong trào ngày càng phát triển. Trò chơi này thường được tổ chức trong những ngày lễ lớn mừng chiến thắng của dân tộc. Đến thời Lý, Trần phát triển cực thịnh, phổ biến trong các tầng lớp quý tộc, binh sĩ quân đội, sánh ngang với các môn cưỡi ngựa bắn cung. Đến thời Hậu Lê – Thời điểm mà Trà My đang lạc vào - trò chơi đá cầu đã đạt tới mức tài nghệ điêu luyện, có nhiều người chơi đá cầu giỏi, có người còn dùng tài năng này để đá chúc thọ cho vua, đá hơn trăm lần sẽ được ban thưởng.
Trong lúc Xuân Mai đang kiên nhẫn hướng dẫn Thu Đào, hai cô gái mãi miết hết nói lại cười, chốc chốc còn đá quả cầu văng tít đằng xa, phải chạy đi nhặt lại mỏi cả chân, thì Thu Hằng đứng ở một góc cố tình ra hiệu cho Xuân Hoa mang theo bức tranh của Lê Hạo gửi tặng chạy ra, cố tình gây hiểu lầm cho Thu Đào.
Vừa đến nơi Xuân Hoa cố tình nói lớn:
- Nhị tiểu thư, sáng nay em đã mang thư của cô đến Huy Văn Tự cho Lê công tử, công tử dặn dò em mang bức họa này về cho cô!
Nghe đến tên Lê Hạo, Thu Đào bất giác quay đầu lại nhìn, nhưng rất nhanh lại làm ra vẻ không quan tâm rồi tiếp tục cố cười nói cùng Xuân Mai.
Thu Hằng đón lấy bức tranh, lén nhìn phản ứng của Thu Đào, rồi lại cố ý nói tiếp:
- A! Chàng quả nhiên mang bài thơ tâm đắc viết lên tranh cho ta!
Nói xong lại giả vờ như tinh tế không muốn để chị gái buồn nên lệnh cho Xuân Hoa và Xuân Mai lui về chuẩn bị nước cho hai chị em tắm rửa, mục đích là tạo không gian riêng để nói chuyện với Thu Đào.
Hai người sánh bước đi dạo quanh hồ sen, Thu Hằng bắt chuyện:
- Tỷ nghe thấy tên chàng thì mặt biến sắc, có phải đã nhớ ra điều gì không?
- Không! Chỉ là.. mà thôi, muội không hiểu đâu!
Thu Đào không biết giải thích từ đâu, chỉ biết im lặng cúi đầu. Thu Hằng nhân cơ hội thực hiện viện ám chỉ cho Thu Đào rằng trước đây nàng chỉ là yêu đơn phương Lê Hạo.
- Thật ra, người tài hoa anh tuấn như chàng, lại đường đường là hoàng tử đương triều, nên không chỉ riêng tỷ mà bất kỳ cô nương nào cũng sẽ động lòng thôi!
Thu Đào chăm chú lắng nghe. Thu Hằng nhìn sắc mặt chị gái để phán đoán tình huống, rồi lại tiếp:
- Ba chúng ta lớn lên cùng nhau, tỷ sớm đã phải lòng chàng.. muội cũng vậy! Muội biết rõ lòng tỷ, nhưng tình cảm là không thể miễn cưỡng!
- Ta hiểu!
Thu Đào trả lời nhưng nhìn sang hướng khác để che giấu cảm xúc trong ánh mắt.
Thu Hằng kể:
- Mọi việc vốn đang yên ổn, tỷ vẫn đang kiên trì với tình cảm của mình mặc dù chàng chưa từng đáp lại. Thì đột nhiên triều đình thông báo tuyển tú, tỷ muội ta đều phải có tranh chân dung dâng lên hoàng thượng. Sau đó hoàng thượng có khẩu dụ chỉ chọn được một mình tỷ. Lúc đó tuy cha chưa cho phép nhưng muội đã nghe lén được rồi báo cho tỷ. Biết tin xong tỷ đã chạy đến Huy Văn Tự tìm chàng, muội đoán là tỷ đến.. để bày tỏ chăng?
Nghe câu chuyện của Thu Đào trước đây, Trà My – Thu Đào của hiện tại bắt đầu tin rằng thì ra dù là kiếp nào, chàng vẫn không yêu gương mặt này! Nàng cúi đầu cười buồn, rồi nhìn sang Thu Hằng như muốn nghe tiếp.
- Và cũng có lẽ.. chàng đã nói rõ ý trung nhân trong lòng chàng là ai cho tỷ hiểu rồi!
Thu Hằng giả vờ e thẹn để ám thị cho chị gái rằng Lê Hạo yêu thích mình. Quả đúng như Thu Hằng dự đoán, Thu Đào nghe đến đây thì như bất chợt được khai sáng, nàng hiểu ngay ẩn ý của em gái. Một chút đau, một chút chạnh lòng, một chút tuyệt vọng làm mắt nàng ngấn lệ. Rồi không kiềm được nữa, giọt nước mắt rơi xuống lúc nào không biết.
Hai chị em lặng lẽ ngồi xuống bên bờ hồ, không ai nói thêm lời nào, như ngầm xác nhận với nhau rằng từ đây, người nào mới đúng là nữ chính ngôn tình, người nào chỉ là nữ phụ đơn phương.
Cuối cùng, Thu Hằng muốn thực hiện mưu tính nên khuyên giải tiếp:
- Tuy tỷ đã quên hết mọi việc, nhưng qua ánh mắt muội cảm nhận tỷ vẫn có tình cảm với chàng. Nhưng tỷ phải nhớ rõ, đã được hoàng thượng chọn trúng, thì kiếp này không có cách nào thoát được. Tỷ nên tận hưởng phúc đức làm hồng nhân bên cạnh long nhan. Huống hồ, người trong lòng chàng.. - Lại một lần nữa Thu Hằng cố tình bỏ lửng câu nói, nhắc nhở Thu Đào nên nhường hạnh phúc cho mình.
Thu Đào thở dài ném một viên đá xuống hồ sen, rồi đáp:
- Chuyện trước đây ta đã không còn nhớ gì, thì cũng như là chưa từng xảy ra thôi!
Đoạn, nàng nắm tay Thu Hằng nói:
- Một kiếp người khó tìm được người tâm đầu ý hợp. Mong muội sẽ được hạnh phúc, không bị "ép gả" như ta.
Thu Hằng vỗ vào vai chị gái ra chiều thông cảm, cố nặng ra một nụ cười xóa tan đi bầu không khí nặng nề.
* * *
Ngay hôm sau, vừa hay còn ba ngày nữa là đến Trung Thu, Ngô phu nhân viện cớ muốn học tài nghệ bày trí cắm hoa của Thu Hằng nên gọi riêng nàng đến gặp tại Huy Văn Tự.
Ngồi nhìn Thu Hằng đang mãi miết cắt tỉa, chăm chút từng cành hoa bách hợp cho vào bình, Ngô phu nhân đăm chiêu nét mặt, hoang mang rằng sau khi biết sự thật về thân thế của mình, nàng sẽ thế nào đây. Đoạn, bà bảo nàng ôm theo bình hoa cùng bà đến một căn phòng nhỏ bí mật ở phía sau hậu việc của Huy Văn Tự. Lúc nhỏ nàng và những đứa trẻ khác đều được dặn dò căn phòng nhỏ đó là nơi thờ các vị trụ trì đời trước, chỗ tôn nghiêm không được đến đó chơi đùa. Nhưng hôm nay Ngô phu nhân chủ động dắt nàng vào đây, Thu Hằng tuy lòng đầy nghi hoặc nhưng vẫn giữ nét ngây thơ như mọi khi, đối với nàng, việc giữ kín tâm tư thật sự của mình dù trong hoàn cảnh nào là nguyên tắc bất di bất dịch, chỉ như thế thì mọi tính toán về sau này mới thuận tiện.
Thu Hằng đặt bình hoa lên bàn thờ các vị trụ trì đời trước, ở giữa là một tượng Phật bằng đồng to, hơn mười bài vị xếp thành ba hàng ngay ngắn dưới chân Phật. Ngô phu nhân bước đến bên nàng hỏi:
- Nhị tiểu thư có biết vào tiết Trung Thu phận con cái nên làm gì nhất không?
Thu Hằng lễ phép thưa:
- Thưa phu nhân, tiểu nữ kiến thức nông cạn, chỉ biết Trung Thu là tết đoàn viên, nên bên cạnh phụ mẫu để bày tỏ hiếu thuận!
Ngô phu nhân gật đầu mỉm cười, xong lặn lẽ đi vòng ra phía sau lưng tượng Phật, ở đó còn có một bàn thờ nhỏ treo trên tường, có rèm phủ xuống tận mặt đất, nhìn không kỹ còn tưởng là nơi thờ các vị thánh thần khác. Ngô phu nhân khẽ vén bức rèm lên, phía sau hiện ra một bài vị có ghi "黎朝大功臣阮廌和全家族之牌位" (Bài vị của Nguyễn Trãi đại công thần nhà Lê cùng gia quyến)
- Muốn hiếu thuận với phụ mẫu, trước hết phải biết rõ cội rễ của mình!
Thu Hằng tuy có chấn động trong lòng, nàng hết nhìn vào bài vị rồi lại nhìn sang Ngô phu nhân, nhưng nét mặt vẫn điềm tĩnh chờ đợi lời giải thích từ bà.
* * * Hết chương 7 ----
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi: Đại thần khai quốc nhà Lê, từng giúp đỡ cho Lê Thái Tổ chống giặc ngoại xâm, có công lớn với triều đình, sau này bị vu tội giết Lê Thái Tông nên chịu thảm án tru di tam tộc.
Quay ngược thời gian trở về lúc nhà Lê chưa lập quốc.
Đại Việt sau khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, ở vùng Lam Sơn có gia tộc họ Lê mấy đời làm hào trưởng một vùng, gặp lúc đất nước bị xâm chiếm, Lê Lợi – hào trưởng đương nhiệm cũng được chiêu dụ ra làm quan cho giặc nhưng ông từ chối, lui về ẩn mình nơi núi rừng làm nghề cày cấy, tự học kinh sử, binh thư.
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt. Lúc này, Lê Lợi cũng tự xưng Bình Định Vương, cùng hơn năm mươi quan cả văn lẫn võ phất cờ khởi nghĩa. Buổi đầu, nghĩa quân lực lượng còn non yếu, nhiều lần bị quân Minh vây hãm phải cố thủ ở núi Chí Linh, quân lương cạn kiệt, tình thế vô cùng nguy khốn..
Nguyễn Công Duẩn vốn là một trong hơn hai trăm dũng sĩ đầu quân từ lúc nghĩa quân mới thành lập, ông tuy đã có vợ con, gia đình thuộc hạng phú hộ ấm no nhưng đã dám bỏ lại cuộc sống an nhàn để đi dẹp giặc cứu nước.
Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc. Biết được Nguyễn Trãi là người tài năng vượt trội, Nhà Minh nhiều lần buộc Nguyễn Phi Khanh viết thư chiêu dụ ông về làm quan nhưng Nguyễn Trãi thà mười năm phiêu dạt, lẫn trốn khắp nơi cũng không ra đầu hàng cho giặc. Trong dân gian có giai thoại rằng, trong lúc lưu lạc khắp nơi, lấy bốn bể là nhà, Nguyễn Trãi một lòng tìm kiếm và chờ đợi vị minh chủ cứu nước xuất hiện. Một đêm nằm mộng, ông gặp một vị thần đứng trước mặt nói "Thái Tổ họ Lê". Tỉnh dậy Nguyễn Trãi bèn tìm đến xin yết kiến Lê Lợi.
Lại nói về Nguyễn Công Duẩn, lúc bấy giờ ông theo nghĩa quân được tròn bốn năm, lòng đầy nhiệt huyết nhưng chưa gặp cơ hội để chứng tỏ tài năng với Lê Lợi, thời gian đã dài nhưng vẫn là một dũng sĩ bình thường chưa có chiến công gì đáng kể. Gặp lúc nghĩa quân lương thảo cạn kiệt, quân giặc bủa vây tứ phía, lại nhớ nhung vợ con, ông nhất thời thoái chí, giữa đêm định đào ngũ trốn về nhà. Lúc bỏ trốn, Nguyễn Công Duẩn bị nghĩa quân phát hiện và truy bắt. Nguyễn Trãi lúc đó cũng đang cùng các tướng sĩ đào củ mài làm quân lương, tình cờ phát hiện ra Nguyễn Công Duẩn nấp ở hang đá, ông hết lời khuyên ngăn và hiến kế rằng:
- Gặp lúc cơm áo không đủ, nhớ thương gia quyến, nản lòng thoái chí là chuyện thường tình. Nhưng là bậc nam tử sao có thể dễ dàng kết thúc sinh mạng một cách tầm thường như vậy. Cứ nói là ngươi đang dẫn đường cho ta về quê nhà để lấy quân lương do ngươi tự nguyện tiến cống. Trước mắt sẽ thoát tội giữ mạng, mai này sẽ có dịp hoàn thành chí nguyện.
Nguyễn Công Duẩn nghe khuyên có lý, bèn thật sự làm theo. Ông về nhà tự nguyện mang hết gia sản, thóc gạo cống nạp cho nghĩa quân, lại nhờ Nguyễn Trãi hiến kế dùng uy tín của gia đình phú hộ vận động nhân dân hỗ trợ và nuôi giấu nghĩa quân. Cũng vì thế Nguyễn Công Duẩn lập được công lớn, sau này được Lê Lợi hết lòng trọng dụng. Từ đó, ông luôn xem Nguyễn Trãi là ân nhân có công tiến cử, nhất mực trung thành với Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Về sau, khi Lê Lợi dẹp yên giặc Minh lên ngôi vua, Nguyễn Công Duẫn được liệt vào hàng công thần khai quốc, con trai của ông là Nguyễn Đức Trung lúc đó cũng nối nghiệp cha làm quan cho triều đình.
Sau khi Thái Tổ Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi và đột ngột qua đời khi mới hai mươi tuổi tại Lệ Chi Viên của Nguyễn Trãi. Sự việc chưa được điều tra rõ thì triều đình lúc ấy do Tuyên Từ thái hậu nắm quyền, đã khép cho ông tội giết vua (*), chịu án tru di tam tộc, nữ thì bắt làm nô dịch, nam thì chịu án tử hình, Nguyễn Đức Trung lúc đó đã nhớ lời dặn báo ơn của cha là Nguyễn Công Duẩn, nên âm thầm nửa đêm cho quân cướp ngục. Tiếc thay, do cấm vệ quân người đông thế mạnh, ông chỉ cứu được hai người thiếp thứ tư, thứ năm của Nguyễn Trãi, lúc đó cả hai bà đều đang mang thai. Một tháng sau, phu nhân của Nguyễn Đức Trung và người thiếp thứ năm của Nguyễn Trãi cùng sinh ra con gái. Nhưng bất hạnh là bà thiếp ấy sinh xong đã đèn cạn dầu khô mà qua đời. Nguyễn Đức Trung công bố với người đời rằng phu nhân của ông mang song thai, sinh được hai người con gái. Bà thiếp thứ tư lo sợ mình sẽ sinh ra con trai, khó thoát khỏi bị triều đình truy bắt nên đã theo sắp đặt của Nguyễn Đức Trung trốn về quê ở Thanh Hóa ở ẩn.
Ngày Nguyễn Trãi bị hành hình, Nguyễn Đức Trung cải trang làm thường dân, bế theo Thu Hằng đến pháp trường, mong Nguyễn Trãi sẽ yên tâm mà về nơi chín suối..
* * *
Thu Hằng rời khỏi Huy Văn Tự, bước đi vật vờ như một cái bóng.
- Thu Đào! Tại sao? Tại Sao ta suốt đời đều phải thua kém tỷ? Những tưởng ta cũng có thân phận cao quý, cũng là trâm anh khuê các như tỷ? Tại sao tỷ thì được sinh ra trong gia tộc có đại công với triều đình, còn ta lại là đứa con gái của tội thần, phải che giấu thân phận sống chui rút dưới cái bóng gia tộc của nhà tỷ?
Thu Hằng uất ức vừa đi vừa cúi mặt khóc. Tuy nàng rất không hài lòng về thân phận thật sự của mình, nhưng cũng chính vì điều này mà được Ngô phu nhân tác hợp với Lê Hạo, nàng lấy đó làm niềm an ủi và quyêt tâm phải giữ cho chặt những thứ thuộc về mình.
- Kể từ đây, ta chỉ là Thu Hằng, tuyệt đối không cho phép ai được gọi ta bằng danh xưng "muội muội của Thu Đào" nữa.
Sắp đến Trung Thu, theo lệ hằng năm cả gia đình Nguyễn Đức Trung sẽ đến Huy Văn Tự thắp hương cầu phúc, tiện thể ở lại dùng điểm tâm đến tối muộn mới về phủ. Thu Hằng theo đó mà nghĩ cách tiếp cận Lê Hạo, nhằm thắt chặt mối quan hệ của hai người hơn. Nàng từ chỗ Ngô phu nhân biết được Lê Hạo rất thích món bánh trôi của mẹ làm, mỗi dịp lễ tết chàng đều ăn bánh trôi hình tròn, ngụ ý viên mãn, rồi thắp hương cầu nguyện cho mẹ được khoẻ mạnh bình an.
Về đến phủ, Thu Hằng bắt gặp tì nữ Xuân Mai đang ngồi vót nhẵn những thanh tre dài khoảng năm tất, vót xong thì bó lại từng bó gồm mười thanh. Thu Đào ngồi bên cạnh đang chấp nối những thanh tre lại thành một hình dạng rất thú vị. Thu Hằng tò mò bước đến xem thử. Thu Đào thấy em gái về thì hào hứng mời gọi:
- Thu Hằng mau đến đây, ta và Xuân Mai đang làm lồng đèn ngôi sao, chắn chắn muội chưa thấy bao giờ đúng không?
- Lồng đèn ngôi sao?
Thu Hằng tròn mắt hỏi và tò mò cầm những thanh tre được ghép thành hình dạng một chiếc lồng có năm góc đều đặn lên xem.
Thu Đào nhanh nhảu nói thêm:
- Trung Thu năm nay ta sẽ làm lồng đèn hình dạng này để cả nhà cùng ngắm, chắc chắn phủ đệ nhà ta sẽ là ngôi nhà sáng nhất, đẹp nhất!
Thu Hằng nhìn những chiếc đèn lồng lạ lẫm hỏi thêm:
- Làm sao tỷ biết được những ngôi sao trên trời sẽ có hình dạng như thế này?
Thu Đào cũng chẳng biết vì sao con người hiện đại lại chọn biểu tượng này để gọi là "ngôi sao", đành giải thích qua quýt:
- Vì ta cảm thấy ghép thành hình dạng này đẹp thôi, khi để ngọn đèn vào trong, ánh sáng theo năm cánh đi ra ngoài nhìn lung linh rất thích mắt, muội nhìn nè! Có lấp lánh giống như những ngôi sao trên trời không?
Thu Đào vừa nói vừa châm một ngọn nến nhỏ để vào một chiếc lồng đèn đã hoàn tất cho em gái xem.
Quả thật món đồ chơi lạ mắt này làm Thu Hằng thấy thích thú vô cùng, ngọn nến bên trong được vây quanh bằng giấy dán màu đỏ, ánh sáng màu đỏ phát ra đúng là rất lung linh trong đêm tối. Không cầm lòng được nàng đã cầm chiếc lồng đèn ngắm nghía rất lâu.
Xuân Mai cười tươi nhìn Thu Hằng nói thêm vào:
- Đại tiểu thư tuy quên hết việc trước kia, nhưng tư chất thông minh thì vẫn như vậy, lại có thể nghĩ ra món đồ chơi đẹp như thế này, em thật bái phục sát đất!
Thu Đào đưa ngón tay cái quẹt mũi rồi hất mặt lên khoe khoang thêm:
- Đợi đấy, ta còn nhiều trò khác rất hay, từ từ sẽ cho em mở rộng tầm nhìn!
Xuân Mai phấn khởi tán đồng:
- Em rất thích những trò cô bày ra, chỉ mong cô đừng như lúc trước, làm cháy cả thư phòng của Lê công tử là được rồi!
Thu Đào nghe đến đây liền ngạc nhiên hỏi:
- Ta đã từng làm cháy thư phòng của chàng à?
Xuân Mai nhanh nhảu:
- Đúng rồi, năm ngoái có lần cô đánh cắp trầm hương của đại nhân mang cho Lê công tử dùng để tỉnh táo đọc sách. Em chẳng hiểu cô đốt trầm hương bằng cách nào mà lửa bén vào rèm, báo hại Lê công tử cháy mất cả bức tranh vừa vẽ..
Đang nói thì Xuân Mai im bặt do bắt gặp ánh mắt của Thu Hằng đăm đăm nhìn mình đầy tức giận, tỏ ý muốn Xuân Mai đừng kể nữa.
Còn Thu Đào thì nghe đến đây đã cười lớn nhận xét về "Thu Đào" lúc đó bằng ngôn ngữ hiện đại:
- Cái "nết na" của Thu Đào ấy chắc cũng sánh ngang với ta, sáng luộc khoai thì chiều cả nhà ăn khoai nướng! Ha ha ha
Xuân Mai tuy đang sợ bị Thu Hằng trách mắng, nhưng nghe qua lối so sánh hóm hỉnh của Thu Đào thì không nhịn được đã phì cười.
Thu Hằng thấy Xuân Mai hay nhắc đến chuyện của Thu Đào và Lê Hạo nên không được vui, khó khăn lắm ông trời mới ban cho cơ hội cắt đứt tình cảm của hai người để nàng có dịp chen vào, vì vậy không thể để họ lại một lần nữa phải lòng nhau được! Tuy vậy, nhưng nàng cũng không biết dùng lý do gì để trách phạt Xuân Mai nên đành hậm hực chịu đựng.
Thu Đào mời mọc em gái cùng ngồi xuống làm lồng đèn cho vui, nhưng lúc này Thu Hằng tâm trạng không tốt nên đã từ chối rồi về phòng riêng.
Thu Đào thấy dáng vẻ thất thểu ấy cũng lấy làm lạ, chờ Thu Hằng đi khuất, nàng nhìn sang Xuân Mai nói nhỏ:
- Ngô phu nhân chắc là không có năng khiếu cắm hoa, làm Thu Hằng chỉ dẫn đến phát cáu à!
Xuân Mai lắc đầu:
- Ngô phu nhân là Tiệp Dư của tiên đế, nữ công chắc chắn phải thông thạo rồi! Em cũng không biết nhị tiểu thư sao lại không được vui!
Thu Đào cũng không bận tâm lắm, nàng chỉ đang nghĩ trong lòng rằng sẽ dùng những chiếc lồng đèn này tặng cho Nguyễn Đức Trung và Tư Nghiệp Ngô Sĩ Liên, hi vọng sẽ được hai vị đại thần danh tiếng lẫy lừng cho "xin chữ". Có được thân bút của hai nhân vật này chắc chắn sẽ vang danh trong giới khảo cổ! Thu Đào thõa mãn nghĩ về tương lai tốt đẹp ấy và vui vẻ dán lồng đèn tiếp.
* * *
Sáng sớm, Thu Đào lệnh cho gia nhân trong phủ treo lồng đèn ngôi sao khắp nơi trong phủ đệ. Nguyễn đại nhân thấy sáng kiến của Thu Đào rất hay, ông cũng muốn đợi đến đêm thắp nến lên để xem vẻ đẹp của những ngôi sao giấy này, nếu quả thật có điều mới lạ thì bẩm tấu với triều đình cách làm này, giúp trang hoàng cho yến tiệc hoàng cung thêm lộng lẫy.
Nguyễn Đức Trung đứng cạnh phu nhân và hai đứa con gái, ông nhìn gia nhân tấp nập kẻ bắt thang treo đèn, người đứng ở dưới nhận xét đã treo đúng vị trí hay chưa, từ cổng chính cho đến từng gốc cột, cửa phòng, nơi nơi đều có lồng đèn ngôi sao đong đưa theo chiều gió, chưa cần đến đêm để thắp nến lên cũng đã thấy rất vui mắt! Ông xoa đầu Thu Đào rồi vuốt râu gật đầu tỏ vẻ hài lòng:
- Phủ đệ ta sẽ thử thắp đèn tối nay, nếu thật sự đẹp như lời con nói, ta sẽ nói với Nội Vụ Giám ý tưởng này, để yến tiệc của triều đình thêm phần đẹp mắt, lúc đó cha sẽ thưởng cho con một món quà! Sao! Con có mong muốn điều gì không? Trừ việc không tiến cung ra nhé!
Nguyễn Đức Trung nói xong rồi đưa tay cốc vào đầu Thu Đào.
Thu Đào nghe đến "tiến cung" liền xụ mặt xuống trách cha, nhưng cũng không quên ý đồ chính lần này:
- Chỉ cần cha và Ngô Tư Nghiệp mỗi người thân bút tặng con một bài thơ là được. Sau này đừng nói là lồng đèn, con sẽ nghĩ thêm nhiều trò vui hơn để cả phủ đệ ta ngày nào cũng vui như Tết!
- Được! Cha hứa sẽ cho con thân bút của ta và Ngô Tư Nghiệp!
Nguyễn Đức Trung cười sảng khoái hứa với con gái.
Thu Hằng nhìn cử chỉ thân mật của cha dành cho Thu Đào thì chỉ biết cúi đầu để giấu đi nụ cười buồn bã. Nàng cay đắng nhủ thầm:
- Cha! Chắc người rất hài lòng vì trong hai tỷ muội, người thông minh nổi trội hơn trong chính là con gái ruột của cha!
Trong lúc đó, Thu Hằng chỉ ước tất cả những việc Thu Đào làm đều sẽ biến thành tai họa, để cho không còn ai ca tụng sự thông minh của nàng ta nữa. Mãi theo đuổi ý nghĩ đó, thì Thu Hằng chợt nhớ đến câu chuyện Xuân Mai kể lại tối đêm qua, việc lúc trước đã có lần Thu Đào đốt trầm hương nhưng vụn về làm cháy cả một góc thư phòng của Lê Hạo. Sau đó là một nụ cười đầy mưu mô hướng về Thu Đào.
Thu Hằng giả vờ hòa theo không khí vui vẻ rồi hỏi:
- Tỷ đã làm đủ số lồng đèn chưa?
Thu Đào trả lời:
- Vẫn chưa, chị còn định làm thêm khoảng một trăm chiếc nữa để treo sao hậu viện và cả đình hóng mát!
Thu Hằng ra vẻ hờn dỗi:
- Muội xin được góp phần vào công trạng của tỷ, để cha mãi thương mỗi tỷ mà quên mất đứa con gái này!
Nguyễn Đức Trung nghe thấy liền quay sang xoa đầu Thu Hằng vỗ về:
- Làm gì có, cả hai con đều là hai viên ngọc quý của cha, một đứa hoạt bát đáng yêu, một đứa đoan trang hiền thục, cả hai cha đều yêu thương hết!
Thu Hằng ra vẻ hiểu chuyện:
- Con biết cha sẽ không quên phần của con, vậy nếu Thu Đào được thưởng, con cũng xin một phần là được vào ngự hoa viên của hoàng cung đi dạo một lần được không?
Nguyễn Đức Trung nhìn Thu Hằng cười hiền lành:
- Tất nhiên là được, lúc Thu Đào tiến cung, cha sẽ lấy cớ cho người thân đưa tiễn mà để con vào theo, có thể ở lại vài ba hôm tham quan khắp hoàng cung cũng được!
Thu Hằng nghe đến đây liền vui vẻ nói:
- Cảm ơn cha, con sẽ cố gắng giúp tỷ tỷ làm lồng đèn ngay!
Thu Đào nghe thêm lần nữa chữ "tiến cung" thì thở dài nghĩ thầm:
- Mình đã cố quên đi mà sao ai cũng nhắc mãi! Làm sao đây? Nếu tiến cung thì mười phần hết chín là tính mạng lâm nguy!
Đang suy nghĩ thì Thu Hằng đã đến kéo tay làm nàng giật mình quay về với thực tại:
- Đi thôi, muội sẽ làm hồ dán thêm nhé!
- Ờ!
Thu Đào trả lời như một phản xạ tự nhiên, vì tâm trạng còn mãi để ở chỗ "tiến cung".
* * *
Trong nhà bếp, Thu Hằng cùng với Xuân Mai đang khuấy hồ.
Làm được một lúc, Thu Hằng giả vờ kêu nóng quá, muốn uống một tách trà, nên sai Xuân Mai đi lấy. Xuân Mai nhanh nhảu:
- Nhị tiểu thư chờ em một tí, em sẽ mang trà và quạt nan đến để quạt hầu cô, cô ít khi vào bếp nên sẽ thấy nóng.
Thu Hằng đồng ý ngay:
- Đúng rồi, cảm ơn Xuân Mai, em thật chu đáo!
Xuân Mai được khen rất thích nên nhanh chóng đi ngay.
Thu Hằng nhìn theo đến khi Xuân Mai khuất bóng. Lúc đã chắc chắn không còn ai xung quanh, nàng bí mật lấy trong túi áo ra một chai nhỏ..
Ở hậu viện của phủ đệ, gia nhân trong nhà ai nấy đang tất bật làm theo lời Thu Đào hướng dẫn, người vót tre, kẻ cắt giấy, những người khéo tay thì vừa dán vừa vẽ, có kẻ giỏi viết chữ còn đề cả chữ 福 (Phúc) lên hình ngũ giác đều ở giữa chiếc lồng đèn.
- Lồng đèn hình ông sao, mà ở giữa lại có viết chữ Hán, vừa hiện đại lại vừa cổ xưa, sao mà lạc quẻ ghê!
Thu Đào bình luận về những chiếc lồng đèn được ghi chữ rồi cười một mình. Mãi đến lúc chập choạng tối thì hơn một trăm chiếc lồng đèn đã được làm xong. Thu Đào vươn vai uể oải đứng lên than:
- Rụng rời cả tay chân, ta về tắm rửa thay xiêm y, xong lại đến cùng các em treo đèn.
Xuân Mai cũng đứng dậy đi theo. Lúc đó Thu Hằng xung phong ở lại:
- Vậy khi tỷ quay trở lại thì mới đến lượt muội về tắm gội vậy! Muội sẽ ở đây cùng làm với mọi người tiếp!
Thu Đào vui vẻ đồng ý rồi cùng Xuân Mai trở về phòng.
Nguyễn Đức Trung trở lại hậu viện để xem việc làm lồng đèn đã xong chưa, nhìn thấy Thu Hằng vẫn đang hì hục dán dán sửa sửa, hài lòng bảo con gái chọn giúp vài chiếc đem treo ở trước cửa thư phòng của ông một vài chiếc, số còn lại ông muốn ngày mai mang đến Huy Văn tự làm quà tặng. Nghe đến đây Thu Hằng mặt biến sắc, trong lúc vội vã bèn lấp liếm mượn cớ:
- Những chiếc ở đây đa số có phần con làm, toàn xấu xí, để con sai gia nhân dùng những chiếc đẹp nhất tặng cha và Ngô phu nhân!
Nguyễn Đức Trung tin lời nên vỗ vai con gái:
- Của hai con làm thì chiếc nào cũng đẹp! Thôi con cứ chọn giúp cha nhé! Làm xong nhớ về nghỉ ngơi sớm đi!
Thu Hằng thở phào:
- Nữ nhi biết rồi! Cha mau quay về nghỉ sớm đi!
Thấy cha vừa đi khuất, Thu Hằng chủ động sắp xếp việc treo đèn trong phủ, xong đâu đấy nàng cũng đích thân đi dọn dẹp tất cả dụng cụ dùng để khuấy hồ dán, phi tan mọi chứng cứ.
* * * Hết chương 8 ----
Chú thích:
1. (*) Sơ lược vụ án Lệ Chi Viên: Sau khi Lê Thái Tổ Lê Lợi mất, thái tử Lê Nguyên Long nối ngôi trở thành vua Lê Thái Tông. Năm Lê Thái Tông hai mươi tuổi, trong một lần đi duyệt binh về nghỉ ngơi ở vườn vải nhà Nguyễn Trãi, một bà thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ hầu hạ cho vua suốt đêm, đến sáng thì vua đột ngột băng hà. Cả nhà Nguyễn Trãi bị ghép tội giết vua, xử tru di tam tộc. Đây là vụ án được nhận định là án oan bi thảm trong lịch sử triều Lê Sơ.
Nguyễn Đức Trung đại nhân dắt theo vợ và hai vị tiểu thư đến Huy Văn Tự thắp hương nhân dịp Trung Thu, ngày mười bốn tháng tám âm lịch. Trong lúc chờ cha mẹ hàn huyên cùng Ngô phu nhân, Thu Đào có rủ rê Thu Hằng đi thăm thú một vòng, nhưng Thu Hằng đã quá quen với Huy Văn Tự từ nhỏ rồi, đâu có gì đáng để tham quan nữa nên đã từ chối. Hơn nữa, Thu Hằng và Ngô phu nhân giờ đây cùng chung một mục đích, nàng chỉ muốn kề cận Ngô phu nhân để biết thêm nhiều việc khác, cũng xem như là sẵn tiện lấy lòng mẹ chồng tương lai vậy!
Huy Văn Tự này chỉ hấp dẫn với mỗi Thu Đào thôi! Còn nhớ hôm bị ngất xỉu ở chùa Thánh Chúa – tức là Huy Văn Tự của bây giờ, Thu Đào đã có ý định đến đây mong sẽ tìm được giá nến hoa đào, thông qua đó trở về năm 2022. Tuy ở đây rất nhiều thứ hấp dẫn cần khám phá, nhưng lâu ngày e là sẽ vướng phải rắc rối, chẳng hạn như gặp Lê Hạo để rồi động lòng với chàng nhưng biết trước sẽ chẳng đi đến đâu, rồi lại còn phải làm cung tần cho Lê Bang Cơ, nếu kéo dài để đến lúc thật sự tiến cung thì có lẽ phải chịu chung số phận với vị vua bất hạnh đó! Chi bằng sớm tìm cách trở về, ta lại tiếp tục là Trà My! – Thu Đào tự nhủ.
Trãi qua gần sáu trăm năm, cách bày trí ở đây thật sự khác xa với chùa Thánh Chúa trong tương lai, cổng chùa bây giờ cũng chưa có ba cây muỗm to như ở năm 2022, nàng không còn nhận ra phòng nào là phòng nào cả, càng rắc rối hơn là nàng chỉ mới đến chùa Thánh Chúa duy nhất lần đó, đâu có thông thạo ngóc ngách, tìm ra căn phòng nơi có cái giá nến thật là như mò kim đáy bể! Hay là cứ đi từng phòng một, chỗ nào có nơi thờ Phật là ta lại đến đó tìm giá nến vậy! Nghĩ là làm, Thu Đào nhìn lên bàn thờ ở chính điện – nơi cha mẹ vừa thắp hương xong – thêm một lượt nữa, khi đã chắc chắn không có chiếc giá nến hình hoa đào nào trên đó, nàng xin phép cáo lui để đi tham quan Huy Văn Tự.
Dạo quanh một vòng lớn khắp chùa xong, Thu Đào đứng trước cổng nhìn vào khoảng trống rộng hơn một trăm mét vuông trước mặt rồi hình dung lại khung cảnh chùa Thánh Chúa, hi vọng định vị được nơi mình muốn tìm:
- Lẽ ra từ chỗ này là sẽ gặp ba cây Muỗm, rồi đến cánh cửa bước vào điện thờ chính của chùa, sau đó đi sâu vào năm gian phòng, rẽ phải sẽ gặp ngay căn phòng đó, tại sao bây giờ chỉ là một bãi đất trống, trơ trọi một hồ cá và đình hóng mát được xây trên mặt hồ? Nếu phỏng đoán theo vị trí căn phòng đó ở tương lai, thì là dãy phòng đằng kia à?
Thu Đào nhìn thấy khuất sau đình hóng mát trên hồ cẩm lý có một dãy gồm bốn năm căn phòng nhỏ, nàng không biết đó là khu vực sinh hoạt của Lê Hạo và Ngô phu nhân nên muốn đến xem thử.
* * *
Sáng ngày mười bốn tháng tám âm lịch, Lê Nhân Tông thiết triều tại Thiên Hưng điện. Lê Khắc Xương tấu với Nhân Tông:
- Tâu bệ hạ, thần nhận được tin cấp báo từ Bồn Man (*), dư đảng của vua Chiêm Thành Bí Cai mười năm trước bị Đại Việt ta đánh bại nay lại tập hợp lực lượng, tập trận khiển binh, lấy cớ giành lại lãnh thổ Chiêm Thành mà thường xuyên cướp phá dân chúng, mong Hoàng Thượng sớm có đối sách để dẹp yên loạn đảng!
Nhân Tông nghe xong, bèn hỏi ý quần thần:
- Dư đảng của Bí Cai bị đánh bại đã mười năm, một phần lãnh thổ cũng đã sát nhập vào Bồn Man của Đại Việt ta, nay lại bất ngờ gây chiến, chắc chắn cũng đã chuẩn bị kỹ lưỡng, ta không nên khinh địch. Vậy có vị ái khanh nào hiến kế cho Trẫm nghe không?
Như đã thông đồng trước với Lê Khắc Xương, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân bèn cho ý kiến:
- Tâu bệ hạ, đúng là không thể xem thường dư đảng quân Chiêm. Nhưng chúng vẫn chỉ là một lũ ô hợp căn cơ không vững, ta nên dùng uy thế triều đình, cho một vạn quân đến đánh một trận áp đảo, giết sạch không chừa một tên, bọn chúng ắt sẽ biết khó mà từ bỏ dã tâm từ đây!
Nghe đến đây, quan Thái Bảo Đinh Liệt (*) vốn là vị tướng tài từ triều Lê Thái Tổ liền hừng hực khí thế muốn đánh giặc giúp vua, ông tâu với Nhân Tông:
- Xin bệ hạ hãy để thần cầm quân diệt dư đảng Chiêm Thành lần này!
Sợ mưu kế thất bại, Lê Nghi Dân can ngăn:
- Đinh đại nhân, ngài là vị tướng quân dày dặn kinh nghiệm, Minh triều phương Bắc luôn dòm ngó Đại Việt ta, ngài chỉ nên tập trung đề phòng phía Bắc, quân Chiêm yếu ớt lần này không cần vì chúng mà phí sức.
Nói xong, Nghi Dân im lặng vài giây ra chiều đắt ý tiếp tục hiến kế:
- Thần có cách này, vừa có thể nêu cao uy danh của bệ hạ, vừa dễ dàng áp đảo khí thế quân Chiêm, khiến chúng chưa đánh đã sợ mà xin hàng, chỉ là trước khi bẩm tấu, dám xin bệ hạ tha tội nếu thần có điều mạo phạm!
Nhân Tông liền đáp:
- Trẫm miễn tội, Lạng Sơn Vương cứ nói!
Lê Nghi Dân thưa:
- Chỉ cần Hoàng Thượng thân chinh dẹp loạn, với thanh thế của đương kiêm thánh thượng, cộng thêm một vạn quân tinh nhuệ, thần cam đoan quân Chiêm ở Bồn Man chưa đánh đã khiếp vía xin hàng, việc hao binh tổn tướng sẽ giảm nhẹ rất nhiều. Hơn nữa lần này chỉ là trận đánh nhỏ không nguy hại đến long thể được. Việc này cũng giúp bệ hạ có thêm uy danh phục chúng, tuyệt đối chỉ có lợi không hại.
Nghe đến việc vua thân chinh đánh giặc, nhiều vị văn võ bá quan có lời phản đối, vì không nhất thiết phải mạo hiểm đến long thể. Tuy nhiên Lê Nghi Dân và Lê Khắc Xương dùng uy tín và sức ảnh hưởng của mình liên tục đốc thúc khiến cuộc tranh luận kéo dài gần nửa canh giờ vẫn không có hồi kết. Nhân Tông vẫn ngồi trên ngai vàng giữ thái độ điềm nhiên nghe hết ý kiến của từng người. Cuối cùng hạ lệnh tạm gác việc này, ba hôm sau sẽ tuyên bố thánh ý cho quần thần được rõ.
* * *
Bãi triều, Lê Nghi Dân cố tình theo sau Lê Hạo thăm dò ý tứ:
- Tứ đệ vẫn luôn im lặng, không biết đệ nghĩ thế nào?
Lê Hạo khiêm nhường đáp:
- Đệ đệ nông cạn, chưa hiểu hết đại cục nên không dám cho ý kiến, nhưng cách của đại ca xem ra cũng có lý!
Lê Nghi Dân trước nay luôn vừa lòng với sự cung kính của Lê Hạo, nhưng mãi vẫn không dám chắc chắn chàng sẽ theo phe mình. Mượn việc lần này, Nghi Dân quyết tâm buộc Lê Hạo tỏ rõ chính kiến. Tuy Lê Hạo từ nhỏ bị tách khỏi cuộc tranh đấu vương quyền, nhìn bề ngoài thì không có thực lực trong triều đình, nhưng chàng là người tài hoa lỗi lạc, được lòng nhiều văn võ bá quan, nếu lôi kéo được Lê Hạo thì sẽ như hổ thêm cánh, lòng dân ắt sẽ thuận theo. Vì vậy Lê Nghi Dân ngầm ra tối hậu thư cho Lê Hạo:
- Phàm là kẻ làm việc lớn phải biết điểm xuất phát của mình là ở đâu, dù có muốn lên tận trời xanh cũng phải bắt đầu từ nấc thang đầu tiên. Tứ đệ! Ta khuyên đệ từ bây nên chọn nấc thang của mình là vừa!
Nói xong hai người im lặng đi cùng nhau ra đến tận cổng hoàng cung. Trước lúc tạm biệt, Nghi Dân không quên nhắc thêm:
- Tứ đệ, Hàn Tín nhà Hán trước khi chọn đúng minh chủ cũng chỉ là tên vô danh tiểu tốt, tài hoa của hắn chỉ khi gặp Lưu Bang mới có dịp phát huy, lưu danh sử sách! Đệ phải noi theo cổ nhân mà làm!
Nói xong vỗ vai Lê Hạo rồi quay lưng ra về. Lê Hạo vẫn thái độ cung kính, chấp hai tay ngang đầu bái biệt đại ca.
Lê Hạo tất nhiên đã nhìn rõ tâm tư của Lê Nghi Dân từ lâu, chẳng qua đang buổi thái bình, Lê Tuấn tại vị lấy đức trị nước nên rất được lòng dân, hắn không có lý do gì lật đổ mới đành tạm hoãn việc tạo phản. Lần này muốn khích cho vua phải thân chinh đi đánh trận, chắc chắn có mưu đồ ám sát. Nếu Lê Tuấn không còn, hắn là đại hoàng tử, hơn nữa lại từng là chủ Đông cung, ngai vàng mười phần hết chín sẽ lọt vào tay hắn. Quả là mưu sâu kế hiểm!
- Ta phải làm sao để vừa bảo vệ được tam ca, vừa bảo toàn cho bản thân thoát khỏi hiềm nghi của hắn đây! – Chàng âu sầu tự hỏi bản thân.
Lê Hạo vừa rảo bước định trở về Huy Văn Tự thì nghe tiếng Lê Tuấn gọi phía sau:
- Tứ đệ, chờ ta với!
Lê Tuấn đã thay thường phục, vội vã đuổi theo Lê Hạo tận cổng cung, vừa thở vừa nói:
- Ngày mai trong cung có yến tiệc mừng tiết Trung Thu, Trẫm muốn đích thân đưa thiếp mời cho đệ và Ngô Tiệp Dư, hai người nhớ đến dự. Sang thu Trẫm sẽ đón đệ và Tiệp Dư hồi cung cùng với Mỹ Nhân của Trẫm! Thế nào? Có đồng ý không?
Cảm động trước tình cảm huynh đệ của Lê Tuấn dành cho mình, Lê Hạo không muốn từ chối, cung kính chấp hai tay ngang đầu thưa:
- Thần đệ đa tạ Hoàng Thượng hậu ái!
Lê Tuấn vỗ em trai rồi hóm hỉnh dùng thân phận giả là anh họ nói với Lê Hạo:
- Biều đệ, tối nay trăng đẹp, ta muốn biểu đệ cùng Lê Tuấn ta thưởng trà ngắm trăng trong Huy Văn Tự!
Lê Hạo vui vẻ nhận lời:
- Hân hạnh tiếp đón biểu huynh!
* * *
Đã xế chiều, ánh nắng mặt trời không còn gay gắt, xung quanh vắng vẻ chỉ có mỗi Thu Đào đang thong dong dạo bước. Nàng băng qua chiếc cầu nhỏ bắt ngang hồ cẩm lý, nối liền khu đất từ chính điện sang dãy phòng của hai mẹ con Lê Hạo. Căn đầu tiên của dãy phòng này chính là nơi Lê Hạo viết chữ đọc sách. Cửa không đóng, Thu Đào nghiêng đầu nhìn vào quan sát. Bên trong bày trí đơn giản, chỉ có ba giá sách, bàn viết chữ có bày sẵn bút nghiên, một bàn trà với bộ ấm tách bằng gốm sứ hoa văn màu xanh da trời, khá giống với tưởng tượng của Thu Đào về nội thất thời cổ. Trông chẳng có vẻ gì là nơi riêng tư của ai, nàng đánh bạo bước vào, xem thử "thư viện" ở đây có khác gì với thư viện hiện đại không!
Tò mò về những quyển sách trên giá, Thu Đào chui hẳn vào dãy giữa, hết cầm quyển này lên lại đặt quyển kia xuống, tuy chữ bên trong đọc không hiểu được bao nhiêu, nhưng việc được tận mắt xem, tận tay sờ vào những đồ vật thời phong kiến như thế này, đối với Thu Đào là một trãi nghiệm cực kỳ lý thú. Mãi lo xem sách, nàng quên mất phải đi tìm căn phòng và giá nến bí ẩn kia.
Được một lúc, Thu Đào chú ý thấy trên bàn viết chữ có một quyển sách đang mở ra sẵn trang cuối, còn có một thanh gỗ nhỏ dằn lên để làm dấu trang. Nàng đến gần nhìn thì thấy cuối trang có vẽ đóa hoa đào hình dạng giống với đóa hoa đào của giá nến. Mừng rỡ và hiếu kỳ, Thu Đào cầm quyển sách lên để xem cho kỹ, biết đâu có chút manh mối gì chăng?
Mặt trời sắp lặn, Lê Hạo dắt theo Lê Tuấn về gần đến cửa thư phòng, thấy có bóng dáng ai đó đang cầm quyển sách mình quý trọng nhất, Lê Hạo nóng lòng chạy nhanh vào làm Lê Tuấn ở sau lưng phải gấp rút đuổi theo xem có việc gì. Lê Hạo căng thẳng hỏi lớn:
- Ai đó!
Bị gọi lớn Thu Đào giật mình đánh rơi quyển sách.
Khi đã nhìn rõ "kẻ đột nhập" là Thu Đào, Lê Hạo hơi ngạc nhiên hỏi:
- Nàng đến đây từ khi nào?
Lê Tuấn cũng vừa bước vào cửa:
- Thì ra là Thu Đào tiểu thư, làm ta tưởng hôm nay tứ đệ xui xẻo bị kẻ trộm ghé thăm!
Thu Đào lúc này hiểu ra đây là chỗ ở của Lê Hạo, biết mình đã thất lễ nên bối rối xin lỗi:
- Ta.. ta cứ tưởng đây là thư viện của Huy Văn Tự, có thể vào thăm thú được.. nên là..
Nhìn nàng hoảng sợ Lê Tuấn cảm thấy thật đáng thương, không muốn làm Thu Đào hoang mang thêm bèn chuyển sang nói việc khác:
- Nàng đến đây với ai? Chắc là thấy Huy Văn Tự đẹp nên tiện thể thăm thú một chút, đây cũng chỉ là thư phòng thôi, chắc tứ đệ không ngại đâu đúng không?
Lê Hạo lúc này đang vội vàng nhặt quyển sách dưới chân Thu Đào lên, chàng nâng niu dùng vạt áo lau qua một lượt, rồi trả lời:
- Tất nhiên không sao rồi! Nơi này trước kia nàng vẫn hay tới lui cùng chúng ta đọc sách viết chữ, chẳng khác gì nhà của nàng đâu!
Thu Đào giải thích thêm:
- Thật xin lỗi! Ta theo cha mẹ đến đây thắp hương, tiện thể muốn dạo chơi một chút..
Lê Hạo dịu dàng trấn an nàng lần nữa:
- Không sao đâu!
Gặp được Thu Đào ở đây Lê Tuấn vô cùng vui mừng, chàng có ý muốn mời nàng ở lại cùng uống trà ngắm trăng, bèn đưa mắt nhìn Lê Hạo, ý muốn nhờ em trai đi sắp xếp. Chàng nói:
- Hẹn trước không bằng tình cờ gặp! Hôm nay trăng đẹp, nàng cùng huynh đệ ta ở lại uống trà nhé!
Thu Đào tất nhiên là vui mừng đồng ý ngay, vừa được ở lại trò chuyện với Lê Hạo, vừa muốn nhân cơ hội hỏi về hình vẽ hoa đào và cái giá nến kia, một công đôi việc thật quá tốt rồi!
Lê Hạo hiểu ý anh trai, liền đi chuẩn bị một bàn điểm tâm cùng trà ngon để mang ra đình hóng mát trên hồ cẩm lý.
* * *
Trong lúc chờ Lê Hạo đi chuẩn bị điểm tâm, Thu Đào theo sau Lê Tuấn cùng đến đình hóng mát giữa hồ. Nhìn Lê Tuấn từ sau lưng, nàng chợt nghĩ đến chàng trai cầm ô đứng giữa vườn hoa ngoài cửa sổ từng xuất hiện trong giấc mơ lúc trước. Trang phục, dáng đi, và cả khung cảnh trước mắt lúc này sao quen thuộc quá! Rồi như một sự sắp đặt của số mệnh, ngay lúc đó Lê Tuấn nhận ra Thu Đào đang tụt lại phía sau mình khá xa, chàng quay lại hóm hỉnh nói:
- Tiên nữ! Sao đi chậm quá vậy, ta chờ nàng lâu rồi đấy!
Vừa nghe giọng nói và câu từ quen thuộc xong, bỗng nàng cảm giác như có một mũi kiếm đâm sâu vào tim, Thu Đào thấy đau nhói nên đưa hai tay ôm lấy ngực, mặt xanh xao nhăn nhó, nàng loạng choạng như sắp ngã xuống.
Lê Tuấn nhanh chóng nhận ra bất thường liền lao đến đỡ lấy nàng rồi hoang mang hỏi:
- Thu Đào! Nàng sao vậy?
Dần dần cơn đau tim qua đi, Thu Đào bình thường trở lại, nhưng chính nàng cũng ngơ ngác không hiểu chuyện gì vừa xảy ra với mình. Chẳng lẽ cái thân xác của Thu Đào này yếu ớt vậy, đi có vài bước đã mệt đến nỗi đau tim như vậy rồi sao?
Nàng trả lời để Lê Tuấn yên tâm:
- À, ta không sao rồi! Đa tạ chàng!
Lê Tuấn hỏi lại, giọng vẫn chưa hết lo lắng:
- Nàng vừa bị làm sao vậy?
Không biết phải diễn tả cảm giác lúc nãy ra sao, Thu Đào đành nói cho qua chuyện:
- Có lẽ ta vừa mới khỏi bệnh nên đi vài bước đã thấy hơi mệt thôi!
Lê Tuấn nhìn nàng ân cần:
- Nàng thật sự không sao chứ? Đêm nay tuy không lạnh nhưng giớ lớn, hay là ta đưa nàng về phủ?
Sợ bị mất cơ hội dò hỏi tung tích hình vẽ hoa đào, nàng vội vàng vỗ tay lên ngực chứng minh:
- Thật sự không sao mà, đừng nói cho cha mẹ ta biết, ta rất muốn ở lại ăn điểm tâm, ngắm trăng cùng nhị vị Lê công tử! Xem này ta khoẻ lắm!
Lúc này Lê Tuấn mới yên tâm phần nào nhưng chàng không vượt lên đi trước nữa mà sánh đôi bên cạnh nàng, vừa đi vừa chốc chốc nhìn sang như để trông chừng báu vật của mình.
Kể ra cũng thật lạ, mỗi khi bên cạnh Lê Tuấn nàng đều cảm thấy một cảm giác thân thuộc ấm áp, chàng không giống như những tên đào hoa háo sắc chút nào. Ta và chàng kiếp này cũng có duyên bằng hữu chăng?
Đến đây, đột nhiên Thu Đào nhớ ra Lê Tuấn từng nói chàng là ngự tiền thị vệ bên cạnh Lê Nhân Tông nên nảy ra ý định nhờ chàng giúp đỡ thăm dò ý tứ nhà vua, thậm chí nói xấu về mình để Nhân Tông từ bỏ ý định nạp cung tần cũng hay! – Nàng tự nghĩ rồi quay sang nhìn Lê Tuấn bằng ánh mắt tinh nghịch. Nụ cười lạ lùng làm Lê Tuấn chột dạ hỏi:
- Chuyện gì đây đại tiểu thư?
Thu Đào đá lông nheo gợi ý:
- Chàng có muốn nghe thêm về "thành phố Hồ Chí Minh" của tiên nữ ta sống không? Giúp ta một việc đi, ta sẽ kể cho chàng nghe!
Lê Tuấn khoanh hai tay trước ngực đáp lại:
- Muốn ra điều kiện với ta sao?
- Đúng vậy, chàng là ngự tiền thị vệ, chắc chắn có cơ hội tiếp cận với Hoàng Thượng, ta muốn chàng nghĩ cách khiến Hoàng Thượng không còn muốn nạp ta làm cung tần nữa!
Lê Tuấn nghe đến đây không nhịn được nữa nên phì cười. Chàng giả vờ từ chối:
- Ta chỉ là một thị vệ nhỏ bé, làm sao lời nói lại đáng để Hoàng Thượng nghe được! Thôi, nàng chấp nhận số phận đi, vào cung làm mỹ nhân cho Hoàng Thượng vậy!
Thu Đào lườm một cái rõ dài rồi mắng, mà quên mất Lê Tuấn cũng hiểu tiếng Hán:
- 真是个渣男, 还敢说喜欢上了我! (Đúng là tên xấu xa, còn dám nói là thích ta)
Lê Tuấn trêu ghẹo trả lời:
- 那你说我能怎么帮哦! (Vậy nàng nói xem ta có thể làm được gì)
Thu Đào ấm ức:
- Nếu chàng thật sự thích ta lẽ ra phải thấy buồn khi ta phải làm cung tần cho Hoàng Thượng mới đúng chứ!
- Ta buồn chứ, nhưng biết làm sao được? Dù sao nàng cũng không thích ta, chi bằng cho nàng vào cung làm mỹ nhân cho xong!
Lê Tuấn nói xong khoái chí bậc cười thành tiếng. Thu Đào nghe đến đây cảm thấy không "nhờ vả" gì được tên thị vệ này nên nét mặt chùn hẳn xuống, nàng không nói gì nữa, tiến đến chiếc ghế trong đình hóng mát ngồi phịch xuống, chống tay lên cằm ngắm trăng chờ Lê Hạo mang điểm tâm đến.
Lê Tuấn cũng nhận ra lời từ chối tuy là đùa đùa vui của chàng đã làm cho Thu Đào thất vọng, bèn an ủi bằng lời chân thành, nhưng mãi về sau này nàng mới hiểu ra:
- Hoàng Thượng nhất định sẽ tốt với nàng mà!
Thu Đào liếc mắt sang nhìn Lê Tuấn một lần, rồi bất lực ngẩng đầu lên trời mà thở dài.
Lê Tuấn trộm nhìn nàng cố giấu nụ cười thích thú.
Trời đã tối hẳn. Dưới mái đình, hai người ngồi cạnh nhau cùng ngắm ánh trăng thu vằng vặc.
* * * Hết chương 9 ---
Chú thích:
1. (*) Đinh Liệt: Danh tướng nhà Hậu Lê, là cháu gọi Lê Thái Tổ - Lê Lợi là cậu. Thời còn trẻ ông đã theo làm cận vệ cho Lê Lợi, làm quan qua bốn triều vua Lê là Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông.
2. (*) Bồn Man: Tên một quốc gia cổ, một phần nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng phía Đông Lào, một phần nằm ở phía Tây các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam. Thời Lê Nhân Tông, Bồn Man thuộc lãnh thổ Đại Việt, gọi là tỉnh Trấn Ninh. 350 năm sau thì bị Nguyễn Ánh (Vua Gia Long nhà Nguyễn) cắt cho Lào.
Sau một lúc lâu hàn huyên cùng Ngô phu nhân, Nguyễn Đức Trung chợt nhớ ra những chiếc lồng đèn mà ông cất công mang đến tặng cho Ngô phu nhân và Huy Văn Tự, bèn ra lệnh mang ba chiếc rương to, bên trong chất hơn năm mươi chiếc lồng đèn ông sao. Nắp rương vừa mở ra, ai nấy đều trầm trồ khen những chiếc lồng đèn hình dáng độc đáo, thủ công khéo léo. Ngô phu nhân án chừng giờ này chắc Lê Hạo đã trở về đọc sách viết chữ như thường ngày nên mở lời:
- Ta và Nguyễn Đại Nhân cùng phu nhân sẽ ra đình hóng mát trước, xin nhờ nhị tiểu thư đến thư phòng báo với Lê Hạo chúng ta chờ ở đó! Đợi khi ai nấy có mặt sẽ cùng nhau thắp đèn.
Thu Hằng hiểu Ngô phu nhân muốn tạo cơ hội để nàng tiếp xúc với Lê Hạo nhiều hơn nên vui vẻ nhận lời ngay:
- Dạ phu nhân! Tiểu nữ và Lê công tử sẽ nhanh chóng ra đình hóng mát!
Nói xong nàng cáo lui, đi đến thư phòng của Lê Hạo.
Lúc này tại đình hóng mát, Lê Hạo cùng với Lê Tuấn và Thu Đào đang ngồi ngắm trăng uống trà. Thu Đào cứ chốc chốc lại trộm nhìn Lê Hạo. Tính ra từ lúc gặp chàng, Thu Đào chưa bao giờ mở lời bắt chuyện, phần cũng do đã biết được thân phận của chàng, Thu Đào cứ cảm thấy Lê Hạo cao cao tại thượng, rất đáng để kính nể chứ không đơn giản chỉ là yêu thích như trước kia. Lê Hạo cũng cảm nhận được ánh mắt trộm nhìn của Thu Đào, nhưng chàng có điều không hiểu là trông nàng có vẻ dè dặt với mình, khác hẳn với Thu Đào ngông nghênh trước kia.
Cuối cùng không thể kiềm nén được nữa, Thu Đào ngập ngừng nói:
- Lê Hạo công tử, ta có thể hỏi chàng một câu được không?
- Tất nhiên là được! Nàng có việc gì cứ tự nhiên hỏi!
- Quyển sách lúc nãy của chàng, trong đó có vẽ một đóa hoa đào.. Chẳng hay, là ai đã vẽ nó?
Lê Tuấn ngồi kế bên nghe xong phì cười:
- Ta còn tưởng nàng đọc được thơ hay xin thỉnh giáo, ai ngờ là nàng quan tâm đến một hình vẽ!
Thu Đào không ngại nói thẳng:
- Ta làm gì biết đọc chữ của các người mà thơ với thẩn!
Lê Tuấn bày tỏ thắc mắc:
- Nàng thật lạ lùng, biết nói tiếng Hán nhưng lại không biết đọc chữ! Ta cũng chẳng hiểu nàng đã học tiếng Hán bằng cách nào!
Lê Hạo cũng ngạc nhiên hỏi:
- Nàng biết nói tiếng Hán từ bao giờ?
- Thì từ lúc đi học!
Thu Đào định nói là "từ lúc đi học năm thứ ba đại học" thì nhớ ra điều mình nói đối với những người thời đại này thật hoang đường. Cũng may Lê Tuấn nói tiếp thay nàng:
- Từ lúc nàng tỉnh lại sau khi hôn mê vài ngày à?
Lê Hạo nhíu mày suy nghĩ, rồi bế tắc không hiểu Thu Đào đã học tiếng Hán từ khi nào:
- Ta cùng nàng theo học Ngô Tư Nghiệp từ bé, chưa bao giờ thấy nàng biết nói tiếng Hán cả!
Thu Đào chỉ còn cách thở dài phân trần:
- Xem như ta đại nạn không chết nên trời ban phúc không thầy tự thông đi!
Hai chàng trai nhìn nàng đầy nghi hoặc. Thu Đào bị ánh mắt của hai vị công tử thế gia nhìn chằm chằm nên không khỏi e thẹn, liền tự giải vây cho bản thân:
- Chính ta cũng không biết nữa! Hai người mặc kệ ta làm sao biết chữ Hán đi mà, khi nào nhớ ra ra hứa sẽ tự nguyện kể cho hai người nghe được không?
Rồi sợ vuột mất cơ hội tìm hiểu về hình vẽ hoa đào, Thu Đào nhắc lại câu hỏi với Lê Hạo:
- Lê Hạo công tử, chàng có thể cho ta biết là ai đã vẽ đóa hoa đó không?
Lê Hạo nhìn nàng vài giây, rồi nói:
- Chính là nàng đã vẽ nó!
Thu Đào mắt tròn mắt dẹt nhìn Lê Hạo, cả Lê Tuấn cũng thấy sự việc thú vị, tay cầm tách trà, mắt nhìn Lê Hạo như chờ đợi lời giải thích tiếp theo.
Không để hai người sốt ruột thêm, Lê Hạo chậm rãi kể:
- Lúc trước nàng cũng nghịch ngợm lắm, có một lần ta được Ngô Tư Nghiệp tặng quyển Lý Bạch Thi Tập (*) nên nàng so bì, đòi phải có một quyển. Sách do Ngô Tư Nghiệp tặng nên ta không nỡ cho đi, vậy là nàng vẽ đóa hoa đào vào trang cuối cùng, nhắc ta rằng đọc xong đến trang cuối phải lập tức cho nàng mượn.
Nghe xong Lê Tuấn phì cười:
- Thì ra dù cho có mất đi ký ức thì bản tính ngang ngạnh cũng không thay đổi được!
Riêng Thu Đào thì câu chuyện này xem như đã làm đứt đoạn manh mối tìm chiếc giá nến. Nàng thất vọng thầm nghĩ:
- Thì ra là Thu Đào trước kia vẽ, mình biết đi đâu tìm cô Thu Đào tiểu thư đó đây?
Lê Tuấn thấy mình cố tình trêu ghẹo nhưng nàng không phản ứng gì chỉ ngồi ngây ra, bèn đưa bàn tay lên quơ qua quơ lại trước mắt Thu Đào gọi:
- Nè! Nàng đang nghĩ gì vậy? Bị ta khiêu khích cũng không thèm phản công à?
Thu Đào trong lòng chỉ cho Lê Tuấn là một thị vệ bình thường, không hề có cảm giác kính trọng như đối với Lê Hạo, bèn chụp lấy tay Lê Tuấn bẻ ngược ra sau:
- Ta không thèm phản công, chỉ chờ cơ hội bẻ tay chàng!
Lê Tuấn la oai oái:
- Nè, làm gì có nữ nhân nào thô lỗ như nàng, dám tuỳ tiện đụng vào người nam nhi!
- Tiên nữ chỗ nàng ai cũng thô lỗ vậy sao? Đáng sợ thật đó!
Lê Hạo từ nãy giờ vẫn thắc mắc vì sao Thu Đào lại quan tâm đến hình vẽ đó, phải chăng nàng đã nhớ ra điều gì? Đóa hoa đó đúng là của Thu Đào vẽ trước kia, nhưng câu chuyện đã bị chàng thay đổi đi để tránh nhắc lại tình cảm của mình và Thu Đào trước mặt Lê Tuấn. Tuy vậy, Thu Đào nghe xong có vẻ rất tin vào câu chuyện chàng bịa ra, vì vậy Lê Hạo cảm thấy rất thắc mắc về tâm tư của nàng, chàng hỏi:
- Vì sao nàng lại để tâm đến đóa hoa đào như vậy?
Thu Đào hết cách giải thích chỉ đành bịa chuyện cho vui:
- À! Ta thấy chàng vẽ rất đẹp, nhưng đóa hoa đó lại rất đơn giản nguệch ngoạc nên thắc mắc thôi!
Lê Tuấn vẫn chưa bỏ cuộc và tiếp tục "đâm chọt" :
- Vẽ khó coi như vậy, quả nhiên chính là tác phẩm của nàng!
Thu Đào ấm ức phản pháo:
- Ta cũng rất khéo tay đấy! Mấy hôm nay đã tự tay làm rất nhiều lồng đèn ngôi sao để thắp sáng khắp phủ đệ trong đêm Trung Thu, có muốn mở rộng tầm nhìn không?
Lê Tuấn và Lê Hạo đồng thanh:
- Đèn ngôi sao?
* * *
Ở hậu viện phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Thu Đào khoanh tay trước ngực, hất mặt lên thật cao tự hào về tác phẩm của mình. Hai chàng trai nhìn cảnh tượng lung linh trước mắt mà không khỏi tán thưởng liên hồi. Lê Tuấn bất giác buộc miệng:
- Nếu trong cung cũng treo nhiều đèn ngôi sao này chắc chắn thái hậu rất thích!
Thu Đào nghe xong liền hỏi:
- Chàng cũng thường xuyên canh gác tẩm điện của thái hậu à!
Lê Tuấn biết mình lỡ lời nên lấp liếm:
- À! Tất nhiên, ta là cận vệ của Hoàng Thượng nên rất hay gặp gỡ thái hậu, bà chắc chắn sẽ thích ý tưởng này của nàng!
Xuân Mai từ nãy đến giờ vẫn còn đang thắp nốt những chiếc đèn treo ở phía đình hóng mát, xong liền chạy đến đứng cạnh Thu Đào hân hoan nói thêm vào:
- Lần này chắc chắn tiểu thư sẽ được ông thưởng!
Thu Đào nhìn khắp một lượt rồi nhận ra mật độ treo đèn thưa thớt hơn lúc sáng, liền hỏi Xuân Mai:
- Sao ta cảm thấy lồng đèn treo hơi ít, lúc sáng nhiều hơn đúng không?
Xuân Mai thưa:
- Là do nhị tiểu thư nói treo nhiều sẽ rối mắt, bảo chúng nô tì tháo xuống bớt, số còn thừa được để ở nhà kho.
Thu Đào thấy hợp lý nên gật gù:
- À! Ta hiểu rồi.
Lúc này nghĩ tới việc được cha thưởng, nhớ đến Nguyễn Đức Trung thì Thu Đào giật thót nhận ra mình đã vì nóng lòng khoe khoang những chiếc lồng đèn mà tự ý bỏ về trước, không thèm báo với cha mẹ. Nàng liền bảo Xuân Mai cùng vài gia nhân lập tức đến Huy Văn Tự báo tin.
- Chết rồi, lần này thế nào ta cũng bị cha mẹ giáo huấn ít nhất ba ngày! – Thu Đào than thở.
Lê Tuấn nghe đến đây liền nghĩ ra cách giúp nàng thoát tội, chàng nói với Xuân Mai:
- Ngươi hãy nói với Nguyễn đại nhân rằng do Lê Tuấn ta hiếu kỳ nên đã buộc đại tiểu thư đưa ta về phủ trước! Tiểu thư nhà ngươi chắc chắn không bị trách mắng!
Thấy lý do Lê Tuấn đưa ra quá sức hợp lý, Thu Đào mừng rỡ reo lên:
- Đúng! Đúng! Đúng! Cũng do chàng chê ta vụn về, làm ta nhất thời bị khích tướng nên suy nghĩ không kỹ! Chàng giải vây giúp ta là đúng!
Lê Tuấn hóm hỉnh chấp tay hành đại lễ thưa với Thu Đào:
- Đúng thưa đại tiểu thư! Tất cả là do ta hết!
Thu Đào khoanh tay hất hàm ra oai.
- Ta rộng lượng tha tội cho chàng đấy!
Lê Hạo nhìn Lê Tuấn gật đầu cười hiểu ý. Xuân Mai tuân lệnh đi ngay đến Huy Văn Tự.
Xong đâu đấy, Lê Tuấn hỏi Thu Đào:
- Nàng còn chiếc lồng đèn nào không? Có thể cho ta vài chiếc mang về treo ở phủ nhà được chứ!
Thu Đào vỗ ngực ra vẻ hào phóng:
- Tất nhiên là còn!
Nói xong thì bảo hai chàng trai đứng chờ, một mình nàng đi đến phía nhà kho ở hậu viện cách đó khoảng mươi mét để lấy những chiếc đèn còn sót lại.
Thu Đào vừa đi được một lúc, Lê Hạo trong lúc chờ đợi đã mở lời nhắc nhở Lê Tuấn:
- Tam ca! Việc thân chinh đi dẹp loạn đảng Bí Cai huynh tuyệt đối đừng bao giờ nhận lời, đánh giặc rất nguy hiểm, và trận đánh này chỉ là việc nhỏ, không nhất thiết phải thân chinh!
Lê Tuấn vỗ vai em trai nói:
- Thật ra đại ca nói cũng có lý, biết đâu vì ta thân chinh mà quân giặc biết sợ đầu hàng, như vậy bá tánh sẽ tránh được nạn can qua, quân sĩ cũng vì vậy mà không phải hi sinh tính mạng!
Lê Hạo nóng lòng ngăn cản thêm:
- Tam ca! Lòng người đa đoan, anh phải luôn đề phòng. Tính mạng quân sĩ bá tánh tuy là quan trọng, nhưng long thể càng quan trọng hơn! Xuất chinh đánh giặc nguy hiểm trùng trùng, lỡ có kẻ gian âm mưu hành thích, huynh sẽ rơi vào vòng vây của chúng ngay!
Lê Tuấn được nhắc nhở mới suy nghĩ đến vấn đề này, nhưng chàng vốn lòng dạ không nhiều mưu mô nên trước nay chưa từng đề phòng ai. Chàng hỏi Lê Hạo:
- Tứ đệ lo lắng ta bị hành thích đoạt vị?
Lê Hạo thấy Lê Tuấn đã hiểu ý nên rất vui mừng:
- Tam ca anh minh! Thù trong giặc ngoài, anh đừng nên quá xem trọng tình thân thủ túc, xưa nay đấu tranh đoạt vị thường do bỏ trưởng lập thứ, huynh đang rơi vào tình cảnh ấy, khó tránh kẻ gian ôm lòng oán hận mà ủ mưu.
Lê Tuấn thấy trước nay Lạng Sơn Vương luôn tỏ ra cung kính, chưa bao giờ để lộ ý đồ gì khả nghi nên được chàng hoàn toàn tin tưởng. Hôm nay được Lê Hạo nhắc nhở, Lê Tuấn cũng cảm thấy đề phòng là điều cần thiết, bèn hỏi thêm:
- Đệ nghĩ ta nên làm thế nào?
Bản thân Lê Hạo hiện giờ cũng đang rơi vào tình thế khó xử, cũng đang vò đầu bứt tai nghĩ cách làm sao ngoài mặt thì nghe theo Nghi Dân để tự bảo toàn bản thân, nhưng bên trong lại có thể giúp đỡ được Lê Tuấn.
Lê Hạo chưa biết phải trả lời Lê Tuấn thế nào thì Thu Đào hai tay cầm bốn chiếc lồng đèn tung tăng chạy đến:
- Nhị vị Lê công tử! Đèn đến rồi đây!
Câu chuyện giữa hai chàng trai tạm thời bỏ ngõ.
Thu Đào cầm một chiếc đèn lên hớn hở nói:
- Để ta thắp thử một chiếc xem có đẹp không!
- Ta giúp nàng!
Lê Tuấn đưa tay đỡ lấy chiếc đèn. Thu Đào cầm con cúi rơm thổi cho bắt lửa, thắp sáng ngọn nến nhỏ rồi cẩn thận cho vào bên trong lồng đèn. Cả ba cùng nhau ngắm chiếc đèn mỗi lúc một sáng lên theo sức cháy của ngọn nến. Lê Hạo nảy ra ý tưởng mới:
- Trong đêm tối cũng có thể dùng đèn này để soi đường đi, vừa sáng vừa đẹp! Ta cũng muốn mang một chiếc về cho mẫu thân!
Thu Đào liền vui vẻ đồng ý:
- Đúng rồi, ta tặng cho hai chàng mỗi người hai chiếc nhé!
- Vậy ta không khách sáo!
Lê Hạo vui vẻ nhận quà. Chàng thấy Thu Đào của hiện tại cũng rất giống với Thu Đào của trước kia, rất hồn nhiên hoạt bát. Bên cạnh nàng chàng luôn cảm thấy tâm hồn thư thái, bao toan tính tranh đoạt tạm thời không còn bủa vây trong tâm trí.
Ngọn nến trong lồng đèn cháy mỗi lúc một to, Thu Đào sợ sẽ cháy mất đèn nên ghé sát mặt lại xem, định cho tay vào ngắt bớt tim nến thì bất thình lình ngọn lựa phụt lên cao rồi nuốt trọn cả chiếc đèn, lửa táp hẳn vào mặt Thu Đào khiến nàng giật mình kêu lên:
- Á!
Lê Tuấn nhìn thấy nguy hiểm nhanh như cắt ném luôn chiếc đèn xuống đất rồi kêu lên:
- Cẩn thận!
Chàng kéo Thu Đào vào lòng, cởi áo khoát ngoài dập lửa. Nhưng không may ngọn nến cứ như gặp đúng vật bắt lửa, cháy luôn cả ống tay áo của Lê Tuấn. Lê Hạo cũng lao vào đá chiếc đèn văng ra xa, và cũng dùng áo khoát ngoài dập lửa giúp Lê Tuấn.
Cuối cùng ngọn lửa cũng bị dập tắt, Lê Tuấn vội vàng dùng hai bàn tay nhẹ nhàng nâng mặt Thu Đào lên xem có thương tích gì không. Chàng cẩn thận nhìn vào gương mặt nàng một lượt, hơi thở phà vào mặt làm những sợi tóc mai của Thu Đào hết bay lên rồi đáp xuống trên trán. Thu Đào từ từ mở mắt ra, thời gian như ngưng đọng trong khoảnh khắc hai đôi mắt nhìn vào nhau. Mãi một lúc Thu Đào mới như bừng tỉnh lại và ý thức được khoảng cách khá gần gũi giữa mình và Lê Tuấn nên vội đẩy chàng ra. Lê Tuấn cũng hiểu ý nên hỏi trớ đi để chữa thẹn cho nàng:
- Nàng không sao chứ!
Thu Đào ngượng ngùng đáp:
- Ta không sao!
Lê Hạo lúc này đã phát hiện ra lông mày và một mảng tóc ở thái dương bên trái của Thu Đào đã bị cháy xém, da cũng đỏ ửng lên vì bị lửa táp. Chàng đưa tay chỉ vào và nói:
- Còn nói không sao à? Trán bị bỏng đỏ ửng hết lên rồi đây!
Lê Tuấn sốt ruột lần nữa không ngần ngại kéo Thu Đào lại gần để xem cho kỹ. Chàng đưa ngón tay lên xoa nhẹ nhàng lên vết bỏng rồi thở dài xác nhận:
- Đúng là mặt nàng đã bị bỏng rồi!
Thu Đào lúc này cũng đã cảm giác được một chút nóng rát nên đưa tay sờ thử:
- Á! Rát quá!
Lê Tuấn vì quá lo lắng nên lại lỡ miệng:
- Đừng lo, trong cung có rất nhiều thuốc tốt, ngày mai ta lập tức sai Đào Biểu mang đến cho nàng!
Thu Đào nghe xong cảm thấy Lê Tuấn bốc phét quá nên tranh thủ cạnh khoé:
- Một tên thị vệ mà dám định lấy thuốc của hoàng cung mang ra ngoài, chàng nghĩ bản thân mình có mấy cái đầu cho Hoàng Thượng chém mà ngông cuồng như vậy!
Lê Hạo chen vào cứu nguy cho anh trai:
- Biểu huynh tuy là thị vệ nhưng phụ thân là trọng thần của triều đình, hơn nữa lại theo hầu Hoàng Thượng từ nhỏ, lời nói cũng có thể sai khiến được các vị công công Nội Phủ Giám đấy!
Thu Đào nhìn Lê Tuấn nghi hoặc nhưng chàng đã đáp lại với khẩu khí chắc nịch nên nàng mới tạm tin:
- Đúng vậy! Ngày mai ta mang thuốc đến cho nàng!
Lê Hạo nhìn gương mặt bị cháy xém của Thu Đào thì vừa thương lại vừa buồn cười, chàng nhớ đến việc lúc trước nàng đốt trầm hương nhưng không cẩn thận làm cháy lan ra màn cửa và giá sách, hại chàng bị cháy rụi mất quyển "Lý Bạch Thi Tập". Sau đó để chuộc lỗi, Thu Đào đã đích thân chép lại tập thơ đó tặng cho chàng, cuối trang còn không quên vẽ đóa hoa đào biểu thị cho tên của mình, như nhắc chàng mỗi lần đọc đều phải nhớ đến nàng.
Lê Hạo bất giác buông lời bông đùa:
- Hễ nàng đụng đến lửa thì không cháy nhà cũng cháy xém cả tóc tai mặt mũi, ai mà dám giao trọng trách cho nàng thì quả thật dũng cảm vô cùng!
Thu Đào vẫn không chịu thua, vẫn huênh hoang ra vẻ anh hùng:
- Nếu sợ ta làm hỏng việc, thì cứ để chính ta chịu trách nhiệm là được, ta sợ phạt tự khắc sẽ cẩn thận lại thôi!
Thu Đào nói xong thì đứng dậy đi đến chiếc lồng đèn đã bị cháy rụi, nàng nhặt lên xem và thắc mắc:
- Sao lại dễ bắt lửa quá vậy? Những chiếc khác đang treo vẫn bình thường đó thôi!
Thu Đào đang lay hoay tìm hiểu nguyên nhân vụ "tai nạn" của mình, thì trong lúc đó, đầu óc tài năng của Lê Hạo đã nhờ vào câu nói vô tình "chính ta chịu trách nhiệm" của nàng mà nghĩ ra một đối sách vẹn toàn. Đôi mắt chàng sáng lên nhìn Lê Tuấn phấn khởi:
- Biểu huynh! Xem ra nếu như sợ nàng làm sai, thì cứ bắt chính nàng chịu trách nhiệm là được!
Lê Tuấn nghe xong hiểu ngay, chàng gật đầu mỉm cười hài lòng:
- Tứ đệ nói đúng, cứ bắt nàng chịu trách nhiệm sẽ tự khắc biết cân nhắc!
Thu Đào nghe hai người nói cái gì mà "bắt nàng chịu trách nhiệm" nên cảm thấy chột dạ, mặt đần ra hỏi:
- Gì chứ! Ta phải chịu trách nhiệm gì?
* * * Hết chương 10 ----
Chú thích:
1. (*) Lý Bạch: Là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường của Trung Hoa.
Thu Đào ngồi trước gương từ từ tháo miếng vải băng trên thái dương ra, nàng giật mình không ngờ vết bỏng lại hơi rộng như thế, lớp da ngoài bị cháy rách toạc ra để lộ lần da non mỏng rỉ dịch ướt đẫm, nàng phải liên tục thay băng để tránh nhiễm trùng và xuýt xoa thầm ước phải chi thời này cũng có kem trị bỏng, càng lo lắng không biết với trình độ y học lúc bấy giờ có thể giúp nàng trị sẹo hay không. Thu Đào nhìn vết thương một lúc rồi tặc lưỡi:
- Thôi cũng mặc, xấu thì khỏi tiến cung nữa vậy! Không cần phải ngày đêm lo lắng cho số phận của mình nữa!
Nàng tự mình băng vết thương lại, chỉ cốt sao không nhiễm trùng là được.
Tối đêm qua khi trở về phủ, thấy con gái bị bỏng to trên mặt, Nguyễn đại nhân cũng không nở quở trách mà lập tức cho thầy thuốc đến xem. Nguyễn phu nhân thì tức tốc đi tìm thuốc tốt trị sẹo cho con gái, bà than vắn thở dài lo lắng vết thương sẽ để lại sẹo. Nguyễn đại nhân cũng không kiềm lòng được mà than rằng:
- Ta biết ăn nói sao với thánh thượng đây!
Thế đấy, đối với phụ nữ thời phong kiến thì nhan sắc thật sự rất quan trọng! Ai nấy sốt vó lên khiến Thu Đào cũng chột dạ, không dám lơ là chăm sóc vết bỏng.
Ngồi trong phòng khó tránh khỏi ngột ngạt, Thu Đào băng bó kỹ vết bỏng xong thì bước ra ngoài dạo mát. Sáng nay trời trong mây trắng, hoa bách hợp, hoa hồng ở hậu viện đua nhau khoe sắc. Nàng rất thích nhìn tia nắng chói chang chiếu thẳng vào những giọt sương trên cánh hoa, giọt sương được mặt trời soi rọi liền phát sáng lên, nhìn từ xa giống như có muôn vàn hạt kim cương lấp lánh giữa vườn hoa rực rỡ sắc màu, thích mắt vô cùng. Trong lúc cao hứng, Thu Đào nhớ đến quả cầu lông chim xinh đẹp của Hoàng Thượng tặng, bèn lấy ra chơi. Vốn định rủ theo Xuân Mai và Thu Hằng, nhưng ai nấy đều bận rộn cả. Thu Hằng thì cứ trốn mãi trong phòng, bảo rằng muốn tranh thủ những ngày không đến lớp để yên tĩnh luyện chữ, vẽ tranh, đúng theo kiểu tiểu thư khuê môn nết na thuỳ mị mà Thu Đào vẫn thấy trên phim ảnh. Xuân Mai thì từ sáng chẳng thấy tăm hơi, có lẽ là bận rộn việc sửa soạn phục sức cho cha mẹ tối nay vào cung dự yến tiệc đêm Trung Thu của triều đình. Theo dự tính ban đầu thì Thu Đào cũng sẽ theo vào dự yến tiệc, nhưng vì bị bỏng bất ngờ, không tiện ra ngoài nên đêm nay xác định rằng nàng sẽ ở lại phủ đệ. Cũng tiếc thật đấy! Biết bao giờ mới lại có dịp dự cung yến đây?
Ngẫm lại từ lúc lạc đến đây, nàng mang thân phận đại tiểu thư trong phủ đệ, lại vừa khỏi bệnh nên bên cạnh lúc nào cũng có cha mẹ, có Xuân Mai hoặc ít nhất cũng là gia nhân bên cạnh hầu hạ, hôm nay là ngày đầu tiên Thu Đào bị "cô đơn" một mình, vì ai nấy đều bận rộn chuẩn bị nào quà tặng, nào áo mũ, lại thêm cả việc trang hoàng cho phủ đệ đón Trung Thu, nàng vô tình bị cả thế giới bỏ quên mất!
- Chẳng mấy khi được tự do yên tĩnh, tận hưởng cảm giác muốn làm gì tuỳ thích hết hôm nay vậy!
Thu Đào tìm ra một lý do để tự an ủi nỗi cô đơn của mình. Nàng cầm quả cầu lông chim lên đá. Nhưng thật buồn làm sao! Quả cầu chỉ nhảy nhót trên chân nàng được chừng năm bảy lần thì lại rơi xuống hết lần này đến lần khác. Thu Đào vẫn kiên trì luyện tập.
Một, hai, ba.. tám, chín.. Quả cầu rơi xuống đất.
Nhặt lên làm lại.. sáu, bảy, tám.. Lại rơi..
Nàng hì hụt đá và đá, đầu liên tục ngẩng lên rồi hình xuống theo sát điệu nhảy của quả cầu lông chim.
- Trời ơi đại tiểu thư của ta, nàng đang làm gì vậy, dừng lại ngay!
Từ đâu vọng đến một giọng nói quen thuộc. Thu Đào quay đầu lại nhìn thì thấy Lê Tuấn tay cầm một hộp nhỏ hấp tấp chạy đến. Chàng thở hồng hộc từng hơi gấp gáp nhưng vẫn cố "mắng" nàng bằng giọng nghiêm khắc nhưng rất dịu dàng:
- Nàng.. quả thật.. quá nghịch ngợm! Vết thương chưa lành mà bị thấm mồ hôi sẽ nặng thêm! Đồ ngốc! Nàng không sợ bị huỷ dung nhan à!
Thu Đào chưa kịp phản ứng gì, Lê Tuấn đã vội vàng rút trong tay áo ra chiếc khăn lụa mềm, cẩn thận đến gần lau khô từng giọt mồ hôi trên trán, cốt sao cho mồ hôi không chảy vào làm ướt vết thương.
Một làn gió không biết từ đâu thổi đến, thổi cả hơi thở và mùi hương của chàng lên mặt Thu Đào. Không biết phải diễn tả mùi hương trên người chàng như thế nào cho chính xác, chỉ biết nó giống như mùi thơm của những cánh hoa hồng khô! Trà My của trước đây rất hay thu gom cánh hoa hồng rồi đem phơi, sau đó cho vào máy phun tinh dầu cùng với chút tinh dầu hoa hồng rồi bật công tắc lên. Đúng, chính là mùi tinh dầu hoa hồng và những cánh hoa khô mà nàng thường hay dùng để xông phòng ngủ!
Dưới ánh nắng, Thu Đào thấy gương mặt chàng sáng lên lạ thường, mắt to mày rậm, đôi môi dày dặn ngay ngắn, khoé miệng hướng lên trên, sắc môi hồng hào tươi tắn. Mũi chàng cao thẳng tắp, nhân trung sâu.. Nhìn thật anh tuấn vô cùng! Nét đẹp này nào có thua kém gì những nghệ sĩ showbit thời hiện đại? Thu Đào nhủ thầm và giật mình khi thấy tự dưng sao mình lại đắm chìm với gương mặt này như thế!
Lê Tuấn từ nãy đến giờ mãi lo cho vết bỏng của nàng, cũng không ý thức được ánh mắt tràn ngập ý tứ của Thu Đào dành cho mình, chàng lau xong thì kéo nàng đến đình hóng mát ngồi. Đẩy chiếc hộp nhỏ màu đỏ ra trước mặt Thu Đào, Lê Tuấn nói:
- Ta mang đến cho nàng hộp Khương Hoàng (*) cao này, trước đây mẫu thân ta có lần sơ ý làm trầy mặt, người đã nhờ loại cao này mới xóa được vết sẹo, khôi phục lại dung nhan! Nàng nhớ phải bôi thuốc đều đặn mỗi ngày hai lần nhé!
- Huỷ dung thì Hoàng Thượng sẽ chê bai ta xấu xí, vậy là không cần tiến cung nữa rồi!
Lê Tuấn cốc vào đầu nàng một cái rõ mạnh mắng yêu rằng:
- Đồ ngốc! Hoàng Thượng nhất ngôn cửu đỉnh, dù nàng có thế nào thì cũng chắc chắn phải tiến cung, lo mà giữ gìn dung nhan để sau này còn tranh sủng đi!
- Ai thèm tranh sủng! Người yêu ta nhất định sẽ yêu ta, muốn tranh cũng chẳng thể tranh được! – Thu Đào nhăn mặt xoa xoa chỗ bị cốc cho bớt đau và cong môi phản bác.
Lê Tuấn nghe qua lý lẽ của cô nương ngang tàn này lại thấy rất đúng với lòng mình. Phải rồi! Trong lòng chàng đã yêu thích nàng, thì dù nàng có ra sao chàng vẫn rất yêu thích, sau này tiến cung chắc chắn nàng sẽ là sủng phi mà chẳng cần phải tranh giành gì cả!
Thu Đào mặc kệ Lê Tuấn đang ngồi đó cười tủm tỉm, nàng cầm chiếc hộp lên ngắm nghía rồi mở nắp ra ngửi thử. Một chất kem sền sệt màu vàng đậm, mùi thơm nồng xộc vào mũi, Thu Đào nhận ra ngay bèn reo lên:
- A! Đây là "kem nghệ" à?
Lê Tuấn nghe thấy cái tên lạ lùng nên thắc mắc:
- Nàng nói gì? "Kem nghệ?" Đây là loại thuốc được điều chế từ Khương Hoàng!
Thu Đào hớn hở giải thích với chàng, rằng thứ thuốc chàng mang đến là loại kem làm từ củ nghệ, ở thời hiện đại nàng hay dùng trị mụn. Lê Tuấn nghe nhiều quá những từ ngữ hiện đại nên cứ ù ù cạc cạc nhưng vẫn gật gật đầu cố gắng hiểu trông đến là tội nghiệp. Tuy vậy, nghệ vẫn đúng là một loại dược phẩm dân gian có tác dụng liền sẹo sát trùng nên Thu Đào đã vui vẻ nhận lấy.
Đang chuyện trò thì đột nhiên Lê Tuấn trầm ngâm nét mặt nhìn nàng dặn dò:
- Hai ngày sau ta phải theo Hoàng Thượng xuất chinh đánh giặc, khi trở về ta muốn nhìn thấy gương mặt nàng bình phục như xưa. Nàng không được ra ngoài ánh nắng quá nhiều, hay là nghịch ngợm để mồ hôi chảy vào vết thương đấy!
Lê Tuấn gật đầu kể lại sự việc loạn đảng Bí Cai, và nguyên nhân khiến chàng phải ra trận, mọi thứ đều kể sự thật, chỉ riêng việc chàng chính là Hoàng Đế và những toan tính với Nghi Dân là còn giấu diếm. Kể xong chàng cười cười hỏi nàng:
- Vạn nhất.. Hoàng Thượng không thể trở về được, thì nàng không cần tiến cung nữa, chắc nàng vui lắm đúng không?
Vốn dĩ Thu Đào biết rõ ba năm sau Nhân Tông mới bị Nghi Dân ám sát nên nàng buộc miệng mà nói một cách tự nhiên không suy nghĩ:
- Chắc chắn Hoàng Thượng sẽ bình an trở về rồi, vì rõ ràng ba năm sau mới..
Đang nói thì Thu Đào nhận ra mình lỡ lời, nếu dám buông lời trù ẻo thánh thượng chết trẻ lúc này, nếu ai nghe thấy chắc chắn sẽ lớn chuyện. Đang suy tính không biết nói sao tiếp theo thì Lê Tuấn đã hỏi giọng đầy thắc mắc:
- Sao nàng lại chắc chắn Hoàng Thượng sẽ bình an trở về? Ba năm sau mới thế nào?
Thu Đào bối rối chẳng biết giải thích sao, cứ ấp a ấp úng:
- À, thì, thì Hoàng Thượng vạn tuế mà, ba năm sau mới chỉ gần hai mươi..
Nói đến đây thì Thu Đào ngưng hẳn! Thật chẳng biết cách nào mà giải thích cho được!
Lê Tuấn nghe xong lại nghĩ nàng chỉ là một nữ nhi bình thường, đứng trước việc lớn cũng chỉ là nói theo ý mong muốn điều tốt đẹp, chứ nàng làm sao hiểu được việc điều binh khiển tướng, đối phó thù trong giặc ngoài khó khăn như thế nào mà phán đoán hay đưa ra nhận định! Nhìn nữ nhi xinh đẹp trước mặt, bất giác chàng rất muốn mình bình an trở về, để sang thu chính thức đón nàng vào cung, bảo bọc nàng một đời an nhàn phú quý. Chàng dịu dàng nói:
- Nàng nói đúng, Hoàng Thượng sẽ trở về, để còn đón nàng vào cung chứ!
Thu Đào cảm thấy tên này thật quái lạ. Hành động lời nói thì rõ ràng có tình ý với mình, nhưng sao hắn lại luôn nhắc đến việc mình sẽ trở thành cung tần một cách thoãi mái không hề buồn rầu vậy? Đàn ông thật khó hiểu! Nghĩ đến đây, Thu Đào nhận ra Lê Tuấn cũng phải theo Hoàng Thượng ra trận. Nàng bỗng thấy bồi hồi lo sợ nghĩ cho an nguy của chàng. Đi đánh giặc đâu phải chuyện đùa, huống chi chàng thân là thị vệ, chắc chắn phải ở trong tư thế xả thân bảo vệ thánh giá, nguy hiểm của chàng còn cao gấp nhiều lần Hoàng Thượng! Sao chàng có thể thoãi mái nhẹ nhàng đối mặt như vậy?
- Còn chàng, vừa bảo vệ Hoàng Thượng, vừa phải lo cho bản thân mình, ta thấy chàng mới chính là người khó lòng trở về! – Thu Đào lo lắng nhưng cũng không bỏ được thói "cà khịa".
Lê Tuấn nhìn ánh mắt ấy một lúc lâu, chàng thừa hiểu nàng đã bắt đầu quan tâm đến mình, một niềm hạnh phúc lạ lùng dâng trào nơi lồng ngực, chàng chầm chậm nhìn sâu vào mắt nàng, giọng ấm áp nhẹ nhàng nhưng chứa đựng một lời hứa chắc nịch:
- Ta nhất định trở về bình an, nàng đừng lo!
Thu Đào nghe xong thấy tim mình đập liên hồi, ai ngồi đủ gần chắc sẽ nghe rõ cả tiếng "thình, thình" trong ngực nàng. Một cảm xúc khó tả đang chực chờ tràn ra khỏi lồng ngực, hai má nàng nóng hổi thẹn thùng:
- Ai thèm lo cho chàng!
Nói xong liền cầm quả cầu lông chim lên chạy ra giữa sân, giả vờ rằng mình chỉ quan tâm đến việc tập đá cầu, chứ chẳng hề mảy may nghĩ cho an nguy của Lê Tuấn.
Lê Tuấn cười tươi chạy theo sau nàng, nhìn thấy quả cầu lông chim mình đích thân làm rồi sai người mang đến phủ đệ, chàng cảm giác mình và nàng chắc chắc có duyên phận, chắc chắn sau này sẽ bên nhau thật hạnh phúc!
- Chàng có biết chuyện đá cầu để chúc mừng tuổi thọ không? – Thu Đào hỏi.
- Tất nhiên là biết, năm nào vào dịp Tết trong cung cũng có đá cầu mừng tuổi thọ cho Hoàng Thượng và Thái Hậu mà!
Thu Đào bỗng dưng không kiềm được mà nhìn chàng lâu hơn một chút, nàng nói:
- Ta sẽ tập luyện đến khi đá được hơn trăm lần, khi nào đến sinh thần của chàng ta sẽ đá cho chàng xem!
Giữa hoa viên đầy nắng gió, họ mỉm cười đứng nhìn nhau như hứa hẹn điều gì đó mà chẳng ai trong hai người định nghĩa được.
Từ phía xa, Lê Hạo giấu trong tay áo một bình thuốc nhỏ, lặng lẽ đứng khuất sau một góc hậu viện nhìn hai người, nấm tay siết lại càng lúc càng chặt hơn.
- Là ta tự tay đẩy nàng ra xa, chính ta từ bỏ nàng trước! Ta không có quyền oán hận ai hết!
Lê Hạo quay lưng rời đi, đôi bàn chân bước nhanh như muốn trốn chạy, muốn bỏ lại phía sau tất cả quá khứ của mình và Thu Đào.
Đang cúi đầu tiến thẳng ra cổng phủ đệ, chàng vô tình bắt gặp Thu Hằng đã đứng sau lưng quan sát mình tự bao giờ. Lê Hạo hơi bối rối, chàng chỉ nhìn Thu Hằng một cái thờ ơ và chóng vánh, rồi cứ thế bỏ đi không nói gì.
* * *
Thu Hằng ngồi lặng lẽ trong khuê phòng nhớ lại sự việc tối đêm qua khi nàng đến thư phòng tìm Lê Hạo theo lời dặn của Ngô phu nhân. Giữa đường, nàng bắt gặp Lê Hạo tay cầm đĩa điểm tâm hướng về phía hồ cẩm lý mà đi. Thu Hằng nhìn món bánh trôi trong đĩa, rồi nhìn Lê Hạo như muốn hỏi xem chàng đang định đi đâu. Lê Hạo không nói gì chỉ hướng mắt về phía đình hóng mát trên mặt hồ để ngầm trả lời cho nàng. Thu Hằng cười buồn:
- Có vẻ chàng không có thời gian để ngắm trăng cùng ta và Ngô phu nhân rồi đúng không?
Lê Hạo có chút áy náy trả lời:
- Ta có việc phải nói với Lê Tuấn, nhờ nàng báo lại với mẫu thân! Chúng ta hẹn dịp khác vậy!
Thu Hằng không nói gì nữa, lặng lẽ nép sang một bên nhường đường. Lê Hạo khẽ nghiêng đầu chào nàng rồi bước đi. Thu Hằng nhìn theo mà hai mắt ngấn lệ. Bánh trôi là món điểm tâm mà từ bé đến giờ Thu Đào rất thích, chỉ cần nhìn thấy đĩa bánh là hiểu ngay tâm tư của Lê Hạo chưa bao giờ rời khỏi Thu Đào, cho dù là Thu Đào của quá khứ hay hiện tại. Thu Hằng ngửa mặt lên hít một hơi sâu để nước mắt không chảy ra, nàng cố lên tiếng nói thêm một câu với theo đủ để Lê Hạo nghe thấy:
- Hà tất phải cố níu kéo những thứ chắc chắn không thuộc về mình!
Lê Hạo nghe thấy câu nói của Thu Hằng bèn đứng lại vài giây, khẽ quay đầu lại nhìn một lần rồi cứ thế đi tiếp. Phải! Lê Hạo có dừng lại nghe nàng nói, chứng tỏ chàng vẫn biết cục diện đã không thể thay đổi nữa, nhưng cái thái độ dứt khoát bước đi như muốn nói với Thu Hằng rằng lý trí của chàng không thắng nổi trái tim.
Đêm nay, Thu Hằng sẽ cùng cha mẹ vào cung dự yến tiệc, đây là lần đầu tiên nàng được bước vào cung cấm, biết đâu chừng sẽ có dịp gặp được Hoàng Thượng. Mặc dù trong lòng chỉ có Lê Hạo, nhưng Thu Hằng không tránh khỏi ghen tị với sự may mắn của Thu Đào được bậc minh quân để mắt. Hoàng Thượng lại chưa có bất kỳ cung tần mỹ nữ nào, địa vị của Thu Đào trong cung sau này thật khó mà tưởng tượng ra nổi.
- Ta thật nhỏ bé trước tỷ! – Nàng chép miệng than thở một mình.
Thu Hằng nhúng chiếc lược ngà màu trắng đục vào chậu nước nóng có tẩm hương hoa nhài (*), nàng vẫy vẫy cho nước rơi ra bớt rồi nhẹ nhàng chải lên mái tóc dài chấm thắt lưng. Vừa chải tóc nàng vừa ngắm nhìn gương mặt mình trong gương. Nếu xét ra Thu Hằng cũng là một vị mỹ nhân, nước da trắng sáng, dáng vóc mảnh mai, gương mặt trái xoan đường nét hài hòa, đặc biệt nàng có đôi mắt to long lanh như mặt nước hồ thu, sống động và rất có hồn. Nàng mỹ miều là thế, nhưng chỉ cần có Thu Đào xuất hiện bên cạnh, thì mọi sự chú ý đều đổ dồn về phía Thu Đào, như thể nàng chưa từng lọt vào mắt họ. Có lẽ vì lòng ganh ghét ngấm ngầm nên tuy là tỷ muội song sinh nhưng Thu Hằng chẳng bao giờ muốn thân thiết với Thu Đào cả. Người xưa thường nói tướng tại tâm sinh, tâm không thiện ắt sẽ hiện lên nét mặt, càng không thể tỏa ra khí chất tươi sáng thân thiện khiến nhiều người quý mến được! Thu Hằng cũng tự biết mình là người có tâm cơ sâu xa, không được hồn nhiên vô tư như tỷ tỷ, nhưng nàng sinh ra trong gia đình gia giáo đức hạnh, dù có dã tâm cũng sẽ sớm bị dập tắt và chấn chỉnh.
Chải tóc xong, Thu Hằng tiến đến giường ngủ lôi ra bộ y phục được giấu kỹ bên dưới lớp đệm. Đây chính là bộ y phục Thu Hằng đã mặc trong ngày phụ giúp Thu Đào làm lồng đèn. Nàng dùng ngón tay sờ qua sợ lại lên chỗ gấu váy bị dính một vết dầu hôi. Vết dầu to rõ rệt hiện trên nền váy trắng tinh trông thật ô uế, ô uế như chính nội tâm của bản thân mình vậy! Một giọt nước mắt ăn năn rơi xuống.
Thu Hằng lấy ra một chậu đồng, cho bộ y phục vào đốt để xóa sạch chứng cứ. Nguyên cớ là ngày hôm ấy, trong lúc ai nấy tất bật làm lồng đèn trang trí, Thu Hằng cũng đi phụ giúp khuấy hồ dán, nàng vì muốn biến công trạng của Thu Đào thành ra tội trạng, nên đã lén cho dầu hôi dùng để thắp đèn vào trong hồ dán và trộn đều, định bụng sẽ khiến tất cả lồng đèn được dán bằng hồ này đồng loạt bốc cháy. Như thế, mọi người sẽ cho rằng Thu Đào chỉ là một ranh con thích bày trò nghịch ngợm, chẳng có gì là thông minh đáng khen hay đáng được thưởng cả. Thu Đào bị chê bai chính là một liều thuốc xoa dịu tâm hồn tự ti mặc cảm này của nàng. Suy tính là thế, nhưng trong lúc dọn dẹp và phân chia lồng đèn để làm quà đi các nơi, Thu Hằng chợt nhớ ra Huy Văn Tự cũng là nơi sẽ được nhận quà, rồi nàng thoáng rùng mình nghĩ đến cảnh tượng một ngôi chùa thanh tịnh bị bốc cháy chỉ vì lòng đố kỵ nhỏ nhen của mình, thêm vào đó là Lê Hạo và Ngô phu nhân cũng sinh sống ở đó, nếu chẳng may làm hại đến họ thì nàng quả là chết cũng không đền hết tội. Ngay lập tức Thu Hằng mượn cớ rằng treo nhiều đèn quá sẽ rối mắt rồi cho thu hết lại những chiếc đèn đã bị "giở trò" đem xếp hết vào kho chờ xử lý sau, chính vì vậy mà số lượng lồng đèn được treo lên đã ít hẳn đi. Việc Thu Đào vô tình bị bỏng là hoàn toàn nằm ngoài mục đích của nàng. Nhìn thấy vết thương trên mặt tỷ tỷ, sự lo lắng của cha mẹ, và cả ánh mắt đau xót Lê Hạo dành cho Thu Đào, nàng cảm thấy mình thật xấu xa tồi tệ!
Thu Hằng thẩn thờ ngồi nhìn ngọn lửa đang đốt cháy bộ y phục trong chậu, nàng chỉ ước ngọn lửa đó cũng có thể thiêu rụi được tâm cơ thâm độc từng xuất hiện trong lòng này! Nàng đã tự vấn lương tâm mình rất nhiều lần rằng tại sao bản thân có thể trở nên xấu xa như vậy được? Cũng may nàng đã thức tỉnh kịp thời, tuy đã vô tình hại người nhưng đó không phải điều nàng mong muốn.
- Xin lỗi Thu Đào, xin lỗi chàng! Nữ nhân xấu xa như ta quả thật chẳng xứng đáng với chàng! – Thu Hằng thổn thức nhủ thầm.
Vốn là người hiểu rõ bản tính của Thu Đào nhất, Lê Hạo đoán biết tối nay không được dự cung yến mà phải ở lại phủ đệ một mình chắc chắn nàng sẽ chẳng chịu cam tâm an phận, không khéo lại tự tung tự tác gây ra họa gì cũng nên. Tuy nói là từ sau khi bạo bệnh mất hết ký ức, Thu Đào đã không còn là con người trước kia, nhưng trong mắt Lê Hạo nàng vẫn chính là Thu Đào của chàng, vẫn là người con gái hoạt bát thông minh, tính tình trẻ con bốc đồng. Nghĩ đến cảnh tượng nàng phải chịu buồn bã ở lại trong phủ nhìn người người đi dự yến, hoặc là nàng sẽ bỏ trốn khỏi phủ đệ tham gia vào những trò hoạt náo ở phố phường rồi va chạm với những kẻ giang hồ hiếu chiến mà gây họa như trước kia, Lê Hạo cảm thấy thật không muốn để xảy ra sự cố ấy chút nào!
Lê Hạo nhớ lại năm trước, nàng chỉ mới mười ba tuổi, vào dịp tiết Trùng Dương (*) năm ấy triều đình có dịp đón tiếp sứ thần nhà Minh cùng dự yến với hoàng thân quốc thích của Đại Việt. Nguyên nhân việc sứ thần tham dự vào gia yến (*) năm ấy là bởi chính ngài ấy đã tự bày tỏ nguyện vọng với Thái Hậu, mục đích là muốn tìm hiểu thêm về văn hóa gia phong hoàng tộc Đại Việt, hiểu rõ về nhau sẽ giúp thắt chặc thịnh tình hai nước. Biết được người phương Bắc rất tin vào phong thuỷ thiên tượng, họ cho rằng sáu và chín là những con số may mắn nên sau khi dùng các món chính của yến tiệc, Thái Hậu đã chuẩn bị một bàn điểm tâm đặc biệt gồm chín đĩa điểm tâm, sáu đĩa hoa quả đặc sản của Đại Việt để thiết đãi sứ thần. Thu Đào lúc ấy cũng được dịp theo Nguyễn Đức Trung đại nhân đến Cần Chính Điện dự yến cùng các công chúa hoàng tử. Chẳng biết thế nào mà đĩa bánh trôi bột nếp trong vắt, nhân đỏ thẫm đẹp mắt đã vào tầm ngắm của nàng ta. Nhân lúc các cung nữ bận rộn bày biện trang trí, nàng đã lén lút trộm mất một đĩa bánh trôi rồi mang ra ngự hoa viên, còn rủ thêm Lê Hạo theo ra cùng thưởng thức. Lê Hạo lúc đó ngây ngô chẳng biết nguồn gốc của đĩa bánh nên cả hai đã vui vẻ vừa ăn vừa ngắm những chiếc đèn hoa sen đang trôi bồng bềnh dưới ngự hồ của hoàng cung. Đến lúc Thái Hậu mời sứ thần dùng điểm tâm tráng miệng, ông ta đã chú ý đến số lượng đĩa đang được bày biện và hỏi một câu khiến Thái Hậu phải bất ngờ:
- Bẩm Thái Hậu, bổn sứ ta xưa nay rất quan tâm việc tìm hiểu về nền văn hóa của quý quốc, nay được thiết đãi yến tiệc long trọng, trong lòng bổ sứ cảm kích tấm thịnh tình của quý quốc vô cùng. Nhưng thứ lỗi cho ta hiểu biết nông cạn, xin Thái Hậu khai sáng cho một việc. Theo như nghi thức thông thường, ta hay được thiết đãi chín đĩa điểm tâm, sáu đĩa hoa quả biểu trưng cho vĩnh cửu, tài lộc. Tại sao lần này lại là tám và sáu?
Thái Hậu nghe xong mặt biến sắc, bối rối không hiểu vì sao chỉ còn có tám? Nhưng chẳng lẽ lại đi thừa nhận với sứ thần rằng do cung nhân sơ suất để thiếu sót? Mà nếu không phải thế thì biết nói sao? Ngay lúc nghe sứ thần hỏi Lê Hạo đã lạnh sống lưng nghĩ ngay đến đĩa bánh trôi lúc nãy, chàng biết ngay là họa do Thu Đào gây ra, nhưng lúc đó nàng chỉ đơn giản nghĩ rằng đến ngự thiện phòng lấy đi một đĩa bánh có gì là to tát, hoàn toàn không biết đó là vật phẩm thiết đãi sứ thần, vẫn thản nhiên ngồi ở hàng ghế dành cho nữ tử nhà quan lại, hết nếm món này rồi động đũa món khác. Chính bản thân chàng lúc này cũng chưa biết nên làm thế nào, thì Lê Tuấn - lúc ấy đã đích thân chấp chính - ôn tồn đứng lên, hai bàn tay đan mười ngón lại ngay ngắn đưa lên ngang mặt, hành lễ nghĩa rất đúng mực với sứ thần phương Bắc, rồi chàng chậm rãi nói với sứ thần bằng tiếng Hán một cách trôi chảy:
- 这儿是朕的主意的. 听说在贵国所地方有一个叫广东. 在广东方言, "八" 和 "発", "六" 和 "禄" 的发音是一样的! 所以用广东方言来发音八六就是 "発禄", 盛好的意义对吗? (Đây là chủ ý của Trẫm. Nghe nói ở quý quốc có một địa phương gọi là Quảng Đông, trong tiếng Quảng Đông thì chữ "tám" và chữ "phát" đồng âm, chữ "sáu" và chữ "lộc" đồng âm. Như thế thì "sáu tám" phát âm ra là "Phát Lộc", mang ý nghĩa rất tốt đúng không)
Sứ thần nghe xong rất lấy làm nể phục Hoàng Đế Đại Việt, hết lời khen ngợi nhà vua tuổi trẻ tài cao, chẳng những phong thái nho nhã anh tuấn mà còn am hiểu sâu rộng. Tiếng phương Bắc không phải ai cũng nói được trôi chảy như thế, thân là quân chủ một nước Lê Tuấn quả không thẹn với văn võ bá quan trong triều, ai nấy đều muôn phần bội phục Nhân Tông Hoàng Đế của họ.
Lê Hạo nghĩ đến đây thì bất giác mỉm cười, chàng cảm thấy kiếp này được gặp gỡ Thu Đào, được là huynh đệ với Lê Tuấn thì có chết cũng không còn gì hối tiếc.
Đoạn chàng nhớ ra việc cần làm là phải đến phủ đệ Chỉ Huy Sứ để lén đưa Thu Đào vào dự cung yến. Để tránh điềm xấu, khi hoàng tộc có tiệc tùng thường không mời người đang để tang, người đang bệnh hoặc thương tích, mà Thu Đào lại đang có vết bỏng trên mặt nên tất nhiên không thể đường đường chính chính mà tham dự được. Lê Hạo bèn nói với Ngô phu nhân hãy vào cung trước, chàng có công vụ phải giải quyết, sẽ vào cùng mẫu thân sau. Tiễn mẹ lên kiệu xong, Lê Hạo lấy ra một bộ quần áo của nam nhi và có thêm cả một chiếc mũ vãi, khi đội lên sẽ giúp Thu Đào che được vết thương trên mặt. Chàng mang theo tay nải vui vẻ đến phủ đệ.
* * *
Đêm Trung Thu trăng sáng vằng vặc, Thu Đào chán nản ngồi trên bậc cửa không ngừng nài nỉ Xuân Mai xuống phố dạo chơi, nhưng cô tì nữ này rất mực ngoan ngoãn, có thuyết phục thế nào nàng ta vẫn nhất quyết nghe lời căn dặn của Lê Tuấn ban chiều, rằng tuyệt đối không được để tiểu thư ra ngoài nắng ngoài gió, không được để tiểu thư đi chơi quá khuya, không được để tiểu thư vận động nhiều làm mồ hôi thấm ướt vết thương.. Cứ mỗi lần Thu Đài "dụ dỗ" thì Xuân Mai lại nhớ ra một câu dặn dò của Lê Tuấn lúc sáng khi chàng đến thăm. Thu Đào cảm thấy tên này còn phiền phức hơn cả Nguyễn phu nhân, mẫu thân của mình hiện tại.
- Dẫu biết hắn có ý tốt với ta, nhưng do Xuân Mai quá nể sợ hắn mà răm rắp nghe lời, hại ta đêm trăng đẹp đẽ thế này lại phải bó gối ngồi ở nhà! Phải đợi đến năm sau mới có dịp đi chơi Trung Thu thời phong kiến sao? À, mà biết đâu trong nay mai ta sẽ về được năm 2022, vậy xem như ta bỏ lỡ mất cơ hội du hành đêm trăng tại Lê Triều rồi? Tiếc rẻ biết bao nhiêu!
Thu Đào than ngắn thở dài mãi không thôi. Nàng hết đứng lại ngồi, đi đi lại lại trông đến là tội nghiệp. Đang chống cằm ngắm trời nắm đất trong tuyệt vọng, Thu Đào chợt nghe tiếng Xuân Mai đang tưới hoa trước sân lễ phép chào:
- Lê công tử! Người không đi dự yến à? Sao lại đến phủ đệ có việc gì chăng?
Lê Hạo tươi cười trả lời Xuân Mai nhưng mắt thì nhìn về phía Thu Đào hóm hỉnh trêu:
- Ta không đến thì e sẽ có người buồn phiền đến phát điên!
Thu Đào thấy Lê Hạo đến trong lòng phấn khởi vô cùng, nhất là chàng lại còn đến cạnh bên đẩy chiếc tay nải vào lòng nàng nói:
- Đi thôi! Ta dắt nàng vào cung dự yến, nhưng không được để cho ai biết đâu đấy!
Thu Đào sung sướng phát điên reo lên:
- Được, được! Hay quá rồi, được đi "quẫy" rồi! Há há!
Thu Đào chẳng còn biết giữ ý tứ của một đại tiểu thư con nhà quan là gì, nàng cười khanh khách. Lúc mở tay nải ra thấy bộ quần áo của nam nhân, nàng còn cười lớn hơn nữa:
- Đúng kịch bản luôn! Nữ cải nam trang đi trẩy hội! Ha ha ha!
Nói xong nàng phi vào phòng riêng thay y phục, bỏ mặc Lê Hạo đứng đó ngớ ngẩn nói với Xuân Mai:
- Tiểu thư nhà nàng vừa nói gì vậy? Ta nghe không hiểu gì cả?
Xuân Mai lúc ấy cũng mắt tròn mắt dẹt suy nghĩ về những thứ mình vừa nghe được:
- Nô tì tuy có học được vài câu mới lạ của tiểu thư, nhưng mà.. "quẫy" là gì? Nô tì chưa được tiểu thư dạy cho!
Lê Hạo cũng đành chịu, chàng lắp bắp nhẩm lại từ ngữ như để lục tìm trong tri thức uyên thâm của mình xem có từng nghe qua chưa:
- "Qu.. ẫy.." à?
* * *
Thu Đào cứ như chú chim xổ lồng, bước chân nhảy nhót hết ngắm hàng vải lụa son phấn, lại tạt qua chỗ bán đồ chơi, lồng đèn. Nàng hết nhìn bên trái lại ngắm nghía bên phải, xuýt xoa khen ngợi phố phường ngày lễ hội của kinh thành Thăng Long. Thì ra thủ đô ta thời cổ lại trong lành, lại xinh đẹp đến thế! Những con đường vào ban đêm lung linh trong ánh nến ánh đèn, cũng người qua kẻ lại tấp nập, tiếng rao hàng, tiếng trẻ con nói cười tíu tít, khung cảnh vui như Tết chứ nào có phải tăm tối ảm đạm do thiếu ánh điện như trước giờ nàng vẫn tưởng tượng đâu!
Thu Đào mãi mê nhìn nhìn ngắm ngắm, chợt nàng nhớ ra trong các bộ phim cổ trang thường hay thấy có bán món hồ lô ngào đường, bèn quay sang Lê Hạo định hỏi chàng xem ở đây có không. Chưa kịp nói gì thì Lê Hạo đã giơ lên hai que kẹo hình bươm bướm trước mặt nàng nói:
- Nhìn nàng cứ như đứa trẻ lần đầu được đi chơi vậy! Ta nghĩ nàng đã quên hết chuyện trước kia, nên có lẽ đây đúng là lần đầu chúng ta cùng nhau đi lễ hội! Đây, món kẹo đường này lúc trước nàng rất thích, nếm thử đi!
Thu Đào cảm động trước sự ân cần của Lê Hạo lắm, nàng chợt nhớ đến Sỹ Thành, nhớ những cuối tuần hai đứa rong ruổi cùng nhau trên phố Tây Bùi Viện ăn hàng ăn quán, hay thong dong trên khu Nguyễn Huệ vừa đi vừa nhấm nháp ly trà sữa ngọt lịm.
- Bây giờ người đứng trước mặt mình là ai? Có phải là anh đấy không Sỹ Thành ơi! Em thật sự nhớ anh!
Thu Đào nghe như trong lòng dậy sóng, vừa nhớ người yêu, vừa nhìn Lê Hạo đầy thắc mắc hiếu kỳ. Làm sao giải thích được lý do chàng và Sỹ Thành lại giống nhau đến thế?
Thu Đào đón lấy que kẹo, dặn lòng phải tạm gác lại tương tư. Nàng tự nói với mình rằng đây không phải Sỹ Thành, chàng chính là Lê Tư Thành, người sau này sẽ là Hoàng Đế Đại Việt, người sẽ vẽ nên một đoạn sử hào hùng của Việt Nam ta. Ta may mắn được kề cần chàng thì nên biết trân trọng, cẩn thận mà học hỏi ở chàng nhiều điều hay lẽ phải mới đúng! Chứ sao trong đầu toàn chuyện tình yêu tầm thường thế được!
Đoạn nàng hỏi Lê Hạo việc về kẹo hồ lô:
- Lê công tử, ta được biết phương Bắc có món kẹo hồ lô ngào đường, Thăng Long ta có món đó không?
Lê Hạo chậm rãi giải thích:
- À! Ta từng đọc sách nên có biết kẹo hồ lô là món ăn truyền thống của người phương Bắc, họ dùng đường bao bọc quanh những loại trái cây có vị chua, thường là quả táo gai. Ta thấy cũng rất thú vị, tiếc là Đại Việt ta không có tập tục đó, nên ta cũng chưa được ăn thử bao giờ!
Thu Đào gật gù theo lời kể của chàng, đoạn nàng cầm que kẹo ăn hết một mạch rồi nói:
- Kẹo đường của Đại Việt ta cũng ngon quá! Lần đầu ta được thưởng thức hương vị này! Đa tạ chàng!
Lê Hạo mỉm cười rồi khéo léo nắm lấy cánh tay nàng kéo đi, họ lướt băng băng giữa dòng người tấp nập để kịp dự cung yến.
* * *
Trời đã tối hẳn.
Ông trăng to tròn như một chiếc gương đồng khổng lồ soi sáng khoảng sân rộng như một cái quảng trường của Cần Chính Điện.
Những chiếc đèn ông sao do Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung hiến tặng đã được treo khắp nơi. Những chiếc bàn nhỏ được xếp ngay ngắn thành bốn hàng ngang ở giữa sân, mỗi bàn dành cho một người ngồi, hàng trên cùng là dành cho các vị đại thần nhất phẩm, hoàng thân quốc thích, ba hàng còn lại được sắp xếp theo thứ ở phía trước thì chức quan lớn, ở phía sau là các vị quan cấp bậc thấp hơn.
Người qua kẻ lại tấp nập, gặp nhau chuyện trò thăm hỏi. Cung nữ thái giám bận bịu sắp xếp nào hoa quả, nào thức ăn, nào nến thơm. Nơi nơi đều được trang hoàng uy nghi lộng lẫy.
Lê Nhân Tông ngồi ở bàn giữa, trên chiếc ghế to dát vàng được chạm trổ hình rồng tinh xảo. Vua mặc hoàng bào có áo khoát ngoài dài quá gót, đầu đội mão cửu long, thắt lưng có mặt ngọc điêu khắc hình hai con rồng năm móng cuộn vào nhau thành vòng tròn ở trước bụng. Dáng vẻ uy nghi đường bệ, Nhân Tông nâng ly chúc tụng cho văn võ bá quan có một mùa trăng đoàn viên an khang. Toàn thể triều thần tung hô vạn tuế để đáp lễ nhà vua. Tiếng nhạc cung đình du dương cất lên ngay sau khi vua uống cạn chung rượu đầu tiên. Thái giám Đào Biểu đứng cạnh bên Nhân Tông không ngừng phe phẩy chiếc quạt làm bằng lông đuôi chim công, chốc chốc lại rót rượu dâng điểm tâm. Cung yến bắt đầu trong không khí vui tươi ấm áp nhưng không kém phần trang nghiêm.
Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân ngồi ở hàng ghế đầu tiên đối diện với Nhân Tông, tay nâng ly rượu, mắt nhìn vào ghế rồng đầy tư lự. Từ lúc mới bước vào Cần Chính Điện, Nghi Dân đã đảo mắt khắp nơi tìm Lê Hạo nhưng không thấy. Theo lệ thường hằng năm, tiết Trung Thu chỉ là gia yến được tổ chức đơn giản, không hiểu vì sao năm nay lại có phần trang trọng hơn hẳn. Lúc nhận được thiếp mời của triều đình Nghi Dân đã thấy hơi lạ, một buổi tiệc công phu như thế mà chỉ được chuẩn bị trong vòng chưa đầy hai ngày, e là có mục đích gì bên trong chăng?
Nghi Dân vốn thừa hưởng tính tình hống hách ngạo mạn của bà phế phi Dương thị tiền triều (*), mỗi lần vào cung hắn đều không quên dắt theo vài chục cận vệ để phô trương thanh thế. Tốt xấu gì cũng từng là Đông Cung Thái Tử, mẫu thân từng là sủng phi bậc nhất của Thái Tông Hoàng Đế, tuy đã bị phế vị nhưng bè đảng trong triều trước kia khi ở ngôi Thái Tử của Nghi Dân quả thật không ít. Cũng chính vì hào quang của quá khứ mãi đeo bám, hai mẹ con Nghi Dân không ngừng nhắc đến địa vị từng có không một chút kiêng dè, lúc nào cũng ấp ủ lòng riêng, chưa bao giờ thật sự quy thuận Nhân Tông, hơn nữa là luôn dùng câu "Bỏ trưởng lập thứ là không hợp lòng trời" ra để ngấm ngầm sách động quần thần. Vì vậy, Nghi Dân luôn là mối lo ngại lớn trong lòng hai mẹ con Lê Hạo và một người nữa.. chỉ khi trừ khử được hắn thì mới có thể kê cao gối ngủ ngon.
Tuyên Từ Thái Hậu lúc này vẫn còn ở tẩm cung, chưa vội ra dự yến. Bà ngồi tỳ một tay lên chiếc gối bằng nhung mềm mại, tay còn lại đưa cho ngự y Châu Khâm bắt mạch. Xong, ngự y chấp hai tai trước ngực bẩm rằng:
- Thái Hậu phụng thể an khang, có lẽ do mùa hè nóng nực nên có hơi khó ngủ, thần sẽ kê đơn thuốc an thần để Thái Hậu phục dùng, cải thiện giấc ngủ.
- Kỳ nham là loại cỏ có dược tính tốt, giúp an thần dễ ngủ. Châu ngự y! Trong cung này không chỉ có mỗi bổn cung là cần phải được nghỉ ngơi đầy đủ, ông là ngự y thân cận của bổn cung, chắc ông cũng tự hiểu bổn cung muốn người nào được an giấc, đúng không?
Châu Khâm lập tức cúi đầu tuân lệnh:
- Thái Hậu yên tâm, hạ quan xin nhận lệnh của người!
Châu Khâm nói xong thì lui ra khỏi tẩm điện. Tuyên Từ Thái Hậu đứng trước gương nhìn mình trong gương, bà đưa tay lên vuốt vuốt chỉnh trang lại búi tóc rồi khẽ nhếch mép cười một cái, đôi mắt sắc lạnh mở to lên rồi nheo nheo như hạ quyết tâm thực hiện cái âm mưu bà đã rắp tâm sắp đặt từ lúc biết tin Nghi Dân bày kế ép Lê Tuấn thân chinh dẹp giặc.
- Phải chăng năm xưa ta đã quá nhân từ với mẹ con nhà ngươi?
Tuyên Từ Thái Hậu rít giọng qua kẽ răng tự hỏi chính mình.
* * *
Lê Hạo dắt Thu Đào vào cung bằng cổng phụ phía Nam, lối đi này thường dùng cho các quan lại có chức bậc thấp nên ít ai để ý. Chàng dùng thân phận tứ Hoàng Tử đương triều dắt theo tuỳ tùng nên đã đưa được Thu Đào vào cung trót lọt.
Nào mái ngói tráng men màu xanh ngọc bích, nào là những cây cột lớn bằng gỗ đen bóng chống đỡ cả tòa điện được chạm rồng trổ phượng, thỉnh thoảng lại bắt gặp một chậu hoa bằng sứ trắng đục, hoa văn xanh đỏ vàng đủ loại, hoa quỳnh, hoa nguyệt quế, và nhiều nhiều các loại hoa khác tỏa hương thơm ngát vào ban đêm mà Thu Đào ngửi thấy khi đi ngang qua ngự hoa viên. Dưới ánh trăng và ánh nến của những chiếc đèn lồng treo rợp khắp nơi, tất cả hợp lại đập vào mắt nàng một cảnh tượng lung linh huyền diệu. So với những gì nàng đọc được trong sách khảo cổ thì chỉ giống ba bốn phần thôi, thực tế trước mắt nàng bây giờ lộng lẫy hào nhoáng hơn nhiều những hình ảnh từng có trong trí tưởng tượng.
- A! Thì ra kiến trúc cung điện nhà Lê chủ đạo là màu xanh ngọc bích và màu gỗ màu đen! Thật là đẹp, thật là vi diệu! – Thu Đào khẽ reo lên.
Kiến trúc cung đình của Lê Triều ta mang bản sắc rất riêng, khác với Tử Cấm Thành có màu đỏ chủ đạo của Trung Quốc. Thu Đào vừa đi vừa hít hà cái mùi hương hoàng tộc lan tỏa khắp trong bầu không khí, nàng mở to mắt để ngắm, lắng tai lên để nghe, dùng hết năm giác quan để cảm nhận phong vị Đại Việt mà trước đây chỉ được đọc, chỉ được nghe, chỉ có trong tưởng tượng.
* * * Hết chương 12 ----
Chú thích:
1. (*) Tiết Trùng Dương: Ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch.
2. (*) Gia yến: Yến tiệc chỉ có người trong gia đình và vài đại thần tham dự.
3. (*) Dương Thị Bí: Mẹ ruột của Lê Nghi Dân, từng được vua Lê Thái Tông rất sủng ái nên đã phong cho Nghi Dân làm Thái Tử.
Cung yến bắt đầu được một lúc thì Tuyên Từ Thái Hậu mới xuất hiện từ phía tả Cần Chính Điện, bà chậm rãi bước đến ghế phụng bên cạnh Nhân Tông. Thái Hậu năm nay chỉ mới ba mươi lăm tuổi, hôm nay bà đã chọn lễ phục mùa hè màu xanh nước biển, gấu váy dài quá gót thướt tha. Trang sức trên người và trâm cài tóc cũng theo đó mà có màu xanh dương trong suốt lấp lánh, đặc biệt là ở giữa đỉnh đầu Thái Hậu có cài một con chim phượng bằng vàng sáng bóng, miệng nó ngậm một chuỗi trân châu dài đến giữa trán. Những hạt châu thượng hạng lấp lánh dưới ánh nến, đong đưa theo từng cử động nhịp nhàng của Thái Hậu. Thái Hậu có dung nhan xinh đẹp sắc sảo, nước da trắng ngần trông rất quyền quý cao sang, hẳn rằng đây cũng là vũ khí góp phần giúp bà đánh bại biết bao cung tần mỹ nữ của Thái Tông, một bước trở thành sủng phi bậc nhất, giành được cả ngôi Thái Tử về cho con trai chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.
Nhân Tông và triều thần có mặt tại cung yến đồng loại đứng lên hành lễ với Tuyên Từ Thái Hậu. Bà cho tất cả miễn lễ rồi ngồi xuống cùng uống rượu ngắm trăng. Đoạn bà liếc mắt nhìn Nghi Dân lúc này đang mãi xem múa hát, rồi quay sang Nhân Tông hỏi nhỏ:
- Hoàng Thượng chắc trong lòng cũng đã có tính toán rồi chăng?
Nhân Tông hiểu ý mẹ bèn thưa:
- Nhi thần tự đã có sắp đặt, nhất định không để mẫu hậu phải lo lắng!
Thái Hậu nhíu mày khuyên can con trai:
- Sinh ra trong hoàng tộc phải biết cứng rắn bảo vệ bản thân và địa vị. Tình thủ túc trong gia đình đế vương mà nói chỉ là giả dối! Hoàng nhi, con quá lương thiện tin người rồi! Ta nên diệt cỏ tận gốc thì hơn!
Nhân Tông hiểu tính tình của mẫu thân, xưa nay bà đã vì con trai không ngại trừ khử nhiều kẻ có ý đồ phản nghịch, nhưng lần này người bà định ra tay là Nghi Dân, là huynh trưởng trong lòng Nhân Tông nên vị vua trẻ nhân từ không nỡ đưa ra hạ sách ấy. Huống chi trước giờ Nghi Dân vẫn khéo đối xử, trước mặt vua không để lộ gian ý, vì thế Nhân Tông càng không nghi ngờ, mọi sự đề phòng hôm nay của chàng đều là do Thái Hậu và Lê Hạo hết lòng nhắc nhở. Tuy vậy, Nhân Tông vẫn muốn dùng một đối sách để vẹn toàn cả tình huynh đệ, vừa có thể giúp bản thân giữ vững ngôi vị, nên bấy lâu vẫn phản đối việc Thái Hậu thanh trừng Nghi Dân:
- Mẫu hậu, nhi thần nay đã đích thân chấp chính, việc của đại ca con đã tự có kế sách, nhất định sẽ kiềm chế được dã tâm của huynh ấy mà không để triều ta phải mang tiếng xấu sát hại cả người trong gia tộc. Xin mẫu hậu để nhi thần tự quyết việc lần này!
Tuyên Từ Thái Hậu thở dài, bà biết Nhân Tông vốn tính hiền lành không bao giờ chọn cách tàn sát huynh đệ thủ túc. Vì vậy bà chỉ đành tương kế tựu kế, đứng phía sau âm thầm giúp đỡ con trai, như thế sẽ vừa đạt được mục đích, vừa tránh khỏi việc mẹ con xảy ra mâu thuẫn.
Án chừng ai nấy đã ngà ngà hơi men, Thái Hậu ra lệnh mang rượu quý của hoàng cung ra thiết đãi toàn bộ triều thần có mặt tại buổi yến tiệc. Bà liếc mắt nhìn tỳ nữ thân cận một cái, nàng ta bèn khẽ gật đầu ý bảo rằng "mọi việc đã xong!". Thái Hậu thưởng cho mỗi bàn một bình Trúc Diệp Thanh (*), loại rượu nổi tiếng của phương Bắc, lúc tại thế tiên đế Thái Tổ đã ban tặng cho bà một trăm vò nhân dịp sinh thần mười tám tuổi.
Được ban rượu quý, quần thần đồng loạt đứng lên tạ ơn vua và Thái Hậu:
- Tạ ơn Hoàng Thượng, Thái Hậu ban ơn trạch. Chúc Hoàng Thượng, Thái Hậu thân thể an khang, Đại Việt muôn đời thịnh trị!
Nhân Tông đưa hai tay hướng về quần thần ban miễn lễ. Không khí buổi tiệc cũng nhờ vào Trúc Diệp Thanh mà thêm náo nhiệt, thêm nồng nàn hứng khởi. Ai nấy đều hân hoan rót mời nhau, hết một chén lại một chén, kẻ ngắm trăng làm thơ, người ngắm hoa đối ẩm, hoan lạc vô cùng!
* * *
Thu Đào chạy phía trước, hết nhìn cái này đến ngắm cái kia, đến cung nào điện nào nàng đều chăm chú nhìn thật kỹ, chốc chốc lại đưa tay sờ lên những cây cột trụ được trạm trổ hình rồng hình phượng, như thể nàng muốn đem tất cả những cảnh vật tại đây toàn bộ lưu lại hết trong trí nhớ. Lê Hạo nhìn nàng tung tăng trong cung như một đứa trẻ vừa được ra phố, chàng không khỏi bật cười mà nhắc:
- Này, nàng đang cải trang thành tuỳ tùng của bổn công tử ta đấy! Làm gì có tuỳ tùng nào lại cứ đi trước bỏ chủ lại phía sau như nàng!
Thu Đào được nhắc thì khẽ "À!" một tiếng rồi nhảy chân sáo chạy đến đi bên cạnh Lê Hạo. Nàng tranh thủ hỏi:
- Hoàng cung thật đẹp quá! Nhưng cung điện Đại Việt ta chọn màu chủ đạo là ngói xanh, chứ không phải là tường đỏ ngói vàng giống như tử cấm thành của Minh triều nhỉ?
Lê Hạo nghe nàng hỏi thì bất ngờ lắm, chàng khoanh hai tay trước ngực nhìn nàng nói với thái độ vừa vui lại vừa nghi hoặc:
- Nàng cũng biết Tử Cấm Thành phương Bắc à? Ta thật là nghi ngờ nàng có đúng là đã mất hết ký ức hay không đấy! Thỉnh thoảng nàng vẫn là đại tiểu thư Thu Đào kiến thức uyên thâm mà ta đã từng biết đấy thôi!
Thu Đào chép miệng giải thích:
- Ta tình cờ đọc được trong sách thôi!
Lê Hạo ôn tồn kể tiếp:
- Ngói tráng men vàng là "Hoàng Lưu Ly", tráng men xanh gọi là "Thanh Lưu Ly", ở đây vẫn có một số cung điện được lợp ngói vàng, như là Cần Chính Điện, nơi đang diễn ra cung yến ấy!
Thu Đào hai mắt sáng lên, nắm lấy cánh tay Lê Hạo giật giật:
- Xin chàng đấy, mau dắt ta đi xem!
Lê Hạo bất ngờ bị Thu Đào ôm chầm lấy cánh tay, chàng chợt nhớ đến cảm giác ấm áp trước kia, lúc ấy mỗi khi có dịp bên nhau, Thu Đào vẫn hay tựa đầu vào vai chàng kể hết chuyện này đến chuyện khác, quấn quýt không rời nửa bước. Đã lâu lắm chàng không có lại được cảm giác hạnh phúc ấm áp khi ôm ấp người yêu trong tay, chàng bất giác thấy tim loạn nhịp, cứ đứng ngây ra nhìn nàng mà quên mất mình phải làm gì tiếp theo.
Thu Đào vô tư cứ nghĩ Lê Hạo sợ mình gây họa nên phân vân không muốn dắt đi, bèn tiếp tục lay lay cánh tay chàng van nài:
- Xin chàng! Ta xin hứa sẽ chỉ đứng từ xa nhìn, tuyệt đối không manh động gây họa!
Lê Hạo quay về với thực tại sau cú lay của Thu Đào, chàng cười nói:
- Tất nhiên ta sẽ dắt này đến Cần Chính Điện rồi, mục đích hôm nay ta đưa nàng vào cung là để xem cung yến mà, chẳng những được xem, mà còn được ăn điểm tâm, uống rượu ngon nữa!
Thu Đào nhảy cẩng lên sung sướng:
- Lê công tử vạn tuế!
Nghe hai từ "vạn tuế" của Thu Đào, Lê Hạo như điếng người đưa tay bịt miệng nàng mắng rằng:
- Đại tiểu thư của ta, nàng chán sống rồi sao? Chỉ có Hoàng Thượng mới xứng với hai từ "vạn tuế", nàng to gan nhưng ta thì không đâu, ta vẫn còn muốn sống để hiếu thuận với mẫu thân nữa!
Thu Đào nhớ ra mình đang ở thời phong kiến, lại đang trong hoàng cung đại nội nên lời vừa thốt ra chẳng khác nào tự tìm cái chết, bèn gật gật đầu rồi gỡ tay Lê Hạo ra khỏi miệng, đoạn nàng khép năm ngón tay lại đưa lên ngang mặt thề:
- Ta hứa sẽ ngậm miệng lại không "khẩu xuất cuồng ngôn" nữa!
Lê Hạo lắc đầu, nhắm mắt lại một cái rõ dài để biểu thị sự "bất lực" với nàng:
- Nang biết mình "khẩu xuất cuồng ngôn" à! Thật may quá! Đi thôi đại tiểu thư!
Thu Đào bám theo sau lưng Lê Hạo cười cười trộm nghĩ:
- Thật ra chàng trước sau cũng sẽ được tung hô vạn tuế thôi mà! Sau này chàng sẽ khâm phục lời tiên tri của ta cho mà xem!
Tiến sâu vào hậu đình là đến một khoảng sân có cả thảy ba mươi dãy hành lang trồng toàn là địa lan (*), hai bên trái phải cơ man là hoa lan đủ các màu đỏ, trắng, tím, vàng, hương đưa ngào ngạt trong gió. Thu Đào phải nói là như chết ngất đi trước vẻ đẹp cổ kính mà rất lãng mạn ngọt ngào này! Theo lời Lê Hạo kể thì đây chính là vườn địa lan mà Hoàng Thượng yêu thích nhất, người thường đến đây đi dạo vào để giải tỏa mệt nhọc sau mỗi lúc thượng triều.
- Thì ra Nhân Tông cũng là một người yêu hoa! – Thu Đào nhủ thầm.
Đi qua vườn địa lan thì Cần Chính Điện lung linh chói mắt dần hiện ra từ phía xa. Càng tiến gần thì dòng người qua lại càng tấp nập! Phải nói là lễ tiết cung đình quả thật rất rườm rà, cứ đi được vài bước chân thì lại nghe thấy cung nữ thái giám hành lễ với Lê Hạo:
- Tứ điện hạ vạn phúc!
Thu Đào nghe đến phát mệt, nhưng vẫn phải cố chịu đựng. Ấy là chưa kể đến việc lúc họ hành lễ với Lê Hạo, thân là "tuỳ tùng" nàng phải có nhiệm vụ đan mười ngón tay lại đưa ra ngang ngực vái đáp lễ nếu như người ấy là cung nhân lớn tuổi hơn mình, việc này trước khi bước vào Cần Chính Điện Lê Hạo đã báo trước để tránh bị người khác nghi ngờ, buộc nàng phải tuân theo phép tắc.
Sau một lúc lâu hành lễ mỏi rã cả hai tay, Lê Hạo cũng đưa được Thu Đào đến dãy ghế cuối cùng dành cho các vị quan có cấp bậc thấp hơn. Chàng nhìn trước ngó sau, đang lay hoay tìm cách làm sao để "hợp thức hóa" việc cho tuỳ tùng được ngồi xuống dùng yến cùng, thì may mắn làm sao, Lê Hạo bắt gặp Đào Biểu - thái giám thân cận của Nhân Tông - đang theo lệnh đi dò xét một vòng quanh buổi tiệc. Nhìn thấy Lê Hạo, Đào Biểu vội vái chào:
- Tứ Điện Hạ vạn phúc!
Thu Đào nhìn thấy vị quan già ăn mặc khá chỉnh chu, đoán biết là người có "số má" trong số các cung nữ thái giám nên lật đật vái chào đáp lễ.
Lúc ấy Đào Biểu chú ý đến nàng ngay, mặt hoa da phấn, vóc dáng bé nhỏ, mười phần hết chín là nữ cải nam trang. Ông ta khẽ nhìn sang Lê Hạo như muốn hỏi về người "tuỳ tùng" này thì chàng đã gật đầu ra hiệu, đoạn nói với Đào Biểu:
- Nhờ Đào công công bẩm lại với Hoàng Thượng Lê Hạo ta đã đến, nhưng tối đêm qua xem sách khuya quá nên mắt hơi cay, không tiện ngồi gần ánh đèn sợ chói mắt. Nhân đây ta có dắt theo vị huynh đệ đã tặng đèn ông sao cho ta dâng lên Thái Hậu! Mong được ban tọa!
Thu Đào nghe thấy Lê Hạo gọi đến mình thì "Hả!" lên một tiếng rồi hiểu ý ngay, nàng vội vái chào Đào Biểu thêm lần nữa:
- À! Đa tạ Đào công công chuyển lời giúp cho tại hạ!
Đào Biểu vâng lệnh rồi đi ngay.
Chỉ một lúc sau, một chiếc bàn nhỏ đã được mang đến. Cung nữ hầu tiệc ai nấy mặt đẹp như hoa, liên tiếp thay phiên nhau mang đến cho Thu Đào nào điểm tâm hoa quả, thịt cá đủ loại, tổ yến, bào ngư.. Tuy thức ăn có độ vài chục món, nhưng mỗi đĩa số lượng ít, chỉ gắp vài đũa là đã hết. Lê Hạo có giải thích rằng nếu như muốn dùng thêm món nào thì đều có thể bảo cung nhân mang đến thêm. Thu Đào thấy món ăn ngon thì sáng mắt, cứ theo cái lối ăn uống của một cô gái hiện đại mà dùng rất tự nhiên, lúc cho thức ăn vào miệng chẳng thèm dùng ống tay áo che miệng. Cung cách ấy làm Lê Hạo phải bật cười mà nói với nàng:
- Này, nàng quả thật diễn rất tốt đấy, cải trang thành nam nhi rồi thì ăn uống không dùng ống tay áo che miệng lại hệt như nam nhân chúng ta!
Thu Đào nghe xong liền nghẹn ngay cổ họng, thì ra cách ăn uống của mình lại giống đàn ông như vậy sao? Thời phong kiến thật là lễ nghĩa phiền phức. Nàng than:
- Nữ nhi thời đại này thật là khổ sở, đến ăn cũng phải che miệng à?
Lê Hạo lại không nhịn được cười với cách suy nghĩ của Thu Đào, chàng đôi khi cảm thấy rất khó hiểu với lối tư duy ấy, nàng cứ luôn miệng nói "thời đại này, thời đại kia", hành xử thì lạ lùng cứ như người từ nơi khác đến chứ chẳng phải là một vị tiểu thư nhà quan của Đại Việt.
Cả hai đang ăn uống vui vẻ, thì một cung nữ mang đến một bình Trúc Diệp Thanh và nói:
- Hôm nay Thái Hậu ban thưởng Trúc Diệp Thanh, mời Tứ Điện Hạ và công tử.
Người cung nữ vừa đi khuất, Thu Đào đã hỏi ngay:
- Trúc Diệp Thanh là gì?
- Là một loại rượu quý của phương Bắc, sau khi lên men từ gạo thượng hạng xong còn phải ủ với lá trúc cho thơm, dưới ánh nắng còn có thể đổi sang màu xanh đẹp mắt, vì vậy mới có tên là Trúc Diệp Thanh! – Lê Hạo ôn tồn giảng giải.
Lê Hạo mỉm cười không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ nhìn nàng đang vui vẻ dùng hết món này đến món khác, chốc chốc lại nhấp một ngụm rượu rồi ung dung xem ca múa, thỉnh thoảng lại vỗ tay bôm bốp tán thưởng các ca nhi vũ công, nàng hoàn toàn đắm chìm trong yến tiệc, nhiệt tình mà tận hưởng cứ như chẳng bao giờ lại có dịp dự yến lần thứ hai trong đời vậy!
- Ta chỉ mong nàng mãi mãi được như bây giờ, vô tư và hạnh phúc! – Lê Hạo nhủ thầm.
* * *
Lê Nghi Dân lúc này đã chếnh choáng hơi men, tim trong lồng ngực cứ đập thình thịch liên hồi, mồ hôi vã ra như tắm, hơi thở cũng gấp gáp nặng nhọc hơn, cứ như thể vừa đánh nhau vài trăm hiệp với một gã lực sĩ cao to nào đấy. Rồi án chừng do mấy đêm liền khó ngủ vì phải suy tính đường đi nước bước, cốt sao dồn Nhân Tông vào thế kẹt, bắt buộc thân chinh dẹp giặc, lại gặp phải lúc uống rượu hơi nhiều nên mới ra như thế. Sau đôi lời cáo lui với Nhân Tông và Thái Hậu, Nghi Dân cùng hơn hai mươi tuỳ tùng và vệ sĩ ra về.
Nghi Dân vừa rời khỏi được một lúc, Nhân Tông cũng cáo bận công vụ mà rời đi trước, để Thái Hậu ở lại chủ trì yến tiệc.
Thoáng thấy bóng dáng Hoàng Thượng quay lưng rời đi, Thu Đào quay sang nói với Lê Hạo:
- Chàng xem, ta với Hoàng Thượng quả thật không có duyên đúng không, ta đã đến tận đây nhưng lại không có cơ hội gặp mặt! Chưa biết chừng sau này tiến cung rồi cũng vậy, cả đời không có cơ hội diện kiến, ta sẽ chết già trong cung mất!
Lê Hạo lại phì cười vì biết rõ ràng nàng ta và Hoàng Thượng chẳng những đã từng gặp mà còn đang là bằng hữu nữa. Rồi chàng phát hiện ra đêm nay trong vòng hơn một canh giờ thôi mà mình đã cười rất nhiều. Phải chăng chỉ khi ở cạnh nàng thì mọi lo toan mệt nhọc trong lòng chàng mới có thể tạm thời vơi đi, phải chăng nàng chính là niềm vui duy nhất, thứ quý giá nhất trong kiếp đời của một Hoàng Tử luôn sống trong cảnh đấu đá quyền lực này! Đoạn, Lê Hạo an ủi nàng:
- Không đâu, Hoàng Thượng chưa có cung tần nào cả, chắc chắn người sẽ đối tốt với nàng!
Thu Đào chỉ biết thở dài nghĩ ngợi, gắp một miếng thức ăn cho vào miệng và nhìn theo hướng Nhân Tông vừa đi khuất.
Lúc tiệc sắp tàn, thái giám Đào Biểu lại xuất hiện, Thu Đào xem dáng điệu đoán chừng ông ta đang có điều gì muốn nói riêng với Lê Hạo nên đã ý nhị ngồi xa ra một tí và chăm chú nhìn vào vũ công đang nhúng nhảy giữa sân khấu, nhường lại không gian riêng cho họ trao đổi với nhau. Sau một lúc lâu thì thầm điều gì đó và tai Lê Hạo, Đào Biểu không quên chúc tụng người khách lạ vài câu sao rỗng của cung đình rồi cáo lui. Thu Đào cũng lễ phép chào ông ta, xong nàng tinh tế hỏi thăm Lê Hạo:
- Có phải chàng bận công vụ không? Thôi chúng ta chơi bấy nhiêu đủ rồi, cũng đã khuya, ta về thôi!
Thật ra Đào Biều lúc nãy đã theo lệnh của Nhân Tông bảo Lê Hạo sớm đưa Thu Đào về vì biết nàng đang bị thương, đêm cũng đã khuya rồi. Nhân Tông lại lo lắng không muốn để nàng về một mình, nên đã lại cải trang thành thị vệ Lê Tuấn, chờ hai người họ ở Tả Nam Môn (*) của hoàng thành. Y theo lời căn dặn, Lê Hạo nói với Thu Đào:
- Không, chỉ là chút việc nhỏ thôi. Nhưng hiện giờ cũng đã khuya, nàng cũng nên về trước khi Nguyễn đại nhân về đến phủ chứ, ta đưa nàng về!
Thu Đào "Ờ!" một tiếng đầy tiếc rẻ, nàng nhìn xung quanh khắp một lượt rồi ngoan ngoãn theo Lê Hạo ra về.
Đến Tả Nam Môn, quả nhiên Lê Tuấn đã mặc bộ quần áo của ngự tiền thị vệ đứng đó tự bao giờ. Bên hông còn có một thanh gươm dài đựng trong vỏ bạc sáng loáng. Do hôm nay cách ăn mặc khác với ngày thường, mãi lúc đến gần Thu Đào mới nhận ra chàng và reo lên:
- A! Chàng cũng đi dự yến tiệc đúng không? Suốt buổi ta chẳng thấy chàng đâu hết!
Lê Tuấn đưa tay lên gõ vào trán nàng một cái và trách:
- Nàng bướng bỉnh lắm, ta biết thể nào nàng cũng trốn ra ngoài chơi mà! Quả nhiên lại dám mò đến tận hoàng cung luôn cơ đấy! Ta đâu có sung sướng như nàng được dự yến tiệc, ta phải bảo vệ hoàng thượng, bây giờ mới được ra về đây!
Lê Hạo nãy giờ đứng phía sau lưng Thu Đào, chàng chấp hai tay trước ngực, thè lưỡi nheo mắt ý xin Lê Tuấn đừng trách tội đã dám lén lút đưa nàng đi chơi. Hiểu ý, nên Lê Tuấn bèn liếc mắt sang Lê Hạo nói ám chỉ:
- Thôi! Nàng thấy vui vẻ là được! Ta sẽ không bẩm cáo hoàng thượng rằng có kẻ dám trà trộn vào cung yến, giữ lại cái đầu trên cổ nàng vậy!
Thu Đào rụt cổ lại hoang mang hỏi:
- Chỉ có lén đi "ăn chực" thôi mà cũng đáng tội chém đầu à? Sống thời này sao mà dễ bay đầu quá!
Hai chàng trai lại nhìn nàng đồng thanh:
- "Ăn chực?"
Thu Đào cười khanh khách, đoạn nàng hai tay chống hông, ngông ngênh vừa đi vừa nói:
- Hai tên cận vệ này! Bảo vệ bổn cô nương cho tốt rồi ta sẽ dạy cho ngôn ngữ hiện đại!
- Tuân lệnh! – Lê Tuấn hóm hình đáp và bước đến đi ngay bên cạnh nàng, tay lăm lăm thanh gươm diễn nét đang bảo vệ chủ nhân.
Lê Hạo thụt lùi về phía sau nhìn theo hai người đang cười cười nói nói, chàng lắc đầu thở dài, môi nở một nụ cười chất chứa ưu tư.
* * *
Lê Nghi Dân ngồi xe ngựa ra khỏi cổng hoàng thành được chừng một dặm đường thì đầu óc càng lúc càng quay cuồng, cơ thể nóng rang, môi khô đến bật máu. Hắn cố gắng bám chặt vào ghế để khỏi ngã lăn xuống mỗi khi qua đoạn đường gồ ghề. Bỗng nhiên xe ngựa dừng hẳn lại, tên tuỳ tùng đứng ngoài cửa cổ xe hổn hển báo, tiếng nói như sắp đứt hơi:
- Đại v.. ương!.. Có lẽ ta.. đã bị kẻ gian.. hạ độc!
Nghi Dân nghe thấy thì thất kinh, dùng hết sức lực còn lại mở cửa cổ xe ra xem thử tình hình. Trước mắt hắn là hơn hai mươi tên cận vệ kẻ ngồi người nằm la liệt dưới mặt đường, như thể ai nấy đều không còn chút sức lực, giống hệt cảm giác của bản thân hiện tại. Biết chắc có chuyện chẳng lành, Nghi Dân định ra lệnh cho thủ hạ mau chóng đến ngay phủ để của Khắc Xương ở gần đó để lánh nạn. Nhưng chưa kịp phản ứng gì thì..
* * * Vút!
Một mũi tên từ đâu trong không trung xé gió lao đến, nhắm thẳng vào yết hầu Nghi Dân..
* * * Hết chương 13 ----
Chú thích:
1. (*) Trúc Diệp Thanh là loại rượu quý xuất xứ từ Phượng Hoàng Cổ Trấn của Trung Quốc, được sản xuất từ rất nhiều thảo dược quý lên men cùng gạo nếp, sau đó chúng sẽ được ủ với lá trúc, tạo nên vị ngọt nhẹ tinh khiết và mùi thơm kích thích vị giác. Không chỉ vậy, điểm đặc biệt nhất của loại rượu này chính là khả năng biến hóa màu sắc vô cùng độc đáo, thông thường rượu sẽ có màu vàng nhạt, cho đến khi đặt dưới ánh mặt trời thì rượu sẽ chuyển sang màu ánh xanh lạ mắt. Đây là loại thượng phẩm ngày xưa chỉ có vua chúa mới được dùng.
2. (*) Địa lan: Những loài hoa lan mọc trên đất hay kẽ đá.
3. Tả Nam Môn: Nam Môn là cổng lớn để vào hoàng thành Thăng Long, có năm cửa lớn gồm một cửa ở chính giữa, mỗi bên trái phải có thêm cửa nhỏ. Tả Nam Môn là cửa nhỏ ngoài cùng bên phải của hoàng thành.
Nỗi kinh hãi đã làm đầu óc Nghi Dân bừng tỉnh. Hắn nhanh như cắt lôi cổ tên thị vệ lên chắn ngang trước ngực mình.
Phập! Mũi tên cắm sâu vào lưng tên thị vệ, mắt hắn trợn ngược lên nhìn tên chủ công vô lương tâm đầy bất ngờ uất hận, rồi lịm hẳn.
Con ngựa kéo xe bị những mũi tên bay vun vút làm hốt hoảng, nó đứng lên bằng hai chân, hí lên một tràng dài thất thanh rồi tung vó bỏ chạy. Bất ngờ vì cổ xe bị con ngựa kéo mạnh, Nghi Dân ngã bổ nhào ra khỏi xe, hắn la lớn:
- Mau bảo vệ bổn vương!
Đám tàn binh bị trúng thuốc mê dùng hết sức lực còn lại vung gươm chém vào mưa tên đang tới tấp lao đến.
Nghi Dân quay lưng toang bỏ chạy thì.. Phịch! – Một tên vệ sĩ trúng tên ngã ngay dưới chân hắn.
Hơn hai mươi vệ sĩ chỉ trong chốc lát đã bị hạ gục nằm la liệt dưới mặt đường. Không gian bỗng yên tĩnh lạ thường, những mũi tên cũng đã ngừng bay ra. Vốn cũng là người giỏi võ, Nghi Dân tuốt gươm mắt đảo bốn phía dè chừng, quyết liều một phen với kẻ nào đang muốn ám hại mình. Thuốc mê đã ngấm sâu vào máu, trước mắt chỉ là những hình ảnh nhoè nhoẹt mờ đục, hắn đành dùng thính giác để phát hiện tiếng động, vành tai giật giật liên tục. Chỉ một phút sau, khi đã xác định chẳng còn viện binh nào, một tên sát thủ mặc áo đen, đầu đội nón rộng vành có mảnh vải thưa bao quanh trùm kín đầu từ trên ngọn cây phi thân xuống, cốt để ra tay lấy mạng Nghi Dân.
Vù! - Tiếng lưỡi gươm sắc bén cứa vào không khí từ sau lưng hung hãn lao đến. Cảm nhận ra nguy hiểm, Nghi Dân lảo đảo quay lại, nghiêng người tránh sang một bên, lưỡi gươm chém sượt qua làm vai áo rách toạt. Sát thủ dùng động tác nhanh chóng và quyết liệt tiếp tục ra chiêu đâm thẳng vào ngực. Nghi Dân thân thủ cũng không tồi đã nhanh chóng lách sang bên trái hòng lợi dụng lúc sát thủ bị nghịch tay, chiêu thức chậm chạp mà phản công. Chưa để đối thủ kịp phản ứng, Nghi Dân tung lên một cước muốn đá văng thanh gươm, tiếc rằng sức lực lúc này đã cạn, hắn loạng choạng ngã sóng soài xuống đất, bất lực mở trừng trừng đôi mắt nhìn cái chết đang sắp sửa vồ lấy mình.
Phụt! Thanh gươm lạnh lùng dứt khoát chém xuống.
Keng! – Một nhát gươm từ đâu phóng đến ngang tầm mắt Nghi Dân, quyết liệt chém gãy đôi lưỡi gươm của tên sát thủ. Bị bất ngờ, tên sát thủ quắc mắt nhìn lên định tung chưởng về phía người đã cứu Nghi Dân.
Lê Tuấn ánh mắt sắc bén đoán biết ý đồ, chàng dùng một tay chụp ngay lấy cổ tay sát thủ, tay còn lại vung gươm định chém bay chiếc nón che mặt để xem kẻ nào to gan dám thích sát Lạng Sơn Vương. Nhưng người này quả nhiên thân thủ phi phàm, nhanh như cắt đã xoay cổ tay thoát được khống chế của Lê Tuấn rồi lách đầu sang một bên thoát được nhát chém. Lê Tuấn và tên sát thủ rơi vào thế tay ngươi khóa tay ta, chân ta kiềm chế được chân của ngươi, hai người trong phút chốc chỉ còn đứng yên giằng co đấu sức. Một cơn gió thổi bay tấm vải trùm nón của tên sát thủ, phía sau lớp vải còn là một lần khăn che mặt hắn đã cẩn thận chuẩn bị từ trước. Dưới ánh sáng yếu ớt của những chiếc đèn lồng được treo trên đường phố kinh thành, gương mặt Lê Tuấn cứ theo lớp vải được gió thổi tung mà từng chút một hiện ra trước mắt hắn. Đôi mắt tên sát thủ bỗng mở to đầy hoang mang kinh ngạc, hắn lập tức nới lỏng tay. Lê Tuấn chớp lấy cơ hội tung một cước đạp hắn văng xa phải đến hai ba mét.
Lê Hạo từ nãy đến giờ không dám rời Thu Đào nửa bước vì sợ tên bay loạn xạ làm nàng bị thương, chàng cứ thế đứng đấy nhìn khắp bốn phía để quan sát phục kích giúp Lê Tuấn. Tất nhiên sự hoang mang của tên sát thủ khi nhìn thấy mặt Lê Tuấn làm sao qua được đôi mắt tinh tường của chàng. Hắn rõ ràng là một cao thủ, làm sao chỉ mới đấu sức một chút đã vội nới tay chịu thua?
Bị đá văng ra xa, tên sát thủ tay ôm lấy ngực đau đớn nhưng vẫn cố xoay người đứng bật dậy ngay, hắn đưa mắt nhìn Lê Tuấn lần nữa rồi nhanh chóng phi thân nhảy lên bức tường tẩu thoát.
Xong hết mọi việc, cả ba người chạy nhanh đến chỗ Nghi Dân nằm bất động. Lê Hạo lay lay hắn gọi:
- Đại ca! Đại ca!
Thu Đào lúc ấy ba hồn chín vía chưa kịp nhập đủ vào xác, đây là lần đầu tiên nàng chứng kiến cảnh giết người bằng mũi tên, gươm đao thật dã man. Trước nay chỉ thấy trên phim ảnh nên nào có biết được rằng, sau mỗi một trận chém giết không phải chỉ là cảnh diễn viên chính chạy thoát rồi thôi.. nào có phải như vậy! Trước mắt nàng là xác người chết nằm la liệt, dưới đất máu chảy đọng thành vũng, mùi tanh xộc vào mũi đến nghẹt thở. Nàng cứng cả người đứng trơ trơ không động đậy, hai lòng bàn tay mồ hôi toát ra ướt đẫm, lạnh ngắt như băng.
Lê Tuấn nhìn thấy Nghi Dân nằm bất động bèn đưa tay sờ soạn lên ngực, lên mũi, đoạn bảo:
- Không sao, Lạng Sơn Vương chỉ bất tỉnh thôi! Mau đưa về phủ Chỉ Huy Sứ trước, từ đây đến đó là gần nhất!
Lê Hạo gật đầu rồi đỡ Nghi Dân ngồi lên, không quên hỏi Lê Tuấn:
- Biểu huynh không sao chứ?
- Ta không sao? – Lê Tuấn đáp.
Lê Tuấn nhìn sang Thu Đào, thấy sắc mặt nàng tái mét, im thin thít không nói gì từ nãy đến giờ, tuy có chút tội nghiệp cho nàng phải chứng kiến cảnh chém giết này, nhưng chàng cũng không quên châm chọc:
- Đại tiểu thư! Ta còn tưởng nàng không sợ trời không sợ đất chứ, hóa ra là nàng cũng có lúc mất hết hồn vía à?
Thu Đào còn chưa bình tĩnh được nhưng vẫn cố bướng:
- Ai.. ai nói t.. a sợ? Tại vì.. tại vì ta..
Nghe thấy giọng nói run run của nàng, Lê Tuấn bỗng nhiên cảm thấy xót xa, mất hết hứng thú trêu ghẹo, chàng vội nắm tay nàng an ủi:
- Không sao rồi, có ta ở đây, sẽ không sao cả!
Lê Hạo từ nãy đến giờ vẫn đứng cạnh bảo vệ Thu Đào cẩn thận, chàng biết chắc một sợi tóc của nàng cũng không bị mất nên rất yên tâm quan sát xung quanh. Đoạn Lê Hạo xốc Nghi Dân lên lưng để cõng đi, rồi bảo hai người:
- Chúng ta mau về phủ, còn chưa biết sát thủ là ai, mục đích chúng là gì, ta không nên nán lại đây lâu!
Bốn người dắt díu nhau vội vã chạy về phủ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
* * *
Nguyễn Đức Trung bước ra khỏi phòng, ông xoay lưng cẩn thận đóng cửa lại. Xong liền bước tới giữa sân nơi Lê Tuấn, Lê Hạo đang đứng đó chờ sẵn.
Ông chấp hai tay ngang mặt mà thưa:
- Hoàng Thượng và Tứ Điện Hạ yên tâm, thầy lang bảo Lạng Sơn Vương chỉ bị trúng thuốc mê liều lượng cao, ngủ một giấc tự nhiên sẽ bình thường trở lại!
- Thuốc mê? – Hai chàng trai đồng thanh hỏi.
Lê Tuấn nhíu mày có vẻ đã đoán ra chuyện gì đó, đoạn chàng nhìn Nguyễn Đức Trung ra ý chỉ:
- Chuyện đêm nay đừng nói cho Lạng Sơn Vương biết là Trẫm đã cứu huynh ấy, cứ nói là tứ đệ và đại tiểu thư trên đường dự yến tiệc về tình cờ bắt gặp rồi ta tay tương trợ.
Nói xong, chàng ngập ngừng một chút rồi tiếp:
- Cũng không được để huynh ấy biết bản thân bị trúng thuốc mê. Nếu chuyện này tiết lộ sẽ ảnh hưởng đến yên bình của hoàng thất, Trẫm nhất định phạt nặng! Nguyễn Đại Nhân xin hãy giúp Trẫm giữ bí mật!
- Thần tuân chỉ! – Nguyễn Đại nhân cung kính đáp lời.
Lê Hạo vốn hiểu rõ cục diện, đoán biết Hoàng Thượng có ý bảo vệ cho ai nên cũng gật đầu đồng ý, chàng chấp tay ngang mặt nói:
- Thần đệ tuân chỉ!
Lê Tuấn nhìn sang Lê Hạo tỏ ý cảm kích người em trai luôn luôn đứng về phía của mình, rồi bảo:
- Đêm nay nhờ Tứ Đệ ở lại phủ theo dõi Lạng Sơn Vương giúp Trẫm vậy!
- Hoàng Thượng cứ yên tâm giao cho thần đệ! – Lê Hạo trả lời.
Sau cuộc nói chuyện, Nguyễn Đức Trung vội vã chuẩn bị mười vị tráng sĩ giỏi võ nhất phủ đệ, cộng thêm mười tên gia nhân tháo vác và một cổ xe ngựa chắc chắn ra để bảo vệ Nhân Tông hồi cung. Thật ra lúc nãy ông vừa đi dự yến tiệc về chưa kịp thay xiêm y, đã thấy thánh giá nối gót về đến phủ ngay sau lưng mình, lại còn cả Tứ Hoàng Tử đang cõng trên lưng Lạng Sơn Vương, quần áo tóc tai rủ rượi, bên cạnh còn có Thu Đào mặt mày lấm lét không dám nhìn thẳng vào mặt cha. Phải nói rằng Nguyễn Đức Trung lúc ấy thất kinh hồn vía, vì từ đâu long tử long tôn kéo đến nhà mình giữa đêm trong bộ dạng mới đánh nhau một trận tơi tả, ông hoảng hốt đoán rằng con gái đã gây ra họa gì rồi chăng? Rất may qua lời thuật lại của Lê Hạo, Thu Đào chẳng hề liên quan đến việc Lạng Sơn Vương bị sát thủ truy đuổi, nhưng rõ ràng là vì nàng mà Hoàng Thượng mới xuất cung để rồi xém chút bị sát thủ đả thương. Rồi ông rùng mình nhớ đến việc Nguyễn Trãi cũng vì tội hại chết vua mà bị tru di tam tộc, mồ hôi cứ vả ra như tắm!
Chuẩn bị xong đâu đấy, Nguyễn Đức Trung đứng cạnh xe ngựa kính cẩn mời Nhân Tông hồi cung. Trước khi lên xe Lê Tuấn nhớ đến Thu Đào đang hoảng sợ trong phủ, trong lòng chàng bỗng xốn xang khó tả, thật chẳng muốn bỏ đi chút nào. Chàng cũng đoán biết thể nào Thu Đào cũng sẽ bị trách phạt tội lén vào cung chơi nên đã vì nàng mà "rào trước đón sau" với Nguyễn Đức Trung:
- Đại tiểu thư tuổi nhỏ ham vui, vả lại là do Trẫm tự nguyện muốn đưa nàng về phủ. Trẫm không trách tội nàng lẻn vào cung đâu, Nguyễn Đại Nhân cũng nên bỏ qua cho nàng lần này!
- Thần đa tạ Hoàng Thượng khai ân không phạt, sau này sẽ quản thúc Thu Đào tốt hơn, cho học lễ giáo cung quy đầy đủ để sang thu tiến cung hầu hạ thánh giá!
Lê Tuấn gật đầu mỉm cười rồi bước lên xe ngựa.
* * *
Thu Đào nằm gọn trên giường, kéo chăn đắp ngang ngực thẩn thờ nhìn lên trần nhà nhớ lại trận ẩu đả lúc nãy.
Đang cùng hai vị công tử anh tuấn vui vẻ dạo chơi, bỗng nhiên từ xa nghe tiếng gươm đao va vào nhau loảng choảng, tiếng rên la của những người bị thương trong trận hỗn chiến vọng lên mỗi lúc một rõ ràng và gấp gáp hơn. Theo bản năng của một người có lòng nghĩa hiệp, Lê Tuấn liền rảo bước chạy nhanh về hướng phát ra âm thanh ẩu đả ấy, Lê Hạo cũng chạy theo sau làm Thu Đào đuổi theo suýt hụt hơi. Vừa đến hiện trường, chưa kịp hít thở được tí nào thì một cảnh tượng máu me hiện ra, nàng nhìn thấy mấy chục con người đang vùng vẫy dưới đất, thân thể bị chi chít mũi tên dựng đứng như lông nhím. Lúc Lê Tuấn phi thân nhảy bổ ra đỡ lấy nhát gươm chém xuống đầu Nghi Dân, nàng đã hốt hoảng la lớn:
- Nè! Cẩn thận đó!
Tuy chàng nói bản thân mình là một thị vệ, nhưng từ lúc gặp gỡ đến nay, trong mắt Thu Đào chàng vẫn luôn thể hiện là một tên thư sinh diện mạo khôi ngô, tính tình thì đào hoa bay bướm, thích lấy lòng nữ nhi. Hoàn toàn chưa bao giờ được chứng kiến và cũng không tin nổi rằng chàng có thân thủ phi phàm như thế. Nhìn Lê Tuấn đánh bên trái, tránh bên phải, từng bước khóa chặt tay chân tên sát thủ, nàng ngưỡng mộ dáng vẻ dũng mãnh đó của chàng vô cùng, chỉ muốn đưa tay hò hét cỗ vũ kiểu những nhóc tỳ tuổi teen xem idol biểu diễn. Đoạn nhớ đến hộp thuốc của Lê Tuấn tặng đang để ở đầu giường, nàng với tay ra lấy rồi vân vê chiếc hộp trong tay. Thoáng chút buồn rầu hiện lên trong đôi mắt vì nhớ đến việc phải tiến cung làm cái gì lục giai, cái gì mỹ nhân gì gì đó cho Lê Bang Cơ. Lúc này Thu Đào không phải buồn vì sợ mình sẽ chết già trong cung, hoặc giả sẽ bị quân phản loạn của Nghi Dân bắt giữ, mà nàng buồn khi nghĩ rằng:
- Lê Tuấn! Chàng cảm thấy thế nào khi ta phải gả cho người khác?
Thu Đào thở dài rồi lắc lắc đầu, như thể làm vậy để cho những ý nghĩ sẽ theo cú lắc ấy mà văng hết ra ngoài vậy.
Đêm hè oi ả, nàng trằn trọc không ngủ được. Thấy nàng cứ lăn qua trở lại mãi trên giường, Xuân Mai nằm ở chiếc phản bên cạnh cất tiếng hỏi thăm:
- Đại tiểu thư khó ngủ à? Tiết trời nóng nực, em hầu quạt cho cô nhé!
Thu Đào nghe Xuân Mai nói sẽ quạt cho mình ngủ thì vô cùng không thích. Từ lúc lạc đến chốn này, nàng chứng kiến nỗi cực khổ của thân phận nô tỳ nhiều rồi và thấy thật là kinh khủng! Ai đời lúc trời nóng như thế này, lại là giữa đêm hôm khuya khoắt lại phải đứng mà quạt cho chủ nhân ngủ!
- Thôi! Mình không phải kiểu thích hành xác người ta như vậy! – Thu Đào nghĩ thầm.
Rồi nàng ngồi dậy bảo Xuân Mai thắp thêm nến cho sáng, vì nàng chưa muốn ngủ, lại dặn rằng từ đây không cần phải làm cái việc hầu quạt cực nhọc ấy nữa. Xuân Mai lấy làm lạ lắm, nhưng vốn đã quen với sự lạ lùng này của Thu Đào từ lúc ốm nặng tỉnh dậy nên nàng tỳ nữ trung thành chỉ gật đầu vui vẻ vâng lời.
Thu Đào mở cửa sổ ra, một cơn gió mát mẻ nhẹ nhàng lùa vào. Nàng ngồi chống cằm bên khung cửa lặng lẽ ngẩng đầu ngắm trăng. Rồi lại nghĩ đến cái người được Lê Tuấn cứu lúc nãy – Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân.
- Lê Nghi Dân! Người sau này sẽ giết chết Lê Bang Cơ và Thái Hậu à? Lê Tuấn ơi Lê Tuấn, chàng thân là thị vệ của Hoàng Thượng, nhưng chàng có biết mình vừa cứu một người sau này sẽ giết chết Hoàng Thượng không?
Nàng cảm thán chép miệng nghĩ đến thế gian vật đổi sao dời, làm quân vương cũng chưa hẳn là tốt, suốt ngày đấu đá quyền lực để rồi tuổi trẻ phải sớm ra đi vì bị chính anh em ruột thịt mưu hại!
- Đau lòng thay cho người Nhân Tông Hoàng Đế ơi! – Thu Đào lẩm bẩm.
Đang mãi nghĩ ngợi, bỗng nàng nghe thấy một tiếng sáo du dương vang lên, điệu nhạc dập dìu sâu lắng, lúc trầm lúc bỗng, nghe mới da diết u hoài làm sao! Thu Đào nhìn quanh quất theo tiếng âm thanh phát ra nhưng mãi mà chưa thấy tác giả của giai điệu u sầu ấy ở đâu. Rồi tiếng sáo bỗng dưng im bặt, Lê Hạo từ sau lớp cửa căn phòng đối diện dần dần bước đến gần nàng, hỏi:
- Có êm tai không? Ta thổi sáo cho nàng dễ ngủ nhé!
- Hay! Nhưng nghe sao mà buồn quá, ta sợ cảm giác đau lòng buồn bã lắm!
Lê Hạo mỉm cười, giọng chìu chuộng:
- Vậy ta thổi một khúc nhạc vui vẻ cho nàng nghe!
Nói xong chàng không vội thổi sáo mà ngước nhìn trăng ngâm nga một thể loại gì đấy mà nàng không biết là lời thơ hay lời nhạc:
"Lặng ngắm bên trời ánh trăng nghiêng,
Như mắt nàng chưa vướng bận ưu phiền.
Lòng như ánh trăng, lặng lẽ chiếu bên thềm,
Lặng dõi theo, lòng chẳng quên ký ức êm đềm.."
Tiếng sáo lại cất lên, nhưng lần này giai điệu rất thanh thuần trong sáng, tựa như sao trời lấp lánh, tựa như đóa hoa xuân nhí nhảnh tỏa hương, tựa như người con gái thuở nào trong lòng chàng nhảy múa giữa muôn vàn cánh bướm..
Thu Đào thiếp đi lúc nào không biết..
* * *
Lê Nghi Dân tỉnh dậy thấy mình ở phủ đệ của Nguyễn Đức Trung thì lòng đầy nghi hoặc. Hắn chậm rãi hớp từng ngụm trà, cố gắng chấp nhận lời kể của Lê Hạo rằng do uống quá say nên đầu óc quay cuồng, không may giữa đường gặp phải lục lâm thảo khấu (*) định cướp của, đúng lúc Lê Hạo đang trên đường về phủ cùng Thu Đào gặp được nên ra tay tương trợ. Lê Nghi Dân ép lòng hành lễ đa tạ ơn tương cứu của Lê Hạo và Nguyễn Đức Trung, sau đó nhờ người truyền tin về phủ Lạng Sơn Vương phái người đến đón hắn về. Hắn nheo nheo đôi mắt bất mãn tự nghĩ:
- Lẽ nào vô lý như thế được? Uống say mà toàn thân một chút sức lực cũng không còn à? Tuỳ tùng của ta toàn bộ say hết hay sao? Tên sát thủ đó rõ ràng xuất chiêu nào cũng muốn đoạt mạng ta, như vậy là chỉ là toán cướp bình thường thôi sao?
Lê Hạo biết khó lòng mà lừa dối được tên xảo quyệt như Nghi Dân, chàng nhân lúc Nguyễn Đức Trung đi chuẩn bị ngựa xe cho hắn mà rằng:
- Đại ca! Mọi việc cứ nên thuận theo ý trời! Nay tình thế của ta là phải tin theo những gì người khác muốn ta tin, đại ca vừa thoát đại nạn, nên nép mình lại để bảo toàn bản thân trước mới là thượng sách!
Nghi Dân liếc mắt qua lại một lượt, rồi hiểu ý Lê Hạo muốn nhắc nhở mình không nên truy cứu tránh rước họa vào thân, tạm thời thế lực chưa vững phải nên cương nhu đúng lúc. Hắn vỗ vai Lê Hạo một cái, rồi không nói thêm gì nữa. Thật ra trong lòng Nghi Dân cũng ngờ ngợ đoán ra kẻ muốn mình chết nhất là ai, chỉ có điều chưa đủ chứng cứ, thế lực cũng chẳng thể nào đủ sức lật đổ được ả độc phụ, nên chỉ biết tạm thời nín nhịn.
Hắn nghiến răng tự nói một mình:
- Độc phụ! Không phải do Trúc Diệp Thanh của bà thì là cái gì? Được, đã thế ta sẽ tiên hạ thủ vi cường (*), xem không có hắn bà sẽ dựa vào ai để tác oai tác quái!
* * *
Bốp! Một cái tát tay giáng thẳng vào mặt tên sát thủ.
- Vô dụng!
Tên sát thủ quỳ sụp xuống:
- Thái Hậu tha tội, thần nhất định tìm cơ hội khác..
- Cơ hội gì? Ngươi muốn giết chết hắn ngay trong cung này để ta và Hoàng Thượng mang tiếng bất nhân ngàn đời à! Uống rượu say bị đạo tặc giết chết giữa đường, mắc mớ gì đến ta, cơ hội tốt như vậy lại để vuột mất! Ngươi đúng là làm ta thất vọng! – Thái Hậu cướp lời, không ngừng mắng nhiếc.
Tên sát thủ vẫn quỳ sụp dưới chân bà không dám ngẫng đầu lên! Đoạn Thái Hậu bỗng tuôn ra một tràng cười khoái trá như bất thình lình nghĩ ra kế sách, bà nhìn tên sát thủ gằn giọng:
- Vậy thì vở kịch Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân hi sinh anh dũng trong trận đánh dẹp dư đảng, ngươi cố mà làm tròn vai đi!
* * * Hết chương 14 ----
Chú thích:
1. (*) Lục lâm thảo khấu: Chỉ bọn cướp.
2. (*) Tiên hạ thủ vi cường: Ai ra tay trước sẽ chiếm ưu thế.
Theo kế sách Lê Hạo nghĩ ra lúc nghe được câu "đích thân chịu trách nhiệm" của Thu Đào, Nhân Tông đã hạ chỉ cho Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân làm chỉ huy đạo quân ngự tiền bảo vệ Hoàng Đế trong lúc thân chinh đánh giặc, vạn nhất vua có xảy ra mệnh hệ gì thì Nghi Dân phải đích thân chịu trách nhiệm, nhẹ thì tước bỏ chức vị giáng làm thứ dân, nặng thì lấy đầu đền tội. Như thế thì dù có ý đồ hành thích vua đi nữa Nghi Dân cũng không dám ra tay, trái lại còn phải dốc sức bảo vệ để mong giữ lại cái mạng.
Nghi Dân một mình trong thư phòng, tay run run cầm thánh chỉ mà đọc. Xong hắn tức giận vò nát chiếu chỉ rồi ném xuống đất đánh "phịch" một tiếng, nghiến răng ken két:
- Mẹ con ả độc phụ đúng là mưu mô quỷ quyệt! Nhất định có một ngày các ngươi phải quỳ dưới chân ta xin tha mạng!
Âm mưu đoạt mạng vua của Nghi Dân lần này kể như đã thất bại hoàn toàn, hắn tự biết bản thân căn cơ chưa đủ sâu dày, binh quyền trong tay chưa mạnh, nhất thời không thể thâu tóm hết lực lượng các đạo quân của triều đình, muốn quân lính nghe lệnh thật là khó hơn lên trời. Vì thế Lê Nghi Dân quyết định chuyển hướng lập mưu thao túng bằng được đội Cấm Vệ Quân (*) ở kinh đô, đặc biệt là Điện Tiền Vệ dưới tay Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung.
Lê Nghi Dân đang vò đầu bứt tai nghĩ hết mưu này kế kia, hòng đạt được dã tâm, thì tiếng đẩy cửa phòng ken két làm hắn phải quay mặt ra nhìn:
- Bọ ngựa bắt ve, chẳng ngờ sau lưng mình có con chim sẻ, con đừng nên chỉ lo tính mưu tấn công mà quên mất đề phòng.
Bà Dương Thị Bí – mẫu thân của Lê Nghi Dân bước vào lớn giọng nhắc nhở. Bà nhìn con trai một lúc rồi nói tiếp:
- Đường đường là Lệ Phi đắt sủng nhất hậu cung và đương kiêm Thái Tử mà ả cũng có thể dùng quỷ kế hãm hãi, khiến mẹ con ta ra nông nỗi như hôm nay, con nhất định không bao giờ được quên sau lưng Hoàng Thượng còn có ả ta! Con muốn tiên hạ thủ vi cường, chắc chắn ả ta đoán biết được rồi!
Nghi Dân nghe lời mẹ nói có lý, hai mắt đảo qua đảo lại suy nghĩ. Đoạn nắm chặt nấm đấm mà nện xuống bàn, nghiến răng:
- Thù này không trả, ta sẽ không mang họ Lê!
Dương Thị chầm chậm ngồi xuống bàn, rót một tách trà uống, đoạn cười nham hiểm nhìn Nghi Dân:
- Lần này con phải bảo về Hoàng Thượng thật tốt, nếu được càng phải hi sinh bản thân để chứng minh trung nghĩa, lấy được lòng dân và chúng quầng thần..
- Ta không tin giọt máu đào của Thái Tông (*) lại không thắng được tên nghiệt chủng của ả! Dám làm loạn huyết thống hoàng thất, tội đáng xử lăng trì (*) !
* * *
Lê Tuấn trầm mặc đứng trước bộ áo giáp mình sẽ mặc ra chiến trường một lúc lâu, rồi quay sang Đào Biểu dặn dò:
- Trong lúc Trẫm không ở đây, ngươi phải chăm sóc mẫu hậu thật tốt. Còn nữa..
- Hoàng Thượng xin hãy an lòng, thần sẽ ngày ngày cho người đến phủ Điện Tiền thăm hỏi và theo dõi vết thương của Nguyễn Mỹ Nhân!
Lê Tuấn cảm động gật đầu, xong nhẹ nhàng đặt tay lên vai Đào Biểu cảm kích nói:
- Đào Công Công, từ nhỏ đến giờ chỉ có ngươi là hiểu lòng Trẫm nhất, luôn luôn bên cạnh lúc Trẫm cô đơn nhất! Ông cũng phải giữ gìn sức khoẻ, đợi Trẫm trở về!
- Xin Hoàng Thượng bảo trọng long thể! – Đào Biểu ôm lấy cánh tay Lê Tuấn phủ phục xuống đất nức nở.
Lê Tuấn vỗ vỗ nhẹ vai ông ta an ủi:
- Đừng như vậy mà! Trẫm đâu phải là một đi không trở lại, có mấy vạn người xung quanh bảo vệ cho Trẫm, ông lo cái gì chứ?
Tuyên Từ Thái Hậu từ ngoài cửa đột ngột xuất hiện giống như bao lần bà vẫn như thế:
- Đào Biểu lo lắng là đúng, bởi vì người lãnh binh bảo vệ cho con lần này là kẻ luôn muốn dồn con vào chỗ chết!
Đào Biểu cũng như bao lần, đứng dậy vái chào Thái Hậu rồi lui ra.
Lê Tuấn hành lễ chào mẫu thân, rồi chàng dùng ánh mắt nghiêm nghị nhìn thẳng vào Thái Hậu chất vấn:
- Nhi thần dám hỏi Thái Hậu, việc Lạng Sơn Vương gặp đạo tặc có phải là do người sắp đặt?
Thái Hậu cười lớn rồi đanh mặt trả lời:
- Lần này đạo tặc không làm hại được hắn, chắc chắn lần sau người bị vây hãm là con đó!
Lê Tuấn thở dài, hết lời thuyết phục mẫu thân:
- Mẫu hậu! Nhi thần đã nói tự sẽ có cách rồi mà! Người thấy không, lần này đại ca làm sao dám đem mạng của cả nhà ra đùa, chắc chắn huynh ấy sẽ dốc sức bảo vệ nhi thần! Mong mẫu hậu đừng tự ý làm càn, dù sao cũng là huynh đệ cùng chung huyết thống, hà tất phải tuyệt tình như thế!
Tuyên Từ Thái hậu nghe xong thì im lặng hồi lâu, bà biết chắc chắn đây không phải kế sách do tự mình Lê Tuấn nghĩ ra, hẳn phải là do một người đa mưu túc trí, luôn có lòng phòng vệ kẻ khác như Lê Hạo nhắc nhở. Bà suy nghĩ thế nào cũng không thể yên tâm về vị vua quá nhân từ, lòng dạ đơn thuần như Nhân Tông được. Mặc cho bà năm lần bảy lượt khuyên giải, đứa con này vẫn nhất quyết không có lòng đề phòng bất cứ người nào, bà chỉ còn cách vì con mà mang tiếng tàn nhẫn. Tuyên Từ Thái Hậu quay mặt lại nhìn Lê Tuấn nói:
- Người nghĩ ra kế sách tương trợ cho con chắc chắn là kẻ thông minh hơn người, ở cạnh một người như thế con không sợ bị bán đứng thì mẹ đây cũng hết cách. Rồi sẽ có ngày con hiểu được điều mẹ lo lắng là đúng! Nghi Dân là mối họa trước mắt, còn hậu họa.. chính là kẻ con xem là huynh đệ một nhà đấy!
Xong bà phất mạnh tay áo, một mạch hướng ra cửa bỏ đi.
Lê Tuấn trông theo mẹ mà đau lòng vô cùng, chàng biết người lúc nào cũng lo lắng gìn giữ ngôi vị cho mình, nhưng điều đó không có nghĩa là nên tàn hại huynh đệ thủ túc. Bao năm nay mặc cho chàng khuyên giải và nhiều lần chứng minh Lê Hạo cùng Nghi Dân thực sự đối đãi tốt với mình, Thái Hậu vẫn khăng khăng đòi triệt hạ hai người anh của chàng. Nhất là Lê Hạo, tuy được phong Bình Nguyên Vương, phong đất cai quản nhưng vẫn không màn danh lợi mà đồng ý cùng Ngô Tiệp Dư ẩn thân nơi cửa Phật, chỉ ngày ngày bên cạnh vua âm thầm hiến kế chống lại kẻ gian, ổn định giang sơn, dù trời có sập xuống thì Lê Tuấn vẫn một lòng tin tưởng Lê Hạo.
- Mẫu hậu! Tại sao người cứ nhất định ôm lấy nghi ngờ thù địch vậy? – Chàng lắc đầu ngao ngán than.
Thái hậu bỏ đi được một lúc thì Đào Biểu khẽ khàng bước vào, hai tay dâng lên tách trà sâm cho vua giải tỏa mệt nhọc. Đào Biểu theo hầu Nhân Tông từ tấm bé, thái độ ông ta lúc nào cũng ân cần chu đáo hầu hạ, trước giờ luôn rất hiểu thánh ý, biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn, quả thật xứng với hai chữ "tâm phúc" của vị hoàng đế trẻ.
Lê Tuấn đến bàn phê duyệt tấu chương, ngồi chống cằm nhìn một lúc lâu lên bức tranh chàng tự vẽ chân dung Thu Đào đang dang dở, đoạn chàng mỉm cười cầm bút lên rồi tiến đến bên bức tranh mà vẽ tiếp.
Đầu bút múa lượn trên nền vải trắng tinh, nét thanh nét đậm kết hợp khéo léo, dần dần ánh mắt, đôi môi, mái tóc của Thu Đào được phát thảo gần như hoàn chỉnh. Bức tranh Lê Tuấn vẽ nàng trong dáng điệu đang đá quả cầu lông chim, thần thái tươi tắn, nét mặt tinh nghịch đáng yêu, khác hẳn với vẻ đoan trang hiền thục trong bức tranh chân dung mà Nguyễn Đức Trung dâng lên.
- Đây mới chính là nàng! – Lê Tuấn hài lòng nhìn ngắm bức tranh và tự nhủ thầm.
Xong chàng nhìn sang Đào Biểu căn dặn:
- Mùa thu sắp đến, ngươi hãy thay Trẫm chuẩn bị phòng tân hôn, căn dặn Ngự Thiết Phòng (*) chế tác những vẫn dụng trang trí đều phải có hình hoa đào cho Trẫm!
* * *
Sáng hôm sau là đến ngày hành quân đến Bồn Man để dẹp dư đảng Bí Cai, Nguyễn Đức Trung lại đưa vợ và hai con gái đến Huy Văn Tự thắp nhang cầu bình an. Khác hẳn với Thu Hằng luôn tỏ ra hiếu thảo hiểu chuyện, lúc nào cũng bên cạnh cha mẹ và Ngô phu nhân rót nước hầu trà, sau khi lạy Phật Thu Đào lại lấy cớ muốn đi dạo chơi mà tiếp tục thăm dò các ngóc ngách trong chùa hòng tìm thấy giá nến hình hoa đào. Nàng lại ra trước cổng mà nhìn vào toàn cảnh ngôi chùa, cố tưởng tưởng ra vị trí của căn phòng thờ nhỏ đó.
- Ba cây muỗm ở đây.. Chính điện ở đây.. đi qua dãy phòng ở tay phải.. - Thu Đào nhắm mắt lẩm bẩm.
Lúc mở mắt ra nhìn về hướng đã nghĩ ra trong đầu thì vẫn chỉ thấy có mỗi dãy phòng của Lê Hạo mà thôi! Nàng thất vọng thở dài:
- Có lẽ ở thời điểm này căn phòng đó chưa được xây lên chăng? Giá nến hình hoa đào ơi, tao biết đi đâu tìm cho ra mày đây? Có đúng là ánh sáng của mày đã mở cổng thời gian đưa tao đến nơi này không? Làm sao có thể trở về được đây?
Suy nghĩ nát óc vẫn không biết nên làm thế nào, Thu Đào đành thất thểu theo cha mẹ hồi phủ, suốt dọc đường lòng nàng không thôi nghĩ về dãy nhà nơi có thư phòng của Lê Hạo và căn phòng thờ Phật có chiếc giá nến ở chùa Thánh Chúa. Xét về vị trí thì đúng là nơi ấy, còn xét về kiến trúc phòng ốc thì gần như là không liên quan gì nhau cả.
Thu Hằng ngồi chung với chị trên cổ xe ngựa, từ nãy đến giờ vẫn chú ý đến nét suy tư trên gương mặt Thu Đào, bèn hỏi:
- Mỗi lần đến Huy Văn Tự đều thấy tỷ nghĩ ngợi không vui, có phải là vì chàng không?
Thu Đào nghe xong liền thật thà giải thích:
- Không phải đâu, chỉ là..
Nói đoạn nàng phân vân không biết phải kể như thế nào với em gái, chỉ đành hỏi một cách không đầu đuôi:
- Thu Hằng à, ta có một việc muốn hỏi..
Thu Hằng liền gật đầu đồng ý. Đoạn Thu Đào nói tiếp:
- Từ bé đến giờ muội thường xuyên lui tới Huy Văn Tự, muội có từng nhìn thấy chiếc giá nến nào có hình hoa đào không? Nó là một chiếc giá nến có ba chân đỡ lấy một đóa hoa đào bằng đồng ấy!
Thu Hằng rất đổi ngạc nhiên không hiểu vì sao tỷ tỷ lại muốn tìm cái vật ấy, rồi cho rằng Thu Đào lại đang muốn bày tỏ nghịch ngợm gì chăng? Hết lồng đèn ông sao lại đến giá nến hoa đào! Tuy thế nàng ta vẫn đáp rằng:
- Muội chưa nhìn thấy chiếc giá nến nào như vậy cả, ở chùa chủ yếu là những loại giá nến đơn giản thôi, hiếm khi có hoa văn gì đặc biệt!
Thêm một lần nữa thất vọng, Thu Đào chỉ "ờ!" một tiếng hững hờ, rồi lại tiếp tục theo đuổi ý nghĩ của riêng mình.
Buổi tối hôm ấy, phu nhân của Nguyễn Đức Trung đoán biết trên đường hành quân chắc chắn gian khổ thiếu thốn, nên bà đã lệnh cho gia nhân chuẩn bị bàn tiệc đầy đủ rượu thịt các món để cả nhà cùng ăn một bữa cơm ngon trước khi ông ra trận. Lần đầu tiên Thu Đào được biết cảm giác trong gia đình có người sắp sửa phải ra đầu sóng ngọn gió, có nguy cơ hi sinh cả tính mạng, không khí trầm lắng nặng nề. Trên bàn đầy ắp những món ngon nhưng không ai buồn động đũa, chốc chốc chỉ nói dăm ba lời căn dặn, vài lời chúc bình an. Đến cả Thu Đào cũng cảm thấy xót xa khi nhìn Nguyễn Đức Trung – Người cha hiện tại của mình mặt mũi cứ đâm chiêu, ánh mắt nhìn xa xăm, thỉnh thoảng lại thở dài ngao ngán. Thu Đào lấy làm lạ bèn đánh bạo hỏi cha:
- Trận đánh này có lớn không cha, quân ta có phần thắng nhiều không?
Nguyễn Đức Trung nhìn con gái, hiền lành đáp:
- Con còn nhỏ chưa hiểu đại sự. Trận đánh này tuy nhỏ, quân ta mười phần chắc thắng cả mười. Nhưng điều cha lo lắng không phải là dẹp giặc, mà là bảo vệ Hoàng Thượng..
Ông bỏ dở câu nói vì không biết giải thích thế nào về quốc gia đại sự, làm sao để nói cho rõ những đấu tranh ngấm ngầm chốn thâm cung cho đứa con gái chỉ mới mười lăm tuổi hiểu được. Bèn nâng ly uống một ngụm rượu, rồi bảo vợ con cứ yên tâm dùng bữa, vì ông nhất định sẽ bình an trở về. Thu Đào vốn tính hiếu kỳ, bèn cố gặng hỏi thêm:
- Bồn Man hiện giờ có phải là vừa mới sát nhập với Đại Việt ta, và do dòng họ Lư Cầm làm thủ lĩnh đúng không cha.
Nguyễn Đức Trung giật thót vì kiến thức của con gái, ông tròn mắt gật đầu:
- Phải! Con cũng hiểu biết lắm đấy!
Thu Đào đắc ý khoanh tay trước ngực nói tiếp:
- Thưa cha, con có cách khiến quân ta không tốn một binh một tốt vẫn có thể bắt được dư đảng Bí Cai, làm cho dòng họ Lư Cầm một lòng quy hàng Đại Việt!
Nguyễn Đức Trung và cả gia đình trố mắt nhìn Thu Đào vừa ngạc nhiên vừa nghi hoặc. Rồi cũng hiểu việc đại sự không thể nói tuỳ tiện, sau bữa cơm, Thu Đào mời riêng cha về thư phòng để trình bày sách lược. Dựa vào những kiến thức lịch sử từng đọc được trong lúc làm nhân viên quản lý thư viện, cộng thêm việc hay xem chương trình bình luận về các vấn đề chính trị của các sử gia khi nghiên cứu về văn hóa nước ta, từng câu từng chữ Thu Đào nói ra đều mượn lời bình của những bậc sử gia lừng danh như Trần Trọng Kim, Phan Huy Chú vv.. khiến Nguyễn Đức Trung nghe đến đâu liền gật gù đến đấy vì quá hợp lý. Ông tự nhủ sẽ bẩm tấu với Nhân Tông ngay ngày mai lúc trên đường hành quân. Nếu mọi việc tiến hành thuận lợi như mong đợi, chẳng những thủ lĩnh Bồn Man là Lư Cầm sẽ tự nguyện quy hàng, tránh được một trận can qua, mà vì thế vua cũng sẽ sớm ngày hồi cung mà tránh được nguy hiểm rình rập bên mình nơi chiến trường.
* * *
Mặt trời chưa ló dạng nhưng ánh sáng buổi bình minh đã soi tỏ tường năm cánh cổng Nam Môn.
Sau khi nghe kế sách của Nguyễn Đức Trung, Nhân Tông cũng nhận được cái gật đầu của Lê Hạo, bèn lập tức viết thánh chỉ chiêu hàng, dùng tuấn mã thần tốc mang đến Bồn Man trước, đoàn quân do vua làm chủ soái sẽ tiếp bước theo sau. Nhược bằng chiêu hàng thất bại, thì từng ấy quân lính cũng đủ để san bằng cả Bồn Man và tàn dư của nghịch tặc Bí Cai.
Một vạn quân tiền vệ phất ngọn cờ chữ "黎(Lê)" kiêu dũng đi đầu, tiếp theo là hai vạn quân xếp hàng ngay ngắn, bước chân đều đặn giẫm xuống làm rung chuyển cả mặt đất. Xa giá của Nhân Tông đi tiếp theo sau, vua ngồi trên tuấn mã Truy Phong - Cái tên do Lê Tuấn đích thân đặt cho nó, chàng mặc áo giáp oai phong, bên trái là Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân, bên phải là Bình Nguyên Vương Lê Hạo cùng Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung. Đoàn quân sĩ khí ngút trời, nhằm Bồn Man thẳng tiến.
Bí Cai vốn là vua Chiêm Thành từng quấy nhiễu bờ cõi Đại Việt vào năm 1446, lúc đó Nhân Tông còn nhỏ tuổi, Tuyên Từ Thái Hậu buông rèm nhiếp chính đã ra lệnh chinh phạt Chiêm Thành, dẹp yên bờ cõi. Bí Cai bại trận trước quân ta và bị bắt sống, Nhân Tông nhân từ đã hạ lệnh thả tù binh về cố quốc, Bí Cai chẳng những không biết ơn tha mạng lại còn lẻn đến Bồn Man vốn đã xin hàng Đại Vệt để sách động dòng họ Lư Cầm tạo phản. Lúc ấy, triều đình Đại Việt hạ chiếu chiêu hàng, hứa rằng nếu thủ lĩnh Bồn Man giao nộp nghịch tặc Bí Cai sẽ được phong hầu phong tước, dòng họ Lư Cầm đời đời được làm thủ lĩnh Bồn Man dưới sự bảo hộ của Đại Việt. Nếu nghịch ý vua Lê thì một ngọn cỏ cũng sẽ bị vó ngựa Đại Việt nghiền nát.
* * *
Thu Đào là một người đến từ tương lai nên đã sớm đã biết kết cục của trận đánh, chỉ có điều tại thời khắc này đây, nếu xét về logic thì chính nàng là người đã có công lớn trong việc dẹp trừ loạn đảng! Thật là oai phong làm sao! Thời khắc huy hoàng lúc thủ lĩnh Lư Cầm giơ tay đầu hàng sao nàng có thể dễ dàng bỏ qua được? Bằng mọi giá nhất định phải được chứng kiến mới thõa lòng! Nghĩ là làm, từ đêm qua Thu Đào đã chú ý đến đoàn nữ tuỳ tùng hơn hai mươi người nhận nhiệm vụ phải theo hầu cho cha trong lần ra trận này, lợi dụng lúc họ tất bật chuẩn bị đồ đạc, Thu Đào cố tình đội mũ to lùm xùm không cho ai nhìn rõ mặt, khéo léo trà trộn vào, trót lọt theo đoàn người ra khỏi phủ Điện Tiền.
Hành quân gian khổ, các tướng lĩnh có chức vị thường mang theo người hầu, các nữ quân nhân để lo việc cơm nước hầu hạ cũng là điều dễ hiểu.
Người đông hỗn tạp, chẳng ai để ý đến trong đoàn người hậu phương có đại tiểu thư Thu Đào cải trang thành nữ tì của phủ Điện Tiền đang ngoan ngoãn xếp hàng ngay ngắn, một bước rồi một bước nối gót theo sau đoàn quân.
* * * Hết chương 15 ----
Chú thích:
1. (*) Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Đại Việt Thông Sử: Cấm Vệ Quân ở kinh đô thời Lê Sơ bao gồm Kim Ngô Vệ, Cẩm Y Vệ, Hiệu Lực Vệ, Thần Vũ Vệ, Điện Tiền Vệ, Thuần Tượng Vệ, Mã Bế Vệ.
2. Thái Tông (*) : Chỉ vua Lê Thái Tông.
3. (*) Lăng trì: Hay còn gọi là"tùng xẻo', thứ hình phạt tàn khốc thời phong kiến, giết phạm nhân bằng cách cắt chân tay, xẻo từng miếng thịt cho chết dần.
4. (*) Ngự Thiết Phòng: Bộ phận chuyên làm nhiệm vụ trang hoàng cung điện cho vua. Đây là thuật ngữ riêng của tác giả dựa trên việc tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau, không phải là thông tin chính thức được ghi trong các tài liệu sử học.
Sự đời trước nay chưa bao giờ hoàn toàn diễn ra đúng theo mong muốn của con người, dẫu cho Thu Đào là người đến từ tương lai, nắm rõ vận mệnh của Đại Việt thời Lê Sơ, nhưng nàng vẫn chỉ là một con người bé nhỏ giữa vũ trụ bao la này, mà huyền cơ trong đó ngoài đấng tạo hóa ra chẳng ai có thể lường trước được!
Ánh mặt trời len lõi qua từng kẽ lá, vẽ xuống mặt đất bức tranh sinh động của đủ dạng hình thù muôn loài cỏ cây đang lay động theo từng cơn gió ngày cuối hè thổi đến. Năm kỵ sĩ mang theo thánh chỉ chiêu hàng cưỡi năm con tuấn mã phi nước đại đến Bồn Man. Làn gió bị vó ngựa chẻ làm đôi phát ra tiếng vù vù bên tai, móng ngựa chạm xuống mặt đất đều đều làm cát bụi tung lên mù mịt đủ để tạo thành màn khói sương mờ ảo che khuất được cả tầm nhìn của kẻ nào không may đi sau lưng họ. Người ngựa cứ thế miệt mài dãi nắng dầm sương, trời tối mịt mới dừng chân lại đốt lửa trại nghỉ ngơi, lúc gà gáy canh tư đã vội vã lên đường. Đến ngày thứ hai, lúc mặt trời chuẩn bị xuống núi thì đoàn quân cũng đã hoàn thành được một phần ba đoạn đường. Càng gần đến địa phần Bồn Man núi non càng chập chùng hiểm trở, họ giờ đây đang lọt thỏm vào con đường mòn một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là ngọn đồi thoai thoãi cõng trên lưng cánh rừng già rậm rạp um tùm. Đoàn người nới lỏng dây cương cho ngựa đi chầm chậm từng bước để đảm bảo an toàn. Từ xa bỗng vang đến tiếng "lộc cộc" của vó ngựa, càng lúc càng gần hơn. Trong ánh nắng yếu ớt buổi xế chiều, một toáng người mặc áo đen có khăn trùm đầu che kín mặt đang phi nước đại tới đối diện năm người kỵ sĩ. Một tên trong số đó tiến đến nhanh hơn cả, bóng hắn to dần lên rồi bất ngờ áp sát nhanh như một cơn gió. Hình ảnh hắn vung đao lạnh lùng chém xuống đang hiện rõ mồn một trong tròng mắt của các kỵ sĩ..
Xoạt! Xoạt!..
Thủ cấp của hai người lính đứng đầu nối tiếp nhau rơi xuống đất. Hắn kéo dây cương điều khiển ngựa tiếp tục tiến đến nhằm hạ thụ nốt ba người còn lại thì các dũng sĩ đã kịp thời tuốt gươm nghênh chiến.
Ba chọi một, nhưng tên cầm đầu võ nghệ cao siêu liên tục tránh được đường gươm của các kỵ sỹ. Trong phút chốc toáng người đã đến rất gần, hắn cười khoái trá một tràng dài rồi hét:
- Đoạt chiếu chỉ cho ta!
Một trong ba chàng dũng sỹ nhìn chàng trai trẻ nhất trong số họ - người đang giữ chiếu chỉ trong ngực áo – nói:
- Chạy đi!
Hiểu rõ nhiệm vụ, chàng ta mắt ngấn lệ nhìn đồng đội lần cuối rồi lập tức bỏ lại ngựa, nhằm hướng khu rừng mà chạy. Tên thủ lĩnh biết ý liền lao tới định chém từ phía sau lưng chàng, lập tức hai người chiến sĩ còn lại ra tay ngăn cản. Khu rừng rậm rạp nhiều cây cối cản trở, cưỡi ngựa thì không thể nào vào được, vì vậy chàng trai trẻ thành công tẩu thoát, bóng chàng khuất hẳn sau những tán cây u tịch.
Phía sau lưng, tiếng đao chém, tiếng vó ngựa.. và cả tiếng máu tươi bắn ra từ thân thể của đồng đội chàng đều nghe thấy rõ cả!
* * *
Bốn ngày đã trôi qua, lẽ ra lúc này đã có hồi âm từ Bồn Man rồi mới đúng, quân lính Đại Việt vừa đi vừa chờ đợi nhưng vẫn bặt vô âm tính. Trên đường hành quân, mọi thứ yên ắng thuận lợi đến lạ thường, dân chúng sinh sống ở vùng lân cận địa phận Bồn Man bỗng dưng biến mất tăm, chỉ có nhà không vườn trống hoặc giả là vài căn chòi tạm bợ của những người nông dân đang cố nán lại để thu hoạch nốt những bắp ngô ngọn lúa cuối cùng. Linh tính mách bảo có điều chẳng lành, Lê Hạo bí mật truyền tin tức cho tướng quân Đinh Liệt.
Tối đến, đoàn quân hạ trại ngay tại đoạn đường bằng phẳng cuối cùng, trước khi vào lãnh thổ nhiều đồi dốc của Bồn Man.
Đêm nay không trăng, những vì sao được dịp tỏa sáng lấp lánh trên nền trời đen như mực. Thỉnh thoảng những cơn gió ở đâu chạy đến làm lay động tán cây nghe xào xạc, hàng vạn con người đang có mặt nơi đây nhưng sao không gian cứ lặng lẽ như tờ, bản hòa âm của côn trùng cứ thế phát huy hết công suất.
Ba phát pháo sáng liên tiếp từ mặt đất bay lên giữa bầu trời..
Đứng cách nơi hạ trại khoảng hai dặm đường, viên thám tử vâng lệnh Đinh Liệt bí mật theo sát xa giá đã nhìn thấy ba bông hoa lửa báo hiệu cầu viện của Lê Hạo, bèn lập tức quay đầu phi nước đại trở về hoàng thành..
Phan Tường – Người kỵ sĩ trẻ đã thoát được lưỡi đao của sát thủ hai hôm trước cũng nhìn thấy trên bầu trời ám hiệu của Bình Nguyên Vương, vì chàng vốn thuộc hàng ngũ quân tinh nhuệ do một tay Lê Hạo huấn luyện. Trong lúc mất phương hướng, không lương, không nước, phải nhai lá cây, ăn sống thú rừng, liếm từng giọt sương trên lá mà sống, chàng như bắt được vàng vội vã lê từng bước nhầm thẳng hướng phát ra pháo sáng mà chạy về báo tin..
* * *
Thật ra việc Thu Đào lén lút trà trộn vào đoàn tỳ nữ theo hầu đoàn quân sớm đã bị chưởng sự tỳ nữ của phủ Điện Tiền phát hiện lúc điểm danh cuối ngày, khi đoàn quân đã đi quá xa để nàng có thể trở về. Huống hồ khi nhận ra chính là đại tiểu thư, bà ta cũng thất kinh hồn vía toang đi báo ngay cho Nguyễn Đức Trung rồi. Nhưng Thu Đào đã khéo léo dùng ba đồng tiền vàng vừa mua chuộc vừa cầu xin, nàng hứa sẽ tuân thủ quy tắc như bao người khác, quyết không gây cản trở công việc của bà, chỉ mong được giữ kín bí mật để nàng tha hồ rong chơi trãi nghiệm. Chưởng sự tỳ nữ phần vì tham của ban thưởng, phần vì nể sợ đại tiểu thư – người lại sắp trở thành cung tần duy nhất của Hoàng Đế - nên đã đồng ý bao che.
Vì trót bị phát hiện thân phận, Thu Đào chẳng được chưởng sự tỳ nữ giao việc gì nặng nhọc cả, chỉ đơn giản là mang giúp cái này, nhặt hộ cái kia cho có lệ, phần lớn thời gian nàng đều được tự do đi tản bộ ngắm cây cỏ lá hoa trong khu vực hạ trại. Bầu trời nhiều sao lấp lánh đêm nay quả nhiên đã thu hút được Thu Đào nổi hứng muốn đi dạo, buổi chiều nàng đã để ý thấy phía bìa rừng, cách nơi hạ trại không xa có một con sông nhỏ uốn lượn theo đường cong quanh co của chân đồi, bờ sông bên này lại là một bãi đất trống có nhiều hoa sao nhái màu vàng đang lúc nở rộ, thật nên thơ vô cùng!
Sau khi cẩn thận bôi một lớp thuốc mỏng lên vết bỏng đang kéo da non, Thu Đào đội mũ che kín đến trán, mặc trang phục của một nam gia nhân, khoát áo choàng có mũ trùm kính đầu, nàng mang theo lồng đèn rồi một mình ra khỏi khu hạ trại, nhằm hướng bờ sông mà đi.
Đời quả thật không như là mơ! Trái với cảnh bầu trời đêm lung linh ánh sao trong những thước phim ảo tung chảo mà Thu Đào được xem trước đây, thực tế ngoài đời, đêm không trăng thì chỉ có tối đen như mực, chiếc lồng đèn ánh sáng yếu ớt chỉ có thể soi tỏ một khu vực chưa quá mười bước chân. Cực khổ dò dẫm mãi mới ra được đến bờ sông, cũng may nơi đây rộng rãi thoáng mát, khi mắt đã quen với bóng đêm rồi thì cũng không đến nỗi chẳng thấy được gì. Ít ra Thu Đào vẫn có thể hít được khí trời trong lành thời cổ, ngắm được mặt nước đang soi rất rõ những ánh sao trời lấp lánh, trông như một tấm gương lớn trãi dài trước mặt nàng.
- Chà! Chắc nước của dòng sông này trong lắm đây! Trời đêm tối mịt như thế mà thấy được cả ánh sao rọi xuống! – Thu Đào cảm thán reo lên.
Từ chỗ này, Thu Đào vẫn có thể trông thấy ánh lửa trại bập bùng của đoàn quân, chẳng lo việc mất phương hướng không biết đường về. Nàng yên chí đặt lồng đèn xuống đất rồi đứng vươn vai khoan khoái, ngửa mặt lên trời hít thật sâu bầu không khí mang mùi hoa cỏ ngọt ngào. Thu Đào mở mắt ra nhìn khắp xung quanh một lượt, cảnh đêm tuy có đẹp nhưng sao hơi vắng lặng, tiếng côn trùng rả rít bên tai khiến nàng bất chợt ước phải chi có thêm một ai đó bên cạnh chắc sẽ vui hơn, và.. đỡ sợ ma hơn. Một cơn gió thoáng qua làm Thu Đào cảm thấy ớn lạnh sống lưng, nàng khẽ rùng mình một cái, định bụng sẽ đi về gần doanh trại hơn cho đỡ sợ.
Sột.. sột!
Tiếng động phát ra từ bụi hoa sao nhái ngay sát bên cạnh làm Thu Đào giật thót đánh rơi lồng đèn trên tay, bị va xuống mặt đất hơi mạnh nên ngọn nến tắt lụi!
- Chết rồi, sao mà tối đến như vậy? Không còn thấy được cả ngón tay của chính mình luôn! – Thu Đào khẽ than rồi đưa hai bàn tay ra trước mặt quơ quơ dò dẫm tìm lối đi.
Một bàn tay chụp lấy cổ chân nàng bất ngờ kèm theo tiến rên rỉ thê thảm khiến ai nghe cũng phải ớn lạnh:
- Cư.. ứ.. u! C.. ứu m.. ạ.. ng!
Tiếng hét thất thanh của Thu Đào vang lên giữ đêm tối tĩnh mịch:
- Á! Có ma!
Thu Đào thất kinh hồn vía, cứ hét "á, á" thêm hai ba lần nữa, một khoảng thời gian ngắn trôi qua đủ để nàng nhận ra không có nguy hiểm gì nữa, và bàn tay nắm chặt cổ chân nàng lúc nãy cũng đã nới lỏng ra, không còn động đậy nữa. Mặc dù rất sợ hãi, nhưng nàng nghĩ chắc hẳn là người sống và đang cần giúp đỡ, vì nếu là ma thì có lẽ nãy giờ nàng đã không thể được yên ổn mà hét to đến tám dặm đường còn nghe thấy như thế.
Thu Đào chầm chậm ngồi xuống sờ soạn một lúc lâu mới đụng trúng được gương mặt của người này. Hắn đang sốt cao, gương mặt nóng như lò lửa khiến Thu Đào vừa chạm vào đã phải rụt lại một cái. Biết chắc là người nào đó đang gặp nạn, nàng lay lay người hắn và hỏi:
- Ngươi là ai, có sao không? Có nghe ta nói gì không?
- Ma.. u! Mau đưa ta đi gặp.. Bì.. nh Nguyên Vương! Quân ti.. ình có biến! – Hắn cố gắng hớp từng ngụm không khí để nói từng chữ một.
Giọng hắn quá yếu ớt và nhỏ, Thu Đào phải áp sát tai vào miệng hắn hỏi lại:
- Ai? Người cần gì? Ngươi là ai?
Hắn cố hết sức mình nói tiếp được vài chữ:
- Pha.. n Tường! Bình.. Nguy.. ên Vương!
Nghe được ba chữ "Bình Nguyên Vương" Thu Đào hỏi dồn xác nhận:
- Ngươi là thuộc hạ của Lê Hạo à? Ngươi là quân lính của triều ta?
- Ph.. ải..
Rồi hắn ngất lịm đi, mặc cho Thu Đào cố gắng lay gọi. Đoán biết quân tình có điều không ổn, vì cớ sao đang yên đang lành một quân sĩ lại bị thương ra nông nổi này, lại còn nằm ở một nơi ngoài phạm vi doanh trại, rõ ràng là từ xa đến báo tin. Thu Đào lập tức xốc hắn dậy, muốn cõng về doanh trại. Nhưng nàng là một nữ nhi mảnh mai yếu đuối, trong khi Phan Tường thân thể cao lớn vạm vỡ, không tài nào vác hắn trên lưng được. Thu Đào nhanh trí cởi lớp áo khoát bên ngoài ra trãi xuống đất, đoạn nàng dùng hết sức mình lăn hắn qua nằm trên chiếc áo, rồi ra sức kéo đi. Nàng bặm môi kéo, và kéo, lê từng bước nặng nhọc. Lòng tự nhủ:
- Cũng may ở đây gần bờ sông bùn đất cũng mềm, nếu là sỏi đá thì chắc chắn lưng của ngươi sẽ nát như tương!
Bụp! Đang đi thì Thu Đào vấp một cành cây khô nên ngã lăn ra đất, bàn tay bị xước một đường dày đến tận cổ tay, máu tươm ra chảy ướt đến tận khuỷu. Tuy vậy, nàng vẫn không bỏ cuộc, quyết tâm tìm cách đưa Phan Tường về doanh trại bằng được, khoảng cách từ bờ sông đến doanh trại lúc đi ra dạo chơi thấy cũng gần, bây giờ vác thêm tên này sao thấy xa dịu vợi! Tay thì đau, sức thì yếu, không thể cứ thế kéo lê hắn mãi được, như thế cả nàng và hắn đều sẽ bị thương thêm nặng!
- Dù sao cũng khoảng mấy chục mét nữa là đến nơi, ta liều vậy! - Thu Đào nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng chọn một cách không thể nào "tồi" hơn được: Vừa đi vừa la lớn cầu cứu!
Nhưng kêu tên ai đây? Vì không có đích danh thì sẽ chẳng ai biết là quân lính của Lê Hạo mà kịp thời chạy ra giúp mình! Nghĩ là làm, Thu Đào vừa kéo lê Phan Tường trên chiếc áo khoát vừa hét gọi đích danh Lê Hạo:
- Bình Nguyên Vương! Phan Tường tìm ngài!..
- Bình Nguyên Vương! Cứu Phan Tường!..
- Alo! Bình Nguyên Vương! Cứu mạng!
Đang cùng Lê Hạo đích thân làm nhiệm vụ canh gác tuần tra quanh trại trong hai canh giờ đầu tiên, bỗng Lê Tuấn đứng sựng lại lắng tai nghe, rồi nhìn Lê Hạo thảng thốt nói:
- Thu Đào!
Lê Hạo ngạc nhiên hỏi lại:
- Nàng thế nào?
Lê Tuấn không vội trả lời mà lắng tay nghe kỹ một lúc rồi nhìn Lê Hạo quả quyết:
- Đúng là giọng của nàng!
- Nhưng làm sao nàng lại xuất hiện ở đây được? – Lê Hạo nghi hoặc hỏi.
- Ta không biết, chỉ biết đó chắc chắn là nàng! – Lê Tuấn nói xong lập tức quay đầu chạy về phía nơi có phát ra âm thanh chàng nghe thấy được.
Lê Hạo tất tả chạy theo, không quên khoát tay gọi theo mười người thuộc hạ thân tính.
Đang kéo theo tên to xác Phan Tường, lại phải chốc chốc hét gọi Lê Hạo, Thu Đào đuối sức, giọng chỉ còn là thều thào đứt quãng, đang lúc mệt sắp đứt hơi, nàng nhìn thấy từ phía doanh trại có những chiếc lồng đèn phát sáng lơ lửng đang chuyển động càng lúc càng đến gần mình bèn mừng rỡ cố hết sức hét tiếp:
- Bên này! Phan Tường bên này!
Lê Tuấn lúc này không còn nghi ngờ gì nữa, chàng dám chắc đó là Thu Đào. Không cần biết nguyên nhân tại sao nàng lại xuất hiện ở đây, trước mắt chàng chỉ hận không thể cưỡi gió để đến bên nàng thật nhanh xem đã xảy ra chuyện gì mà thôi!
Lê Hạo nghe thấy tên "Phan Tường" thì đã biết chắc đoàn kỵ sĩ đưa chiếu thư đã gặp chuyện chẳng lành nên cũng gấp rút cùng Lê Tuân chạy như bay đến nơi phát ra tiếng kêu cứu.
Vì dùng sức quá nhiều nên Thu Đào cảm thấy như bị hụt hơi, hoa mắt chóng mặt, trong phút chốc nàng cứ như người sắp ngất, xiêu vẹo vài bước rồi ngã xuống đất. Lịm đi vài giây, nàng từ từ mở mắt thấy ánh sáng của những chiếc lồng đèn đã đến rất gần, tiếng bước chân thình thịch của đoàn người đang chạy đến làm nàng cảm thấy rất yên tâm.
- Trời ơi, được cứu rồi! Mệt quá rồi!
Rồi cơn đau tim lại kéo đến, giống hệt lúc đứng sau lưng Lê Tuấn ở Huy Văn Tự mấy hôm trước. Thu Đào nhăn nhó đưa tay lên ôm ngực thở dồn dập. Vừa nghĩ đến Lê Tuấn thì bên tai nàng đã văng vẳng giọng của chàng:
- Thu Đào! Đúng là nàng! Thu Đào!
Qua khe mắt khép hờ và ánh sáng lồng đèn yếu ớt, nàng thấy gương măt của Lê Tuấn đang dần hiện ra, mùi thơm của hoa hồng khô lại thoang thoảng trong không khí.
- Lê Tuấn, là chàng à? – Thu Đào thều thào hỏi.
- Đúng, là ta đây! Không sao rồi, không sao rồi!
Thu Đào không cưỡng nỗi nữa hai mắt nhắm nghiền, bên tai vẫn văng vẳng giọng chàng đang lay gọi mình.
* * *
Bí Cai chính là tên sát thủ đã chặn đường hạ sát năm kỵ sĩ nhằm đoạt chiếu thư chiêu hàng, không cho thủ lĩnh Bồn Man là Lư Cầm Công có cơ hội về phe Đại Việt mà chống lại hắn. Mười năm trước bị bại dưới tay Lê Triều, tuy được vua Lê tha mạng nhưng Bí Cai chưa bao giờ quên mối hận này và luôn muốn trả thù. Tiếc thay quốc vương Chiêm Thành hiện tại đang rất thuần phục Đại Việt, một mình hắn chẳng thể làm gì nổi. Chỉ có cách kích động tham vọng mở rộng bờ cõi của thủ lĩnh Bồn Man, hắn mới có thể lợi dụng binh lực của dòng họ Lư Cầm mà trả thù Đại Việt được. Vì vậy sau khi được tha, hắn đã đến Bồn Man, dùng danh nghĩa cựu quốc vương Chiêm Thành mà ở lại hiến kế bày mưu cho dòng họ Lư Cầm cai quản vùng đất của họ. Nào ngờ Hoàng Đế Đại Việt túc trí đa mưu, dùng kế chiêu hàng và hứa đời đời cho dòng họ Lư Cầm cai quản Bồn Man, tuyệt không xâm phạm. Bồn Man vốn có phần nể sợ Đại Việt, nay lại được hứa bảo hộ đời đời, Bí Cai sợ Lư Cầm Công sẽ thuần phục Đại Việt mà không giúp đỡ hắn nữa, nên mới muốn đoạt lấy chiếu thư, cắt đứt liên lạc giữa Đại Việt và Bồn Man. Như thế mới lừa được Lư Cầm Công xuất binh tiến đánh Đại Việt được.
Tại vương cung của Bồn Man.
Đặt hai cái thủ cấp lên bàn, Bí Cai nói với Lư Cầm Công:
- Đại Việt biết chúng ta đã có ý tuyên chiến, nay đã xua quân đánh trước. Ta đã đích thân chém được đầu hai tên lính tiên phong của chúng về làm bằng cớ cho tù trưởng (*) xem đây! Xin tù trưởng mau chóng bố trí thiên la địa võng và xua quân đánh úp giết sạch quân Đại Việt, cho chúng không kịp trở tay. Nếu chậm trễ chỉ e viện binh của chúng sẽ đến, lúc đó Đại Việt có Hoàng Đế thân chinh, lại binh hung tướng mạnh ta sẽ khó chống trả. Chi bằng ra tay trước chém đầu vua Lê, mở rộng bờ cõi, xưng vương xưng đế!
Không nhận được thư chiêu hàng nên tù trưởng Lư Cầm Công không biết bản thân ngài có cơ hội được Đại Việt bảo hộ, mà cứ tin lời Bí Cai rằng Hoàng Đế Đại Việt luôn có ý muốn xóa sổ Bồn Man như cách đã làm với Chiêm Thành. Vì thế Lư Cầm Công đã đồng ý cho Bí Cai mượn binh lực chống trả với Đại Việt.
* * *
Sau khi tỉnh dậy, Phan Tường đã thuật lại đầu đuôi việc bị chặn đánh hòng cướp chiếu chỉ, khuyên quân ta nên đề phòng có mai phục khi vào lãnh địa Bồn Man, mặc khác hãy tìm cách gửi cho bằng được thư chiêu hàng để giảm bớt thương vong. Nhân Tông nghe xong lập tức truyền lệnh toàn bộ quân sĩ không hành quân đi tiếp đến Bồn Man trước khi gửi được thư chiêu hàng, đồng thời ngày đêm đều phải luôn trong tư thế cảnh giác, đề phòng mai phục.
Về phía Bí Cai, sau khi được Lư Cầm Công trao binh quyền, hắn lập tức bố trí quân mai phục sẵn khắp các tuyến đường chủ chốt đẫn vào Bồn Man, còn hắn đích thân dẫn đầu một vạn quân với mục đích cố tình áp sát khiêu chiến rồi giả vờ thua bỏ chạy, dẫn dụ quân Đại Việt vào ổ phục kích.
Từ hoàng thành Thăng Long, đại tướng quân Đinh Liệt sau khi nhận được cấp báo đã tức tốc dẫn theo năm vạn quân tinh nhuệ xuất chinh tiếp ứng cho đoàn quân của Nhân Tông.
* * * Hết chương 16 ----
Chú thích:
1. (*) Tù trưởng: Vị trí thủ lĩnh của một bộ tộc, bộ lạc.
Thảo nguyên xanh mướt trãi dài tận chân trời, ánh nắng vàng rực rỡ làm những bông hoa dại đủ màu sắc rực rỡ càng thêm nổi bật trên nền cỏ..
Lê Tuấn oai nghi đứng xoay lưng lại phía Thu Đào, chàng vẫn mặc bộ trang phục xanh lam tao nhã ấy, dáng điệu khoan thai điềm tĩnh, phe phẫy chiếc quạt có vẽ tranh sơn thuỷ trên tay. Trước mặt chàng là một bầy sói, cầm đầu là một con hổ to lớn đang gầm gừ giơ nanh múa vuốt, phủ phục xuống trong tư thế sắp vồ mồi.
Con hổ thủ thế xong liền bất ngờ phóng tới, tiếng nó gầm làm run chuyển cả đất trời. Bầy sói sau lưng cũng theo lệnh của nó đồng loạt lao đến, bụi tung mịt mù cả một góc trời. Phúc chốc, Lê Tuấn tung chiếc quạt lên quạt qua lại hai lần về phía bọn mãnh thú, gió từ chiếc quạt biến thành một trận cuồng phong cuốn phăng hết bọn chúng lên cao rồi hất xuống đất. Con hổ tức giận, mắt nó toé lửa gầm rú lên một tràng dài chấn động không trung, rồi trên lưng nó mọc ra hai cánh bay lên toang lao đến để phanh thây kẻ địch. Lê Tuấn lúc này bình tĩnh xếp quạt lại, hai tay chàng dang ra như để đón gió, bầu trời kéo mây đen mịt mù, chàng hóa thành một con rồng trắng uốn lượn bay lên nghênh chiến!
Tu.. tu.. tu!
Tiếng tù và chốc chốc lại vang lên hối hả đã đánh thức Thu Đào. Nàng chầm chậm mở mắt, tia nắng lọt qua những khe hở trên nóc lều chiếu lên cánh tay Thu Đào những giọt nắng lấm chấm ấm áp. Rõ ràng nàng cảm nhận cơ thể mình rất khoẻ mạnh, chẳng hiểu tại sao thỉnh thoảng nhìn thấy hoặc nghĩ về Lê Tuấn thì tim lại nhói đau khó hiểu như thế. Giấc mơ kỳ lạ vừa rồi càng làm nàng thêm nghĩ ngợi về chàng.
- Phải rồi, đêm qua trước khi ngất đi ta đã nhìn thấy chàng đúng không nhỉ? – Thu Đào tự hỏi.
Nàng ngồi bật dậy, nhận ra mình đang nằm trong một căn lều lạ, y phục đã được thay mới hết. Thu Đào hai tay ôm vai mình lo ngại lẩm bẩm:
- Ai đã thay quần áo cho mình vậy trời!
Lúc ấy, chưởng sự tỳ nữ vén màn cửa của căn lều bước vào, theo ngay sau lưng bà ta là Nguyễn Đức Trung. Nhìn thấy cha, Thu Đào mặt tái nhợt hoảng hốt, vội xuống giường quỳ phủ phục dưới đất, nàng chỉ biết cúi mặt lo lắng vì chẳng biết cách nào mà bào chữa cho cái tội tày trời dám lẻn vào quân đội của triều đình này!
Nguyễn Đức Trung quả nhiên nghiêm giọng quở trách:
- Con thật quá to gan, hồ đồ! Nếu như lần này con không có công lớn cứu được Phan Tường giúp quân ta đề phòng giặc, thì con nghĩ mình có mấy cái đầu để Hoàng Thượng chém vậy?
Đoạn ông liền quay sang chưởng sự tỳ nữ giáo huấn tiếp:
- Kim nương! Ta luôn tin tưởng ngươi và lão Ký, giao hết mọi việc lớn nhỏ trong nhà, sao ngươi lại dám bao che cho Thu Đào như vậy? Lần này ta tạm gửi lại thủ cấp trên đầu ngươi, xong việc lớn ta sẽ lại hỏi tội cả hai người!
Nói xong không đợi ai kịp trả lời, Nguyễn Đức Trung đã vội vã đi ra khỏi lều để còn lo việc quân.
Thấy cha vừa khuất bóng, Thu Đào thở phào quay sang Kim nương trách móc:
- Nè, có phải là người đã bán đứng con không vậy Kim Nương?
- Đại tiểu thư của tôi ơi, đêm qua lúc cô kéo Phan Tường về, đích thân Lê Hạo công tử đã ra cứu, lại có cả.. thì làm sao mà không bại lộ được chứ! – Kim nương than thở.
Thu Đào nghĩ cũng có lý, mình vừa đi vừa la hét như thế, chắc chắn kinh động mọi người, ai nấy tất nhiên sẽ tìm hiểu người cứu được Phan Tường là ai. Nhưng thấy giọng Kim nương ngập ngừng không nói rõ ràng, nàng gặng hỏi:
- Lê Hạo và ai nữa?
Kim nương vẻ mặt lấm lét:
- Là.. là Hoàng Thượng!
- Trời! – Thu Đào thảng thốt kêu lên.
Nàng nhớ đến gương mặt Lê Tuấn đêm qua đã xuất hiện trước lúc bị ngất, gật gù:
- Hèn gì chàng lại xuất hiện ở đó, chắc là đi cùng với Hoàng Thượng!
Thu Đào thè lưỡi rụt cổ, nhưng nàng cũng chẳng quan tâm lắm đến Hoàng Thượng, một là như cha đã nói đấy, mình lập được công, chắc chắn sẽ không bị chém đầu. Hai nữa, Hoàng Thượng càng thấy mình "tệ hại" thì sẽ mau chóng bỏ đi ý định nạp làm cung tần thôi! Chẳng có gì mà lo! Thu Đào an tâm nhìn quanh quất hồi lâu rồi lại hỏi Kim Nương:
- Đây là lều của ai vậy?
Kim Nương mặt không cảm xúc đáp ngay:
- Hoàng Thượng!
Thu Đào nghe tin này thì choáng váng thật sự, mình lại đang nằm trong chính căn lều của Lê Nhân Tông mà ngủ à! Nàng lo lắng nhìn vào mình từ trên xuống dưới khắp một lần rồi mếu máo hỏi Kim Nương:
- Ai đã thay quần áo cho con vậy? Thời phong kiến tôn trọng lễ giáo lắm mà! Chưa thành hôn mà đã..
Kim nương liếc mắt nhìn lên trời, chịu hết nổi cô đại tiểu thư ngốc nghếch nhưng được cái thích làm liều này rồi, bà ta thở dài ngắt lời Thu Đào:
- Trời ơi đại tiểu thư của tôi, tất nhiên là Kim nương ta đã chăm sóc cho cô từ đêm qua đến giờ rồi, yên tâm đi! Cô là cung tần sắp tiến cung của Hoàng Thượng, ai dám làm càn như thế được.
Nói xong bà nhìn gương mặt méo xệch của Thu Đào rồi bất giác che miệng khúc khích cười.
Qua lời kể của Kim nương, Thu Đào được biết tối qua trong lúc đích thân đi tuần tra quanh trại, Hoàng Thượng đã nghe được tiếng kêu cứu của cô nên dẫn người ra hướng bờ sông mà đón, không ngờ lại quả thật cứu được nàng và Phan Tường. Bản thân Hoàng Thượng suốt đêm đã túc trực canh Phan Tường để nghe bẩm tấu tình hình, hiện người vẫn đang cùng Bình Nguyên Vương lo tính toán đường đi nước bước, cả đêm chưa hề bước về lều nghỉ ngơi. Hiện tại Phan Tường đã khoẻ lại và truyền được tin tức cơ mật, toàn quân ai nấy đều sẵn sàng tư thế nghênh chiến nếu giặc xuất hiện lúc này. Cánh hậu phương như gia nhân tỳ nữ theo hầu có nhiệm vụ chạy trước về hoàng thành, nếu gặp quân lính của Đinh Liệt tướng quân thì gia nhập và nghe tướng quân sai khiến. Thu Đào lấy làm lạ, theo sử sách chép thì chưa có trận đánh nào lớn xảy ra giữa Đại Việt và Bồn Man cả, nếu có thì đã là chuyện lúc Nhân Tông còn nhỏ do Thái Hậu nhiếp chính mới đúng! Lẽ nào nàng đã nhớ sai hoặc giả chưa đọc được đoạn sử này chăng?
- Quả nhiên năm dài tháng rộng, thế sự đổi thay, dẫu có tư liệu sử sách để lại cho hậu thế cũng khó lòng mà đầy đủ được! – Thu Đào chép miệng nhủ thầm.
Rồi nàng nhớ ra một việc bèn hỏi Kim nương:
- Hậu phương chúng ta khi nào thì khởi hành trở về hoàng thành?
- Ngay sáng nay, cho nên cô hãy mau ăn uống chút gì, rồi chúng ta lập tức lên đường, Hoàng Thượng đã có chỉ phái mười vị cận vệ thân tính của người hộ tống tiểu thư về hoàng thành an toàn đó, nếu cô có mệnh hệ nào cả nhà họ sẽ chôn theo!
Lời thuật của Kim nương cứ ong ong bên tai làm Thu Đào nghe đến nổi muốn hồ đồ theo! Đi ngay bây giờ sao? Cha, Lê Tuấn và Lê Hạo, những người ta quan tâm đang gặp nguy cấp, sao ta có thể bỏ đi được?
- Con không đi! – Thu Đào bướng bỉnh đáp.
- Đại tiểu thư à, tốt nhất cô nên vâng lời đi. Cô ở lại đây chỉ làm Nguyễn Đại Nhân và Hoàng Thượng vướng víu tay chân, ngộ nhỡ gặp nguy hiểm thì họ sẽ phải bảo vệ cô, làm sao lo lắng tốt cho bản thân mình được! Ngoan, nghe lời Kim nương ta, cô nghịch đủ rồi, mau theo ta về hoàng thành nhé!
Lời nhắc của Kim nương chí lý vô cùng, Thu Đào cũng hiểu bà ta lo lắng là đúng, nhưng trái tim nàng mách bảo không thể nào cứ thế mà bỏ về một mình được. Trong lòng nàng bây giờ chẳng hiểu sao lại rất muốn gặp Lê Tuấn một lần, muốn chính miệng dặn dò chàng đừng mãi lo bảo vệ Hoàng Thượng mà quên mất bản thân, vì Nhân Tông tận ba năm sau mới bị ám sát mà băng hà, lần này chắc chắn sẽ không sao..
- Tên ngốc mà cứ tưởng mình là kẻ trung thành! Không biết có tự bảo vệ cho tốt bản thân mình không nữa! – Thu Đào lo âu nghĩ thầm.
Tiếng tù và lại vang lên, "tu tu, tu tu.."
Khắp doanh trại là một bầu không khí hối hả cấp bách, người lo thu dọn hành lý lên đường trở về hoàng thành, kẻ lo mặc giáp cầm giáo xông pha ra tiền tuyến chờ giặc đến, thỉnh thoảng lại nghe một binh sĩ hô lớn:
- "Cấp báo!"
Cổ xe hộ tống Thu Đào cùng đoàn tuỳ tùng ra khỏi doanh trại, nhằm hướng hoàng thành Thăng Long mà đi.
* * *
Non trưa, quả nhiên Bí Cai đã xua quân cố tình chia nhỏ thành từng nhánh tấn công từ bốn phía, nhưng chỉ đánh được một lúc thì lại vờ thua rút chạy về hướng những lối đi hiểm trở dẫn vào Bồn Man. Theo lời thuật của Phan Tường về trận năm kỵ sĩ bị đột kích, Nhân Tông sai Lạng Sơn Vương và Nguyễn Đức Trung ra nghênh chiến nhưng dặn dò tuyệt đối không được đuổi theo vào nơi có địa hình hiểm trở, tránh bị mai phục. Quân Đại Việt mãi không trúng kế đuổi theo, Bí Cai lo ngại nếu cứ kéo dài khoảng một ngày nữa thôi thể nào viện binh từ Thăng Long cũng sẽ kịp đến, kế hoạch chém vua Lê để trả thù xem như hoàn toàn thất bại. Vì vậy hắn ta quyết liều một phen, dốc hết ba vạn quân của Lư Cầm Công tấn công vào doanh trại Đại Việt, quyết tâm bắt cho bằng được Nhân Tông.
Đang đánh cầm chừng chặn không cho giặc đến gần doanh trại, Lê Hạo bỗng nghe thấy có tiếng reo hò của quân lính Bồn Man từ xa:
- Giết vua Lê!
Âm thanh mỗi lúc một gần, Bồn Man cùng đoàn tượng binh lù lù xuất hiện, khí thế ngút trời!
- Ta đã quá khinh thường lực lượng của Bồn Man rồi! – Lê Hạo tự nói một mình.
Biết chắc viện binh của Đinh Liệt nhanh lắm cũng xế chiều mới đến, Lê Hạo hô to:
- Giặc dùng tượng binh, mau rút quân bảo toàn lực lượng!
Nghi Dân đang đánh hăng máu cũng phải ngoái nhìn lại, quả nhiên là đoàn tượng binh đang đuổi sắp đến.
Lê Tuấn nhanh trí ra lệnh:
- Tượng binh khó đi qua vùng đồi núi vừa hẹp, mau ra lệnh cho ba quân tướng sĩ men theo chân đồi ở bìa rừng mà chạy về phía lối đường vòng dẫn đến địa phận Bồn Man. Ta không nên chạy về hướng hoàng thành vì đường xá bằng phẳng rất dễ đi, e sẽ không chạy thoát khỏi. Đi đến đâu phá đường phá cầu đến đấy để chặn đường tiến quân của giặc!
- Hoàng Thượng anh minh! – Lê Hạo bội phục khen ngợi.
Nói xong, Lê Hạo cùng Nghi Dân nghe chỉ phát lệnh rút quân. Nguyễn Đức Trung cùng với Nhân Tông đích thân dẫn một tiểu đội đánh tiên phong bứt phá vòng vây cho ba quân tháo chạy, sau khi đi qua thì gặp đường phá đường, gặp cầu phá cầu. Tượng binh của Bí Cái quả nhiên rất vất vả mới không bị mất dấu quân Đại Việt.
Đến đoạn đường hẹp, một bên là vực sâu, đáy vực là con song lớn nước chảy cuồn cuộn, một bên vách núi thẳng đứng hiểm trở, Lê Hạo hối thúc Nhân Tông:
- Hoàng huynh mau đi trước! Đệ ở lại đánh chặn giặc!
- Trẫm ra lệnh cho đệ mau dẫn quân chạy trước! Trẫm thân là chủ soái của trận này sau có thể tham sống sợ chết chọn đường tháo chạy được!
Biết không thể thay đổi ý vua, Nguyễn Đức Trung nói thêm để Lê Hạo yên tâm mau chóng dẫn quân sĩ đi trước:
- Bình Nguyên Vương yên tâm, thần cũng sẽ ở lại bảo vệ cho hoàng thượng cùng Lạng Sơn Vương!
Lê Hạo ái ngại nhìn ông thêm một lúc rồi lại ra sức khuyên can nhưng Lê Tuấn nhất định chờ ba quân tướng sĩ qua hết rồi mình mới đi cuối cùng để đón đánh giặc đuổi theo phía sau. Tình thế gấp rút, Lê Hạo đành phải dẫn quân chạy trước, để lại Nghi Dân và Nguyễn Đức Trung làm nhiệm vụ hộ giá.
Tiểu đội cuối cùng vừa qua lọt khe núi hiểm trở, Lê Tuấn vừa nối bước theo sau thì đã nghe thấy tiếng reo hò của quân Bồn Man đã đuổi đến ngay sau lưng. Biết được ý đồ của Lê Tuấn muốn cản không cho tượng binh qua được, Bí Cai vội vàng lệnh cho phóng tiễn bắn đuổi theo quân lính Đại Việt. Đoàn quân tiên phong của Nghi Dân và Lê Tuấn tuốt gươm vừa chống đỡ làn mưa tên, vừa thúc ngựa tháo chạy.
Phập! Ngựa chiến Truy Phong của Lê Tuấn bị bắn trúng ngay cổ họng, nó lồng lên hất văng chàng xuống khỏi lưng. Lê Tuấn nhanh nhạy xoay người lại, dùng thanh gươm cấm phập vào một thân cây gần đấy làm điểm bám tựa rồi từ từ phóng xuống đất, thoát được cú ngã ngựa hiểm ác. Nguyễn Đức Trung thấy vậy lập tức quay lại, chìa ta ra định đón Lê Tuấn cùng lên ngựa nhưng chàng gạt phăng đi. Bị mất ngựa quý, chàng tức giận vô cùng, đôi mắt long lên sòng sọc cầm gươm phi thân về phía Bí Cai muốn quyết sống mái. Nghi Dân thấy tình thế này thì thất kinh hồn vía, la lớn:
- Hoàng Thượng, xin hãy bình tĩnh.
Rồi Nghi Dân và Nguyễn Đức Trung cùng với tiểu đội tiên phong của mình thúc ngựa đuổi theo chàng hộ giá.
Bí Cai thấy Lê Tuấn không bỏ chạy mà lại đột ngột lao đến muốn cắm gươm vào ngực mình thì rất bất ngờ nhưng cũng kịp thời nghiêng mình phóng khỏi lưng ngựa né kịp. Máu chiến nổi lên muốn đánh tay đôi với Hoàng Đế Đại Việt, hắn cười khoái trá rồi rít lên:
- Hoàng Đế Đại Việt trên sa trường chẳng qua là một thằng nhóc nông nổi! Được! Hôm nay ngươi sẽ chết dưới tay ta!
Lê Tuấn không nói gì, đôi mắt đầy tức giận giơ gươm lên tiếp tục muốn bổ vào đầu Bí Cai, hắn nhanh chóng xoay ngang đoạn trường thương trên tay đưa lên đỡ lấy. Lê Tuấn hai tay cầm gươm dùng sức chém xuống rất mạnh khiến Bí Cai bặm môi chống đỡ, hắn chưa kịp nghĩ phải làm gì tiếp theo thì chàng đã nhanh chân đạp một cước thật mạnh vào giữa gối hắn, Bí Cai đau điếng ngã sấp trên đất. Đoạn hắn nhanh chóng lật ngửa lại né tiếp được nhát gươm dứt khoát vừa đâm phập xuống đất, sượt qua gò má hắn làm rướm máu. Lê Tuấn dùng chân đạp mạnh một cước vào giữa ngực Bí Cai, máu từ miệng hắn bắn ra như một ống nước bị vỡ. Trong khoảnh khắc, nhớ đến năm kỵ sĩ bị quân phục kích Bồn Man hãm hại, đôi mắt chàng long lên đầy căm giận, lưỡi đao sáng loáng phản chiếu trong tròng mắt chàng. Phập! Bí Cai đầu lìa khỏi cổ.
Nghi Dân thấy Lê Tuấn lần này hành động bốc đồng ngoài sức tưởng tượng, vì xưa nay bản tính chàng rất nhân hậu ôn hòa, nào ngờ chỉ vì Truy Phong mà không tiếc mạo hiểm muốn lấy mạng Bí Cai cho bằng được. Trong lúc Lê Tuấn giao chiến kịch liệt với Bí Cai, cũng là lúc Nghi Dân phải bám sát theo bên cạnh để bảo vệ chàng khỏi bao nhiêu là đao kiếm từ sau lưng chém đến. Thấy chủ soái bị vua Đại Việt chặt đầu, quân Bồn Man như rắn mất đầu hoang mang rối loạn. Lực lượng tuy đông nhưng giờ đây chỉ còn là lũ ô hợp không người điều khiển.
Tu tu.. tu tu!..
Tiếng tù và quen thuộc của quân lính Đại Việt từ đâu vọng lại. Nghi Dân và Nguyễn Đức Trung mừng rỡ đồng thanh reo lên:
- Đinh tướng quân!
Lê Hạo cách đó khoảng một dặm đường cũng đã nghe thấy tiếng tù và của binh sĩ Đại Việt, biết Đinh Liệt đã kịp đến tương trợ, chàng lập tức xua quân quay đầu lại quyết chiến với Bồn Man.
Quân của Nhân Tông trừ trong đánh ra, quân Đinh Liệt từ ngoài đánh vào, ba vạn tượng binh của Bí Cai tan rã, bị giết quá nửa, còn lại đều bị bắt sống.
Mặt trời sắp khuất sau ngọn đồi để lại ánh hoàng hôn đỏ rực phía chân trời. Lê Tuấn đứng bên bờ sông, hai tay chấp sau lưng trầm lặng nhìn ra phía xa. Lê Hạo chậm rãi bước đến khẽ vỗ lên vai chàng:
- Tam ca! Đệ đã cho người mang theo xác Truy Phong về cho huynh rồi!
Lê Tuấn khẽ quay lại gật đầu nhẹ tỏ ý cảm ơn người huynh đệ của mình. Chàng im lặng một lúc lâu rồi hạ lệnh:
- Truyền chỉ của Trẫm, trong ba năm liên tiếp gia tộc Lư Cầm mỗi năm phải tiến cống đủ năm trăm lượng vàng xem như là hình phạt cho việc dám dấy binh sách nhiễu triều ta. Nếu còn dám kết bè kết đảng thêm lần nữa, nhẹ thì Trẫm sẽ lấy lại quyền cai trị lãnh thổ, trục xuất ra khỏi bờ cõi Đại Việt, nặng thì giết sạch không tha!
- Thần đệ tuân chỉ! – Lê Hạo cung kính đáp lời.
* * *
Mười ngày sau..
Tại phủ đệ của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung.
Thu Đào lặng lẽ ngồi một mình trong đình hóng mát, tay chống cằm nhìn lên trời, ánh mắt bỏ lửng giữa không gian vô định.
Từ chiến trường trở về đã được một khoảng thời gian, Thu Đào ngày ngày nghe Nguyễn phu nhân giáo huấn về tội tày tời dám bỏ trốn khỏi phủ nhưng thật ra nàng chẳng để vào đầu được nửa chữ, chỉ phủ phục dạ dạ vâng vâng cho đến khi Nguyễn phu nhân mỏi miệng tự động rời đi. Tâm trí Thu Đào giờ đây để cả ở Lê Tuấn, lúc biết chiến sự có biến, quân ta bị vây hãm nàng đã mất ăn mất ngủ, ngày đêm lo sợ cho an nguy của chàng. Giờ đây biết quân ta toàn thắng, nàng lại thấp thỏm lo âu chờ đến khi Lê Hạo trở về để lập tức đến Huy Văn Tự hỏi thăm tin tức của chàng. Dù sao Lê Hạo cũng đường đường là Bình Nguyên Vương, nếu chàng ta có mệnh hệ gì thì hẳn đã có tin báo từ sớm rồi, hiện tại vẫn sóng yên biển lặng nên chắc chắn không có đại nhân vật nào hi sinh trong trận đánh này rồi! Nhưng Lê Tuấn thì khác, trong lòng Thu Đào chàng chỉ là một thị vệ nhỏ bé, có chết trên sa trường cũng không làm kinh động đến ai được, chỉ có cách đợi đoàn quân trở về tin tức mới tỏ tường được thôi!
- Tên chết tiệt! Hại ta mất ăn mất ngủ, về đây ngươi sẽ biết tay ta! – Thu Đào rủa thầm trong dạ.
Đang mãi nghĩ ngợi thì Xuân Mai hớt hãi chạy đến, nàng ta vừa thở vừa nói đứt quãng, thái độ vô cùng hân hoan:
- Đại.. đại tiểu thư! Đại nhân đã về.. về rồi! Đại tiểu thư.. đại hỉ, đại hỉ rồi!
Sau khi trận đánh kết thúc, Lê Tuấn lệnh cho Nguyễn Đức Trung về hoàng thành trước để chuẩn bị cho lễ nhập cung của Thu Đào, chính tay chàng viết một bức chiếu thư rồi niêm phong lại, dặn dò Nguyễn Đức Trung phải giao tận tay cho Đào Biểu tuyên đọc trước văn võ bá quan tại điện Thái Hòa, lúc hoàng cung đón đại quân của ông trở về.
Giao chiếu thư vào tay Nguyễn Đức Trung, Lê Tuấn không quên căn dặn:
- Nàng chẳng qua tuổi trẻ ham chơi, nay xem như lấy công cứu được Phan Tường để chuộc lỗi, mong Nguyễn Đại Nhân đừng trách phạt nàng!
Nguyễn Đức Trung hai tay nâng chiếu thư vội vàng quỳ xuống tạ ơn:
- Nữ nhi trẻ dại dám trà trộn vào quân ngũ, may nhờ Hoàng Thương khoan hồng đại lượng không trách tội. Thần khấu tạ long ân của Hoàng Thượng!
Chàng đỡ Nguyễn Đức Trung dậy, phân phó mọi việc xong đâu đấy thì ra lệnh cho Lê Hạo và Nghi Dân cùng ở lại để lo liệu việc thu phục tàn binh của Bí Cai, hẹn sẽ trở về sau nửa tháng.
Ngày đầu thu.
Buổi sáng sớm tiết trời mát mẻ, những tán cây bên đường đang chuyển dần sang sắc vàng lãng mạn.
Gió thổi nhẹ nhàng từng cơn, thỉnh thoảng lại tinh nghịch cuốn phăng những cánh hoa dại yếu ớt tung lên trời rồi lả lướt gieo chúng xuống khắp mặt đất.
Năm cánh cổng thành Nam Môn đã ẩn hiện trước mắt, đoàn quân toàn thắng trở về mang theo sĩ khí ngút trời, lá cờ chữ Lê bay phấp phới trên đầu các chiến sĩ.
Sau cánh cổng Nam Môn là con đường chính dẫn đến điện Thái Hòa, bá quan văn võ sớm đã xếp hàng ngay ngắn để chào đón các công thần. Tuyên Từ Thái Hậu mặc triều phục sắc vàng rực rỡ ngồi trên ghế phụng chờ đến giờ làm đại lễ chào đón ba quân.
Nguyễn Đức Trung trịnh trọng bước đến trước mặt Đào Biểu, hai tay dâng chiếu chỉ cho ông ta theo đúng lời vua đã căn dặn. Sau khi Đào Biểu đón chiếu chỉ và chầm chậm mở ra, toàn thể văn võ bá quan quỳ xuống nghe tuyên đọc:
"Phụng thiên thừa mệnh, Hoàng Đế chiếu rằng
Trẫm lần này thân chinh dẹp Bồn Man, nhờ hồng phúc của trời nên được các bậc trung thần hết lòng phụng sự, đại công cáo thành.
Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung có công hộ giá, cứu được dũng tướng của Trẫm, nay ban nghìn lượng vàng, thăng ba cấp bổng lộc.
Đại tiểu thư Nguyễn Thị Thu Đào là con gái của đại công thần, ngày mười tháng mười cho vời vào cung học lễ nghi, sang Xuân sắc lập tam giai Chiêu Nghi.
Đại lễ tưởng thưởng ba quân đợi Trẫm trở về sẽ định đoạt.
Khâm chỉ!"
Nguyễn Đức Trung nghe thánh chỉ là hiểu ngay Hoàng Thượng muốn che đậy tội trạng trà trộn vào quân ngũ của Thu Đào nên đẩy cái công cứu được Phan Tường sang cho mình, lại còn bốn chữ "tam giai Chiêu Nghi" đập vào tai làm ông quá đỗi ngạc nhiên và vui mừng, Nguyễn Đức Trung khẽ ngước đầu nhìn lên, đôi mắt sáng lên không giấu nỗi niềm hân hoan tột cùng. Tuyên Từ Thái Hậu nghe xong chiếu chỉ khẽ nhíu mày một cái, bà ném ánh nhìn nghi ngại về phía Nguyễn Đức Trung đang khấu đầu tạ ơn, lòng thầm nghĩ không biết là do con gái của ông ta có bản lĩnh thật, hay chỉ may mắn là nhờ công trạng của cha mà được cùng hưởng vinh sủng đây?
- Đợi ngươi vào cung học lễ nghi ta sẽ từ từ quan sát vậy! – Tuyên Từ Thái Hậu nghĩ đến Thu Đào và tự nhủ.
* * *
Phủ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ hôm nay vui như Tết. Nguyễn Đức Trung tuy không hài lòng vì đứa con gái tính khí nghịch ngợm nhưng ông lại không thể phủ nhận cả dòng họ lại đang sắp nhờ vào Thu Đào mà được hưởng vinh hoa phú quý dài lâu, mặt khác lại được Lê Tuấn căn dặn không trách phạt nàng, nên ông chỉ giả vờ nghiêm nghị giáo huấn vài câu cho có lệ rồi tập trung lo việc trang hoàng phủ đệ tươm tất chờ ngày Hoàng Thượng ngự giá ghé qua đón Chiêu Nghi về cung. Nguyễn phu nhân là người vui mừng nhất, bà liên tục dặn dò hạ nhân chăm sóc Thu Đào thật cẩn thận, hết hái hoa pha nước cho nàng tắm gội dưỡng da tóc, lại bảo hạ nhân đi khắp nơi trong kinh thành tìm những cửa hiệu buôn vải tốt nhất mà mua về may xiêm y mới cho nàng. Xuân Mai cũng vậy, từ lúc biết tin Thu Đào sẽ là Chiêu Nghi của Hoàng Thượng, nàng ta không còn rủ rê Thu Đào đi đá cầu chạy nhảy khắp nơi nữa, mà lúc nào cũng nhắc nhở nàng tránh nắng, thoa thuốc cho vết thương trên trán mau liền sẹo, rồi lại cứ nửa ngày là mang canh sâm, tổ yến đến. Thu Đào ngán ngẩm đến nổi phải kêu lên:
- Em định vỗ cho ta béo như lợn, để Hoàng Thượng thấy ta là bỏ chạy ngay đúng không?
Xuân Mai khúc khích cười đáp:
- Tiểu thư hơi gầy thì có, cô tròn trịa lên một chút sẽ càng xinh đẹp bội phần!
Thu Đào hết cách chỉ biết ngẫng mặt lên trời mà than trách cho số phận của mình. Ở thời đại này, ai nấy đều nghĩ được làm người phụ nữ của Hoàng Thượng là niềm vui to lớn, duy chỉ nàng biết rõ nếu lấy Nhân Tông thì sớm thôi sẽ thành quả phụ, tệ hơn nữa là bị thích sát theo cũng chưa biết chừng. Hơn nữa, trong lòng nàng nào có thiết tha địa vị Chiêu Nghi hoặc mảy may nghĩ đến Hoàng Thượng chưa từng quen biết kia bao giờ, một Lê Hạo luôn cho nàng cảm giác tiếc nuối, xa vời không với tới, một Lê Tuấn ấm áp gần gũi, luôn khiến nàng nhớ mong là đã quá mệt mỏi, quá khó để xác định được tình cảm trong lòng rồi!
Nghĩ đến hai chàng trai ấy, nàng lại thấy lòng như lửa đốt, ngóng trông từng phút chờ đến khi Lê Hạo trở về Huy Văn Tự để hỏi thăm tin tức. Rồi Thu Đào tự hỏi lòng mình rốt cuộc nàng đang lo lắng cho ai? Lo lắng điều gì? Vì chẳng phải sớm hay muộn nàng cũng sẽ tìm ra giá nến hoa đào và trở về năm 2022 hay sao? Lúc ấy mọi thứ ở nơi này sẽ chẳng còn liên quan gì đến nàng nữa! Phải rồi, chỉ cần nàng trở về thời hiện đại, thì mọi chuyện sẽ cứ thế trôi theo tạo hóa xoay vần, ai bị đoạt ngôi, ai sẽ là minh quân vang danh nghìn đời đi nữa.. tất cả, đều chẳng có liên quan gì với Trà My cả!
Hơi thở trượt dài theo dòng suy nghĩ, nàng bất giác cười méo xệch khi nhận ra mình đã quá nhập vai thành tiểu thư Thu Đào mà quên đi bản thân mình cần làm nhất chính là nhanh chóng tìm cách quay về.
* * *
Không tìm được giá nên hoa đào tức là tạm thời chưa thể về được, mà chưa thể về được thì đành phải tiếp tục làm đại tiểu thư Thu Đào, nhưng làm đại tiểu thư chán quá nên muốn trở về thời hiện đại càng nhanh càng tốt, mà muốn trở về thì phải tìm ra giá nến hoa đào.. Cái vòng tròn bế tắc này không biết sẽ đeo bám Thu Đào đến bao giờ!
Kể từ lúc hay tin mình sẽ phải vào cung học lễ nghi để trở thành Chiêu Nghi, Thu Đào mượn cớ bái Phật tạ ơn để ngày nào cũng đến Huy Văn Tự, nàng chỉ còn thiếu mỗi việc xới tung từng tất đất của nhà chùa lên mà tìm, nhưng cái giá nến hoa đào ấy cứ như thể chưa từng tồn tại vậy, chẳng thể nào tìm ra chút manh mối gì.
Thêm mười ngày nữa đã trôi qua, vết thương trên trán nay gần như đã lành hẳn. Làn da trẻ trung của thân xác mười lăm tuổi này quả thật là có sức sống, hồi phục lại vẫn là lớp da trắng mịn không tì vết!
Tuy lấy lại được vẻ mặt xinh đẹp nhưng Thu Đào lại chẳng thấy vui mấy, mà ngược lại đây là khoảng thời gian nàng cảm thấy tù túng buồn bã nhất từ lúc trở về thời đại này, nàng cảm thấy cô đơn một mình không ai bầu bạn, bên cạnh chỉ có mỗi Xuân Mai luôn ân cần hầu hạ, cùng nàng đi khắp các ngõ ngách của Huy Văn Tự, hoặc xuống phố dạo chơi những buổi chợ phiên. Khi đã đi chơi khắp nơi trong kinh thành, cũng có những ngày nàng không ra khỏi phủ đệ, chỉ ngoan ngoãn tập đá cầu ở hoa viên hậu viện. Và cũng lắm khi xui xẻo bị Nguyễn phu nhân bắt ngồi trong thư phòng cùng với Thu Hằng đọc những sách lễ tiết quy củ trong cung, mà đối với một người "mù chữ" như nàng thì quả thật kinh khủng.
Hôm nay lại là một ngày xui xẻo của nàng đây!
Từ sáng sớm, trong cung đã phái người mang đến một quyển sách dày hơn cả chiếc gối của Thu Đào, nghe bảo đấy là bộ quy định về chế phục (*) của các cấp bậc cung tần trong hậu cung của Hoàng Thượng, nàng cần phải đọc để biết cách ăn mặc phù hợp, hoặc thông qua y phục mà phán đoán địa vị của những người mình gặp sau này.
Do bị hạn chế về mặt chữ nghĩa, Nguyễn phu nhân đã giao cho Kim Nương ngày ngày đọc sách cho Thu Đào nghe, vừa đọc vừa giảng giải khi cần thiết. Theo lời kể của Xuân Mai, Kim Nương trước kia từng là tỳ nữ thân cận của Ngô phu nhân lúc còn là Tiệp Dư của Thái Tông, sau khi mẹ con Ngô phu nhân đến Huy Văn Tự sinh sống bà phải theo chủ rời cung, nhưng lại không tiện ở nơi cửa chùa nên Ngô phu nhân đã gửi gắm bà cho phủ Điện Tiền. Vì vậy, Kim Nương rất có kiến thức và kinh nghiệm thực tế về lễ nghi cung đình, để bà dạy dỗ Thu Đào chính là giao việc người rồi!
Thu Đào ngồi chống cằm trên bàn, đầu óc cứ theo giọng đọc đều đều của Kim Nương mà năm lần bảy lượt rơi vào mộng mị, chốc chốc nàng bị giật mình vì những câu hỏi của Thu Hằng dành cho Kim Nương khi nghe đến đoạn khó hiểu, đôi lúc Thu Hằng còn cầm bút ghi chép lại cẩn thận nữa. Nhìn thái độ siêng năng chăm chỉ của em gái, Thu Đào thấy nàng ta mới đúng là ra dáng một Chiêu Nghi đoan trang quý phái, hơn bản thân mình vạn lần!
Kết thúc buổi học, Kim Nương vừa ra khỏi thư phòng thì Thu Đào liền lên tiếng tỏ ý thán phục muội muội:
- Nhị tiểu thư nhà ta siêng năng lại thông minh như vậy, phải chi muội thay ta làm Chiêu Nghi được thì tốt biết mấy!
Thu Hằng vẫn cầm bút chăm chú ghi ghi chép chép, ra chiều không quan tâm lắm đến lời khen của Thu Đào. Mãi một lúc sau nàng ta mới đặt bút xuống nghiên, mắt vẫn chăm chú vào những con chữ chứ không nhìn sang tỷ tỷ, rồi nói giọng kiêu hãnh:
- Muội cũng như tỷ, không để tâm đến danh vị Chiêu Nghi ấy đâu!
Đoạn Thu Hằng cười bí hiểm nói tiếp:
- Làm một vương phi cũng cần phải thông thạo nghi lễ cung đình mà!
Thu Đào cảm thấy thẹn thùng do trót lỡ lời với muội muội, vì đâu phải ai cũng tham lam danh vọng, với Thu Hằng thì ắt hẳn việc được gả cho Lê Hạo làm một vương phi mới là tốt nhất.
- Muội nói phải! Chiêu Nghi thì đã sao? Phải gả cho một người mình không có tình cảm cũng chẳng có ý nghĩa gì! – Thu Đào lại chống tay lên cằm chán nản trả lời.
Thu Hằng lúc này mới chú ý đến dáng điệu sầu não của Thu Đào, nàng cũng hiểu trong lòng Thu Đào vốn không hề có Hoàng Thượng, bất giác Thu Hằng thấy thương hại tỷ tỷ nên nhẹ nhàng đến bên cạnh nắm lấy bàn tay Thu Đào vỗ vỗ ra chiều an ủi chứ không nói thêm điều gì.
- Yên tâm, ta không sao đâu! – Thu Đào cũng trìu mến nắm lấy tay muội muội trấn an.
* * *
Rốt cuộc triều đình cũng đưa tin Hoàng Thượng đã hồi cung.
Nhà vua mở yến tiệc thiết đãi ba quân tướng sĩ suốt ba ngày ba đêm, cửa cung lúc nào cũng tấp nập người qua lại. Nguyễn Đức Trung cũng bận bịu suốt ngày, ông vào cung từ sáng tinh mơ, đến tối mịt mới trở về phủ.
Riêng Thu Đào khi biết tin toàn quân đã về thành thì rất đỗi vui mừng, trong suốt ba ngày hoàng cung thiết yến, mỗi ngày hai lần vào buổi sáng và chiều Thu Đào đều đến tìm Lê Hạo nhưng không gặp được, Ngô phu nhân luôn trả lời rằng chàng bận việc triều chính trong cung chưa trở về. Nàng cứ một lần rồi một lần thất vọng ra về, lòng như lửa đốt vì muốn biết tin tức về Lê Tuấn. Thu Đào đấm ngực tự trách:
- Mình thật là vô dụng, quen biết chàng bấy lâu nay mà cũng không hỏi được khi cần tìm chàng thì phải làm thế nào! Chẳng lẽ bây giờ lại đi hỏi cha về một nam nhân khác thì xấu hổ chết mất!
Trong lúc bế tắc không tìm ra cách nào để trở về thời đại thuộc về mình, ở chốn này chỉ có Lê Hạo và Lê Tuấn là hai người rất quan trọng đối với nàng, một người nàng xem là Sỹ Thành từng rất yêu thương, một người mang lại cảm giác bình yên giữa nơi xa lạ, thế mà đã gần một tháng trời không được gặp mặt, không có tin tức gì..
Thu Đào như chú chim lạc đàn, bơ vơ và lạc lỏng.
Hoàng thành Thăng Long tiết trời trở lạnh, hương hoa sữa phiêu diêu trong từng cơn gió thoáng qua bất chợt, những nhánh hoa lộc vừng rủ xuống như hàng nghìn chùm pháo đỏ bay phất phơ trên mặt hồ trong xanh. Hôm nay lại là một ngày có chợ phiên, từ sáng sớm Thu Đào đã lôi Xuân Mai ra khỏi phủ để cùng nàng dạo chơi. Thu Đào cũng như bao lần khác, nàng đi đằng trước Xuân Mai hết xem cái này đến ngắm cái kia, tiện tay thì cầm hai ba món đồ chơi hoặc bánh kẹo cho vào giỏ xách, Xuân Mai cứ thế đi theo trả tiền. Mỗi lần đại tiểu thư đi chợ phiên về là gia nhân trong phủ ai nấy đều có đồ ăn thức uống, vải vóc, áo quần nhiều như là một tháng nhận bổng lộc. Cũng vì thế Thu Đào được tất cả mọi người trong phủ vô cùng quý mến.
Chợ phiên hôm nay Thu Đào cảm giác hơi khác thường ngày, những món hàng bày bán đa số là đồ gốm sứ nhìn rất lạ mắt, khác hẳn với phong cách gốm sứ Đại Việt mà vài tháng nay nàng vẫn trông thấy, còn có những loại tơ lụa nhiều màu sắc bắt mắt, hoa văn tinh xảo hiếm thấy. Thỉnh thoảng đâu đó nàng còn nghe được giọng của những thương buôn nói tiếng Trung Hoa nhưng có vẻ hơi khác với loại tiếng Hoa phổ thông đã được học, nghe bảy chữ được, ba chữ mất, hiểu cũng bập bõm. Nàng thì thầm với Xuân Mai:
- Thì ra tiếng Trung Quốc cổ là như vậy! Cũng không hoàn toàn giống với thời hiện đại, nghe cũng không hiểu hết được!
Xuân Mai tròn mắt hỏi lại:
- "Trung Quốc" gì chứ! Đây là tiếng của người Minh Triều, mọi năm lúc vào Thu họ hay sang đây buôn vải với dân Đại Việt ta, em nghe nói phương Bắc khí hậu lạnh giá, vải vóc của họ mặc vào ấm lại mềm nên bán rất chạy, nhưng giá thành rất đắc, nô tì như chúng em chưa bao giờ được mặc thử hết!
Thu Đào nghe xong rất thích thú, liền kéo Xuân Mai sà ngay vào một gian hàng bán vải mà sờ mó xem thử. Hai cô gái tíu ta tíu tít bình phẩm về chất liệu và màu sắc của chúng, Thu Đào còn ướm hẳn lên người xem có hợp hay không mỗi lúc nhìn thấy hoa văn ưng ý. Họ mãi mê chọn lựa nên không để ý gã chủ gian hàng lén nháy mắt một cái với một tên đồng bọn đứng lẫn khuất trong đám đông sau lưng Thu Đào. Gã đồng bọn nhận được hiệu lệnh liền giả vờ xem hàng để tiến đến, lợi dụng đám đông áp sát vào hai cô gái, nhanh tay cắt phăng túi tiền Xuân Mai treo ở thắt lưng lúc nào thần không hay quỷ không biết.
Khi đã chọn xong vài xấp vải, Thu Đào bảo Xuân Mai lấy túi tiền ra trả thì cả hai mới hốt hoảng nhận ra tiền đã không còn nữa. Xuân Mai sờ soạng khắp người mình rồi hốt hoảng kêu lên:
Sau một hồi lục lọi khắp người và chiếc giỏ mang theo, cả hai xuôi xị nét mặt, chấp nhận rằng tiền đã mất hết cả. Thu Đào lấm lét nhìn lão chủ gian hàng xin lỗi:
- Bọn ta.. làm rơi mất túi tiền! Thật xin lỗi, ta không mua nữa!
Lúc này lão chủ hàng cười khẩy một cái rồi lật bài ngửa, giọng lơ lớ nói tiếng Việt không thạo nhưng rất hung hăng, tỏ rõ sự lưu manh của lão:
- Cái gì, ngươi lật tung hết cả gian hàng của ta, giờ nói một tiếng không mua là xong sao! Ta hỏi lại lần nữa, mua hay không?
- Nhưng bây giờ ta đã đánh rơi hết tiền, thật xin lỗi..
Lão chủ hàng gạt phăng đi:
- Không có xin lỗi gì hết, một là ngươi trả tiền, hai là ta sẽ bắt các ngươi làm nô tì để bù lỗ!
Xuân Mai tức giận cãi lại:
- To gan! Ông dám bắt tiểu thư nhà ta làm nô tì, chán sống rồi đúng không, đúng là mắt chó không biết thái sơn..
Xuân Mai chưa nói hết câu thì một toáng người có đến hơn chục tên hùng hổ kéo đến ngay sau cái khoát tay ra hiệu của lão chủ hàng. Chúng nhanh chóng khống chế hai cô gái, bẻ ngược hai tay ra sau lưng mặc cho Xuân Mai và Thu Đào chống cự đòi thả ra. Một tên râu ria lởm chởm, da đen, đôi mắt tròng trắng lo hơn tròng đen lại có vân đỏ dữ tợn xuất hiện, hắn rẻ đám đông sang hai bên, phách lối bước ra trước mặt Thu Đào nói lớn:
- Kẻ nào dám phá rối địa bàng của ta đấy!
- Hoàng Đại ca! – Lão chủ gian hàng và đám lâu la đồng loạt cúi chào hắn.
Lê Đắc Hoàng là một gã lưu manh khét tiếng cả kinh thành. Hắn chính là hậu thuẫn cho đám thương buôn Bắc triều lộng hành buôn gian bán lận, thường hay mượn cớ ức hiếp dân đen để thu tiền bảo kê, lắm khi còn vô cớ bắt bớ nhiều cô gái bán sang phương Bắc làm bô bộc cho những gia đình trọc phú hay tệ hơn là vào các kỹ viện. Sỡ dĩ Lê Đắc Hoàng lộng hành được như thế là dựa vào em trai của hắn – Lê Đắc Ninh vốn là một thủ lĩnh đội thị vệ trong hoàng thành, thuộc Ngự Tiền Vệ của Nguyễn Đức Trung, giữ nhiệm vụ tuần tra trong và ngoài hoàng cung, cùng với đội Cẩm Y Vệ đảm bảo an ninh cho nội thành Thăng Long.
Thu Đào đoán tình thế có vẻ không ổn, bèn hạ giọng:
- Cùng lắm bọn ta sẽ trả tiền, các ngươi làm gì mà phải bắt bớ bọn ta như thế!
Lê Đắc Hoàng khoanh tay trước ngực hống hách nói:
- Mỹ nhân! Nể tình nàng xinh đẹp ta sẽ nhẹ tay. Tiền tất nhiên sẽ phải trả, nhưng tì nữ của nàng dám chửi bới thương buôn, làm ảnh hưởng giao thương của kinh thành, nàng phải đền bù thêm mới đúng!
Thu Đào vì muốn yên chuyện, vả lại hiện nay nàng đường đường là vị tiểu thư danh giá chẳng thiếu gì tiền, nên mạnh dạn hứa:
- Được! Ngươi muốn bao nhiêu ta cũng trả, mau thả bọn ta ra!
Lê Đắc Hoàng lại cười khẩy:
- Chẳng phải túi tiền nàng bị mất rồi sao? Nàng lấy gì trả?
- Bọn ta về nhà mang tiền đến là được chứ gì! – Thu Đào đáp.
- Nàng nghĩ bọn ta ngu chắc! Không khéo nàng trốn mất, hoặc giả nàng lừa dắt bọn ta về sào huyệt, cả hội nhà nàng đánh đuổi thì bọn ta chỉ có mất trắng! Như thế này vậy, nàng ở lại đây làm tin, ả tì nữ của nàng về nhà mang đến đây ba trăm quan tiền!
- Cái gì! Ba trăm quan tiền? Đúng là quân ăn cướp! – Xuân Mai tức tối chửi đỏng!
- Không trả thì theo bọn ta về nhà làm nô bộc mà gán nợ! – Gã chủ hàng cũng lớn giọng mắng lại.
Thu Đào biết đã rơi vào tay những phường du đảng liền bảo Xuân Mai im lặng và về nhà lấy tiền. Nhưng Xuân Mai làm sao dám bỏ lại vị tiểu thư vô cùng quý giá của Điện Tiền Phủ lại, không khéo thì bay đầu cả dòng tộc vì dám làm tổn hại đến Chiêu Nghi tương lai của Hoàng Thượng, nàng khổ sở van nài chúng:
- Xin các ngươi, muốn giữ làm tin thì hãy giữ ta, để cho tiểu thư được về nhà lấy tiền!
Bọn chúng nghe xong liền phá lên cười, Lê Đắc Hoàng giọng bỡn cợt mà rằng:
- Giữ ả nô tì không đáng một xu như ngươi để làm gì? Nhà họ lại chịu bỏ ba trăm quan ra chuộc tên hạ nhân như ngươi à! Để tiểu thư nhà ngươi lại đây! Mau đi về lấy tiền!
Mặc cho Xuân Mai tội nghiệp khóc lóc van xin, chúng vẫn không đồng ý thả Thu Đào. Biết rơi vào thế khó, dây dưa thêm chỉ phí mất thời gian, Thu Đào bèn an ủi Xuân Mai một lúc, hứa sẽ tự biết chăm sóc bản thân, nàng còn giải thích thêm rằng bọn chúng cũng chỉ cần tiền mà thôi, khuyên Xuân Mai hãy nhanh chóng về phủ cầu cứu, có tiền rồi ắt nàng sẽ được thả.
Chứng kiến hai cô gái bị bọn lưu manh ức hiếp từ nãy đến giờ nhưng không một ai dám lên tiếng giúp đỡ, họ chỉ biết lấm lét trộm nhìn, cùng lắm là nán lại xem một lúc rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài bỏ đi. Vì ai nấy đều biết rõ hai cô gái tội nghiệp lại sập bẫy bọn người của Lê Đắc Hoàng như biết bao nạn nhân khác, nhưng do nể sợ thế lực của em trai hắn nên chẳng ai dám ra tay tương trợ.
Xuân Mai sau một hồi phân vân, rốt cuộc cũng đành nghe theo lời Thu Đào mà một mình về phủ lấy thêm tiền, đi được vài ba bước nàng ta lại quay đầu nhìn Thu Đào với ánh mắt hoang mang đến tội nghiệp. Biết không còn cách khác, Xuân Mai cảnh cáo chúng một câu trước khi bỏ đi:
- Đây là đại tiểu thư của phủ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, các ngươi dám động đến một sợi tóc của tiểu thư thì hãy chờ chết đi!
Lê Đắc Hoàng vốn là kẻ thất học không hiểu biết chuyện quan chức, lại luôn hống hách tự cao vì người em trai được làm thủ lĩnh thị vệ ngự tiền, trong mắt hắn chẳng có ai quyền cao chức trọng bằng em trai Lê Đắc Ninh cả. Vì vậy hắn còn cười lớn thách thức lại Xuân Mai:
- Con nhà quan to thế cơ à! Ta sợ quá đi mất!
Rồi cả bọn phá lên cười ngạo nghễ.
Trước sự ngông cuồng của chúng, Thu Đào rất hoảng sợ mặc dù luôn cố tỏ ra bình tĩnh. Nhìn theo bóng Xuân Mai đang tất tả chạy vội vàng về phủ, Thu Đào thấy quả tim trong ngực lại đánh trống liên hồi, mồ hôi vả ra như tắm.
- Xuân Mai! Ta sợ lắm! Em mau trở lại nhé! – Thu Đào cắn môi thầm cần khẩn.
* * * Hết chương 18 ----
Chú thích:
1. (*) Chế phục: Quy định về áo mũ trong hoàng cung thời phong kiến.
Bóng dáng tỳ nữ Xuân Mai vừa lẫn vào đám đông rồi khuất hẳn sau lớp tường thành, thì Lê Đắc Hoàng liền nhìn Thu Đào khắp một lượt từ đầu đến chân, đoạn hắn vênh váo liếc mắt sang gã thương buôn nói bằng giọng kẻ cả:
- Hàng thượng phẩm đấy, ngươi liệu mà biết điều với lão Hoàng ta thì sau này không lo việc kiếm chác ở kinh đô Đại Việt nhé!
Gã thương buôn ra vẻ biết điều, hai bàn tai đang vào nhau chấp trước ngực lễ phép nói với Lê Đắc Hoàng, vẫn cái giọng lơ lớ chẳng tròn vành rõ chữ, nghe là biết ngay chẳng phải người bản xứ:
- Hoàng đại ca, tôi có bao giờ để huynh thiệt đâu nào!
Đoạn hắn khoát tay một cái, tên thủ hạ đứng bên cạnh liền mang đến một chiếc hầu bao màu vàng to tướng, trong đó có vẻ chứa đầy tiền nên chiếc túi no căng phát ra tiếng kêu xột xoạt của kim loại cọ xát vào nhau. Tên thủ hạ đặt túi tiền vào tay Lê Đắc Hoàng rồi khoe mẻ giúp cho chủ nhân:
- Thưa Hoàng Đại Ca, giá gấp đôi hàng thường đấy ạ!
Lê Đắc Hoàng cười khoái trá thảy thảy túi tiền vài cái để đo sức nặng rồi cho vào ngực áo cất đi trước sự hoang mang của Thu Đào. Nàng lờ mờ nhận ra mình đang bị bán cho tên thương buôn phương Bắc liền giãy giụa và lớn tiếng nói:
- Các ngươi muốn làm gì? Mau thả ta ra, cha mẹ ta sẽ đem tiền đến trả, ai cho các ngươi cái quyền buôn bán người trái phép thế này!
Cả bọn chúng nó cười ha ha mặc cho Thu Đào quyết liệt chống cự hòng thoát khỏi tay lũ khốn kiếp, hai tay nàng bị một tên cao lớn khóa chặt sau lưng, càng giãy giụa hắn lại càng siết chặt khiến nàng đau đớn như muốn gãy cả xương cổ tay.
- Tiểu cô nương, ba trăm quan tiền làm sao sánh với giá nghìn vàng của nàng ở Hồng Hoa Lầu chúng ta! – Tên thương buôn nham nhở vuốt râu cười hô hố trêu chọc.
Thoáng nghe qua cái gì mà "Hồng Hoa Lầu", linh tính và kinh nghiệm xem phim cổ trang hơn hai mươi năm mách với Thu Đào rằng phen này mình gặp họa rồi, nàng lại hét lớn mong được ai đó cứu giúp:
- Cứu ta với, bọn chúng giữa ban ngày dám bắt dân nữ vào kỷ viện, cái ngươi như mù như điếc hết hay sao!
Thu Đào tội nghiệp bị tên lâu la trói hai tay trước mặt rồi lôi đi xềnh xệch. Nàng nhìn những người qua đường hết người này đến người khác kêu cứu không dứt miệng, nhưng có vẻ thế lực của tên "trùm xã hội đen" thời phong kiến này khá mạnh, chẳng một ai dám đắt tội đến hắn. Nàng kêu cứu không được bèn chuyển sang tức giận hâm dọa bọn chúng:
- Lũ khốn các ngươi dám động vào bổn tiểu thư ta, trong nội thành dưới chân Thiên Tử mà dám hành động côn đồ, ta thề sẽ băm vằm các ngươi ra cho chó ăn. Cha ta là Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, hoàng thành này ai làm quan to hơn cha ta, ta sẽ bắt hết lũ các ngươi..
Thu Đào liên tục mắng nhiếc làm Lê Đắc Hoàng tức giận, hắn vung tay tát nàng một cái không thương tiếc:
- Bốp!
Rồi hắn thách thức:
- Đúng là đồ nữ lưu miệng mồm ngoa ngoắt! Ông tổ ngươi đây là lớn nhất hoàng thành này, không im cái mồm ông tẫn cho nhừ xương bây giờ!
Tên thương buôn đi cùng thấy gương mặt trắng trẻo mịn màng của Thu Đào in hằn năm ngón tay đỏ choạch, khoé miệng rướm cả máu vì cú tát quá mạnh làm dập môi, hắn sợ làm hỏng mặt ngọc, đem bán đi không được giá nên vội can ngăn:
- Ấy! Ấy! Hoàng đại ca bớt giận! Mặt của ả mà bị thương thì mất toi nghìn vàng của tiểu đệ! Để đệ khóa miệng ả lại là được chứ gì!
Nói xong hắn lấy một miếng vải rõ to vo tròn lại, nhét chặt miệng Thu Đào. Nàng bị đống vải thồn hết vào miệng chật cứng, đau đớn vô cùng, miệng toàn là vải không thể há to ra thêm chút nào, chỉ còn biết kêu lên "Um! Um!"
Thu Đào bị lôi lên một chiếc xe ngựa chở đến nhà kho trong phủ của Lê Đắc Hoàng, đợi sáng hôm sau tên thương buôn sẽ dắt theo nàng về phương Bắc. Người qua đường chỉ có thể đứng chỉ trỏ cảm thương cho cô gái, đối với họ thì tên lưu manh Lê Đắc Hoàng độc ác lắm mưu nhiều kế bắt bớ dân nữ này còn đáng sợ hơn tất cả những vị quan to họ chỉ nghe tên chứ không thấy mặt bao giờ. Ba năm nay, kể từ khi đệ đệ ruột của hắn là Lê Đắc Ninh được giữ chức thủ lĩnh một tiểu đội Cấm Vệ Quân thì tên lưu manh này đã không còn dừng lại ở việc trộm cướp lặt vặt, hiếp đáp các tiểu thương trong thành, mà hắn chuyển hẳn sang cho vay lãi cắt cổ, mở sòng bạc, kỹ viện, thậm chí còn cấu kết với những gian thương phương Bắc buôn bán hàng quốc cấm, lừa gạt bắt dân nữ vào kỷ viện. Bá tánh trong thành ai nấy đều kiên dè hắn.
Sau một lúc náo động, chiếc xe ngựa bỏ đi trả lại sự bình yên cho buổi chợ phiên. Thỉnh thoảng lại có những cái lắc đầu thở dài dành cho vị cô nương trẻ tội nghiệp.
* * *
Mặt trời dần đứng bóng.
Sau mấy hôm liền cùng Lê Nhân Tông bận bịu chính sự hậu chiến, thêm cả việc thiết đãi đại quân toàn thắng trở về, mãi đến ngày thứ bảy Lê Hạo mới từ hoàng cung trở về Huy Văn Tự được, chàng không kịp thay xiêm y đã vội đến thỉnh an mẫu thân sau một tháng ròng xa cách. Sau vài lời ân cần hỏi thăm sức khoẻ, chàng xin phép mẹ cho đến phủ Điện Tiền để chúc mừng Nguyễn Đức Trung đại nhân được triều đình ban thưởng hậu hỉnh. Ngô phu nhân nhìn vào mắt đứa con trai bà rất mực thấu hiểu rồi rào trước một câu:
- Con đến chúc mừng Nguyễn đại nhân hay là để được gặp tiểu thư nhà ấy?
Lê Hạo bị mẹ đoán được tâm ý chỉ biết cúi đầu im lặng. Ngô phu nhân cũng không nở bắt bí chàng nên chỉ ẩn ý nhắc nhở thêm:
- Thu Hằng đối với con tình thâm nghĩa trọng, lại là con gái của ân nhân, con đến thăm nàng cũng đúng! Mau đi sớm về sớm!
Nói xong bà bưng tách trà lên nhấp một ngụm, rồi khoát tay ra hiệu cho con trai lui ra.
Lê Hạo ánh mắt ngưng lại một phút chốc khi nghe câu nói đầy ẩn ý của Ngô phu nhân. Chàng biết rõ lòng mẫu thân muốn báo ơn nên luôn mong chàng đặt tình cảm vào Thu Hằng để vẹn cả đôi đường, đôi lúc bản thân Lê Hạo cũng cảm thấy người mình nên yêu đúng là Thu Hằng. Tuy nhiên trái tim có lý lẽ riêng của nó, biết bao lần chàng muốn chủ động tiếp cận để xây dựng tình cảm với Thu Hằng, nhưng bóng hình của Thu Đào lại choáng ngợp cả tâm can, nhất cử nhất động chàng đều không thể nghe theo lý trí. Nhất là lúc Thu Đào tỉnh dậy sau bạo bệnh, chứng kiến nàng quên đi mình, quên đi bao nhiêu ân tình từ tấm bé, Lê Hạo thấy vô cùng chua xót. Nhưng giờ đây chàng chẳng thể làm gì hơn ngoài việc âm thầm cạnh bên quan tâm chăm sóc nàng. Bởi, chàng chính là người đã đưa ra quyết định vứt bỏ mỗi tình này. Mãi suy nghĩ nên một lúc sau Lê Hạo mới chấp tay vái chào mẹ trước khi rời đi, chàng nói:
- Mẫu thân hãy yên tâm, con sẽ biết cân nhắc!
Trên đường đi đến phủ Điện Tiền, Lê Hạo không ngừng suy nghĩ để tìm ra một lý do, một hành động bề mặt nào đấy để che giấu việc bản thân mình muốn gặp lại Thu Đào. Chàng mang theo một rương lễ vật để chúc mừng cho Nguyễn Đức Trung, khi tình cờ đi qua một cửa hiệu chuyên làm đồ trang sức, chàng cũng đã dừng lại đấy suy nghĩ một lúc rồi chọn một chiếc vòng ngọc thượng phẩm màu xanh non bắt mắt để tặng cho Thu Hằng. Vừa định dời bước tiếp tục đi, Lê Hạo lại vừa hay nhìn thấy một chiếc hoa cài đầu hình hoa đào bằng hồng ngọc rất đáng yêu, chàng dừng ánh mắt lại khá lâu rồi khẽ mỉm cười bước đến cầm lên ngắm nghía mấy lượt nữa, rồi bảo chủ cửa hiệu gói lại nốt cho mình.
Đến phủ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, Lê Hạo theo khuôn phép hành lễ chúc mừng xong chàng còn được mời ở lại uống trà. Thu Hằng cũng như bao lần chính tay châm trà ngon giúp cha đãi khách. Nàng rót đầy chung cho cha và Lê Hạo rồi cúi người hành lễ xin phép lui ra. Thu Hằng vừa định quay lưng thì Lê Hạo ngập ngừng đứng dậy lên tiếng:
Ngoài Thu Đào ra, trước nay Lê Hạo chưa từng chủ động tặng quà cho nữ nhi nào nên khó tránh khỏi ngượng ngùng, nhất là khi chàng chỉ đang cố tình làm vậy để mong vun đắp tình cảm của đôi bên chứ không xuất phát từ tình cảm, thành ra ngôn hành có hơi gượng gạo. Ấp úng vài câu thì Lê Hạo lấy trong tay áo ra một chiếc túi nhỏ đưa cho Thu Hằng. Nàng lễ phép đưa hai tay ra nhận lấy rồi nhìn chàng nói với thái độ thăm dò:
- Tỷ tỷ từ sáng đã đi chợ phiên, lúc tỷ ấy về ta sẽ giao tận tay giúp Lê công tử!
Lê Hạo nghe câu nói của Thu Hằng thì bất giác thấy cô gái này thật đáng thương, nàng ta thậm chí còn không dám nghĩ bản thân sẽ được tặng quà nữa. Lê Hạo mỉm cười với nàng, rồi nhỏ nhẹ:
- Cái này là của nhị tiểu thư đấy! Mong nàng sẽ thích!
Thu Hằng vô cùng ngạc nhiên và hạnh phúc, trái tim nàng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực vì quá đổi hân hoan. Nhưng vốn bản tính buồn vui không lộ mặt, ánh mắt nàng sáng lên một chút rồi lại bẻn lẽn nhìn sang cha. Nguyễn Đức Trung vuốt râu cười hiền:
- Tứ điện hạ đã có lòng thì con cứ nhận đi!
Lê Hạo cũng gật đầu nhìn nàng một lần nữa để xác nhận. Thu Hằng lúc này hai mắt đã long lanh do xúc động, nàng cúi đầu cảm ơn thêm một lần nữa rồi ý nhị rời đi để cha tiếp khách. Hai bàn tay Thu Hằng nắm chặt lấy chiếc túi đựng vòng ngọc cứ như thể nàng nới lỏng tay ra thì nó sẽ lập tức mọc cánh bay đi mất vậy.
Mùa thu se lạnh, phủ Điện Tiền đốt loại trầm thượng hạng, mùi hương tuy không nồng nàng nhưng lại thoang thoảng rất lâu, tỏa khắp các ngóc ngách của ngôi nhà. Chén trà nóng bốc khói cầm vào ấm tay, Lê Hạo đưa lên miệng hớp được một ngụm thì đã nghe thấy tiếng Xuân Mai văng vẳng từ ngoài cửa, và càng lúc càng gần:
- Đại nhân, phu nhân, nguy rồi, mau đi cứu đại tiểu thư! Đại nhân! Phu nhân!
Vừa nghe câu "đi cứu đại tiểu thư", Nguyễn Đức Trung đứng bật ngay dậy vội vã chạy ra, Lê Hạo bỏ tách trà xuống đánh "cạch" một tiếng rồi chạy như bay đến chỗ Xuân Mai.
- Thu Đào làm sao? Sao mà phải cứu! – Chàng nắm lấy hai vai Xuân Mai lắc lắc hỏi dồn.
Xuân Mai thở dốc, hớp lấy từng ngụm không khí mà đáp đứt quảng:
- Mau, lấy.. ba trăm quan tiền!
* * *
Lê Hạo dùng con ngựa tốt nhất của phủ Điện Tiền phóng như bay ra hướng ngoại thành, chàng đi trước một bước đến phủ đệ của Lạng Sơn Vương, tòa biệt phủ nằm ngay trên con đường duy nhất để đi đến trấn Lạng Sơn rồi qua ải Nam Quan để về phương Bắc. Trước khi đi chàng căn dặn Nguyễn Đức Trung lập tức cho người đi lùng sục tìm sào huyệt của Lê Đắc Hoàng trước, sau đó vào cung xin ý chỉ của Hoàng Thượng lệnh cho đóng cửa tất cả các cổng thành, ai muốn đi qua đều phải lục soát người ngựa hàng hóa, quyết tìm cho ra kẻ muốn mang Thu Đào ra khỏi thành.
Qua lời thuật về vụ việc ban sáng của Xuân Mai, bác Ký quản gia hốt hoảng cho hay rằng tên Hoàng đại ca đó vốn là kẻ lưu manh khét tiếng kinh thành vài năm nay. Có vài lần vâng lệnh ra khỏi phủ mua hàng hóa số lượng lớn bác Ký đã từng gặp hắn và chứng kiến cảnh hắn bắt bớ dân nữ bán cho thương buôn nhà Minh mang về làm nô bộc. Do lúc đó Lê Đắc Hoàng có đầy đủ giấy nợ trong tay nên bác Ký không đủ lý lẽ và tiền bạc để cứu vị cô nương kia, đành phải nhìn cô nương ấy bán thân nơi xứ người. Cộng thêm một số thông tin về chiến tích giang hồ của hắn, Lê Hạo nghe đến đâu là thấy điếng cả người đến đấy, chàng chỉ nghĩ đến việc hắn dám bắt Thu Đào đi làm nô tỳ hầu hạ cho người khác thôi là đã muốn lấy mạng chó của hắn rồi. Huống chi sự việc cấp bách, nếu chậm trễ thì có khả năng cả đời chàng không còn gặp lại Thu Đào nữa, chỉ nghĩ đến việc này thôi lòng Lê Hạo đã nóng như lửa đốt, không còn đủ bình tĩnh để suy nghĩ gì thêm ngoài việc lập tức đến nhờ Nghi Dân chặn hắn lại ở cửa khẩu trấn Lạng Sơn.
Lúc bấy giờ, tại tẩm điện Thừa Càn Cung của mình, Lê Nhân Tông khoát trên vai chiếc áo bông màu vàng để giữ ấm, nhà vua cần mẫn ngồi phê duyệt tấu chương hết cả buổi sáng vẫn chưa thể nghĩ ngơi lấy một lúc. Rời cung dẹp giặc suốt một tháng ròng, chính sự cần chàng giải quyết nay đã chất thành đống tấu chương xếp cao quá đầu. Dầm mưa dãi nắng thân chinh dẹp giặc, công vụ bận rộn không được ăn ngủ đầy đủ, Nhân Tông đã nhiễm phong hàn, chàng cầm bút phê duyệt được một lúc lại che miệng ho sù sụ. Đào Biểu thấy vua quá lao tâm lao lực thì rất không bằng lòng, ông ta cầm chén canh sâm dâng lên mời chàng nghỉ ngơi một chút. Sau năm lần bảy lượt ân cần mời mọc, Nhân Tông mới ngẩng đầu nhìn hắn cười hiền rồi đón lấy chén canh. Chàng ho lên vài tiếng rồi tinh nghịch thách đố:
- Đào Biểu, ông có biết vì sao Trẫm phải gấp rút phê duyệt hết tấu chương càng nhanh càng tốt không?
- Hoàng Thượng là bậc minh quân, tất nhiên muốn mau chóng giải quyết chính sự cho bách tính được nhờ! Hơn nữa nếu không phê xong tấu chương sớm thì biết khi nào mới xuất cung được? E là có người vì tương tư mà quên ăn quên ngủ, hao tổn long thể còn trầm trọng hơn nhiều! – Đào Biểu nói xong che miệng khúc khích.
Nhân Tông cũng bật cười thành tiếng, chàng uống cạn bát canh rồi khen:
- Đào công công quả nhiên hiểu lòng Trẫm!
Đào Biểu vốn tính khôi hài, sau vài câu trêu đùa để nhà vua thoãi mái đầu óc, ông ta không quên căn dặn việc nghỉ ngơi ăn uống, lúc nào cũng tận tâm hầu hạ, lấy long thể an khang của vua làm đầu.
Lúc ấy, một viên thái giám gác cửa vội vàng chạy vào hô khẩu hiệu cấp báo việc hệ trọng:
- Cấp báo! Hoàng Thượng! Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung có công vụ khẩn cấp..
Viên thái giám chưa kịp nói hết câu thì Nguyễn Đức Trung đã bước một chân vào bậc cửa Thừa Càn Cung, vừa đi vừa nói:
- Hoàng Thượng! Hoàng Thượng xin mau hạ chỉ đóng tất cả cửa thành lại..
Lê Nhân Tông bỏ bút xuống rồi đứng lên bước về phía Nguyễn Đức Trung và nhìn ông ta đầy thắc mắc, chưa kịp hiểu chuyện gì thì Nguyễn Đức Trung đã lao đến quỳ sụp xuống chân vua mà tâu:
- Hoàng Thượng, xin mau chóng cứu tiểu nữ của thần..
* * *
K.. é.. t! Cánh cửa nhà kho chậm chạp mở ra. Mùi ẩm mốc bụi bặm xộc thẳng vào mũi làm Thu Đào hắt hơi liên tục hai ba cái.
Phịch! – Tên lâu la lúc nãy trói tay Thu Đào ngoài phố xô một cái thật mạnh sau lưng làm nàng ngã nằm sóng soài trên mặt đất ẩm ướt hôi hám. Hắn thô bạo tiến lại kéo mảnh vải nhét miệng Thu Đào ra, ném một túi có ba cái bánh bao xuống đất, để lại một bát nước bẩn thiểu rồi đóng cửa lại đánh rầm một phát, đoạn đứng ngoài nói vọng vào:
- Cứ ở trong đó từ từ mà suy nghĩ, hễ ngoan ngoãn thì sẽ được ăn sung mặc sướng, còn cứng đầu chống cự thì chỉ có bánh bao thiêu thối với nước lã thôi!
Tên khốn kiếp cười ha hả bỏ đi. Thu Đào lúc này mới từ từ ngồi dậy quan sát xung quanh. Trong nhà kho còn có hai cô gái nữa cũng đang bị trói tay như nàng, ai nấy mắt sưng húp lên vì khóc lóc, tóc tai rủ rượi, trên người còn hằn cả vết roi quất vào rướm máu. Nàng trấn tĩnh lại một lúc rồi hỏi thăm mới hay, hai vị công nương này một người là do vay tiền của Lê Đắc Hoàng để chữa bệnh cho cha, hắn lấy lãi cao quá nàng ta không có đủ tiền trả thì hắn ép làm kỷ nữ nhưng nàng không đồng ý, một người còn lại là dân nữ ở Tây Kinh (*) đến tìm đại ca vừa đi đánh trận Bồn Man trở về, trên đường đi nàng ghé qua hàng vải của một gã thương buôn người phương Bắc để mua quà tặng cho đại ca thì bị mất túi tiền, sau đó bị bắt tội ăn quỵt rồi áp giải đến đây, giống hệt với tình huống của Thu Đào. Điểm chung là cả ba đang chống cự không chịu nghe lời nên bị nhốt ở đây hành hạ cho đến khi phục tùng thì thôi. Thu Đào nghe xong căm phẫn vô cùng, nàng nghiến răng mắng:
- Tên khốn kiếp, dám bắt ta đi làm gà! Ta mà thoát ra thì ngươi chỉ có một đường chết!
- Gà? - Hai vị cô nương nghe không hiểu từ hiện đại đồng thanh hỏi.
- À! Là kỷ nữ đó! – Thu Đào chép miệng giải thích.
Căn phòng nhốt ba cô gái tối tăm và ẩm thấp, dưới nền đất chỉ có rải một lớp rơm mỏng làm chỗ nằm ngủ, chén ăn uống bị kiến bò gián leo bẩn thiểu. Thu Đào dùng hai bàn tay bị trói chặt khều lấy túi bánh bao rồi chia cho người cùng ăn, động viên nhau cố gắng sống giữ gìn sức khoẻ mà tẩu thoát khi có cơ hội.
Ăn uống xong, Thu Đào tựa lưng vào bức tường định nghỉ ngơi một chút. Một bên má bị Lê Đắc Hoàng tát lúc nãy bây giờ đã sưng đỏ lên làm nàng thấy ê buốt hết cả hàm. Có tia nắng vô tình lọt qua lỗ hổng của lớp ngói cũ kỹ chiếu vào làm Thu Đào chói mắt, nàng quay mặt đi để tránh rồi từ từ khép mi lại mà trong lòng không ngừng tự hỏi:
- Mặt trời đứng bóng thì chắc đã non trưa rồi, không biết khi Xuân Mai quay lại không thấy ta nàng ấy sẽ làm sao? Ta phải làm sao để thoát ra khỏi đây bây giờ?
Chợp mắt được nửa canh giờ, Thu Đào bỗng nghĩ đến bát nước bằng sành lúc nãy, nàng ngồi bật dậy trước sự ngạc nhiên của hai cô gái kia. Thu Đào vớ lấy bát nước đập xuống nền đất cho vỡ ra nhưng không được. Sành thì cứng, nền đất thì mềm, lực va đập không đủ để làm vỡ bát. Phan Huệ – Cô gái từ Tây Kinh đến tìm đại ca thấy vậy liền lại giúp sức, nàng cũng dùng hết sức ném xuống đất vài lần nhưng đều vô dụng. Vị cô nương còn lại tên là Kim Ngọc góp ý:
- Nền đất này khó mà đập vỡ được, với lại khi vỡ sẽ gây ra tiếng động, bọn canh gác sẽ lao vào ngay, hai nàng hãy cẩn thận!
Thu Đào vò đầu bứt tay một lúc rồi úp ngược bát lại, sau đó dùng chân giẫm thật mạnh xuống. Thấy có vẻ khả thi, cả ba hay phiên nhau mà giẫm, nhưng một lúc sau cái bát chỉ bị mẻ một góc nhỏ, chưa đủ sắt bén để cắt đứt dây trói. Thu Đào tức giận đỏ cả mặt, nàng bực dọc đạp liên tiếp ba bốn cái thật mạnh xuống chiếc bát.
Rộp! – Chiếc bát sành vỡ vụn trước sự vui mừng của ba cô gái. Nhưng do cú đạp quá mạnh, mảnh sành đã đâm thủng chiếc giày vải mỏng manh của Thu Đào và cắm vào lòng bàn chân của nàng, máu chảy ra ướt cả đôi giày trắng tinh. Thu Đào đau đớn ngồi thụp xuống ôm lấy bàn chân rồi từ từ rút mảnh sành ra. Phan Huệ hoảng hốt chạy lại bịt vết thương của Thu Đào lại, nàng ta lo lắng hỏi:
- Chết rồi! Nàng có sao không?
- Ta không sao, đừng phí thời gian nữa, mau cắt dây trói cho nhau đi.
Kim Ngọc gật đầu rồi ưu tiên cắt dây trói cho Thu Đào trước. Phan Huệ cũng nhặt một mảnh sành lên tự cắt dây cho mình. Cứ tưởng mọi việc diễn ra suôn sẻ, nào ngờ lúc sợ dây sắp đứt, từ xa đã nghe tiếng gã thương buôn và Lê Đắc Hoàng cãi nhau ỏm tỏi. Đại khái là Lê Đắt Hoàng muốn đòi thêm tiền chứa chấp và nuôi nạn nhân ăn uống, tên thương buôn sợ Lê Đắc Hoàng lại giở chứng đòi thêm tiền này tiền nọ nên muốn lập tức đưa ba vị cô nương đi ngay.
Trước khi bọn chúng bước vào nhà kho, Thu Đào đã nhanh trí đá những mảnh sành vương vãi vào dưới lớp rơm để giấu đi, nàng cũng kịp nhét một mảnh sành vào trong lần áo lót. Quả nhiên sau khi nhận được thêm ba trăm quan tiền, Lê Đắc Hoàng đã đồng ý cho gã thương buôn đi. Bọn chúng đẩy cửa bước vào, lôi cả ba người ra cho thay y phục hệt như các tỳ nữ phương Bắc của gã thương buôn, xong chúng tống cả ba cô gái lên cổ xe trà trộn vào đoàn tuỳ tùng rồi hướng ra cổng thành phía Bắc mà đi.
Đoàn xe ngựa của gã thương buôn đã dựa vào giấy tờ thông thương gã vẫn sử dụng mấy năm nay mà trót lọt qua ải, tiếp tục đi về trấn Lạng Sơn.
Chỉ một khắc sau (*) khi đoàn người bắt Thu Đào thoát qua được cổng thành, từ hoàng cung truyền ra lệnh đóng hết bốn cổng thành, người ngựa qua lại đều phải lục soát cẩn thận.
* * *
Lê Tuấn như ngồi trên đống lửa, qua manh mối về Lê Đắc Hoàng mà Nguyễn Đức Trung đã kể, chàng chỉ muốn lao ngay đến sào huyệt của hắn mà tìm Thu Đào. Nhưng chính sự bộn bề, toàn việc lớn đắp đê trị thuỷ, bình ổn biên cương phòng ngừa ngoại xâm, chàng không thể nào bỏ mặc tất cả lúc này. Bóp trán suy nghĩ hồi lâu, Lê Tuấn liền đến tìm Tuyên Từ Thái Hậu để nhờ bà phái viên thuộc hạ lanh lợi giỏi võ công nhất Cấm Vệ Quân là Lê Đắc Ninh đi tiếp ứng cho phủ Điện Tiền tìm kiếm tên Lê Đắc Hoàng đó. Mặc khác, chàng cho vời hai đại thần Lê Khả và Lê Thụ (*) vào cung để phân phó việc giải quyết chính sự thay vua ba ngày.
Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Lê Tuấn cố dằn cơn sóng trong tâm can xuống mà tập trung phân phó công việc lại cho hai vị đại thần, chàng quên ăn quên ngủ, phong hàn cứ thế hoành hành thành những cơn ho kéo dài không dứt.
Tuyên Từ Thái Hậu nhìn thấy điệu bộ nóng vội gấp gáp của Lê Tuấn thì chỉ biết nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của chàng. Bà lập tức cho vời Lê Đắc Ninh vào cung, giao cho hắn bức chân dung của Thu Đào, rồi sai bằng mọi giá phải tìm được nàng về.
Về phần Lê Đắc Ninh, nhận lệnh xong hắn ra vẻ xông xáo dẫn theo đoàn Cấm Vệ Quân có đến hơn ba mươi người ra khỏi cổng hoàng cung làm nhiệm vụ. Hắn ngồi trên ngựa, giả vờ điều tra khắp nơi hết một vòng lớn khắp kinh thành chứ không trực tiếp về thẳng nhà của Lê Đắc Hoàng. Biết anh trai đã gây ra họa lớn, Lê Đắc Ninh nhìn bức chân dung của Thu Đào tự nhủ:
- Cũng may ta luôn dặn dò hắn đừng nói ra danh tính của ta để tiện bề kết hợp mưu lợi, nếu không phen này mười phần là chín phần cầm chắc tội chết! Đắc Hoàng ơi Đắc Hoàng, ngươi đúng là tên dốt nát ngu muội!
* * * Hết chương 19 ----
Chú thích:
1. (*) Tây Kinh: Chỉ Thanh Hóa, Lê Lợi sau khi lên ngôi đã gọi Thăng Long là Đông Kinh, cố hương Thanh Hóa là Tây Kinh.
2. (*) Lê Khả, Lê Thụ: Hai vị tể tướng dưới thời Lê Nhân Tông.